lOMoARcPSD| 58137911
Bài 7
CHỦ THỂ CỦA TỘI PHẠM
(3 giờ LT + 1,5 giờ TH)
TS. Nguyễn Mai Bộ
Học liệu:
1.Trường Đại học luật Hà Nội năm 2018, NXB Công an Nhân dân-Giáo trình luật hình
sự phần chung, từ trang 141 đến trang 158.
2. Bộ luật hình sự năm 2015
Tài liệu tham khảo: GS TS Nguyễn Ngọc Hòa, Tội phạm và cấu thành tội phạm, Nxb
Tư pháp, năm 2015.
I. KHÁI NIỆM
- Chủ thể của tội phạm nhân pháp nhân thương mại thực hiện
hànhvi nguy hiểm cho hội được quy định trong BLHS tại Điều 8 BLHS quy
định “Tội phạm hành vi nguy hiểm cho hội do người năng lực trách
nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện…”
- nhân bcoi chủ thcủa tội phạm nhưng không phải ai cũng thể
trởthành chủ thể của tội phạm khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy
định trong luật hình sự. Bởi lẽ, theo quy định của luật hình sự Việt Nam, thì:
+ Tội phạm hành vi có lỗi cho nên để thể lỗi thì phải là người năng
lực nhận thức và nặng lực điều khiển hành vi.
+ Chỉ người nào đạt độ tuổi do pháp luật quy định mới phải chịu trách nhiệm
hình sự về những hành vi nguy hiểm cho xã hội mà họ đã thực hiện.
Cho nên, chủ thể của tội phạm phải là người có năng lực trách nhiệm hình sự
và đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự khi thực hiện hành vi phạm tội.
- Pháp nhân thương mại chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về 33 tội
phạmquy định tại Điều 76 BLHS khi đủ điều kiện quy định tại Điều 75 BLHS:
Hành vi phạm tội được thực hiện nhân danh pháp nhân thương mại; Hành vi phạm
tội được thực hiện lợi ích của pháp nhân thương mại; Hành vi phạm tội được thực
lOMoARcPSD| 58137911
hiện có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận của pháp nhân thương mại; Chưa hết
thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 27 của
BLHS.
- Ngoài năng lực trách nhiệm hình sự, chủ thể của một stội phạm còn
đòihỏi có thêm dấu hiệu đặc biệt khác vì chỉ có thể thực hiện được hành vi phạm tội
của những tội phạm này khi những dấu hiệu đó. Chủ thể của tội phạm đòi hỏi
thêm những dấu hiệu đặc biệt đó gọi chủ thể đặc biệt của tội phạm. Những đặc
điểm đặc biệt có thể là:
+ Đặc điểm liên quan đến chức vụ, quyền hạn là đặc điểm của chủ thể của các
tội phạm về chức vụ; các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, các tội xâm phạm nghĩa
vụ, trách nhiệm của quân nhân.
+ Đặc điểm liên quan đến nghè nghiệp, tính chất công việc là chủ thể của Tội
vi phạm quy định về điều khiến tàu bay vi phạm quy định về hàng không của nước
CHXHCN Việt Nam (Điều 283), Tội điều khiển phương tiện hàng hải vi phạm quy
định về hàng hải của nước CHXHCN Việt Nam (Điều 284)…
+ Đặc điểm liên quan đến nghĩa vụ phải thực hiện là chủ thể của Tội trốn tránh
nghĩa vụ quân sự (Điều 332), Tội không chấp hành án (Điêì 380)…
+ Đặc điểm về quan hệ gia đình là chủ thể của Tội loạn luân (Điều 184), Tội
từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng (Điều 186)…
Từ năm 1999, pháp luật hình sự nước ta còn quy định một số loại đặc điểm
đặc biệt của chủ thể của tội phạm đã bị xử phạt hành chính, đã bị kết án về…
chủ thể đặc biệt của một số tội phạm.
II. NĂNG LỰC TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ 1. Khái niệm năng lực
TNHS
- Năng lực trách nhiệm hình sự là năng lực có thể phải chịu trách nhiệm
hìnhsự nếu thực hiện hành vi phạm tội. Năng lực trách nhiệm hình sđược Nhà
lOMoARcPSD| 58137911
nước xác nhận dựa trên cơ sở: năng lực nhận thức; năng lực điều khiển hành vi theo
đòi hỏi của xã hội.
- Người có năng lực trách nhiệm hình sự là con người cụ thể đạt độ tuổi
dopháp luật hình sự quy định, khả năng nhận thức điều khiển hành vi của
mình.
- Về kỹ thuật lập pháp, thì pháp luật hình sự nước ta quy định “người có
năng lực trách nhiệm hình sự” theo phương pháp loại trừ, tức là khẳng định người
ở trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự là ai và nếu không phải là
người ở trong tình trạng đó, thì là người có năng lực trách nhiệm hình sự. Theo quy
định tại Điều 21 BLHS, người thực hiện một hành vi nguy hiểm cho hội trong
khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc
khả năng điều khiển hành vi của mình là người không có năng lực trách nhiệm hình
sự.
2. Tình trạng không có năng lực TNHS
- Tình trạng không năng lực trách nhiệm hình sự tình trạng mất
nănglực nhận thức hoặc năng lực điều khiển hành vi do mắc bệnh.
- Người trong tình trạng không năng lực trách nhiệm hình sự
ngườithực hiện hành vi nguy hiểm cho hội khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh
khác là mất khả năng lực nhận thức hoặc khả năng lực điều khiển hành vi của mình.
Như vậy, có hai dấu hiệu để xác định tình trạng không năng lực trách nhiệm hình
sự: Dấu hiệu y học mắc bệnh; Dấu hiệu tâm mất khả năng lực nhận thức hoặc
khả năng lực điều khiển hành vi của mình.
- Dấu hiệu y học nguyên nhân dẫn tới dấu hiệu tâm lý nhưng không
cónghĩa đã mắc bệnh tâm thần dẫn đến việc mất năng lực nhận thức hoặc năng
lực điều khiển hành vi của mình.
lOMoARcPSD| 58137911
- Người không năng lực trách nhiệm hình sbao gồm: Người đang
ởtrong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự; Người chưa đến tuổi chịu
trách nhiệm hình sự.
- Luật hình snước ta còn thừa nhận trường hợp tình trạng ng lực
tráchnhiệm hình sự hạn chế. Đây trường hợp do mắc bệnh nên năng lực nhận thức
hoặc năng lực điều khiển hành vi bị hạn chế. Người năng lực trách nhiệm hình
sự hạn chế vấn thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự nhưng được giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 51 BLHS.
3. Vấn đề năng lực TNHS trong tình trạng say do dùng rượu hoặc chất
kích thích mạnh khác
- Việc dụng rượu, bia hoặc chất kích thích mạnh khác đều ảnh hưởng đến
khảnăng nhận thức khả năng điều khiển hành vi của con người. Tuy nhiên, tại
Điều 13 BLHS quy định “Người phạm tội trong tình trạng mất khả năng nhận thức
hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình do dùng rượu, bia hoặc chất kích thích
mạnh khác, thì vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự”.
- Việc luật hình sự, quy định người phạm tội trong tình trạng mất khả năng nhận
thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình do dùng rượu, bia hoặc chất kích
thích mạnh khác, thì vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự xuất phát từ do họ người
lỗi đối với tình trạng mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi
và do vậy bị coi là có lỗi đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội mà mình đã thwucj
hiện trong tình trạng đó.
- Trong một số trường hợp, BLHS quy định việc sử dụng rượu, bia hoặc chất
kích thích mạnh khác là tình tiết tăng nặng định khung hình phạt. Ví dụ: Tại điểm b
khoản 2 Điều 260 BLHS quy định phạm tội “trong tình trạng có sử dụng rượu, bia
trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định, có sử dụng chất
ma túy hoặc chất kích thích mạnh khác”tình tiết tăng nặng định khung hình phạt
của Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ.
lOMoARcPSD| 58137911
III. TUỔI CHỊU TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
- Tuổi chịu trách nhiệm hình sự một điều kiện của chủ thẻ của tội
phạm.Việc xác định độ tuổi chịu trách nhiệm hình scăn cứ vào tâm lý, tính hình
tội phạm và thể hiện chính sách hình sự của mỗi quốc gia.
- Luật hình sự nước ta xác định
1
:
+ Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm,
trừ những tội phạm mà BLHS có quy định khác. Có 5 tội phạm mà BLHS quy định
người từ đủ 18 tuổi trở lên: Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục
khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 145); Tội dâm ô với người dưới
16 tuổi (Điều 146); Tội sử dụng người dưới 16 tuối vào mục đích khiêu dâm (Điều
147); Tội dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người 16 tuối phạm pháp (Điều 325); Tội
mua dâm người dưới 18 tuổi (Điều 329).
Như vậy, luật hình sự Việt Nam xác định người từ đủ 16 tuổi trở lên là người
có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ và phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội
phạm, trừ những tội phạm quy định tại Điều 145, 146, 147, 325 và 329 BLHS.
+ Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội
phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các
điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249,
250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của BLHS.
Như vậy, luật hình sự Việt Nam xác định người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi
là người có năng lực trách nhiệm hình sự hạn chế và chỉ phải chịu trách nhiệm hình
sự về 28 tội phạm quy định tại các điều luật nêu trên của BLHS.
- Một vấn đề nữa liên quan đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự được BLHS năm
2015 sửa đổi tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi chuẩn bị phạm tội.
Theo đó:
1
Xem: Bộ luật hình sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2017, Điều 12.
lOMoARcPSD| 58137911
+ Người từ đủ 16 tuổi trở lên chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi chuẩn
bị phạm một trong 25 tội quy định tại một trong các điều 123, 134, 141, 142,
143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266,
286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của BLHS.
+ Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về
hành vi chuẩn bị phạm tội quy định tại Điều 123 (Tội giết người), Điều 168 (Tội
cướp tài sản) của BLHS.
IV. NHÂN THÂN CỦA NGƯỜI PHẠM TỘI
- Nhân thân người phạm tội tổng hợp các đặc tính, các dấu hiệu thể
hiệnbản chất hội của con người trong những điều kiện, hoàn cảnh nhất định
và dưới tác động của chính các điều kiện, hoàn cảnh đó động cơ phạm tội nảy sinh
2
.
- Những đặc điểm, dấu hiệu về nhân thân người phạm tội bao gồm: Các
đặcđiểm về hội - nhân khẩu học như giới tính, tuổi, trình độ văn hoá, địa vị
hội, nghề nghiệp, hoàn cảnh gia đình, nơi sinh sống, hoàn cảnh kinh tế; Các dấu hiệu
về pháp hình sự như tiền án, tiền sự, động cơ, mục đích thực hiện tội phạm; Các
dấu hiệu về đặc điểm tâm sinh lý như quan điểm, nhu cầu, sở thích, thói quen, lý trí,
ý trí, xúc cảm, tình cảm; Các dấu hiệu khác như sự hiểu biết về pháp luật, thái độ
đối với pháp luật, với cơ quan bảo vệ pháp luật...
3
- Mỗi người phạm tội một nhân thân riêng, điều này ảnh hưởng rất
lớnđến nhận thức và hành vi phạm tội nói chung và phạm từng tội phạm nói riêng
của từng người. Luật hình sự nghiên cứu về nhân thân người phạm tội nhằm xác
định tính chất mức độ nguy hiểm của người đó thông qua hành vi phạm tội để
áp dụng hình phạt tương xứng
4
.
2
Xem: Viện nghiên cứu nhà nước và pháp luật, Tội phạm học Việt nam một số vấn đề lý luận và thực ễn,
NXB Công an nhân dân, Hà nội,, 2000 . tr.99.
3
Tđiển Luật học, NXB từ điển bách khoa, Hà nội, 1999,Tr.353.
4
Viện nghiên cứu nhà nước và pháp luật, Tội phạm học Việt nam Sđ d , tr.100.
lOMoARcPSD| 58137911
Câu hỏi:
1. Phân tích dấu hiệu chủ thể của tội phạm và cơ sở pháp lý của dấu hiệu
đó?
2. Phân tích chủ thể đặc biệt của tội phạm?
3. Nhân thân và độ tuổi của chủ thể của tội phạm có ý nghĩa như thế nào
đốivới hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự?
Thực hành:
Hãy phân tích tính chất pháp của chủ thể thực hiện tội phạm trong vụ án
Văn Luyện (Cướp vàng tại Bắc Giang).

Preview text:

lOMoAR cPSD| 58137911 Bài 7
CHỦ THỂ CỦA TỘI PHẠM (3 giờ LT + 1,5 giờ TH) TS. Nguyễn Mai Bộ Học liệu:
1.Trường Đại học luật Hà Nội năm 2018, NXB Công an Nhân dân-Giáo trình luật hình
sự phần chung, từ trang 141 đến trang 158.
2. Bộ luật hình sự năm 2015
Tài liệu tham khảo: GS TS Nguyễn Ngọc Hòa, Tội phạm và cấu thành tội phạm, Nxb Tư pháp, năm 2015. I. KHÁI NIỆM -
Chủ thể của tội phạm là cá nhân và pháp nhân thương mại thực hiện
hànhvi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS vì tại Điều 8 BLHS quy
định “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội … do người có năng lực trách
nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện…” -
Cá nhân bị coi là chủ thể của tội phạm nhưng không phải ai cũng có thể
trởthành chủ thể của tội phạm khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy
định trong luật hình sự. Bởi lẽ, theo quy định của luật hình sự Việt Nam, thì:
+ Tội phạm là hành vi có lỗi cho nên để có thể có lỗi thì phải là người có năng
lực nhận thức và nặng lực điều khiển hành vi.
+ Chỉ người nào đạt độ tuổi do pháp luật quy định mới phải chịu trách nhiệm
hình sự về những hành vi nguy hiểm cho xã hội mà họ đã thực hiện.
Cho nên, chủ thể của tội phạm phải là người có năng lực trách nhiệm hình sự
và đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự khi thực hiện hành vi phạm tội. -
Pháp nhân thương mại chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về 33 tội
phạmquy định tại Điều 76 BLHS khi có đủ điều kiện quy định tại Điều 75 BLHS:
Hành vi phạm tội được thực hiện nhân danh pháp nhân thương mại; Hành vi phạm
tội được thực hiện vì lợi ích của pháp nhân thương mại; Hành vi phạm tội được thực lOMoAR cPSD| 58137911
hiện có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận của pháp nhân thương mại; Chưa hết
thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 27 của BLHS. -
Ngoài năng lực trách nhiệm hình sự, chủ thể của một số tội phạm còn
đòihỏi có thêm dấu hiệu đặc biệt khác vì chỉ có thể thực hiện được hành vi phạm tội
của những tội phạm này khi có những dấu hiệu đó. Chủ thể của tội phạm đòi hỏi
thêm những dấu hiệu đặc biệt đó gọi là chủ thể đặc biệt của tội phạm. Những đặc
điểm đặc biệt có thể là:
+ Đặc điểm liên quan đến chức vụ, quyền hạn là đặc điểm của chủ thể của các
tội phạm về chức vụ; các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, các tội xâm phạm nghĩa
vụ, trách nhiệm của quân nhân.
+ Đặc điểm liên quan đến nghè nghiệp, tính chất công việc là chủ thể của Tội
vi phạm quy định về điều khiến tàu bay vi phạm quy định về hàng không của nước
CHXHCN Việt Nam (Điều 283), Tội điều khiển phương tiện hàng hải vi phạm quy
định về hàng hải của nước CHXHCN Việt Nam (Điều 284)…
+ Đặc điểm liên quan đến nghĩa vụ phải thực hiện là chủ thể của Tội trốn tránh
nghĩa vụ quân sự (Điều 332), Tội không chấp hành án (Điêì 380)…
+ Đặc điểm về quan hệ gia đình là chủ thể của Tội loạn luân (Điều 184), Tội
từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng (Điều 186)…
Từ năm 1999, pháp luật hình sự nước ta còn quy định một số loại đặc điểm
đặc biệt của chủ thể của tội phạm là đã bị xử phạt hành chính, đã bị kết án về… là
chủ thể đặc biệt của một số tội phạm.
II. NĂNG LỰC TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ 1. Khái niệm năng lực TNHS -
Năng lực trách nhiệm hình sự là năng lực có thể phải chịu trách nhiệm
hìnhsự nếu thực hiện hành vi phạm tội. Năng lực trách nhiệm hình sự được Nhà lOMoAR cPSD| 58137911
nước xác nhận dựa trên cơ sở: năng lực nhận thức; năng lực điều khiển hành vi theo đòi hỏi của xã hội. -
Người có năng lực trách nhiệm hình sự là con người cụ thể đạt độ tuổi
dopháp luật hình sự quy định, có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình. -
Về kỹ thuật lập pháp, thì pháp luật hình sự nước ta quy định “người có
năng lực trách nhiệm hình sự” theo phương pháp loại trừ, tức là khẳng định người
ở trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự là ai và nếu không phải là
người ở trong tình trạng đó, thì là người có năng lực trách nhiệm hình sự. Theo quy
định tại Điều 21 BLHS, người thực hiện một hành vi nguy hiểm cho xã hội trong
khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc
khả năng điều khiển hành vi của mình là người không có năng lực trách nhiệm hình sự.
2. Tình trạng không có năng lực TNHS -
Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự là tình trạng mất
nănglực nhận thức hoặc năng lực điều khiển hành vi do mắc bệnh. -
Người ở trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự là
ngườithực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh
khác là mất khả năng lực nhận thức hoặc khả năng lực điều khiển hành vi của mình.
Như vậy, có hai dấu hiệu để xác định tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình
sự: Dấu hiệu y học là mắc bệnh; Dấu hiệu tâm lý là mất khả năng lực nhận thức hoặc
khả năng lực điều khiển hành vi của mình. -
Dấu hiệu y học là nguyên nhân dẫn tới dấu hiệu tâm lý nhưng không
cónghĩa đã mắc bệnh tâm thần là dẫn đến việc mất năng lực nhận thức hoặc năng
lực điều khiển hành vi của mình. lOMoAR cPSD| 58137911 -
Người không có năng lực trách nhiệm hình sự bao gồm: Người đang
ởtrong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự; Người chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự. -
Luật hình sự nước ta còn thừa nhận trường hợp tình trạng năng lực
tráchnhiệm hình sự hạn chế. Đây là trường hợp do mắc bệnh nên năng lực nhận thức
hoặc năng lực điều khiển hành vi bị hạn chế. Người có năng lực trách nhiệm hình
sự hạn chế vấn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự nhưng được giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 51 BLHS.
3. Vấn đề năng lực TNHS trong tình trạng say do dùng rượu hoặc chất
kích thích mạnh khác
- Việc dụng rượu, bia hoặc chất kích thích mạnh khác đều ảnh hưởng đến
khảnăng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của con người. Tuy nhiên, tại
Điều 13 BLHS quy định “Người phạm tội trong tình trạng mất khả năng nhận thức
hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình do dùng rượu, bia hoặc chất kích thích
mạnh khác, thì vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự”.
- Việc luật hình sự, quy định người phạm tội trong tình trạng mất khả năng nhận
thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình do dùng rượu, bia hoặc chất kích
thích mạnh khác, thì vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự xuất phát từ lý do họ là người
có lỗi đối với tình trạng mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi
và do vậy bị coi là có lỗi đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội mà mình đã thwucj
hiện trong tình trạng đó.
- Trong một số trường hợp, BLHS quy định việc sử dụng rượu, bia hoặc chất
kích thích mạnh khác là tình tiết tăng nặng định khung hình phạt. Ví dụ: Tại điểm b
khoản 2 Điều 260 BLHS quy định phạm tội “trong tình trạng có sử dụng rượu, bia
mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định, có sử dụng chất
ma túy hoặc chất kích thích mạnh khác” là tình tiết tăng nặng định khung hình phạt
của Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ. lOMoAR cPSD| 58137911
III. TUỔI CHỊU TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
- Tuổi chịu trách nhiệm hình sự là một điều kiện của chủ thẻ của tội
phạm.Việc xác định độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự căn cứ vào tâm lý, tính hình
tội phạm và thể hiện chính sách hình sự của mỗi quốc gia.
- Luật hình sự nước ta xác định1:
+ Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm,
trừ những tội phạm mà BLHS có quy định khác. Có 5 tội phạm mà BLHS quy định
người từ đủ 18 tuổi trở lên: Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục
khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 145); Tội dâm ô với người dưới
16 tuổi (Điều 146); Tội sử dụng người dưới 16 tuối vào mục đích khiêu dâm (Điều
147); Tội dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người 16 tuối phạm pháp (Điều 325); Tội
mua dâm người dưới 18 tuổi (Điều 329).
Như vậy, luật hình sự Việt Nam xác định người từ đủ 16 tuổi trở lên là người
có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ và phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội
phạm, trừ những tội phạm quy định tại Điều 145, 146, 147, 325 và 329 BLHS.
+ Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội
phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các
điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249,
250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của BLHS.
Như vậy, luật hình sự Việt Nam xác định người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi
là người có năng lực trách nhiệm hình sự hạn chế và chỉ phải chịu trách nhiệm hình
sự về 28 tội phạm quy định tại các điều luật nêu trên của BLHS.
- Một vấn đề nữa liên quan đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự được BLHS năm
2015 sửa đổi là tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi chuẩn bị phạm tội. Theo đó:
1 Xem: Bộ luật hình sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2017, Điều 12. lOMoAR cPSD| 58137911
+ Người từ đủ 16 tuổi trở lên chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi chuẩn
bị phạm một trong 25 tội quy định tại một trong các điều 123, 134, 141, 142,
143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266,
286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của BLHS.
+ Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về
hành vi chuẩn bị phạm tội quy định tại Điều 123 (Tội giết người), Điều 168 (Tội
cướp tài sản) của BLHS.
IV. NHÂN THÂN CỦA NGƯỜI PHẠM TỘI -
Nhân thân người phạm tội là tổng hợp các đặc tính, các dấu hiệu thể
hiệnbản chất xã hội của con người mà trong những điều kiện, hoàn cảnh nhất định
và dưới tác động của chính các điều kiện, hoàn cảnh đó động cơ phạm tội nảy sinh2. -
Những đặc điểm, dấu hiệu về nhân thân người phạm tội bao gồm: Các
đặcđiểm về xã hội - nhân khẩu học như giới tính, tuổi, trình độ văn hoá, địa vị xã
hội, nghề nghiệp, hoàn cảnh gia đình, nơi sinh sống, hoàn cảnh kinh tế; Các dấu hiệu
về pháp lý hình sự như tiền án, tiền sự, động cơ, mục đích thực hiện tội phạm; Các
dấu hiệu về đặc điểm tâm sinh lý như quan điểm, nhu cầu, sở thích, thói quen, lý trí,
ý trí, xúc cảm, tình cảm; Các dấu hiệu khác như sự hiểu biết về pháp luật, thái độ
đối với pháp luật, với cơ quan bảo vệ pháp luật...3 -
Mỗi người phạm tội có một nhân thân riêng, điều này ảnh hưởng rất
lớnđến nhận thức và hành vi phạm tội nói chung và phạm từng tội phạm nói riêng
của từng người. Luật hình sự nghiên cứu về nhân thân người phạm tội nhằm xác
định tính chất và mức độ nguy hiểm của người đó thông qua hành vi phạm tội để
áp dụng hình phạt tương xứng4.
2 Xem: Viện nghiên cứu nhà nước và pháp luật, Tội phạm học Việt nam một số vấn đề lý luận và thực tiễn,
NXB Công an nhân dân, Hà nội,, 2000 . tr.99.
3 Từ điển Luật học, NXB từ điển bách khoa, Hà nội, 1999,Tr.353.
4 Viện nghiên cứu nhà nước và pháp luật, Tội phạm học Việt nam Sđ d , tr.100. lOMoAR cPSD| 58137911 Câu hỏi: 1.
Phân tích dấu hiệu chủ thể của tội phạm và cơ sở pháp lý của dấu hiệu đó? 2.
Phân tích chủ thể đặc biệt của tội phạm? 3.
Nhân thân và độ tuổi của chủ thể của tội phạm có ý nghĩa như thế nào
đốivới hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự? Thực hành:
Hãy phân tích tính chất pháp lý của chủ thể thực hiện tội phạm trong vụ án Lê
Văn Luyện (Cướp vàng tại Bắc Giang).