



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 61557118 LỜI NÓI ĐẦU
Thực hiện tinh thần chỉ đạo của Ban Bí thư Trung Ương Đảng Cộng sản Việt Nam tại
Kết luận số 94/KLTW/2014 về việc tiếp tục đổi mới nội dung chương trình, giáo trình
các môn khoa học Mác-Lênin và Quyết định của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc thành
lập Hội đồng biên soạn giáo trình Kinh tế chính trị Mác - Lênin theo tinh thần đổi mới và
nâng cao chất lượng giáo dục đại học dành cho hệ Cao đẳng, Đại học, Hội đồng biên soạn
Giáo trình Kinh tế chính trị Mác - Lênin đã biên soạn và cho ra mắt cuốn giáo trình dành
cho hệ đào tạo Cao đẳng, Đại học không chuyên lý luận chính trị.
Nội dung cuốn giáo trình này được biên soạn theo tinh thần trung thành với chủ nghĩa
Mác - Lênin, cơ bản, cập nhật, đồng thời có sự tiếp thu tinh hoa kết quả nghiên cứu mới
nhất của khoa học kinh tế chính trị trên thế giới cả về nội dung và hình thức trình bày của
một cuốn giáo trình khoa học kinh tế chính trị trong điều kiện mới.
Theo tinh thần đổi mới nội dung và phương pháp giáo dục đại học, cuốn giáo trình
được trình bày gồm 6 chương được trình bày theo thể thức mới nhằm phát huy những giá
trị bền vững của kinh tế chính trị Mác - Lênin đồng thời nâng cao tính thiết thực đối với
việc hình thành kỹ năng, tư duy, tầm nhìn của sinh viên khi tham gia hệ thống các hoạt động
kinh tế xã hội sau khi tốt nghiệp chương trình đào tạo tại nhà trường.
Với mục tiêu như vậy, hệ thống các chuyên đề được thiết kế lôgíc theo nguyên tắc sư
phạm của một cuốn giáo trình bậc đại học và toát lên hai mảng tri thức cơ bản của kinh tế
chính trị Mác Lênin đó là những tri thức kinh tế chính trị về phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa và những vấn đề kinh tế chính trị của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Chương 1 ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ CHỨC NĂNG
CỦA KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊNIN
1.1. Khái quát sự hình thành và phát triên của kinh tế chính trị học Mác – Lênin
Về mặt thuật ngữ, thuật ngữ khoa học Kinh tế chính trị (political economy) được xuất
hiện vào đầu thế kỷ thứ XVII trong tác phẩm Chuyên luận về kinh tế chính trị được xuất
bản năm 1615. Trong tác phẩm này, tác giả đề xuất môn khoa học mới - khoa học kinh tế
chính trị. Tuy nhiên, tác phẩm này mới chỉ là những phác thảo ban đầu về môn học kinh tế
chính trị. Phải kể tới thế kỷ XVIII, với sự xuất hiện lý luận của A.Smith - một nhà kinh tế
học nước Anh- thì kinh tế chính trị mới trở thành môn môn học có tính hệ thống với các
phạm trù, khái niệm chuyên ngành. Kể từ đó, kinh tế chính trị dần trở thành một môn khoa
học và được phát triển cho đến tận ngày nay.
Xét một cách khái quát, dòng chảy tư tưởng kinh tế của loài người có thể được mô tả
như sau: giai đoạn 1- từ thời cổ đại đến cuối thế kỷ XVIII; giai đoạn 2- từ sau thế kỷ thứ XVIII đến nay.
* Giai đoạn 1: từ thời cổ đại đến cuối thế kỷ XVIII lOMoAR cPSD| 61557118
Trong giai đoạn này gồm có những tư tưởng kinh tế thời kỳ cổ, trung đại (từ thời cổ
đại đến thế kỷ thứ XV) - chủ nghĩa trọng thương (từ thế kỷ thứ XV đến cuối thế kỷ XVII)
- chủ nghĩa trọng nông (từ giữa thế kỷ thứ XVII đến nửa đầu thế kỷ XVIII) - kinh tế chính
trị tư sản cổ điển Anh (từ giữa thế kỷ XVII đến cuối thế kỷ XVIII).
Trong thời kỳ cổ, trung đại của lịch sử nhân loại, do trình độ phát triển khách quan
còn lạc hậu của các nền sản xuất, nên nhìn chung chưa tạo được những tiền đề cho sự xuất
hiện mang tính chất chín muồi của các lý luận chuyên về kinh tế. Trong thời kỳ này chỉ xuất
hiện một số ít tư tưởng kinh tế mà không phải là những hệ thống lý thuyết kinh tế chính trị
hoàn chỉnh với nghĩa bao hàm các phạm trù, khái niệm khoa học.
Chủ nghĩa trọng thương là hệ thống lý luận kinh tế chính trị đầu tiên nghiên cứu về
nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Mặc dù chưa đầy đủ về nội dung khoa học, nhưng chủ nghĩa
trọng thương đã có một bước tiến về lý luận kinh tế chính trị so với thời cổ, trung đại khi
đặt vấn đề tìm hiểu về vai trò của thương mại trong mối quan hệ giàu có với các quốc gia
tư bản giai đoạn tích lũy ban đầu. Chủ nghĩa trọng thương coi trọng vai trò của hoạt động
thương mại, đặc biệt là ngoại thương.
Bước phát triển tiếp theo là chủ nghĩa trọng nông, hệ thống lý luận kinh tế chính trị
nhấn mạnh vai trò của sản xuất nông nghiệp, coi trọng sở hữu tư nhân và tự do kinh tế. Nếu
chủ nghĩa trọng thương mới nhấn mạnh vai trò của ngoại thương thì chủ nghĩa trọng nông
đã tiến bộ hơn khi đi vào nghiên cứu và phân tích để rút ra các lý luận về kinh tế chính trị
trong lĩnh vực sản xuất. Mặc dù còn phiến diện song bước tiến này đã phản ánh lý luận kinh
tế chính trị đã bám sát thực tiễn đời sống xã hội.
Kinh tế chính trị cổ điển Anh là hệ thống lý luận kinh tế của các nhà kinh tế tư sản
trình bày một cách hệ thống các phạm trù kinh tế trong nền kinh tế thị trường như hàng hóa,
giá trị, tiền tệ, giá cả, tiền công, lợi nhuận… để rút ra những quy luật vận động của nền kinh
tế thị trường. Đại biểu tiêu biểu của kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh gồm: W.Petty; A.Smith; D.Recardo.
Như vậy, có thể rút ra: Kinh tế chính trị là một môn khoa học kinh tế có mục đích
nhiên cứu là tìm ra các quy luật chi phối sự vận động của các hiện tượng và quá trình hoạt
động kinh tế của con người tương ứng với những trình độ phát triển nhất định của xã hội.
*Giai đoạn 2: từ sau thế kỷ thứ XVIII đến nay
Từ sau thế kỷ XVIII đến nay, lịch sử tư tưởng kinh tế của nhân loại chứng kiến các
con đường phát triển đa dạng với các dòng lý thuyết kinh tế khác nhau. Cụ thể:
- Dòng lý thuyết kinh tế chính trị của C.Mác (1818-1883) kế thừa trực tiếp nhữnggiá
trị khoa học của kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh để phát triển lý luận, phân tích một
cách khoa học, toàn diện về nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, tìm ra những quy luật kinh tế
chi phối sự hình thành, phát triển và luận chứng vai trò lịch sử của phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa. Cùng với C.Mác, Ph.Ănghen(1820-1895) cũng là người có công lớn trong
việc công bố lý luận kinh tế chính trị, một trong ba bộ phận cấu thành của chủ nghĩa Mác.
Lý luận Kinh tế chính trị của C.Mác và Ph.Ănghen được thể hiện tập trung và cô đọng nhất lOMoAR cPSD| 61557118
trong Bộ Tư bản. Trong đó, C.Mác trình bày một cách khoa học với tư cách là một chỉnh
thể các phạm trù cơ bản của nền kinh tế thị trường như hàng hóa, tiền tệ, giá trị thặng dư,
tích luỹ, lợi nhuận, lợi tức, địa tô, tư bản, cạnh tranh cùng các quy luật kinh tế cơ bản cũng
như các quan hệ xã hội giữa các giai cấp trong nền kinh tế thị trường dưới bối cảnh nền sản
xuất tư bản chủ nghĩa. Các lý luận kinh tế chính trị của C.Mác nêu trên được khái quát
thành các học thuyết lớn như học thuyết giá trị, học thuyết giá trị thặng dư, học thuyết tích
luỹ, học thuyết về lợi nhuận, học thuyết về địa tô… Với học thuyết giá trị thặng dư nói
riêng và Bộ Tư bản nói chung, C.Mác đã xây dựng cơ sở khoa học, cách mạng cho sự hình
thành chủ nghĩa Mác nói chung và nền tảng tư tưởng cho giai cấp công nhân. Học thuyết
giá trị thặng dư của C.Mác đồng thời cũng là cơ sở khoa học luận chứng cho vai trò lịch sử
của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Sau khi C.Mác và Ph.Ănghen qua đời, V.I.Lênin tiếp tục kế thừa, bổ sung, phát triển
lý luận kinh tế chính trị theo phương pháp luận của C.Mác và có nhiều đóng góp khoa học
đặc biệt quan trọng. Trong đó nổi bật là kết quả nghiên cứu, chỉ ra những đặc điểm kinh tế
của chủ nghĩa tư bản giai đoạn cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, những vấn đề kinh tế chính
trị cơ bản của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội... Với ý nghĩa đó, dòng lý thuyết kinh tế
chính trị này được định danh với tên gọi kinh tế chính trị Mác - Lênin.
Sau khi V.I.Lênin qua đời, các nhà nghiên cứu kinh tế của các Đảng Cộng sản tiếp tục
nghiên cứu và bổ sung, phát triển kinh tế chính trị Mác - Lênin cho đến ngày nay. Cùng với
lý luận của các Đảng Cộng sản, hiện nay, trên thế giới có rất nhiều nhà kinh tế nghiên cứu
kinh tế chính trị theo cách tiếp cận của kinh tế chính trị của C.Mác với nhiều công trình
được công bố trên khắp thế giới. Các công trình nghiên cứu đó được xếp vào nhánh Kinh tế chính trị mácxít.
- Dòng lý thuyết kinh tế kế thừa những luận điểm mang tính khái quát tâm lý, hànhvi
của kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh (C.Mác gọi là những nhà kinh tế chính trị tầm
thường) không đi sâu vào phân tích, luận giải các quan hệ xã hội trong quá trình sản xuất
cũng như vai trò lịch sử của chủ nghĩa tư bản tạo ra cách tiếp cận khác với cách tiếp cận
của C.Mác. Sự kế thừa này tạo cơ sở hình thành nên các nhánh lý thuyết kinh tế đi sâu vào
hành vi người tiêu dùng, hành vi của nhà sản xuất (cấp độ vi mô) hoặc các mối quan hệ
giữa các đại lượng lớn của nền kinh tế (cấp độ vĩ mô). Dòng lý thuyết này được xây dựng
và phát triển bởi rất nhiều nhà kinh tế và nhiều trường phái lý thuyết kinh tế của các quốc
gia khác nhau phát triển từ thế kỷ XIX cho đến ngày nay.
- Cần lưu ý thêm, trong giai đoạn từ thế kỷ thứ XV đến thế kỷ thứ XIX, còn phải
kểthêm tới dòng lý thuyết kinh tế của các nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa không tưởng (thế
kỷ XV-XIX) và kinh tế chính trị tiểu tư sản (cuối thế kỷ thứ XIX). Dòng lý thuyết kinh tế
này hướng vào phê phán những khuyết tật của chủ nghĩa tư bản song nhìn chung các quan
điểm dựa trên cơ sở tình cảm cá nhân, chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa nhân đạo, không chỉ
ra được các quy luật kinh tế cơ bản của nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và do đó lOMoAR cPSD| 61557118
không luận chứng được vai trò lịch sử của chủ nghĩa tư bản trong quá trình phát triển của nhân loại.
Như vậy, kinh tế chính trị Mác - Lênin là một trong những dòng lý thuyết kinh tế chính
trị nằm trong dòng chảy phát triển tư tưởng kinh tế của nhân loại, được hình thành và đặt
nền móng bởi C.Mác - Ph. Ănghen, dựa trên cơ sở kế thừa và phát triển những giá trị khoa
học của kinh tế chính trị của nhân loại trước đó, trực tiếp là những giá trị khoa học của kinh
tế chính trị tư sản cổ điển Anh, được V.I.Lênin kế thừa và phát triển. Kinh tế chính trị Mác
- Lênin có quá trình phát triển liên tục kể từ giữa thế kỷ thứ XIX đến nay. Kinh tế chính trị
Mác- Lênin là một môn khoa học trong hệ thống các môn khoa học kinh tế của nhân loại.
1.2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác - Lênin
1.2.1. Đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác - Lênin
* Với tư cách là một môn khoa học, kinh tế chính trị Mác - Lênin có đối tượng nghiên
cứu riêng. Mỗi một giai đoạn phát triển của nền sản xuất xã hội, do nhận thức và thế giới
quan của mỗi trường phái kinh tế mà có các quan niệm khác nhau về đối tượng nghiên cứu
của kinh tế chính trị khác nhau. Cụ thể là:
- Trong lý luận của chủ nghĩa trọng thương thì lĩnh vực lưu thông (trọng tâm làngoại
thương) được coi là đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị.
- Trong hệ thống lý luận của chủ nghĩa trọng nông thì lĩnh vực sản xuất nông
nghiệpđược coi là đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị.
- Trong lý luận của kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh thì đối tượng nghiên cứu
củakinh tế chính trị là bản chất và nguồn gốc của của cải và sự giàu có của các quốc gia.
Các quan điểm nêu trên mặc dù chưa thực sự khoa học, chưa toàn diện song chúng có
giá trị lịch sử và phản ánh trình độ phát triển của khoa học kinh tế chính trị của nhân loại trước C.Mác.
- Kế thừa những thành tựu khoa học kinh tế chính trị của nhân loại, dựa trên quanđiểm
duy vật về lịch sử, trong quan niệm của mình, C.Mác vàPh.Ănghen xác định : Đối tượng
nghiên cứu của kinh tế chính trị là các quan hệ của sản xuất và trao đổi trong phương thức
sản xuất mà các quan hệ đó hình thành và phát triển.
Với quan niệm như vậy, lần đầu tiên trong lịch sử của kinh tế chính trị học, đối tượng
nghiên cứu của kinh tế chính trị được xác định một cách khoa học, toàn diện ở mức độ khái
quát cao, thống nhất biện chứng giữa sản xuất và trao đổi. Điều này thể hiện sự phát triển
vượt bậc trong lý luận của C. Mác so với các nhà tư tưởng kinh tế trước đó.
* Mặt khác về phạm vi tiếp cận đối tượng nghiên cứu, C.Mác vàPh.Ănghen còn chỉ
ra kinh tế chính trị có thể được hiểu theo hai nghĩa: nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
Theo nghĩa hẹp, kinh tế chính trị nghiên cứu về một phương thức sản xuất cụ thể và
kết quả của việc nghiên cứu là khám phá ra những quy luật kinh tế của phương thức sản
xuất ấy. Nghĩa là, theo C.Mác, đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị là nền sản xuất có tính chất xã hội. lOMoAR cPSD| 61557118
Theo nghĩa rộng, đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị không phải là một lĩnh
vực, một khía cạnh của nền sản xuất xã hội mà phải là một chỉnh thể các quan hệ sản xuất
và trao đổi. Đó là hệ thống các quan hệ giữa con người với con người trong sản xuất và trao
đổi, các quan hệ trong mỗi khâu và các quan hệ giữa các của quá trình tái sản xuất xã hội
với tư cách là sự thống nhất biện chứng của sản xuất, phân phối, lưu thông, trao đổi, tiêu dùng.
Bên cạnh chịu sự tác động biện chứng bởi trình độ lực lượng sản xuất, các quan hệ xã
hội giữa con người với con người trong quá trình sản xuất và trao đổi còn có tác động biện
chứng với kiến trúc thượng tầng xã hội (nhà nước, chính trị, pháp luật…). Do vậy khi xác
định đối tượng nhiên cứu của kinh tế chính trị Mác – Lênin tất yếu phải đặt các quan hệ xã
hội của sản xuất và trao đổi trong mối liên hệ biện chứng với trình độ của lực lượng sản
xuất và kiến trúc thượng tầng tương ứng của phương thức sản xuất đang nghiên cứu.
Với ý nghĩa như vậy, khái quát lại: “Đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác
– Lênin là các quan hệ xã hội của sản xuất và trao đổi mà các quan hệ này được đặt trong
sự liên hệ biện chứng với trình độ của lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng tương
ứng của phương thức sản xuất nhất định”.
* Mục đích nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác – Lênin.
Mác và Ph.Ănghen cho rằng việc nghiên cứu là để tìm ra những quy luật kinh tế chi
phối sự vận động và phát triển của phương thức sản xuất. Hay nói cách khác, là nhằm tìm
ra các quy luật kinh tế chi phối các quan hệ giữa con người với con người trong quá trình
sản xuất và trao đổi; giúp cho các chủ thể vận dụng các quy luật ấy, góp phần tạo động lực
cho con người không ngừng sáng tạo, thúc đẩy văn minh và sự phát triển toàn diện của toàn
xã hội thông qua việc giai quyết hài hòa các quan hệ lợi ích. * Quy luật kinh tế
Quy luật kinh tế phản ánh những mối liên hệ bản chất, khách quan, lặp đi lặp lại của
các hiện tượng và quá trình kinh tế.
Quy luật kinh tế mang tính khách quan, là quy luật xã hội, do đó, sự tác động của các
quy luật kinh tế phải thông qua các hoạt động của con người trong xã hội với những động
cơ lợi ích khác nhau. Quy luật kinh tế tác động vào các động cơ lợi ích của con người từ đó
mà điều chỉnh hành vi kinh tế của con người. Chính bởi lẽ đó, khi vận dụng đúng các quy
luật kinh tế sẽ tạo ra các quan hệ lợi ích kinh tế hài hòa, từ đó tạo động lực thúc đẩy sự sáng
tạo của con người trong xã hội. Thông qua đó mà thúc đẩy sự giàu có và văn minh của xã hội.
Như vậy, đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác - Lênin được phân biệt
với các môn khoa học kinh tế khác, nhất là với kinh tế vi mô, kinh tế vĩ mô, kinh tế phát
triển, kinh tế công cộng… Tuy nhiên, không được đối lập một cách cực đoan giữa kinh tế
chính trị Mác - Lênin với các nhánh khoa học kinh tế khác. Mỗi khoa học kinh tế có đối
tượng nghiên cứu riêng. Cần nắm vững những nguyên lý của kinh tế chính trị Mác Lênin
để có cơ sở khoa học phương pháp luận cho các chính sách kinh tế ổn định, xuyên suốt. lOMoAR cPSD| 61557118
Đồng thời, tiếp thu có chọn lọc những thành tựu của các khoa học kinh tế khác để góp
phần giải quyết những tình huống mang tính cụ thể.
1.2.2. Phương pháp nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác - Lênin
Với tư cách là một môn khoa học, kinh tế chính trị Mác - Lênin sử dụng phép biện
chứng duy vật biện chứng duy vật và nhiều phương pháp nghiên cứu khoa học xã hội nói
chung như: trừu tượng hóa khoa học, logic kết hợp lịch sử, quan sát thống kê, phân tích
tổng hợp, hệ thống hóa,...
* Phương pháp luận duy vật biện chứng là phương pháp yêu cầu việc nghiên cứu
cáckhía cạnh thuộc đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị phải đặt trong mối liên hệ
tác động qua lại lẫn nhau và phát triển không ngừng. Đây là phương pháp luận đặc biệt
quan trọng được áp dụng trong nghiên cứu kinh tế chính trị để giúp cho các kết quả nghiên
cứu rút ra tránh rơi vào tình trạng chủ quan, duy ý chí, vi phạm quy luật kinh tế.
* Phương pháp trừu tượng hóa khoa họclà phương pháp nghiên cứu đặc thù của kinhtế
chính trị Mác – Lênin. Phương pháp trừu tượng hóa khoa học là một trong những phương
pháp nghiên cứu khoa học xã hội, trong đó có kinh tế chính trị Mác - Lênin, mà khi sử dụng
phương pháp này đòi hỏi sự gạt bỏ đi những yếu tố ngẫu nhiên xảy ra trong các hiện tượng
quá trình nghiên cứu, để từ đó tách ra được những hiện tượng bền vững, mang tính điển
hình, ổn định của đối tượng nghiên cứu. Từ đó mà nắm được bản chất, xây dựng được các
phạm trù và khám phá được tính quy luật và quy luật chi phối sự vận động của đối tượng nghiên cứu.
Cần chú ý rằng, khi sử dụng phương pháp trừu tượng hóa khoa học, cần phải biết xác
định giới hạn của sự trừu tượng hóa. Không được tuỳ tiện, chủ quan loại bỏ những nội dung
hiện thực của đối tượng nghiên cứu gây sai lệch bản chất của đối tượng nghiên cứu.
* Phương pháp logíc kết hợp với lịch sử, đây là phương pháp được sử dụng trongnhiều
ngành khoa học xã hội cũng như trong kinh tế chính trị Mác - Lênin. Phương pháp logíc
kết hợp với lịch sử cho phép khám phá bản chất, các xu hướng và quy luật kinh tế gắn với
tiến trình hình thành, phát triển của chúng, cho phép rút ra những kết quả nghiên cứu mang
tính lôgíc từ trong tiến trình lịch sử của các quan hệ giữa con người với con người trong
quá trình sản xuất và trao đổi.
1.3. Chức năng của của Kinh tế chính trị Mác - Lênin
1.3.1. Chức năng nhận thức
Với tư cách là một môn khoa học lý luận thuộc khoa học kinh tế, kinh tế chính trị Mác
- Lênin cung cấp hệ thống tri thức khoa học về sự vận động của các quan hệ giữa người với
người trong sản xuất và trao đổi; về sự liên hệ tác động biện chứng giữa các quan hệ giữa
người với người trong sản xuất và trao đổi với lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng
tương ứng trong những nấc thang phát triển khác nhau của nền sản xuất xã hội.
Cụ thể hơn, kinh tế chính trị Mác - Lênin cung cấp hệ thống tri thức mở về những
quy luật chi phối sự phát triển của sản xuất và trao đổi gắn với phương thức sản xuất , về lOMoAR cPSD| 61557118
lịch sử phát triển của các quan hệ sản xuất và trao đổi của nhân loại nói chung, về nền sản
xuất tư bản chủ nghĩa và thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nói riêng.
Kinh tế chính trị Mác - Lênin cung cấp những phạm trù kinh tế cơ bản, bản chất, phát
hiện và nhận diện các quy luật kinh tế của nền kinh tế thị trường làm cơ ở lý luận cho việc
nhận thức các hiện tượng kinh tế mang tính biểu hiện trên bề mặt xã hội. Trên cở sở hệ
thống những tri thức khoa học như vậy, kinh tế chính trị Mác - Lênin góp phần làm cho
nhận thức, tư duy của chủ thể nghiên cứu được mở rộng, sự hiểu biết của mỗi cá nhân về
các quan hệ kinh tế, những triển vọng, xu hướng phát triển kinh tế xã hội vốn vận động
phức tạp, đan xen, tưởng như rất hỗn độn trên bề mặt xã hội nhưng thực chất chúng đều
tuân thủ những quy luật nhất định. Từ đó, nhận thức được ở tầng sâu hơn, xuyên qua cac
quan hệ phức tạpđể nhận thức đựơc các quy luật và tính quy luật.
1.3.2. Chức năng thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác - Lênin là khám phá ra những quy luật
và tính quy luật chi phối sự vận động của các quan hệ giữa con người với con người trong
sản xuất và trao đổi. Do vậy, khi nhận thức được các quy luật sẽ giúp cho người lao động
cũng như những nhà hoạch định chính sách biết vận dụng các quy luật kinh tế ấy vào trong
thực tiễn hoạt động lao động cũng như quản trị quốc gia của mình. Quá trình vận dụng đúng
các quy luật kinh tế khách quan thông qua điều chỉnh hành vi cá nhân hoặc các chính sách
kinh tế sẽ góp phần thúc đẩy nền kinh tế - xã hội phát triển theo hướng tiến bộ.
Kinh tế chính trị Mác - Lênin, theo nghĩa đó mang trong nó chức năng cải tạo thực tiễn,
thúc đẩy văn minh của xã hội. Thông qua giải quyết hài hòa các quan hệ lợi ích trong quá
trình phát triển mà luôn tạo động lực để thúc đẩy từng các nhân và toàn xã hội không ngừng
sáng tạo, từ đó cải thiện không ngừng đời sống vật chất, tinh thần của toàn xã hội.
Đối với sinh viên nói riêng, kinh tế chính trị Mác - Lênin là cơ sở khoa học lý luận để
nhận diện và định vị vai trò, trách nhiệm sáng tạo cao cả của mình. Từ đó mà xây dựng tư
duy và tầm nhìn, kỹ năng thực hiện các hoạt động kinh tế - xã hội trên mọi lĩnh vực ngành
nghề của đời sống xã hội phù hợp vơi quy luật khách quan. Thông qua đó đóng góp xứng
đáng vào sự phát triển chung của xã hội.
1.3.3. Chức năng tư tưởng
Kinh tế chính trị Mác - Lênin góp phần tạo lập nền tảng tư tưởng cộng sản cho những
người lao động tiến bộ và yêu chuộng tự do, yêu chuộng hòa bình, củng cố niềm tin cho
những ai phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Kinh tế chính trị Mác - Lênin góp phần xây dựng thế giới quan khoa học cho những ai có
mong muốn xây dựng một chế độ xã hội tốt đẹp, hướng tới giải phóng con người, xóa bỏ
dần những áp bức, bất công giữa con người với con người.
1.3.4. Chức năng phương pháp luận
Mỗi môn khoa học kinh tế ngành có hệ thống phạm trù, khái niệm khoa học riêng,
song để hiểu được một cách sâu sắc, bản chất, thấy được sự gắn kết một cách biện chứng
giữa kinh tế với chính trị và căn nguyên của sự dịch chuyển trình độ văn minh của xã hội lOMoAR cPSD| 61557118
thì cần phải dựa trên cơ sở am hiểu nền tảng lý luận từ kinh tế chính trị. Theo nghĩa như
vậy, kinh tế chính trị Mác - Lênin thể hiện chức năng phương pháp luận, nền tảng lý luận
khoa học cho việc tiếp cận các khoa học kinh tế khác. ***
Chương 2: HÀNG HÓA, THỊ TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ CỦA CÁC CHỦ THỂ
THAM GIA THỊ TRƯỜNG 2.1. LÝ LUẬN CỦA C.MÁC VỀ SẢN XUẤT
HÀNG HÓA VÀ HÀNG HÓA
2.1.1. Sản xuất hàng hóa
Loài người đã trải qua hai kiểu tổ chức sản xuất là tự cung tự cấp và SXHH. Mỗi
kiểu tổ chức sản xuất ra đời nhằm phù hợp với sự phát triển của xã hội, đó là sự dồi
dào của sản phẩm và sự gia tăng nhu cầu con người. Vì vậy, quá trình sản xuất được
mở rộng ra và sản xuất hàng hóa xuất hiện.
+ Khái niệm: Sản xuất hàng hoá là một kiểu tổ chức sản xuất mà ở đó những người
sản xuất ra sản phẩm không nhằm phục vụ mục đích nhu cầu tiêu dùng của chính
mình mà để trao đổi, mua bán.
VD: Công ty CP đường Quảng Ngãi; công ty sữa đậu nành Việt Nam Vinasoy, công ty CP may Việt Tiến, …
Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa
SXHH ra đời đưa loài người thoát khỏi tình trạng “mông muội”, xóa bỏ nền kinh tế
tự nhiên, phát triển nhanh chóng LLSX và nâng cao hiệu quả nền kinh tế XH. Nền
SXHH ra đời khi và chỉ khi:
Thứ nhất, phân công lao động xã hội: Phân công lao động xã hội là phân chia lao
động trong xã hội thành các ngành nghề khác nhau, các lĩnh vực sản xuất khác nhau
tạo nên sự chuyên môn hóa của những người sản xuất thành những ngành, nghề khác nhau
Ví dụ: Sự phân chia LĐ xã hội thành các ngành: công nghiệp ( CN dày da, CN chế
tạo máy, …), nông nghiệp, thương nghiệp, xây dựng… -
Tại sao phân công lao động xã hội lại dẫn đến sự hình thành sản xuất hànghóa?
Trong phân công lao động xã hội thì mỗi người sản xuất sẽ chỉ sản xuất ra một hay
một số sản phẩm nhất định nào đó, mà nhu cầu của con người thì cần nhiều loại sản
phẩm khác nhau , do đó để thỏa mãn nhu cầu họ phải trao đổi sản phẩm cho nhau,
như vậy phân công lao động xã hội là cơ sở là tiền đề của sản xuất hàng hóa. Tuy
nhiên sự phân công lao động xã hội chỉ mới là điều kiện thứ nhất chưa đủ để sản xuất
hàng hóa ra đời và tồn tại. Để sản xuất hàng hóa ra đời và tồn tại phải có điều kiện
thứ hai đó là sự tách biệt về mặt kinh tế của những chủ thể sản xuất.(trong bộ TB
Mác viết “nếu k có sự phân công LĐXH thì sẽ không có SXHH mặc dù SXHH không
phải là điều kiện cần thiết cho sự PCLĐXH”(bộ TB quyển I, tập I, trang 65). Thứ lOMoAR cPSD| 61557118
hai, sự tách biệt về mặt kinh tế của những chủ thể sản xuất: Đó là sự sở hữu khác
nhau về TLSX làm cho những người sản xuất độc lập nhau, tách biệt về lợi ích. Trong
điều kiện đó, người này muốn tiêu thụ sản phẩm của người khác phải thông qua trao
đổi mua bán. Đây chính là điều kiện đủ để nền SXHH ra đời và tồn tại. -
Sản xuất hàng hóa chỉ ra đời khi đồng thời có hai điều kiện trên, nếu thiếu
một trong hai điều kiện trên thì không thể hình thành sản xuất hàng hóa, sản
phẩm làm ra không mang hình thái là hàng hóa. 2.1.2. Hàng hóa
+ Khái niệm hàng hóa: Theo C.Mác, hàng hoá là sản phẩm của lao động, nó có thể
thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người thông qua trao đổi, mua bán.
Như vậy, khi sản phẩm được làm ra nhưng không nhằm mục đích trao đổi mua bán
thì không được gọi là hàng hóa.
Dựa vào những tiêu thức khác nhau để phân chia hàng hóa thành những loại khác
nhau: hàng hóa sử dụng cho nhu cầu tiêu dùng, hàng hóa cho sản xuất; hàng hóa vật thể hay HH phi vật thể.
+ Hai thuộc tính của hàng hóa
Hàng hóa dù có nhiều hình thức tồn tại khác nhau nhưng chúng đều có hai thuộc tính: GTSD và GT. -
Giá trị sử dụng: Giá trị sử dụng của hàng hoá là công dụng của vật phẩm có
thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người .
Giá trị sử dụng của hàng hoá do thuộc tính tự nhiên của yếu tố tham gia cấu thành
nên hàng hóa đó quy định.
Khi KHKT càng phát triển thì con người càng tạo ra nhiều giá trị sử dụng của hàng hóa.
Giá trị sử dụng của hàng hoá là giá trị sử dụng cho người mua, chứ không phải cho
người sản xuất, vì thế trong quá trình sản xuất ra hàng hoá nhà sản xuất luôn coi
trọng giá trị sử dụng của sản phẩm mình làm ra nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng
khắt khe và tinh tế hơn của người tiêu dùng. -
Giá trị: Giá trị của hàng hóa là lao động XH của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa.
Khi tiền chưa xuất hiện, con người trao đổi theo hình thức vật đổi vật (H-H). VD: 1
con gà – 15kg gạo. Ở đây lại xuất hiện một vấn đề là: tại sao gà và gạo là hai vật
phẩm có GTSD khác nhau nhưng có thể trao đổi với nhau? Và mối quan hệ tỷ lệ về
lượng giữa hai hàng hóa khác nhau trao đổi với nhau được Mác gọi là giá trị trao đổi.
C. Mác cho rằng, sở dĩ chúng trao đổi được với nhau bởi vì chúng đều là kết quả của
sự hao phí sức lao động, tức là hàng hóa có giá trị. lOMoAR cPSD| 61557118
Giá trị là cơ sở của giá trị trao đổi, còn giá trị trao đổi là hình thức biểu hiện của giá trị.
Giá trị của hàng hoá biểu hiện mối quan hệ giữa những người sản xuất hàng hoá và
là một phạm trù lịch sử
Ngày nay khi tiền xuất hiện thì việc trao đổi dễ dàng hơn nhờ vào vật trung gian là
tiền, VD: 1 con gà = 200.000 vnđ,…Tấc cả các loại hoàng hóa được trao đổi mua
bán nhờ vào một loại hàng hóa trung gian đó là tiền.
+ Lượng giá trị và các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa
- Thời gian lao động xã hội cần thiết_ đơn vị đo lường lượng giá trị của hàng hóa
Để đo lường lượng giá trị hàng hóa, C.Mác sử dụng thời gian hao phí lao động để
sản xuất ra hàng hóa, tuy nhiên không phải là thời gian bất kỳ mà là thời gian lao
động xã hội cần thiết. Tức là khoảng thời gian cần thiết để sản xuất ra một hàng
hoá trong điều kiện bình thường của xã hội với trình độ kỹ thuật, trình độ khéo léo
và cường độ lao động trung bình mà số đông có thể đạt được.
Vậy, lượng giá trị của một đơn vị hàng hóa là lượng thời gian hao phí lao động xã
hội cần thiết để sản xuất ra đơn vị hàng hóa đó.
Trong quá trình sản xuất, người sản xuất phải thường xuyên đổi mới, sáng tạo nhằm
làm giảm thời gian hao phí lao động cá biệt xuống thấp hơn mức hao phí xã hội nhằm
tạo lợi thế trong cạnh tranh.
Lượng giá trị HH = hao phí LĐ quá khứ + hao phí LĐ mới kết tinh.
- Các nhân tố ảnh hưởng đến LGT hàng hóa
+ Năng suất lao động: là năng lực sản xuất của người lao động, được tính bằng số
lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian hay số lượng thời gian cần
thiết để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm. Khi năng suất lao động tăng tức là số lượng
sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian tăng thì lượng giá trị ở mỗi đơn vị
sản phẩm sẽ giảm xuống, do đó hàng hoá sẽ rẻ và ngược lại.
Nó phụ thuộc vào trình độ kỹ thuật và mức độ trang bị kỹ thuật cho người lao động,
trình độ tổ chức, quản lý lao động và các điều kiện tự nhiên khác.
Lượng giá trị của hàng hóa tỷ lệ thuận với số lượng lao động kết tinh trong hàng hóa
và tỷ lệ nghịch với năng suất lao động.
+ Cường độ lao động: là mức độ khẩn trương, tích cực của quá trình lao động. Khi
tăng cường độ lao động thì số lượng sản phẩm làm ra nhiều hơn và theo đó tổng
lượng giá trị của tấc cả các hàng hóa cũng tăng theo, do đó lượng giá trị của một đơn
vị hàng hóa không thay đổi và ngược lại.
Tuy nhiên, khi trình độ sản xuất còn thấp thì việc tăng cường độ lao động cũng làm
tăng lượng sản phẩm sản xuất ra nhằm thỏa mãn nhu cầu của thị trường. lOMoAR cPSD| 61557118
Cường độ lao động phụ thuộc vào yếu tố sức khỏe, tâm lý, tay nghề, công tác tổ chức, kỷ luật lao động,…
+ Tính chất phức tạp của lao động: có hai mức độ là lao động giản đơn và lao động phức tạp.
Lao động giản đơn là loại lao động mà người có sức lao động đều có thể thực hiện
được. Ví dụ: phụ hồ, gặt lúa, giúp việc,…
Lao động phức tạp là lao động đòi hỏi phải có quá trình đào tạo, huấn luyện. Ví dụ:
thiết kế công trình, giảng dạy,…
Trong cùng một thời gian lao động phức tạp tạo ra nhiều lượng giá trị hơn so với lao
động giản đơn. Trong quá trình trao đổi người ta qui mọi lao động phức tạp thành
lao động giản đơn trung bình. Mác gọi lao động phức tạp là lao động giản đơn được nhân bội lên.
Như vậy lượng giá trị của hàng hoá được đo bằng thời gian lao động xã hội cần thiết, giản đơn trung bình.
Trong cùng một thời gian, lao động phức tạp tạo ra nhiều lượng giá trị hơn.
- Tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa
Sở dĩ hàng hóa luôn có hai thuộc tính là do lao động sản xuất hàng hóa có tính hai
mặt: mặt cụ thể và mặt trừu tượng
+ Lao động cụ thể: Là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của ngành nghề
chuyên môn nhất định. Mỗi lao động cụ thể có phương pháp, công cụ, mục đích
riêng, do đó tạo ra giá trị sử dụng nhất định. Khi khoa học kỹ thuật phát triển, sự
phân công lao động ngày càng phong phú thì lao động cụ thể ngày càng đa dạng từ
đó tạo ra càng nhiều GTSD khác nhau.
Ví dụ: lao động cụ thể là lao động của người thợ may, của người thợ dệt, thợ cơ khí,
hoạt động lao động hàng ngày của công nhân tại các nhà máy.
Thợ may áo -> vải + kéo + Kim -> cắt, may -> tạo ra sản phẩm là một chiếc áo.
Hay Thợ xây -.> gạch + Bay, xẻng,… - > xây, tô, trát - > tạo ra một ngôi nhà Quá
trình lao động của thợ may, thợ xây được gọi là lao động cụ thể.
- Mỗi lao động cụ thể có mục đích, phương pháp, công cụ lao động, đối tượng lao
động và kết quả lao động riêng. Chính những đặc điểm riêng đó phân biệt các loại
lao động cụ thể khác nhau, chính vì thế lao động cụ thể mang tính tư nhân và là cơ
sở của phân công lao động xã hội.
Ví dụ: lao động của người thợ mộc và của người thợ may có mục đích khác nhau,
đối tượng, phương pháp, công cụ và kết quả sản xuất khác nhau. lOMoAR cPSD| 61557118
+ Lao động trừu tượng: Lao động trừu tượng là sự hao phí sức lực, cơ bắp nói chung
của những người sản xuất hàng hoá, tạo ra giá trị của hàng hóa, nó mang tính xã hội
và là một phạm trù lịch sử. Ví dụ: 1m2 vải = 5 kg thóc
Xét về lao động cụ thể thì lao động của người thợ dệt và lao động của người nông
dân khác nhau về chất, về đối tượng, về mục đích, do đó, sản phẩm tạo ra cũng khác
nhau, nhưng để 2 hàng hóa này có thể trao đổi với nhau thì đằng sau sự khác nhau
đó còn chứa đựng một cái gì chung! Gạt bỏ hình thức cụ thể của sức lao động đi thì
lao động sản xuất ra vải và lao động sản xuất ra thóc đều là sự hao phí sức lao động
nói chung của người, hiểu theo nghĩa đó thì lao động trừu tượng là hao phí về sức cơ
bắp, sức thần kinh của con người.
Chú ý: Lao động trừu tượng ở đây không phải là sự tiêu hao sức lực của con người
nói chung, mà sự tiêu hao sức lực, tiêu hao sức cơ bắp, thần kinh của người sản xuất
hàng hóa. Chỉ có lao động sản xuất hàng hóa mới có tính chất là lao động trừu tượng
- Đặc trưng của lao động trừu tượng:
+ Lao động trừu tượng là lao động đồng nhất với nhau về chất, đều là sự hao phí sức
lao động nói chung của người sản xuất hàng hóa
+ Lao động trừu tượng tạo ra giá trị hàng hóa. Vậy mặt chất của giá trị của hàng hóa
là: giá trị của hàng hóa là lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa.
+ Lao động trừu tượng là phạm trù lịch sử, chỉ có sản xuất sản phẩm để bán thì lao
động sản xuất hàng hóa đó mới có tính chất là lao động trừu tượng.
- Đây không phải là có hai thứ lao động khác nhau mà chỉ lao động của người sảnxuất
hàng hóa, nhưng lao động đó có tính hai mặt. Tính hai mặt của lao động sản xuất
hàng hóa phản ánh tính chất tư nhân và tính chất xã hội của người sản xuất hàng hóa.
- Giữa lao động tư nhân và lao động xã hội có mâu thuẫn với nhau. Đó là mâuthuẫn
của sản xuất hàng hoá giản đơn. Biểu hiện:
+ Hao phí lao động cá biệt có thể lớn hơn hoặc nhỏ hơn hao phí lao động xã hội, nhỏ
hơn thì có lợi, lớn hơn thì không có lợi.
+ Sản phẩm do người sản xuất nhỏ tạo ra có thể không phù hợp với nhu cầu xã hội,
có thể bán được hay không bán được.
+ Mâu thuẫn giữa lao động tư nhân và lao động xã hội chứa đựng khả năng “sản xuất
thừa” là mầm mống của mọi mâu thuẫn của CNTB. 2.1.3. Tiền
+ Nguồn gốc và bản chất của tiền lOMoAR cPSD| 61557118
- Nguồn gốc của tiền: Xuất phát từ nhu cầu của việc trao đổi và lưu thông hàng hóa
của nền sản xuất hàng hóa thì tiền xuất hiện. Trải qua 4 hình thái giá trị: Hình thái giản đơn hay
ngẫu nhiên 1m vải 10 kg thóc.
Ở hình thái này người ta trao đổi trực tiếp vật này lấy vật khác. Hàng hoá thứ nhất
biểu hiện giá trị của nó ở hàng hoá thứ hai, còn hàng hoá thứ hai đóng vai trò là vật
ngang giá. Giá trị của một hàng hóa chỉ được phát hiện ở một hàng hóa nhất định
khác với nó chứ không biểu hiện được ở mọi hàng hóa. Hình thái này chỉ thích hợp
ở trạng thái trao đổi ngẫu nhiên nguyên thủy chứ không phù hợp khi sự trao đổi hàng
hóa phát triển cao hơn, do đó hình thái giá trị giản đơn tự nó chuyển sang hình thái
giá trị đầy đủ hay mở rộng.
Hình thái đầy đủ 1 cái rìu hay mở rộng 1 m vải 10 kg thóc 1con cừu 2 con gà 0.1 chỉ vàng ……
Khi số hàng hoá trao đổi trên thị trường nhiều hơn thì một hàng hoá có thể trao đổi
với nhiều hàng hoá khác. Tuy nhiên đây vẫn là hình thái trao đổi trực tiếp hàng lấy
hàng. Khi LLSX phát triển cao hơn và có sự phân công lao động xã hội, hàng hóa
được đưa ra trao đổi nhiều hơn, thường xuyên hơn, nhu cầu của con người ngày càng
phức tạp hơn thì việc trao đổi trực tiếp không còn phù hợp nữa và hình thái chung của giá trị ra đời. 10 kg thóc Hình thái chung Hoặc 2 con gà
1 m vải của giá trị 2 rìu Hoặc 0.1 chỉ vàng v. v…
Ở đây tấc cả hàng hóa đều biểu hiện giá trị của mình ở cùng một thứ hàng hóa đóng
vai trò là vật ngang giá chung. Tuy nhiên vật ngang giá chung chưa ổn định ở một
loại hàng hóa nào, các địa phương khác nhau thì vật ngang giá chung cũng khác lOMoAR cPSD| 61557118
nhau, để khắc phục tình trạng mỗi địa phương có một loại hàng hoá làm vật ngang
giá thì hình thái tiền tệ ra đời.
Khi sản xuất và hàng hoá phát triển cao vật ngang giá chung được cố định vàng và
bạc thì hình thái tiền tệ ra đời.
Hình thái tiền tệ 10 kg thóc
1 m vải 0.1 chỉ vàng (vật ngang giá chung) 2 con gà ….
Ở đây giá trị của các hàng hóa đã có một phương tiện biểu hiện thống nhất, tỷ lệ trao đổi được cố định. -
Bản chất của tiền: Là hàng hoá đặc biệt được tách ra làm vật ngang giá chung
để thực hiện sự trao đổi với các hàng hoá khác nhau trên thị trường, nó thể hiện lao
động xã hội và biểu hiện quan hê giữa những người sản xuất.
+ Chức năng của tiền:
Theo Mác, tiền có 5 chức năng -
Thước đo giá trị: Giá trị của hàng hoá được biểu hiện bằng số lượng tiền nhất
định, nó đo được giá trị của hàng hoá vì bản thân nó cũng có giá trị. Giá trị hàng hóa
được biểu hiện bằng tiền gọi là giá cả hàng hóa. Hay nói cách khác giá cả là hình
thức biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa. Tiền làm thước đo giá trị phải là tiền vàng. -
Phương tiện lưu thông :Tiền tệ làm môi giới, trung gian trong trao đổi hàng
hoá và phải là tiền mặt, khi đó tiền phải vận động theo công thức H-T-H
Trước đây, nhà nước đúc vàng thành những đơn vị tiền tệ nhất định để lưu thông, tuy
nhiên sau này nhận thấy để thực hiên chức năng lưu thông thì không cần tiền đủ giá
trị mà chỉ cần ký hiệu của giá trị được nhà nước công nhận, vì thế sau này xuất hiện
tiền giấy, tiền kế toán, tiền séc, tiền điện tử, bitcoin,…
Tiền giấy ra đời tạo điều kiện thuận lợi cho lưu thông hàng hóa, tuy nhiên nó là ký
hiệu của giá trị chứ nó không có giá trị thật, vi thế khi in tiền giấy các quốc gia cần
tuân thủ quy luật lưu thông tiền tệ để tránh lạm phát.
Số tiền cần thiết cho lưu thông được xác định theo công thức sau: T= (Gh*H)/N=G/N
Trong đó: T là số lượng tiền cần cho lưu thông H
là số lượng hàng hóa lưu thông trên thị trường
Gh là giá cả trung bình của một hàng hóa lOMoAR cPSD| 61557118
G là tổng số giá cả của hàng hóa
N là số vòng lưu thông của tiền
Điều kiện: tấc cả các nhân tố nói trên phải được xem xét trong cùng một thời gian, không gian. -
Phương tiện cất trữ: Tức là tiền tệ rút ra khỏi lưu thông và được cất giữ lại.
Làm chức năng này tiền tệ phải có đủ giá trị như vàng hoặc bạc. -
Phương tiện thanh toán: Tiền được dùng để trả nợ, nộp thuế, trả tiền mua chịu
hàng,… chức năng này gắng liền với chế độ tín dụng thương mại. -
Tiền tệ thế giới: Khi trao đổi hàng hoá vượt ra khỏi biên giới quốc gia thì chức
năng này xuất hiện. Tiền tệ thế giới phải là tiền đủ giá trị, tiền vàng hoặc những đồng
tiền được công nhận làm phương tiện thanh toán quốc tế.
5 chức năng của tiền trong nền kinh tế hàng hóa có quan hệ mật thiết với nhau. Sự
phát triển các chức năng của tiền phản ánh sự phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hóa.
2.1.4. Dịch vụ và một số hàng hóa đặc biệt
+ Dịch vụ: là một loại hàng hóa vô hình, nó cũng có hai thuộc tính là GTSD và GT.
Giá trị của dịch vụ chính là hao phí sức lao động của người làm ra dịch vụ đó kết
tinh trong nó nhằm đem lại sự thỏa mãn nhu cầu cho người sử dụng dịch vụ và đó
chính là GTSD của dịch vụ.
Dịch vụ là một loại hàng hóa vô hình, quá trình sản xuất và tiêu dùng nó xảy ra đồng thời.
Khác với hàng hóa thông thường, dịch vụ không thể cất trữ. Ở đây nhà cung cấp dịch
vụ không cất trữ những dịch vụ nhưng họ cất trữ khả năng cung cấp dịch vụ cho
những lần tiếp theo. Dịch vụ chỉ tồn tại vào thời gian mà nó được cung cấp. Do vậy,
DV không thể sản xuất hàng loạt để cất vào kho dự trữ, khi có nhu cầu thị trường thì đem ra bán.
Ngày nay, nền kinh tế thế giới đang có xu hướng chuyển đổi sang nền kinh tế dịch
vụ. Việt Nam cũng dần dần chuyển mình và đẩy mạnh ngành dịch vụ, dịch vụ trên
tấc cả các lĩnh vực. Dịch vụ có vai trò ngày càng quan trọng đối với sự phát triển của
nền kinh tế thế giới nói chung và nền kinh tế nước ta nói riêng.
+ Một số hàng hóa đặc biệt:
- Quyền sử dụng đất: là một loại hàng hóa đặc biệt, có GTSD, có giá cả nhưng không
do hao phí lao động tạo ra.
Sở dĩ người ta có thể trao đổi quyền sử dụng đất để lấy một khoảng tiền là vì do nhu
cầu nơi ở, mặt bằng kinh doanh,…bên cạnh đó dân số tăng nhanh nên con người lOMoAR cPSD| 61557118
ngày càng có nhiều nhu cầu về quyền sử dụng đất làm cho nó ngày càng trở nên khan hiếm.
Trong xã hội hiện đại, nhiều người giàu lên nhờ vào việc buôn bán quyền sử dụng
đất, nhưng bản chất thực sự của quá trình này chính là: tiền chuyển từ túi người này
sang túi người khác, tiền lúc này chính là phương tiện thanh toán chứ không phải
thước đo giá trị. Việc kiếm tiền như vậy chỉ giải thích cho việc tại sao trong XH lại
có một số người ngày càng có nhiều tiền chứ không thể làm cho cả xã hội giàu lên
được, XH chỉ có thể giàu lên từ việc sản xuất ra hàng hóa (bao gồm cả dịch vụ).
- Thương hiệu (danh tiếng):
Theo định nghĩa của Hiệp hội Marketing Hoa Kì: “Thương hiệu là một cái tên,
một từ ngữ, một dấu hiệu, một biểu tượng, một hình vẽ hay tổng thể các yếu tố kể
trên nhằm xác định một sản phẩm hay một dịch vụ của một (hay một nhóm) sản
phẩm hay dịch vụ của một (một nhóm) người bán và phân biệt các sản phẩm (dịch
vụ) đó với các đối thủ cạnh tranh”.
Định nghĩa của tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới (W/PO): “Thương hiệu là một dấu hiệu
(hữu hình và vô hình) đặc biệt để nhận biết một sản phẩm hàng hoá hay một dịch vụ nào
đó được sản xuất hay được cung cấp bởi một cá nhân hay một tổ chức. Đối với doanh
nghiệp, thương hiệu là khái niệm trong người tiêu dùng về sản phẩm, dịch vụ với dấu hiệu
của doanh nghiệp gắn lên bề mặt sản phẩm dịch vụ nhằm khẳng định chất lượng và xuất
xứ. Thương hiệu là một tài sản vô hình quan trọng và đối với các doanh nghiệp lớn, giá trị
thương hiệu của doanh nghiệp chiếm một phần đáng kể trong tổng giá trị của doanh nghiệp”
Ngày nay, thương hiệu được xem là một hàng hóa vì nó có thể trao đổi mua bán với một
mức giá cả nào đó thậm chí rất cao vì nó được tạo ra từ rất nhiều sự hao phí sức lao động
của một người, nhiều người trong một thời gian dài tích lũy (giá trị). Tuy nhiên, giá cả của
thương hiệu nó phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố: giá trị, sự khan hiếm, thị hiếu, nhu cầu, sự
kỳ vọng của người mua,…
Ví dụ: chuyển nhượng thương hiệu cơm gà Nhung tại Quảng Ngãi với giá …
Nhượng quyền thương hiệu Cà phê Trung Nguyên: năm 1996, Cà phê mang thương hiệu
Trung Nguyên chính thức ra đời tại Buôn Mê Thuộc. Để giới thiệu và quảng bá thương hiệu
đến nhiều người tiêu dùng, năm 1998, Công ty Trung Nguyên mở quán cà phê đầu tiên ở
thành phố Hồ Chí Minh, mở rộng kinh doanh theo mô hình nhượng quyền thương hiệu,
cũng từ đó các quán cà phê nhượng quyền thương hiệu Trung Nguyên xuất hiện khắp mọi
nơi trên toàn quốc. Năm 2000 là dấu mốc phát triển nhảy vọt của thương hiệu Trung Nguyên
vì đã hiện diện tại Hà Nội, các tỉnh khác tại Việt Nam và cũng lần đầu tiên xuất hiện tại
Nhật Bản, tiếp theo đó là những nước như: Mĩ, Singapor, Thái Lan, Trung Quốc,… Tính
đến năm 2013 đã có gần 1000 quán cà phê nhượng quyền trên cả nước và hơn 50 Quốc gia
trên thế giới. Với vai trò của hoạt động chuyển nhượng thương hiệu thì cà phê thương hiệu lOMoAR cPSD| 61557118
Trung Nguyên đã được đã được nhiều người ưa chuộng, thị trường tiêu thụ lan rộng tại
trong nước và nước ngoài.
- Chứng khoán, chứng quyền và một sơ giấy tờ có giá:
Chứng khoán (cổ phiếu, trái phiếu) do công ty cổ phần phát hành để huy động vốn, chứng
quyền do các công ty kinh doanh chứng khoán chứng nhận và một số loại giấy tờ có giá
(ngân phiếu, thương phiếu) là những loại mang tính chất hàng hóa vì nó có thể đem trao
đổi mua bán và đem lại thu nhập cho người sở hữu nó.
Tuy nhiên để có thể trao đổi được thì những loại chứng khoán, chứng quyền, giấy tờ có giá
phải được gắn với một tổ chức sản xuất kinh doanh có thực.
Sự giàu có từ việc buôn bán chứng khoán thực chất nó cũng là sự chuyển tiền từ túi người
này sang người khác chứ nó không thực sự làm gia tăng giá trị cho toàn xã hội. 2.2. Thị
trường và vai trò của các chủ thể tham gia thị trường
2.2.1. Khái niệm và vai trò của thị trường: + Khái niệm:
Theo nghĩa hẹp, thị trường là nơi diễn ra hành vi trao đổi, mua bán hàng hoá giữa các chủ
thể kinh tế với nhau. Tại đó, người có nhu cầu về hàng hoá, dịch vụ sẽ nhận được thứ mà
mình cần và ngược lại, người có hàng hoá, dịch vụ sẽ nhận được một số tiền tương ứng.
Thị trường có thể là chợ, cửa hàng, quầy hàng lưu động, văn phòng giao dịch hay siêu thị, …
Theo nghĩa rộng, thị trường là tổng hòa các mối quan hệ liên quan đến trao đổi, mua bán
hàng hóa trong xã hội, được hình thành do những điều kiện lịch sử, kinh tế, xã hội nhất
định. Theo nghĩa này, thị trường là tổng thể các mối quan hệ kinh tế gồm cung, cầu, giá cả;
quan hệ hàng - tiền; quan hệ giá trị, giá trị sử dụng; quan hệ hợp tác, cạnh tranh; quan hệ
trong nước, ngoài nước… Cùng với đó là các yếu tố kinh tế như nhu cầu (người mua hàng);
người bán; tiền - hàng; dịch vụ mua bán… Tất các quan hệ và yếu tố kinh tế này được vận
động theo quy luật của thị trường.
Dựa vào những tiêu thức khác nhau mà người ta chia thành những loại thị trường khác nhau
như: thị trường tư liệu sản xuất, thị trường tư liệu tiêu dùng, thị trường trong nước, thị trường nước ngoài,…
+ Vai trò: thị trường có 3 vai trò chủ yếu sau:
Một là, thị trường vừa là điều kiện, vừa là môi trường cho sản xuất phát triển.
Thị trường là cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng, để sản xuất phát triển thì cần phải có thị
trường để trao đổi mua bán, sự cung ứng kịp thời và đầy đủ của thị trường là điều kiện giúp
danh nghiệp ngày càng phát triển, và ngược lại. Khi thị trường ngày càng rộng lớn nó tác
động trở lại thúc đẩy sản xuất phát triển để đáp ứng nhu cầu thị trường.
Hai là, kích thích sự sáng tạo của mọi thành viên trong xã hội, tạo ra cách thức phân bổ
nguồn lực hiệu quả trong nền kinh tế.
Thị trường là nơi diễn ra các quan hệ kinh tế mà ở đó các chủ thể tham gia hướng đến việc
tìm kiếm lợi ích tối đa cho hành vi của mình trên thị trường, để làm được đều đó các chủ lOMoAR cPSD| 61557118
thể không ngừng học hỏi, sáng tạo để đáp ứng nhu cầu thị trường từ đó kích thích sự sáng
tạo của các thành viên trong xã hội.
Ba là, thị trường gắn kết nền kinh tế thành một chỉnh thể, gắn kết nền kinh tế quốc gia với nền kinh tế thế giới.
Xét trong phạm vi quốc gia, thị trường giúp các chủ thể gắn kết với nhau thành một chủ thể
nhằm giải quyết tốt các khâu: sản xuất, lưu thông, phân phối và tiêu dùng.
Xét phạm vi quốc tế, thị trường làm cho kinh tế trong nước gắn kết vào nền kinh tế và ngược lại.
2.2.1.2. Cơ chế thị trường và nền kinh tế thị trường
+ Cơ chế thị trường: Cơ chế thị trường là hệ thống các quan hệ kinh tế mang đặc tính tự
điều chỉnh các cân đối của nền kinh tế theo yêu cầu của các quy luật kinh tế.
Dấu hiệu đặc trưng của cơ chế thị trường chính là sự tự do hình thành giá cả thông qua các quy luật kinh tế.
Ví dụ: có hai nhà sản xuất nước ngọt có ga cạnh tranh với nhau, một nhà sản xuất nước
cam, một nhà sản xuất nước chanh. Nếu ít người thích nước cam hơn, thì cầu về nước cam
sẽ giảm và cầu đối với nước chanh sẽ tăng. Để ứng phó với cầu giảm, nhà sản xuất nước
cam giảm giá bán xuống, để đáp lại với cầu tăng, nhà sản xuất nước chanh tăng giá lên. Bởi
vì giá tăng lên nên người tiêu dùng mua ít nước chanh hơn, và mua nhiều nước cam hơn.
Vì vậy cầu về hai mặt hàng này sẽ quay về mức ban đầu.
Cơ chế thị trường mang tính khách quan do bản thân nền kinh tế hàng hóa hình thành chính
vì thế nó được A.Smith ví như bàn tay vô hình. Cơ chế thị trường tự điều tiết và phân phối
các nguồn lực: vốn, slđ, tài nguyên, …theo các quy luật vốn có của nền kinh tế hàng hóa.
+ Nền kinh tế thị trường:
Là nền kinh tế được vận hành theo cơ chế thị trường, nó chính là nền kinh tế hàng hóa phát
triển ở trình độ cao hơn. Mọi quá trình sản xuất và trao đổi được thực hiện thông qua thị
trường do tác động của các quy luật thị trường.
Sự ra đời của nền kinh tế thị trường là tất yếu của lịch sử phát triển loài người, khi xã hội
phát triển thì phải tất yếu xuất hiện một nền kinh tế đáp ứng đủ các yếu cầu của xã hội, như
vậy kinh tế thị trường là sản phẩm của văn minh nhân loại.
Đặc trưng của nền kinh tế thị trường:
Thứ nhất, kinh tế thị trường đòi hỏi sự tồn tại của các chủ thể kinh tế độc lập dưới nhiều
hình thức sở hữu khác nhau. Các chủ thể kinh tế độc lập và bình đẳng với nhau trước
pháp luật và trong hoạt động sản xuất kinh doanh, song lại có vai trò,vị thế và chức
năng đặc thù trên thị trường.
Thứ hai, thị trường đóng vai trò quyết định trong việc phân bổ các nguồn lực xã hội và
có sự tồn tại đồng thời của các thị trường khác nhau như thị trường hàng hóa, thị trường
dịch vụ, thị trường sức lao động, thị trường tài chính, thị trường bất động sản, thị trường khoa học công nghệ,… lOMoAR cPSD| 61557118
Thứ ba, giá cả được hình thành trên cơ sở giá trị hàng hóa và quan hệ cung cầu nhằm mục
tiêu tối đa hóa lợi nhuận. Cạnh tranh vừa là môi trường, vừa là động lực thúc đẩy kinh tế
thị trường phát triển.
Thứ tư, động lực phát triển quan trọng nhất của kinh tế thị trường là lợi ích kinh tế, mà
trước hết là lợi ích của các nhà đầu tư, của những người tiêu dùng, lợi ích của nhà nước và toàn xã hội.
Thứ năm, nhà nước là chủ thể của nền kinh tế, thực hiện quản lý toàn bộ nền kinh tế
nhằm khắc phục những khuyết tật của thị trường, thúc đẩy những yếu tố tích cực, đảm
bảo sự bình đẳng xã hội và sự ổn định của toàn bộ nền kinh tế.
Thứ sáu, kinh tế thị trường là nền kinh tế mở, thị trường trong nước gắn liền với thị trường quốc tế.
• Những ưu thế của nền kinh tế thị trường:
Một là, kinh tế thị trường luôn tạo ra động lực mạnh mẽ cho sự hình thành ý tưởng mới
của các chủ thể kinh tế, kích thích sự sáng tạo trong hoạt động và mở rộng môi trường
cho các mô hình kinh danh mới theo đà phát triển của xã hộ.
Hai là, kinh tế thị trường phát huy tốt mọi tiềm năng của mọi chủ thể, vùng, miền cũng như
lợi thế quốc gia trong quan hệ với thế giới.
Ba là, kinh tế thị trường luôn tạo ra các phương thức để thỏa mãn nhu cầu của con người
từ đó thúc đẩy tiến bộ, văn minh xã hội.
• Khuyết tật của nền kinh tế thị trường:
Một là, xét phạm vi toàn bộ nền sản xuất xã hội, kinh tế thị trường luôn tiềm ẩn những rủi ro khủng hoảng.
Hai là, kinh tế thị trường không tự khắc phục được xu hướng cạn kiệt tài nguyên không thể
tái tạo, suy thoái môi trường.
Ba là, nền kinh tế thị trường không tự khắc phục được sự phân hóa sâu sắc trong xã hội.
2.2.1.3. Một số quy luật chủ yếu của thị trường + Quy luật giá trị
Nền SXHH chịu tác động của nhiều quy luật kinh tế chung nhưng quy luật giá trị là
quy luật cơ sở cho sự chi phối của nền sản xuất hàng hóa. Ở đâu có sản xuất hàng
hóa thì ở đó có quy luật giá trị hoạt động, nó là qui luật căn bản, quan trọng nhất của
sản xuất và lưu thông hàng hoá.
Về nội dung, quy luật giá trị yêu cầu việc sản xuất và trao đổi hàng hóa phải được
tiến hành trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết. Trong sản xuất hao phí lao
động cá biệt phải phù hợp với hao phí lao động xã hội. (thấp hơn hoặc bằng hao phí
xã hội) có như vậy quá trình sản xuất mới được duy trì và phát triển .
Trong lưu thông đòi hỏi phải trao đổi ngang giá, tức lấy giá trị xã hội của hàng hóa
làm cơ sở, có như vậy nền kinh tế mới phát triển cân đối, tránh được sự khủng hoảng thừa hoặc thiếu . lOMoAR cPSD| 61557118
Giá trị là cơ sở của giá cả, còn giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị, vì vậy quy
luật giá trị vận động thông qua sự vận động của giá cả hàng hóa. Hàng hóa nào nhiều
giá trị thì giá cả của nó càng cao và ngược lại.
Trên thị trường thì giá cả ngoài phụ thuộc vào giá trị thì nó cò chịu sự tác động của
nhiều yếu tố như: cạnh tranh, cung cầu, sức mua của đồng tiền. Sự tác động này
làm cho giá cả tách rời giá trị và vận động xoay quanh trục giá trị. trị Giá cả
Tác động của quy luật giá trị : Giá
Thứ nhất, điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa -
Điều tiết sản xuất: Khi hàng hoá nào đó cung lớn hơn cầu thì giá cả nhỏ hơn
giátrị và ngược lại cung nhỏ hơn cầu thì giá cả lớn hơn giá trị, do đó lao động và tư
liệu sản xuất sẽ được thu hẹp hay mở rộng. -
Điều tiết lưu thông: Hàng hoá sẽ vận động từ chỗ giá thấp đến nơi có giá cao
tứctừ chỗ cung lớn hơn cầu sang chỗ cung nhỏ hơn cầu ( người bán… ). Do đó làm
cho lưu thông hàng hóa thông suốt.
Như vậy quy luật giá trị có tác dụng phân phối hàng hoá một cách hợp lý giữa các vùng kinh tế trong nước
Thứ hai, kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, tăng năng suất lao động,
thúc đẩy lự lượng sản xuất xã hội phát triển.
Trong nền SXHH mục tiêu của người sản xuất là lợi nhuận cao nhất, vì vậy họ luôn
tìm cách hạ hao phí lao động cá biệt xuống thấp hơn hoặc bằng với mức hao phí lao
động xã hội cần thiết, muốn vậy họ cần phải cải tiến kỹ thuật, cải tiến tổ chức quản
lý, thực hiện tiết kiệm chặt chẽ, tăng năng suất lao động.
Thứ ba, thực hiện sự lựa chọn tự nhiên và phân hóa người sản xuất hàng hóa thành
người giàu, người nghèo:
Hàng hoá bán theo giá trị xã hội, người sản xuất hàng hoá nào có giá trị cá biệt nhỏ
hơn giá trị xã hội thì sẽ có lời nhiều và trở thành giàu có. Ngược lại người sản xuất
nào có giá trị cá biệt lớn hơn giá trị xã hội thì sẽ bị thua lỗ, phá sản, trở thành người nghèo khổ.
Như vậy tác dụng này một mặt kích thích các yếu tố tích cực đào thải cái yếu kém,
lạc hậu, mặt khác phân hóa xã hội thành kẻ giàu, người nghèo, tạo điều kiện cho chủ
nghĩa tư bản ra đời. + Quy luật cung-cầu
Là quy luật kinh tế điều tiết quan hệ giữa cung và cầu hàng hóa, chúng có mối quan
hệ hữu cơ với nhau và trực tiếp tác động đến việc xác định giá cả của hàng hóa. Nếu