



















Preview text:
  lOMoAR cPSD| 60797905   
CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ KINH TẾ HỌC VI MÔ 
1.1.Giới thiệu tổng quan về kinh tế học  1.1.1.Các khái niệm 
1.1.1.1.Kinh tế học 
Hoạt động kinh tế là hoạt động thường xuyên của con người. Hoạt động kinh tế bao gồm hoạt động 
mua bán hàng hóa, hoạt động mua bán tài sản tài chính, hoạt động tín dụng (đi vay, cho vay), v.v. Do các hoạt 
động kinh tế thường nhằm mục đích tạo ra sản phẩm hay dịch vụ để thỏa mãn nhu cầu của con người nên 
chúng đóng một vai trò hết sức quan trọng. Vì vậy, việc hình thành một môn khoa học nghiên cứu hoạt động 
kinh tế của con người là rất cần thiết. Điều này giải thích lý do ra đời của môn kinh tế học. 
Kinh tế học là một môn khoa học nghiên cứu cách thức con người sử dụng nguồn tài nguyên có hạn để 
thỏa mãn nhu cầu vô hạn của mình. 
Định nghĩa về kinh tế học thông dụng nhất, được nhiều nhà kinh tế thống nhất là: Kinh tế học là môn 
khoa học nghiên cứu phương thức xã hội phân bổ các nguồn lực khan hiếm để sản xuất ra các hàng hóa và 
dịch vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu của các thành viên trong xã hội. 
Định nghĩa nói trên nhấn mạnh hai khía cạnh quan trọng của kinh tế học. Một là, nguồn tài nguyên 
được dùng để sản xuất ra của cải vật chất thì có giới hạn. Điều này có nghĩa là nguồn tài nguyên không thể 
đủ để đáp ứng tất cả các nhu cầu của con người. Sự khan hiếm này giới hạn sự chọn lựa của xã hội và giới 
hạn cả cơ hội dành cho con người sống trong xã hội. Thí dụ, không một cá nhân nào có thể tiêu dùng nhiều 
hơn số thu nhập của mình; không một ai có thể có nhiều hơn 24 giờ trong một ngày. Sự chọn lựa của con 
người thực chất là việc tính toán xem nguồn tài nguyên phải được sử dụng như thế nào. Do đó, sự cần thiết 
phải lựa chọn dẫn đến khía cạnh thứ hai của định nghĩa của kinh tế học: mối quan tâm về việc nguồn tài 
nguyên được phân phối như thế nào. Bằng cách xem xét các hoạt động của người tiêu dùng, nhà sản xuất, 
nhà cung ứng, chính phủ, v.v., các nhà kinh tế học cố gắng tìm hiểu xem nguồn tài nguyên được phân bổ như 
thế nào để đáp ứng tiêu dùng xã hội. 
Kinh tế học là môn khoa học xã hội, môn khoa học nghiên cứu và giải thích hành vi của con người liên 
quan đến sản xuất, trao đổi và sử dụng các hàng hóa, dịch vụ. 
1.1.1.2. Kinh tế học thực chứng và kinh tế học chuẩn tắc 
Tuỳ theo cách thức sử dụng mà kinh tế học được chia làm hai dạng:  - 
Kinh tế học thực chứng: Là việc mô tả và phân tích các hiện tượng, sự kiện, những mối quan 
hệtrong nền kinh tế. Nhận định thực chứng có tính chất khách quan. Kinh tế học thực chứng liên quan đến 
cách lý giải khoa học, các vấn đề mang tính nhân quả. Kinh tế học thực chứng là để trả lời câu hỏi: Là bao 
nhiêu? Là gì? Như thế nào? Tại sao? 
 Ví dụ: Hiện nay, tỷ lệ lạm phát là bao nhiêu? Nếu lạm phát giảm đi 1% thì thất nghiệp có tăng lên và  tăng lên bao nhiêu?  - 
Kinh tế học chuẩn tắc: Đề cập đến mặt đạo lí được giải quyết bằng sự lựa chọn. Nhận định 
chuẩntắc có tính chủ quan. Kinh tế học chuẩn tắc liên quan đến quan điểm đạo lý chính trị ở một quốc gia. 
Nó đưa ra những lời chỉ dẫn, khuyến cáo theo tiêu chuẩn cá nhân. Hay nói cách khác, kinh tế học chuẩn tắc 
hoàn toàn mang tính chủ quan.Kinh tế học chuẩn tắc là để trả lời câu hỏi: Nên làm cái gì? Cần phải làm như 
thế nào? . Ví dụ: Tỷ lệ thất nghiệp cao đến mức độ nào thì chấp nhận được? Có nên tăng chi phí quốc phòng  không? 
Ví dụ: Có nên lấy của người giàu chia cho người nghèo không? Đây là một đạo lý. Nếu có thì nên lấy 
bằng cách nào? Chắc chắn là phải dùng thuế. Thuế cao hay thấp thuộc kinh tế học chuẩn tắc. 
Sự khác biệt căn bản giữa hai loại phân tích trên là ở khả năng kiểm chứng tính đúng đắn của chúng.      lOMoAR cPSD| 60797905
Dĩ nhiên kinh tế học thực chứng và kinh tế học chuẩn tắc có quan hệ mật thiết với nhau, có ý nghĩa 
lớn trong thực tiễn sản xuất và đời sống. Cho nên khi nghiên cứu về kinh tế học, bạn luôn luôn nhớ tới sự 
phân biệt giữa các nhận định thực chứng và chuẩn tắc. Nhiều nội dung của kinh tế học chỉ nhằm lý giải cách 
thức vận hành của nền kinh tế. Nhưng mục tiêu của kinh tế học thường là cải thiện hoạt động của nền kinh  tế. 
Nghiên cứu kinh tế học thường được tiến hành từ kinh tế học thực chứng rồi chuyển sang kinh tế học  chuẩn tắc. 
Các hành vi kinh tế rất phức tạp. Vì vậy, cần phải xây dựng những lý thuyết và mô hình kinh tế để hiểu 
biết và phân tích các hoạt động kinh tế.  Lý thuyết 
Lý thuyết là sự diễn giải mang tính giả định những mối quan hệ giữa các biến số mà chúng ta có thể 
quan sát được thông qua các quan hệ kinh tế. Các lý thuyết được xây dựng để giải thích các hiện tượng, được 
kiểm định qua các quan sát thực tế và được sử dụng để hình thành những mô hình, từ đó có thể đưa ra các dự 
đoán chính xác. Mô hình kinh tế 
Mô hình mô tả mối quan hệ giữa hai hoặc nhiều biến số kinh tế. Các nhà kinh tế thường sử dụng các 
mô hình kinh tế để phân tích các hoạt động kinh tế và dự đoán sự thay đổi của một biến khi có sự thay đổi  của biến kia. 
Các mô hình được xây dựng trên cơ sở các giả định và thường dùng các đồ thị và phương trình để biểu 
diễn. Mô hình cho phép chúng ta đơn giản hóa thực tế để dễ dàng phân tích các vấn đề kinh tế. 
Sử dụng lý thuyết và mô hình kinh tế giúp chúng ta áp dụng các kết quả phân tích để nghiên cứu các 
vấn đề kinh tế cơ bản mà mỗi xã hội cần phải giải quyết. Tuy nhiên, thế giới hiện thực không đơn giản như 
các mô hình được xây dựng. Các mô hình chỉ là ước lượng. Nếu một mô hình không chính xác, không đầy 
đủ hoặc nếu thế giới thực thay đổi thì cần xây dựng một mô hình mới. 
1.1.1.3.Kinh tế học vi mô và kinh tế học vĩ mô 
Mặc dù nghiên cứu kinh tế bao gồm rất nhiều lĩnh vực khác nhau như thương mại quốc tế, tiền tệ và 
ngân hàng, lao động... nhưng lý thuyết kinh tế cơ bản có thể được chia thành hai phân ngành lớn là: 
kinh tế học vi mô và kinh tế học vĩ mô. 
a. Kinh tế học vi mô 
Kinh tế vi mô nghiên cứu các hành vi cụ thể của từng cá nhân, từng doanh nghiệp trong việc lựa chọn 
và quyết định ba vấn đề kinh tế cơ bản cho mình đó là: sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, sản xuất cho ai 
để có thể đứng vững và phát triển cạnh tranh trên thị trường 
Nghiên cứu sự lựa chọn những vấn đề kinh tế cụ thể của các đơn vị kinh tế trong nền kinh tế. Kinh tế 
học vi mô nghiên cứu chi tiết các quyết định cá nhân về các hàng hóa cụ thể. Nó giải thích vì sao các đơn vị 
kinh tế lại đưa ra sự lựa chọn và làm thế nào để có được sự lựa chọn đó. 
Ví dụ: Chúng ta có thể nghiên cứu tại sao người tiêu dùng lại thích xe máy hơn xe đạp và người sản 
xuất quyết định như thế nào trong việc lựa chọn sản xuất xe máy hay xe đạp. 
b. Kinh tế học vĩ mô 
Kinh tế vĩ mô nghiên cứu hành vi của Nhà nước khi giải quyết ba vấn đề kinh tế cơ bản: Sản xuất cái gì, sản 
xuất như thế nào, sản xuất cho ai trên tổng thể mỗi quốc gia. 
Nghiên cứu sự lựa chọn những vấn đề kinh tế tổng thể của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Kinh tế học 
vĩ mô thường đơn giản hóa các vấn đề riêng biệt trong phân tích để nhấn mạnh quá trình tương tác trong nền 
kinh tế trong việc quyết định ba vấn đề kinh tế cơ bản. Kinh tế học vĩ mô tập trung phân tích việc phân bổ 
nguồn lực để đạt được các mục tiêu kinh tế tổng quát cho toàn bộ nền kinh tế như: tăng trưởng, lạm phát, thất  nghiệp.…      lOMoAR cPSD| 60797905
Ví dụ: Các nhà kinh tế học vĩ mô thường không quan tâm đến việc phân loại hàng tiêu dùng thành xe 
máy, xe đạp, tivi hay máy tính... Họ nghiên cứu tất cả các hàng này dưới dạng một nhóm gọi là "hàng tiêu 
dùng". Họ quan tâm chủ yếu đến việc nghiên cứu sự tương tác giữa quyết định mua hàng tiêu dùng của tất 
cả các hộ gia đình và quyết định sản xuất của tất cả các doanh nghiệp. 
c.Mối quan hệ giữa kinh tế học vi mô và kinh tế học vĩ mô 
Kinh tế vi mô quan tâm đến mục tiêu hiệu quả của từng đơn vị kinh tế. 
Kinh tế vĩ mô quan tâm đến mục tiêu hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế. 
Kinh tế vi mô và kinh tế vĩ mô là những nội dung quan trọng của kinh tế học. Chúng bổ sung và hỗ trợ  cho nhau, thể hiện: 
- Kết quả của kinh tế vĩ mô phụ thuộc vào các hành vi của kinh tế vi mô. Nền kinh tế phụ thuộc vàosự 
phát triển của các doanh nghiệp. 
- Những hành vi của kinh tế vi mô chịu ảnh hưởng của kinh tế vĩ mô. Kinh tế vĩ mô tạo điều kiện vàmôi 
trường cho kinh tế vi mô phát triển. 
Có thể coi kinh tế học vĩ mô là nghiên cứu về một khu rừng còn kinh tế học vi mô là cây cối trong khu  rừng đó. 
1.1.2. Các bộ phận của Kinh tế học 
1.1.2.1.Nền kinh tế 
Nền kinh tế là một cơ chế phân bổ các nguồn lực khan hiếm cho các nhu cầu cạnh tranh nhau. 
Để hiểu được một nền kinh tế hoạt động như thế nào, chúng ta phải xem xét cách thức tổ chức của một 
nền kinh tế và phương thức tác động qua lại giữa các chủ thể kinh tế với nhau trong quá trình ra quyết định. 
1.1.2.2. Các chủ thể kinh tế 
Trong một nền kinh tế có ba nhóm chủ thể ra quyết định về việc sử dụng các nguồn lực khan hiếm đó 
là: doanh nghiệp, hộ gia đình và Chính phủ. 
- Hộ gia đình: Là người tiêu dùng các hàng hóa và dịch vụ được sản xuất ra trong nền kinh tế. Đây 
làngười quyết định số lượng hàng hóa và dịch vụ được mua trên thị trường đầu ra. Đồng thời, hộ gia đình là 
người sở hữu và cho thuê các yếu tố sản xuất trên thị trường đầu vào. 
- Doanh nghiệp: Là người sản xuất ra các hàng hóa và dịch vụ cung ứng cho nền kinh tế. Đây làngười 
quyết định việc phân bổ các nguồn lực để sản xuất ra các hàng hóa và dịch vụ trên thị trường đầu ra. Đồng 
thời là người thuê và sử dụng các yếu tố sản xuất trên thị trường đầu vào. 
- Chính phủ: Là người ban hành các quy định và luật lệ phù hợp, tạo ra môi trường pháp lý thuậnlợi 
cho sự hoạt động của các chủ thể kinh tế khác trên thị trường. Bằng cách thay đổi các quy định và luật lệ, 
Chính phủ có thể làm thay đổi sự lựa chọn của các doanh nghiệp và các hộ gia đình để điều chỉnh các hoạt 
động kinh tế theo những mục tiêu nhất định. 
1.1.2.3. Các yếu tố sản xuất 
 Các yếu tố sản xuất là các đầu vào dùng để sản xuất ra sản phẩm cho xã hội. Các yếu tố sản xuất bao  gồm: 
a.Lao động (L): là khả năng sản xuất của con người. Là năng lực về thể lực và trí tuệ của người lao 
động để sản xuất ra hàng hóa và dịch vụ . 
- Được đo lường bằng: số lượng người có khả năng lao động, kỹ năng hay chất lượng của người  laođộng. 
- Thu nhập từ lao động là tiền lương (w). 
b. Đất đai (Đ): là nguồn lực tự nhiên. Là các tài nguyên thiên nhiên do thiên nhiên mang lại. Nguồn 
tài nguyên có thể tái tạo, nguồn tài nguyên không thể tái tạo. 
-Thu nhập từ đất đai là tiền thuê đất (r).      lOMoAR cPSD| 60797905
c. Vốn (K): là các dự trữ bằng tiền và hàng hóa, tài sản được sử dụng để tạo ra các hàng hóa hay dịch 
vụ khác. là phương tiện sản xuất để tạo ra sản phẩm. 
- Hàng hóa vốn không trực tiếp thỏa mãn nhu cầu của con người 
- Thu nhập từ vốn là tiền lãi. 
1.2. Các vấn đề kinh tế cơ bản và các hệ thống kinh tế 
1.2.1. Những vấn đề kinh tế cơ bản 
Một nền kinh tế muốn tồn tại và phát triển được cần phải giải quyết ba vấn đề kinh tế cơ bản là: Sản 
xuất cái gì? (What to produce?) Sản xuất như thế nào? (How to produce?) Sản xuất cho ai? (Produce for  whom?). 
1.2.1.1. Sản xuất cái gì? 
Quyết định sản xuất cái gì chính là quyết định sản xuất hàng hóa, dịch vụ nào; với số lượng bao nhiêu; 
khi nào thì sản xuất và cung ứng ra thị trường. Người sản xuất phải trả lời được câu hỏi: thị trường cần hàng 
hóa gì? chứ không phải là: mình có khả năng sản xuất hàng hóa gì? 
Nhu cầu của xã hội về hàng hóa và dịch vụ rất phong phú, đa dạng và ngày càng tăng về số lượng và 
chất lượng. Song trên thực tế, nhu cầu có khả năng thanh toán lại có hạn. Vì vậy, để thỏa mãn nhu cầu vô hạn 
trong khi khả năng thanh toán có hạn, xã hội và người tiêu dùng phải lựa chọn nhu cầu cần thiết hơn và cần 
thiết nhất. Các nhu cầu này sẽ được xã hội, người tiêu dùng ưu tiên hơn và khả năng thanh toán của các nhu 
cầu này sẽ cao hơn. Tổng các nhu cầu có khả năng thanh toán của xã hội, của người tiêu dùng chính là nhu 
cầu có khả năng thanh toán của thị trường. Nhu cầu này là căn cứ, là xuất phát điểm để định hướng cho Chính 
phủ và các nhà kinh doanh trong việc đưa ra các quyết định về sản xuất. Trên thị trường, giá cả là phương 
tiện phát tín hiệu báo cho các nhà kinh doanh biết cần phải sản xuất và cung ứng cái gì để có lợi nhất. Giá cả 
là "bàn tay vô hình" điều khiển thị trường, điều khiển quan hệ cung cầu và giúp người sản xuất lựa chọn 
quyết định sản xuất tối ưu. 
1.2.1.2. Sản xuất như thế nào? 
Quyết định sản xuất như thế nào chính là quyết định về phương pháp sản xuất, hình thức công nghệ và 
cách phối hợp các đầu vào tối ưu. 
Sau khi đã lựa chọn được cần sản xuất cái gì, Chính phủ và các nhà kinh doanh phải xem xét và lựa 
chọn việc sản xuất như thế nào để có lợi nhuận cao nhất. Động cơ lợi nhuận đã khuyến khích các doanh 
nghiệp tìm kiếm, lựa chọn các phương pháp sản xuất có hiệu quả nhất. Để đứng vững và cạnh tranh thắng 
lợi trên thị trường, các doanh nghiệp phải luôn luôn đổi mới kỹ thuật và công nghệ, nâng cao trình độ của 
công nhân, trình độ quản lý, nâng cao chất lượng sản phẩm và giữ uy tín với khách hàng. 
1.2.1.3. Sản xuất cho ai? 
Quyết định sản xuất cho ai chính là quyết định về việc phân phối thu nhập. Cần phải xác định rõ ai sẽ 
được hưởng lợi từ những hàng hóa và dịch vụ sản xuất ra. 
Thị trường quyết định giá cả của các yếu tố sản xuất. Do đó, thị trường cũng quyết định thu nhập của 
các đầu ra - thu nhập về hàng hóa, dịch vụ. Thu nhập của xã hội, của tập thể hay của cá nhân phụ thuộc vào 
quyền sở hữu và giá cả của các yếu tố sản xuất, phụ thuộc vào lượng hàng hóa và giá cả của các hàng hóa, 
dịch vụ. Vấn đề mấu chốt cần giải quyết là những hàng hóa và dịch vụ sản xuất được phân phối cho ai để vừa 
có thể kích thích mạnh mẽ sự phát triển kinh tế, vừa bảo đảm sự công bằng xã hội. Về nguyên tắc, cần bảo 
đảm cho mọi người lao động được hưởng lợi từ những hàng hóa và dịch vụ của doanh nghiệp đã tiêu thụ, căn 
cứ vào những cống hiến của họ (cả lao động sống và lao động vật hóa) đối với quá trình sản xuất ra những 
hàng hóa và dịch vụ, đồng thời cần chú ý thỏa đáng đến những vấn đề xã hội. 
Quá trình phát triển kinh tế của mỗi nước, mỗi ngành, mỗi doanh nghiệp chính là quá trình lựa chọn để 
quyết định tối ưu ba vấn đề kinh tế cơ bản trên. Song, việc lựa chọn để quyết định tối ưu ba vấn đề kinh tế      lOMoAR cPSD| 60797905
cơ bản còn phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội, vào hệ thống kinh tế, vào mức độ can thiệp của 
Chính phủ và chế độ chính trị - xã hội của mỗi nước. 
1.2.2. Các cơ chế kinh tế (Các mô hình kinh tế) 
Có ba mô hình kinh tế chủ yếu là: mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, mô hình kinh tế thị trường 
và mô hình kinh tế hỗn hợp. 
1.2.2.1. Cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung 
Là mô hình kinh tế trong đó Chính phủ đưa ra mọi quyết định liên quan đến việc phân bổ nguồn lực  của xã hội. 
Trong mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung việc lựa chọn ba vấn đề kinh tế cơ bản: sản xuất cái gì, 
sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai đều do Chính phủ quyết định. 
Mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung 
Quyết định của Chính phủ    Sản xuất cái gì  Sản xuất như thế nào  Sản xuất cho ai 
Ưu điểm: việc quản lý được thống nhất tập trung và giải quyết được những nhu cầu công cộng của xã 
hội. Những vấn đề quan trọng khác của quốc gia như an ninh, quốc phòng và các vẫn đề xã hội cũng được 
giải quyết ở một mức độ nhất định. Hạn chế được phân hoá giàu – nghèo và bất công xã hội, tập trung được 
nguồn lực để giải quyết được cân đối lớn của nền kinh tế quốc dân. 
Nhược điểm chủ yếu của mô hình này là: kém hiệu quả, kém linh hoạt và thiếu động lực khuyến khích 
các chủ thể trong nền kinh tế. 
1.2.2.2. Cơ chế kinh tế thị trường 
Là mô hình kinh tế trong đó thị trường đưa ra mọi quyết định liên quan đến việc phân bổ nguồn lực  của xã hội. 
Trong mô hình kinh tế thị trường việc lựa chọn ba vấn đề kinh tế cơ bản: sản xuất cái gì, sản xuất như 
thế nào và sản xuất cho ai đều được thực hiện thông qua hoạt động của quan hệ cung cầu và giá cả trên thị  trường. 
Mô hình kinh tế thị trường  PHíA CUNG   THị TRƯờNG   PHíA CầU     
Người sản xuất Người tiêu dùng  Kết quả 
 (SX cái gì, SX như thế nào, SX cho ai? 
Nền kinh tế thị trường tôn trọng các hoạt động của thị trường, quy luật của sản xuất và lưu thông hàng 
hóa. Kinh tế thị trường là kinh tế năng động và khách quan. 
1.2.2.3. Cơ chế kinh tế hỗn hợp 
Là mô hình kinh tế kết hợp mô hình kinh tế thị trường với mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung. 
Nền kinh tế hỗn hợp đòi hỏi trước hết phải phát triển các quan hệ cung cầu, cạnh tranh, tôn trọng vai 
trò của thị trường, lấy lợi nhuận làm mục tiêu và động cơ phấn đấu. Mặt khác, cũng đòi hỏi phải tăng cường 
vai trò và sự can thiệp của Chính phủ để khắc phục những khuyết tật của nền kinh tế thị trường.      lOMoAR cPSD| 60797905
1.2.3. Sơ đồ hoạt động của nền kinh tế 
Nền kinh tế thường xuyên trong trạng thái động. Các yếu tố sản xuất di chuyển từ khu vực người tiêu 
dùng sang khu vực kinh doanh. Khu vực kinh doanh sử dụng các yếu tố để sản xuất hàng hóa và dịch vụ. Để 
đổi lại việc cung cấp các yếu tố sản xuất, người tiêu dùng nhận được thu nhập thông qua lương, tiền cho thuê, 
tiền lãi và lợi nhuận. Nguồn thu nhập này sau đó lại được sử dụng để mua sắm hàng hóa và dịch vụ. Các hoạt 
động này được thể hiện thông qua sơ đồ hoạt động của nền kinh tế.   
Hình 1.1: Sơ đồ hoạt động của nền kinh tế 
1.3. Đối tượng, nội dung và phương pháp nghiên cứu kinh tế học vi mô 1.3.1.Đối tượng môn học kinh  tế vi mô  - 
Nghiên cứu các hành vi hoạt động cụ thể của từng đơn vị kinh tế đơn lẻ, trên cơ sở đó giúp 
choviệc lựa chọn và ra quyết định đúng đắn của các cá nhân trong nền kinh tế nhằm tối đa hóa lợi nhuận và 
tối đa hóa độ thỏa dụng  - 
Nghiên cứu phát hiện tìm ra các quy luật kinh tế và sự tác động của các quy luật đó đến các 
tế bàotrong nền kinh tế như thế nào?  - 
Nghiên cứu các hiện tượng, sự kiện, tìm ra các nguyên nhân ảnh hưởng, trên cơ sở đó có 
nhữngkiến nghị với Chính phủ có chính sách kinh tế vĩ mô phù hợp. 
1.3.2 Nội dung môn học 
Môn học kinh tế học vi mô là môn học có nội dung rất phong phú, đa dạng. Tuy nhiên trong phạm vi 
của nội dung môn học tập bài giảng này chúng ta chỉ tập trung giải quyết những nội dụng cơ bản sau đây: - 
Tổng quan về kinh tế học vi mô  - Cầu cung hàng hóa 
- Lý thuyết hành vi người tiêu dùng 
- Lý thuyết hành vi của doanh nghiệp  - Cấu trúc thị trường 
- Thị trường yếu tố sản xuất 
- Vai trò Chính phủ trong nền kinh tế thị trường      lOMoAR cPSD| 60797905
1.3.3 Phương pháp nghiên cứu 
Để nghiên cứu kinh tế học vi mô, người ta thường sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây: 
- Phương pháp thông kê kinh tế 
- Phương pháp toán kinh tế 
- Phương pháp mô hình hóa: Xây dựng các mô hình kinh tế để lượng hóa các quan hệ kinh tế. Vì thựctế 
rất phức tạp, để đơn giản hóa, các nhà kinh tế đã xây dựng các mô hình kinh tế bằng cách chỉ chọn một số 
biến cơ bản. Việc đơn giản hóa được thực hiện bằng cách đưa ra các giả định. Đơn giản hóa không có nghĩa 
là không tính đến sự phức tạp của thế giới thực tế, mà đó là quá trình cần thiết để phát hiện ra thế giới thực  tế đầy phức tạp. 
- Phương pháp cân bằng nội bộ; Kinh tế học vi mô sử dụng chủ yếu phương pháp phân tích cân bằngbộ 
phận (partial equilibrium). Theo phương pháp này, kinh tế học vi mô bỏ qua sự tương tác của một hành vi 
kinh tế với toàn bộ nền kinh tế. 
- Phương pháp lựa chọn: Lựa chọn tối ưu các hoạt động kinh tế vi mô là vấn đề cốt lõi, xuyên suốtcủa 
kinh tế học vi mô nên phải nắm vững phương pháp lựa chọn. Từ đó, rút ra được tính tất yếu và xu hướng 
phát triển của các hoạt động kinh tế. 
- Phương pháp tiếp cận cận biên 
Trong đó, phương pháp tiếp cận cận biên (lý thuyết biên) là phương pháp quan trọng nhất. Nội dung 
cơ bản của phương pháp này là: nhìn nhận xem xét các quyết định của các tác nhân trong nền kinh tế đều có 
điểm dừng tối ưu. Tại đó, người sản xuất hoặc là tối thiểu hóa chi phí khi lựa chọn đầu vào hoặc là tối đa hóa 
lợi nhuận khi lựa chọn đầu ra trong hoạt động sản xuất kinh doanh; người tiêu dùng tối đa hóa lợi ích khi sử 
dụng hàng hóa dịch vụ; còn Chính phủ tối đa hóa phúc lợi công cộng khi lựa chọn chính sách. 
Khi tiến hành lựa chọn, các tác nhân đều mong muốn tối đa hóa lợi ích ròng thông qua việc so sánh 
phần lợi ích thu được và phần chi phí bỏ ra để sản xuất (hoặc tiêu dùng) thêm một đơn vị sản phẩm. 
1.4.Lựa chọn kinh tế tối ưu và hiệu quả kinh tế 
Lựa chọn kinh tế tối ưu là vấn đề cốt lõi xuyên suốt của Kinh tế học vi mô. Lý do giải thích tại sao các 
chủ thể kinh tế luôn phải đối mặt với những sự lựa chọn là do sự tồn tại của quy luật khan hiếm tài nguyên. 
Tài nguyên khan hiếm buộc các doanh nghiệp, các hộ gia đình và chính phủ phải lựa chọn một phương án 
tốt nhất nhằm sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên khan hiếm. 
1.4.1. Sự khan hiếm 
Khan hiếm tồn tại bất cứ khi nào nhu cầu của một cá nhân hoặc một chủ thể kinh tế lớn hơn khả năng 
sẵn có về tài nguyên để thỏa mãn nhu cầu đó. Ví dụ một em bé mong muốn có một lon nước ngọt coca cola 
giá 6 ngàn đồng và một phong kẹo cao su giá 2 ngàn đồng, trong khi nó chỉ có trong tay 7 ngàn đồng, em bé 
đó gặp phải sự khan hiếm. Vấn đề quan trọng hơn là sự khan hiếm luôn tồn tại vì mâu thuẫn vốn có giữa nhu 
cầu về hàng hóa, dịch vụ và khả năng thỏa mãn nhu cầu. Mâu thuẫn này được thể hiện ở chỗ nhu cầu của con 
người tăng lên không ngừng trong khi khả năng sản xuất của xã hội để thỏa mãn nhu cầu lại có giới hạn do 
sự hạn chế về tài nguyên. 
Tài nguyên được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm mọi nguồn lực để sản xuất ra các hàng hóa dịch vụ bao 
gồm tiền vốn, đất đai, máy móc thiết bị, công nghệ, quản lý, thời gian. Đối với các hàng sản xuất ra hàng hóa 
dịch vụ, nguồn lực khan hiếm chính là các yếu tố sản xuất khan hiếm. Đối với người tiêu dùng, nguồn lực 
khan hiếm chính là lượng thu nhập nhất định mà anh ta kiếm được dùng để mua sắm các hàng hóa dịch vụ  cho tiêu dùng. 
1.4.2. Những vấn đề cơ bản của lý thuyết lựa chọn 
1.4.2.1. Khái niệm lựa chọn      lOMoAR cPSD| 60797905
Lựa chọn là cách thức mà các cá nhân và các doanh nghiệp đưa ra quyết định tối ưu về việc sử dụng 
các nguồn lực của họ. Lý thuyết lựa chọn tìm cách giải thích có cơ sở khoa học cho các quyết định của cá 
nhân và của doanh nghiệp. Nó cố gắng giải thích tại sao họ lại lựa chọn và cách thức của sự lựa chọn. 
1.4.2.2. Sự cần thiết phải lựa chọn 
Sự lựa chọn là cần thiết vì nhu cầu của con người vô hạn trong khi đó nguồn lực lại chỉ có hạn (Nguồn 
lực có hạn có nghĩa là khối lượng sản phẩm đầu ra cũng có hạn). 
 Sự lựa chọn có thể thực hiện được vì một nguồn lực được sử dụng vào nhiều mục đích khác nhau và 
chúng có thể thay thế được cho nhau trong sản xuất hoặc trong tiêu dùng. 
1.4.1.3. Mục tiêu của sự lựa chọn 
Đối với người sản xuất, việc lựa chọn nhằm mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận. Đối với người tiêu dùng, 
lựa chọn để tối đa hóa lợi ích tiêu dùng. Đối với Chính phủ, lựa chọn nhằm tối đa hóa phúc lợi xã hội. 
1.4.1.4. Căn cứ của sự lựa chọn 
Khái niệm hữu ích nhất được sử dụng trong lý thuyết lựa chọn là chi phí cơ hội. Chi phí cơ hội là giá 
trị của cơ hội tốt nhất hoặc phương án kinh doanh tốt nhất bị bỏ qua khi đưa ra một sự lựa chọn kinh tế (chi 
phí cơ hội của một quyết định là giá trị hàng hoá hoặc dịch vụ bị bỏ qua khi chúng ta lựa chọn quyết định đó 
và bỏ qua các quyết định khác trong điều kiện khan hiếm các yếu tố thực hiện quyết định). 
Do các nguồn tài nguyên khan hiếm nên con người luôn phải lựa chọn sẽ tiến hành các hoạt động nào. 
Khi quyết định làm một việc gì đó, tức là đã bỏ mất cơ hội để làm các việc khác. 
Một ví dụ đơn giản của chi phí cơ hội là khi lựa chọn vệc đến lớp nghe giáo sư giảng bài, một học viên 
sẽ mất cơ hội gặp gỡ ký kết hợp đồng với đối tác làm ăn, hoặc mất cơ hội tham dự một hội thảo khác cũng 
đang được tổ chức cùng trong thời gian đó. Thời gian là nguồn lực khan hiếm nên không thể cùng một lúc 
thực hiện được cả ba phương án. Nếu lựa chọn đến lớp nghe giáo sư giảng bài thì phương án tốt nhất bị bỏ 
qua đối với người học viên là gặp mặt đối tác để ký kết hợp đồng. Cụ thể hơn, nếu hợp đồng đó mang lại cho 
anh ta 10 triệu đồng thì có thể nói rằng chi phí cơ hội của việc đến lớp nghe giáo sư giảng bài là giá trị của 
phương án tốt nhất đã bị bỏ qua tức là 10 triệu đồng. 
Trong tiêu dùng: Nếu mua hàng hóa hoặc dịch vụ này thì phải từ bỏ cơ hội để mua hàng hóa hoặc dịch  vụ khác. 
Trong sản xuất: Nếu sản xuất hàng hóa hoặc dịch vụ này thì phải từ bỏ cơ hội để sản xuất hàng hóa  hoặc dịch vụ khác. 
Chi phí cơ hội của hàng hóa A là số lượng của hàng hóa B phải từ bỏ do sử dụng nguồn lực để sản xuất  hàng hóa A. 
Trong thực tiễn: Chọn phương án này là bỏ qua cơ hội thực hiện các phương án khác. 
Ví dụ 1: Chi phí cơ hội của việc giữ tiền là lãi suất khi gửi tiền vào ngân hàng 
Ví dụ 2: Một sinh viên sau khi ra trường có thể làm việc cho doanh nghiệp tư nhân hoặc làm việc cho 
một cơ quan nhà nước. Lựa chọn làm việc ở đâu, sinh viên này phải bỏ qua những thứ có thể nhận được ở  đơn vị kia. 
Chú ý: Để đưa ra bất kỳ một quyết định kinh tế nào, các tác nhân phải so sánh giữa các phương án thật  kỹ lưỡng. 
Tuy nhiên, khái niệm chi phí cơ hội cho thấy rằng các chi phí tính bằng số tiền thực tế bỏ ra không 
phải luôn luôn là một số phản ánh chính xác chi phí cơ hội. 
Ví dụ 3: Chi phí cơ hội của việc đi học bao gồm cả chi phí thực tế bạn phải bỏ ra cộng với chi phí cơ 
hội của thời gian dành vào việc nghiên cứu và đi học. Bởi vì, nếu không dành thời gian đó cho việc nghiên 
cứu và đi học bạn có thể làm việc gì đó tạo ra một khoản thu nhập nhất định. Như vậy, chi phí cơ hội cho 
việc đi học bằng chi phí thực tế cho việc đi học cộng với khoản thu nhập có thể tạo ra trong thời gian đó nếu 
không dành thời gian cho việc đi học.      lOMoAR cPSD| 60797905
Ví dụ 4: Huy, Toàn và Mai có kế hoạch đi du lịch từ Hà Nội đến Vinh. Chuyến đi mất 1 giờ nếu đi 
bằng máy bay và 5 giờ nếu đi bằng tàu hỏa. Giá vé máy bay là 100$ và tàu hỏa là 60$. Họ đồng thời cùng bỏ 
lỡ việc làm trong khi đi. Huy kiếm 5$ một giờ, Toàn 10$ một giờ và Mai 12$ một giờ. 
Hãy tính chi phí cơ hội của việc đi bằng máy bay và tàu hỏa của mỗi người. Giả định rằng tất cả họ 
đều muốn sự lựa chọn tối ưu, mỗi người nên đi như thế nào? 
Giải: Tổng chi phí của chuyến du lịch gồm giá vé và chi phí cơ hội của thời gian đi  Tổng chi phí  Tầu hỏa  Máy bay  Huy  85$  105$  Toàn  110$  110$  Mai  120$  112$ 
Các chủ thể kinh tế khác nhau có sự khan hiếm khác nhau về các nguồn lực. Vì vậy, khi lựa chọn người 
ta phải tính đến nguồn lực khan hiếm. Nó chính là giới hạn ràng buộc, hạn chế đến khả năng lựa chọn. 
Ví dụ 5: Một ông tổng giám đốc chọn phương tiện máy bay để đi từ Hà Nội vào Thành phố Hồ Chí 
Minh trong khi một sinh viên lại lựa chọn phương tiện là tàu hỏa. 
Để minh họa cho vấn đề khan hiếm, sự lựa chọn và hiệu quả kinh tế người ta sử dụng đường giới hạn  khả năng sản xuất. 
1.4.3. Đường giới hạn khả năng sản xuất 
1.4.3.1. Nguồn lực khan hiếm 
Thời gian là một trong những nguồn lực khan hiếm. Chúng ta chỉ có một quỹ thời gian có hạn để thực 
hiện các công việc mà chúng ta muốn. Giả sử những hoạt động chủ yếu của chúng ta được chia thành hai 
loại: học tập và nghỉ ngơi. Với cách phân chia như vậy, chúng ta có thể biểu diễn sự phân chia quỹ thời gian  trên đồ thị như sau: 
Hình 1.2: Thời gian là nguồn lực khan hiếm 
Trên hình 1.2, đường đồ thị biểu diễn những khả năng kết hợp có thể giữa học tập và nghỉ ngơi mà 
chúng ta có thể tiến hành trong quỹ thời gian của mình (24 giờ). Một đường như vậy được gọi là đường giới 
hạn khả năng sản xuất. Cụm từ "đường giới hạn" chỉ ra rằng, đó là một đường biên mà chúng ta không thể 
vượt quá. Thực vậy, những điểm nằm ngoài đường giới hạn là những điểm không khả thi, để đạt được những 
điểm này chúng ta cần phải có quỹ thời gian lớn hơn 24 giờ trong một ngày. Những điểm nằm bên trong 
đường giới hạn được gọi là những điểm không có hiệu quả, bởi vì chúng ta có thể đạt đến điểm này mà không 
cần phải sử dụng hết quỹ thời gian 24 giờ của mình. 
1.4.3.2. Đường giới hạn khả năng sản xuất 
a) Khái niệm: Đường giới hạn khả năng sản xuất (PPF) chỉ ra số lượng tối đa của hai hàng hóa có thể 
được sản xuất ra từ các đầu vào khác nhau của nền kinh tế với một nguồn lực và công nghệ nhất định khi 
toàn bộ nguồn lực được sử dụng một cách có hiệu quả. 
Giả sử chúng ta có một khu đất nông nghiệp với một diện tích nhất định được sử dụng chỉ để trồng cà phê và 
chè. Đường giới hạn khả năng sản xuất trong trường hợp này như sau: (đơn vị: Tấn)  Kết hợp  Cà phê  Chè  A  0  15  B  1  14  C  2  12  D  3  9      lOMoAR cPSD| 60797905 E  4  5  F  5  0 
Vì nguồn lực có hạn nên sản xuất thêm hàng hóa này có nghĩa là phải sản xuất bớt hàng hóa khác. 
Chúng ta phải lựa chọn giữa các kết hợp hàng hóa khác nhau và đường giới hạn khả năng sản xuất phản ánh 
sự giới hạn mà khan hiếm nguồn lực buộc họ phải lựa chọn. 
Đường giới hạn khả năng sản xuất cho biết những điểm mà tại đó xã hội sản xuất một cách có hiệu quả. 
Những điểm nằm phía trong đường giới hạn khả năng sản xuất là không hiệu quả vì xã hội có thể tăng 
thêm sản lượng của một mặt hàng mà không phải cắt bớt sản lượng của mặt hàng khác. Tại những điểm này 
nguồn lực bị sử dụng lãng phí hoặc phân bổ không đúng. 
Nguồn lực bị sử dụng lãng phí khi chúng nhàn rỗi, trong khi chúng có thể được đưa vào hoạt động. 
Nguồn lực bị phân bổ không đúng khi chúng thực hiện những nhiệm vụ không phù hợp. 
Những điểm nằm ngoài đường giới hạn khả năng sản xuất là những điểm không thể đạt được. 
Như vậy, hiệu quả sản xuất chỉ xuất hiện ở những điểm nằm trên đường giới hạn khả năng sản xuất. 
Hiệu quả sản xuất đạt được khi không thể sản xuất thêm hàng hóa này mà không phải giảm bớt sản 
xuất một số hàng hóa khác. 
Điều đó có nghĩa là nền kinh tế đã tận dụng hết khả năng sản xuất. 
Hình 1.3: Đường giới hạn khả năng sản xuất 
Sự khan hiếm về nguồn lực buộc xã hội phải lựa chọn các điểm nằm trên đường PPF. Bằng cách chọn 
như vậy, xã hội đã quyết định sẽ sản xuất cái gì, bao nhiêu hàng hóa A, bao nhiêu hàng hóa B. Khi chọn một 
điểm cụ thể trên đường PPF, xã hội cũng sẽ chọn phương án sản xuất như thế nào. Để sản xuất được số lượng 
hàng của mỗi loại cần phải sử dụng bao nhiêu yếu tố đầu vào, phải chọn công nghệ nào để tạo ra được mức  sản lượng mong muốn. 
Trong việc lựa chọn các điểm hiệu quả, chúng ta gặp phải chi phí cơ hội. Có nghĩa là tăng thêm sản 
lượng của một hàng hóa chỉ có thể đạt được bằng cách hy sinh sản lượng của mặt hàng khác. 
Chúng ta có thể đo lường chi phí cơ hội bằng cách sử dụng đường giới hạn khả năng sản xuất: 
Hình 1.4: Đường giới hạn khả năng sản xuất phản ánh chi phí cơ hội 
Nếu như chúng ta chuyển từ điểm A xuống điểm B, chúng ta phải từ bỏ một số lượng hàng hóa Y và 
thay vào đó sẽ thu được một số lượng hàng hóa X. Chi phí cơ hội của hàng hóa X được đo bằng số lượng 
hàng hóa Y phải từ bỏ cho một đơn vị tăng thêm của X. Chi phí cơ hội của X: 
Y/ X = (YB - YA)/(XB - XA) 
Tương tự, trong ví dụ sản xuất chè hoặc cà phê, không phải toàn bộ khu đất nông nghiệp phù hợp với 
việc sản xuất chè hoặc cà phê. Nếu như toàn bộ diện tích đất nông nghiệp được dùng để sản xuất chè, thì có 
thể có một phần khu đất không phù hợp với cây chè. Phần đất này có thể thích hợp hơn với việc trồng cà phê. 
Nếu chúng ta chuyển vùng đất này sang trồng cà phê thì việc giảm sản lượng chè sẽ ít hơn sự gia tăng sản 
lượng cà phê. Tuy nhiên, nếu như chúng ta cứ tiếp tục phân bổ lại như thế, cuối cùng chúng ta phải giảm diện 
tích đất phù hợp với sản xuất chè để dùng cho sản xuất cà phê, nhưng có năng suất thấp. Lợi ích thu được khi 
chuyển sang trồng cà phê không lớn nhưng sản lượng chè sẽ giảm đi rất nhiều. 
Đường giới hạn khả năng sản xuất này không giống với đường giới hạn khả năng sản xuất mô tả ở trên. 
Tại sao đường này lại là một đường cong lõm nếu xét từ gốc tọa độ? Các đường PPF thường có dạng đường      lOMoAR cPSD| 60797905
cong lõm vì năng suất cận biên (sẽ được giải thích sau) của các nguồn lực sẽ thay đổi nếu như chúng ta 
chuyển từ việc sản xuất mặt hàng này sang mặt hàng khác. 
Những điểm nằm ngoài đường giới hạn khả năng sản xuất là những điểm không thể đạt được. Do vậy, 
để tăng sản xuất một loại hàng hóa này thì phải giảm sản xuất một loại hàng hóa khác. 
Lưu ý rằng, chi phí cơ hội sẽ thay đổi nếu A và B nằm ở hai điểm khác của PPF. Cụ thể là, khi chúng 
ta di chuyển xuống phía dưới của PPF, chi phí cơ hội của hàng hóa X tăng lên. 
Chúng ta có thể giải thích tại sao chi phí cơ hội của hàng hóa X thay đổi khi di chuyển dọc theo PPF. 
Chi phí cơ hội của hàng hóa X được biểu diễn bằng độ dốc của đường nối điểm A và B. Khi chúng ta di 
chuyển xuống phía dưới của đường cong, thì độ dốc của những đường nối trở nên dốc hơn, chi phí cơ hội  tăng lên. 
Thông thường chúng ta xác định chi phí cơ hội tại một điểm trên PPF. Tại một điểm trên PPF, chi phí 
cơ hội của hàng hóa X tương đương với độ dốc của PPF tại chính điểm đó. Để có thể tính được độ dốc của 
đường PPF, chúng ta có thể tính độ dốc của đường tiếp tuyến với PPF tại điểm chúng ta cần xác định. 
b) Đặc điểm của đường giới hạn khả năng sản xuất 
- Đường giới hạn khả năng sản xuất thể hiện trình độ sản xuất hiện có. 
- Đường giới hạn khả năng sản xuất biểu hiện hiệu quả tối đa của việc phân bổ nguồn lực. Nghĩa 
lànguồn lực được tận dụng bằng hết cho việc sản xuất hai mặt hàng hoặc cho hai hoạt động kinh tế. 
- Trên đường giới hạn khả năng sản xuất ta có thể tính được chi phí cơ hội của việc sản xuất mặt 
hàngnày bằng số đơn vị mặt hàng kia phải hy sinh. 
- Đường giới hạn khả năng sản xuất có thể sử dụng để mô tả tăng trưởng kinh tế. Các động lựccủa tăng 
trưởng kinh tế là sự gia tăng về lực lượng lao động, vốn và công nghệ mới. 
1.4.4. Ảnh hưởng của các quy luật kinh tế đối với sự lựa chọn kinh tế tối ưu 
1.4.4.1. Tác động của quy luật khan hiếm 
Sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai, sẽ không trở thành vấn đề nếu nguồn lực không 
bị hạn chế. Nếu có thể sản xuất một số lượng vô hạn về hàng hóa, dịch vụ hoặc nếu thỏa mãn được đầy đủ 
mọi nhu cầu của con người thì không cần đến việc kết hợp lao động, máy móc, thiết bị và nguyên vật liệu 
một cách tối ưu. Nhưng thực tế lại không như vậy, mọi hàng hóa đều không cho không, vì nguồn lực bị hạn 
chế, tài nguyên ngày một khan hiếm và cạn kiệt. Nhu cầu của người tiêu dùng ngày càng tăng, càng đa dạng 
và phong phú, nhất là về chất lượng hàng hóa và dịch vụ. Song tài nguyên để thỏa mãn nhu cầu trên lại có 
hạn, ngày một khan hiếm và cạn kiệt. Do vậy, vấn đề lựa chọn kinh tế tối ưu ngày càng phải đặt ra một cách 
nghiêm túc, gay gắt và thực hiện rất khó khăn. Đó là đòi hỏi tất yếu của nhu cầu ngày một tăng và tài nguyên 
ngày một khan hiếm. Các doanh nghiệp phải lựa chọn những vấn đề kinh tế cơ bản của mình trong giới hạn 
cho phép của khả năng sản xuất hiện có mà xã hội đã phân phối cho. 
1.4.4.2. Tác động của quy luật hiệu suất giảm dần 
Chúng ta có thể sử dụng đường giới hạn khả năng sản xuất để minh họa một trong những mối quan hệ 
kinh tế quan trọng nhất: quy luật hiệu suất giảm dần. Quy luật này nói lên mối liên hệ, không phải là giữa 
hai loại hàng hóa (thiết bị cơ bản và hàng tiêu dùng) mà là giữa đầu vào của quá trình sản xuất (như lao 
động) và đầu ra mà nó góp phần sản xuất ra. 
Quy luật hiệu suất giảm dần đề cập khối lượng đầu ra có thêm ngày càng giảm, khi ta liên tiếp đưa vào 
những đơn vị bằng nhau của một đầu vào biến đổi (như lao động) với một số lượng cố định của một đầu vào 
khác (như đất đai). Ví dụ, một trang trại trồng chè, nếu một người lao động tạo ra sản lượng 2.000 kg chè; 
khi tăng thêm một người lao động nữa thì sản lượng đạt 3.000 kg, liên tiếp tăng thêm một người lao động 
nữa thì sản lượng đạt 3.500 kg chè,... Như vậy, nếu tăng thêm một lao động thì sản lượng tăng lên 1.000 kg 
chè, nhưng tăng thêm một người lao động nữa thì sản lượng chỉ tăng lên có 500 kg chè. Đơn vị đầu vào thứ      lOMoAR cPSD| 60797905
hai (lao động) tăng lên sẽ làm tăng thêm đầu ra, nhưng sự tăng lên đầu ra này ít hơn đơn vị lao động thứ nhất. 
Nếu tăng thêm người lao động thứ ba thì đầu ra sẽ tăng lên ít hơn. 
1.4.3.3. Tác động của quy luật chi phí cơ hội tăng dần 
Nếu đường giới hạn năng lực sản xuất là một đường thẳng thì chi phí cơ hội để có thêm mặt hàng này 
khi từ bỏ mặt hàng kia sẽ không đổi. Đây là trường hợp chi phí cơ hội không thay đổi. 
Khi quy luật chi phí cơ hội ngày càng tăng phát huy tác dụng, nếu muốn có thêm một số lượng bằng 
nhau về một mặt hàng, xã hội phải hy sinh ngày càng nhiều số lượng một mặt hàng khác. Đường cong lõm 
của đường giới hạn khả năng sản xuất biểu thị quy luật chi phí cơ hội ngày càng tăng. 
Chúng ta thấy quy luật chi phí cơ hội ngày càng tăng có quan hệ với quy luật hiệu suất giảm dần, nhưng 
không phải là một. Chúng ta cũng nhận thấy rằng cùng với quy luật hiệu suất giảm dần, sản xuất thiết bị cơ 
bản và hàng tiêu dùng phải sử dụng các yếu tố sản xuất (như lao động, thiết bị, đất đai...) với những tỷ lệ 
khác nhau, nếu quy luật chi phí cơ hội ngày càng tăng là đúng. Chẳng hạn, để sản xuất lương thực cần đất 
đai và lao động; để sản xuất vải cần lao động, còn đất đai không đáng kể. Vì vậy, giả sử đất đai là cố định, ta 
giả định hy sinh lượng hàng hóa công nghiệp (vải) để đưa lao động sang sản xuất lương thực trên diện tích 
đất đai cố định. Tình huống này cho ta thấy rằng, quy luật hiệu suất giảm dần phát huy tác dụng. Như vậy, 
mỗi lao động càng có ít diện tích sản xuất và do đó đem lại ít sản phẩm và một đơn vị lương thực phải trả 
một lượng chi phí ngày càng cao tính về mặt hy sinh sản xuất vải. 
CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG 1 
1.Khái niệm Kinh Tế học? Phân biệt Kinh tế học vi mô, Kinh tế học vĩ mô? Mối quan hệ giữa kinh tế học vi 
mô và Kinh tế học vĩ mô? Phân biệt kinh tế học thực chứng và kinh tế học chuẩn tắc. 
2. Những vấn đề kinh tế cơ bản và các cơ chế giải quyết ba vấn đề kinh tế cơ bản 
3. Khái niệm nền kinh tế, các thành viên kinh tế, các cơ chế kinh tế phối hợp 
4. Bản chất của mô hình kinh tế và ứng dụng của mô hình kinh tế 
5. Nội dung cơ bản của lý thuyết lựa chọn 
6. Nội dung của chi phí cơ hội? Cho ví dụ. 
7. Nội dung cơ bản đường giới hạn khả năng sản xuất, cho ví dụ về đường giới hạn khả năng sản xuất. 
8. Ảnh hưởng của các quy luật kinh tế đối với sự lựa chọn kinh tế tối ưu: Tác động của quy luật khan hiếm; 
Tác động của quy luật hiệu suất giảm dần; Tác động của quy luật chi phí cơ hội tăng dần 
CHƯƠNG 2 CẦU – CUNG HÀNG HÓA 
Xã hội phải tìm ra cách thức để giải quyết các vấn đề: Sản xuất cái gì? Sản xuất như thế nào và sản xuất 
cho ai? Kinh tế thị trường cho thấy, thị trường và giá cả là căn cứ để phân bổ nguồn lực khan hiếm cho các 
yêu cầu sử dụng mang tính cạnh tranh. Chương này sẽ nghiên cứu thị trường chi tiết hơn với những vấn đề 
rất quan trọng đối với phân tích kinh tế.  2.1. Cầu  2.1.1. Khái niệm 
Cầu là số lượng hàng hóa mà người mua có khả năng và sẵn sàng mua ở mỗi mức giá khác nhau trong 
một thời gian nhất định. 
Cầu khác nhu cầu: Nhu cầu là những mong muốn và nguyện vọng vô hạn của con người. Sự khan hiếm 
làm cho hầu hết các nhu cầu không được thỏa mãn. Hoặc thỏa mãn nhu cầu này thì người ta lại hướng tới  nhu cầu khác.      lOMoAR cPSD| 60797905
Cầu bao gồm hai yếu tố là khả năng và sự sẵn sàng. Nếu bạn rất thích có một chiếc xe máy Dream II 
nhưng bạn không có tiền để mua, cầu của bạn về chiếc xe này bằng không. Trong khi người khác có tiền để 
mua chiếc xe này song anh ta lại không thích nó nên cũng không mua và cầu của người này đối với xe máy 
Dream II bằng không. Lượng cầu là lượng hàng hóa và dịch vụ mà người mua sẵn sàng hoặc có khả năng 
mua ở mức giá đã cho trong một thời gian nhất định. 
Như vậy, cầu là toàn bộ mối quan hệ giữa lượng cầu và giá. 
Nghiên cứu cầu hàng hoá người ta phân ra làm cầu cá nhân và cầu thị trường. 
- Cầu cá nhân: Là số lượng hàng hoá, dịch vụ mà một người có khả năng sẵn sàng mua ở các mức 
giákhác nhau trong một khoảng thời gian nhất định. 
- Cầu thị trường: Là tổng khối lượng hàng hoá dịch vụ mà mọi người có khả năng và sẵn sàng mua 
ởcác mức giá khác nhau trong một khoảng không gian và thời gian nhất định. Ta có: Cầu thị trường = Tổng  cầu cá nhân. 
2.1.2. Biểu cầu, luật cầu và đường cầu  a. Biểu cầu 
- Là tập hợp các số cầu vào một biểu ta có biểu cầu. 
- Số cầu: Là tương quan giữa giá cả (P) và lượng cầu (QD) trong một khoảng thời gian nhất định. 
Cầu của mỗi người tiêu dùng đối với một loại hàng hóa hay dịch vụ nào đó là cầu cá nhân. Cầu của tất 
cả người tiêu dùng về hàng hóa hay dịch vụ là cầu thị trường. Cầu thị trường là tổng hợp của tất cả cầu cá  nhân. 
-Biểu cầu cho thấy: Tương ứng với mỗi mức giá là một lượng cầu nhất định. Ví 
dụ: Cầu thị trường về xe máy Dream II ở thành phố Hà Nội như sau:  Giá  Lượng    cầu  (triệu đồng/chiếc)  (chiếc/tuần)  30  100    25  200    20  300    15  400    10  500    b.Đường cầu      lOMoAR cPSD| 60797905
- Biểu diễn biểu cầu trên đồ thị chúng ta có đường cầu. Đường cầu thể hiện mối quan hệ tỷ lệ nghịchgiữa 
giá cả và lượng cầu của một mặt hàng nào đó. 
- Là đường biểu diễn mối quan hệ giữa lượng cầu và mức giá. Các đường cầu nghiêng xuống dưới 
vềphía phải. Khi giá cả của hàng hóa hoặc dịch vụ giảm thì lượng cầu tăng lên. 
Hình 2.1a.Đường cầu về xe máy Dream II 
- Đường cầu biểu hiện hai hiệu quả. 
+ Hiệu quả thay thế: Khi giá cả của một loại hàng hoá tăng lên người tiêu dùng sẽ thay thế bằng một loại 
hàng hoá khác tương tự. 
+ Hiệu quả thu nhập: Với một mức thu nhập ổn định, khi giá cả giảm người tiêu dùng cảm thấy mình 
giàu có hơn và họ sẽ mua nhiều hàng hoá dịch vụ hơn trước. 
+ Đường cầu thị trường thường là một đường cong bởi vì nó được tập hợp từ đường của các cá nhân 
có tham gia thị trường. ở cùng một mức giá của hàng hoá dịch vụ, những cá nhân khác nhau, do thu nhập và 
sở thích khác nhau nên lượng cầu của họ không giống nhau. Do vậy đường cầu của mỗi cá nhân về hàng hoá 
dịch vụ cũng rất khác nhau. Theo đó, tập hợp theo chiều ngang đường cầu của tất cả các cá nhân có tham gia 
thị trường ta sẽ có đường cầu thị trường là đường cong. 
+ Đường cầu thị trường thường dốc xuống dưới về phía phải cho biết, khi giá của hàng hoá dịch vụ 
giảm xuống thì lượng cầu thị trường sẽ tăng lên. Tại sao lại có hiện tượng này? Có thể giải thích bằng ba lý  do sau đây:  P        D    Q 3 Q 2 Q 1 Q 
Hình 2.1b. Đường cầu thị trường hàng hoá dị   ch 
Ngoài hình dạng đường cầu phổ biến đã nghiên cứu trên, trong thực tế ta còn bắt gặp một số đường 
cầu đặc biệt (hay còn gọi là trường hợp ngoại lệ ). 
+ Tính dốc lên trên thể hiện mối quan hệ tuyến tính giữa giá cả P và lượng cầu QD tức là: khi P tăng 
hoặc giảm một lượng P 
P thì lượng cầu cũng giảm hoặc tăng tương ứng 2.2a  Q.   
+ Trường hợp 1 (hình 2.2b): đường cầu dốc lên trên về phía phải. Khi giá P tăng thì QP2.2b D cũng tăng  và 
D ngược lại. Một số hàng hoá 
đang thịnh hành về “Mốt” mặc dù giá tăng người tiêu dùng vẫn sử dụng nhiều hàng hoá đó, hoặc do ảnh 
hưởng yếu tố khách quan cầu hàng hoá chỉ xuất hiện trong thời điểm nhất định (ngày lễ, ngày tết) dù giá tăng 
cao người ta vẫn phải mua hàng hoá đó (hoa, cây cảnh ngày tếtD). 
+ Trường hợp 2 (hình 2.2c): đường cầu nằm ngang so với lượng cầu. Ở một mức giá thịnh hành P1 của 
thị trường thì người tiêu dùng sẽ mua vào bất cứ khối lượng nào (đường cầu thị trường dịch vụ: ăn, uống,QQ  vui chơi, giải trí…)    P2.2c  P 
+ Trường hợp 3 (hình 2.2d): đường cầu thẳng đứng. Dù giá cả tăng giảm nhưng không làm lượng cầu    D  2.2d  thay đổi (Q1).  D      lOMoAR cPSD| 60797905 P1  14  Q  Q  Q1 
Hình 2.2.Các dạng đường cầu đặc biệt  Ư  c. Luật cầu  
Nếu các yếu tố khác không thay đổi, khi giá cả hàng hoá nào đó giảm xuống thì lượng cầu hàng hoá đó 
tăng lên và ngược lại khi giá tăng lên thì lượng cầu giảm xuống. Mối quan hệ này gọi là luật cầu.  2.1.3. Hàm số cầu 
Số lượng hàng hóa hoặc dịch vụ được yêu cầu trong khoảng thời gian đã cho tăng lên khi giá của nó 
giảm xuống. Khi giá của một hàng hóa nào đó cao lên, người tiêu dùng sẽ tìm mua hàng hóa khác thay thế 
làm cho lượng cầu về hàng hóa này giảm. Mối quan hệ giữa lượng cầu và mức giá là mối quan hệ hàm số: 
Hàm cầu: QXD = f(PX) Trong  đó:  Q D
X : lượng cầu về hàng hóa X f(PX):  giá của hàng hóa X 
Cầu thị trường một loại hàng hoá dịch vụ phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, cho nên sự thay đổi của những 
yếu này sẽ ảmh hưởng trực tiếp đến cầu hàng hoá đó. Để nghiên cứu mối quan hệ giữa cầu hàng hoá và các 
yếu tố ảnh hưởng đến nó, người ta sử dụng một hàm số gọi là hàm số của cầu (hàm cầu). 
QD(x) = f(Px, I, Py, N, T, E...) 
Trong đó: QD(x): Lượng cầu hàng hoá x trong khoảng thời gian nhất định.   P(x): Giá hàng hoá x. 
 I: Thu nhập của người tiêu dùng 
 Py: Giá cả hàng hoá có liên quan   T: Thị hiếu   N: Quy mô dân số  E: Các kỳ vọng 
Do quan hệ giữa P và QD là quan hệ tỷ lệ nghịch do đó có phương trình đường cầu có dạng sau: 
QD = a – bP. Trong đó: QD là lượng cầu, P là giá bán, a, b là các hằng số 
2.1.4. Các yếu tố ảnh hưởng tới cầu 
2.1.4.1. Thu nhập của người tiêu dùng (I) 
Thu nhập là một yếu tố quan trọng xác định cầu vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng mua hàng của 
người tiêu dùng. Khi thu nhập tăng lên thì người tiêu dùng cần nhiều hàng hóa hơn và họ cũng có khả năng 
mua được nhiều loại hàng hóa hơn, dẫn đến sự tăng cầu đối với nhiều loại hàng hóa. Song, có những loại 
hàng hóa mà cầu về nó lại giảm khi thu nhập của người tiêu dùng tăng lên gọi là hàng hóa thứ cấp. 
2.1.4.2. Giá cả của hàng hóa (PX) 
Giá cả của hàng hóa tăng lên làm cho người tiêu dùng ít có khả năng mua hàng hóa hơn, và ngược lại. 
2.1.4.3. Giá cả hàng hóa liên quan (PY) 
Các hàng hóa liên quan được chia làm hai loại: hàng hóa thay thế và hàng hóa bổ sung.      lOMoAR cPSD| 60797905
- Hàng hóa thay thế là những hàng hóa có công dụng mà việc tiêu dùng hàng hóa này thày thế cho 
tiêudùng hàng hóa kia. Ví dụ, chè và cà phê là hai hàng hóa thay thế. Khi giá chè tăng lên, cầu về cà phê sẽ  tăng. 
- Hàng hóa bổ sung là hàng hóa khác nhau về công dụng mà khi tiêu dùng hàng hóa này phải tiêu 
dùnghàng hóa kia. Ví dụ, xe máy và xăng là hai hàng hóa bổ sung. Khi giá xăng tăng lên thì cầu về xe máy  sẽ giảm. 
2.1.4.4. Sở thích hay thị hiếu (T) 
Người tiêu dùng thường hướng tới việc tiêu dùng những hàng hóa mà họ thích. Với khả năng có hạn, 
người tiêu dùng sẽ ưu tiên cho những hàng hóa mà họ thích nhất hay thích hơn. Quảng cáo cũng đem đến 
những tác động đối với thị hiếu của người tiêu dùng. Vì thế, thị hiếu là một nhân tố khác hẳn các yếu tố khác 
của cầu. Qs = f (X1,X2,X3….,XN) 
2.1.4.5. Tác động của Chính phủ (G) 
Chính phủ đánh thuế vào người tiêu dùng sẽ làm giảm cầu và ngược lại, nếu được trợ cấp, cầu về hàng  hóa sẽ tăng lên.  2.1.4.6. Dân số (N) 
Dân số càng đông thì cầu về hàng hóa hoặc dịch vụ càng nhiều. Cầu về gạo của Việt Nam và Trung Quốc 
là một ví dụ. ở mỗi mức giá, lượng cầu về gạo của Trung Quốc lớn hơn cầu về gạo của Việt Nam vì quy mô 
dân số của Trung Quốc lớn hơn quy mô dân số của Việt Nam. 
2.1.4.7. Các kỳ vọng (E) 
Cầu về hàng hóa hoặc dịch vụ sẽ thay đổi theo sự mong đợi của người tiêu dùng. Nếu người tiêu dùng 
dự đoán và mong đợi giá hàng hóa nào đó trong tương lai sẽ giảm xuống thì cầu về hàng hóa đó hiện tại giảm 
và ngược lại, người tiêu dùng còn kỳ vọng về thu nhập, về thị hiếu, về giá cả hàng hóa liên quan... Những kỳ 
vọng này đều tác động đến cầu về hàng hóa hoặc dịch vụ hiện tại. 
2.1.5. Sự di chuyển và dịch chuyển của đường cầu 
Cầu hàng hóa dịch vụ phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, vì vậy khi các yếu tố này thay đổi sẽ làm đường 
cầu vận động theo hai trạng thái: hoặc là di chuyển hoặc là dịch chuyển. 
2.1.5.1. Sự di chuyển của đường cầu 
+ Khái niệm: Sự di chuyển của đường cầu là sự vận động dọc theo đường cầu hay là sự thay đổi các 
điểm trên cùng một đường cầu (thay đổi điểm cầu). 
Trên hình 2.3a cho thấy: trên đường cầu D, nếu đường cầu vận động từ điểm B đến A ta kết luận 
đường cầu di chuyển theo hướng tăng (hay còn gọi là tăng lượng cầu). Nếu vận động ngược lại từ điểm B về 
điểm C thì ta nói rằng đường cầu di chuyển theo hướng giảm (giảm lượng cầu). 
+ Yếu tố làm đường cầu di chuyển: Khi các yếu tố khác không đổi, nếu giá hàng hoá đang xét (PX) 
thay đổi thì đường cầu sẽ di chuyển. Nếu PX giảm từ P1 xuống P2 thì đường cầu di chuyển theo hướng tăng 
và làm tăng lượng cầu từ Q1 lên Q2; còn nếu PX tăng từ P2 lên P1 thì đường cầu dịch chuyển theo hướng giảm 
và làm giảm lượng cầu từ Q2 xuống Q1. Như vậy, giá của bản thân hàng hoá đang xét thay đổi chỉ làm thay 
đổi lượng cầu. Người ta gọi PX là biến nội sinh. 
Lượng cầu thay đổi theo hai hướng: hoặc là tăng, hoặc là giảm khi giá của hàng hóa hoặc dịch vụ thay 
đổi (với điều kiện các yếu tố khác giữ nguyên). 
Sự thay đổi của lượng cầu dẫn đến sự di chuyển dọc theo đường cầu.        lOMoAR cPSD| 60797905
Hình 2.3a: Sự di chuyển của đường cầu 
2.1.5.2. Sự dịch chuyển của đường cầu 
+ Khái niệm: Sự dịch chuyển của đường cầu là sự thay đổi toàn bộ đường cầu từ vị trí này sang vị trí  khác. 
Trên hình 2.3b nếu đường cầu dịch chuyển lên trên về phía phải (từ D sang D1) khi đó ta kết luận đường 
cầu D đó dịch chuyển theo hướng tăng (tăng cầu). Nếu D dịch chuyển xuống dưới về phía trái (từ D sang D2) 
khi đó ta kết luận ngược lại: D dịch chuyển theo hướng giảm (giảm cầu). 
+ Hệ quả xảy ra khi đường cầu dịch chuyển: Nếu đường cầu dịch chuyển tăng từ D sang D1 thì có hai 
hệ quả xảy ra: hoặc là tăng lượng cầu ở mọi mức giá, hoặc tăng giá ở mọi lượng cầu. Đó chính là sự tăng lên 
của cầu hàng hoá. Nếu đường cầu dịch chuyển giảm từ D sang D2 thì xảy ra hệ quả ngược lại. 
Cầu cũng thay đổi theo hai hướng: hoặc là tăng, hoặc là giảm khi có một trong các yếu tố hình thành cầu 
thay đổi còn các mức giá hàng hóa hoặc dịch vụ giữ nguyên. 
Cầu thay đổi làm cho đường cầu dịch chuyển lên trên hoặc sang phải (cầu tăng), xuống dưới hoặc sang  trái (cầu giảm).                 
 Hình 2.3b: Sự dịch chuyển của đường cầu  2.2. Cung hàng hóa  2.2.1. Khái niệm 
Cung là số lượng hàng hóa mà người bán có khả năng và sẵn sàng bán ở các mức giá khác nhau trong 
một thời gian nhất định. Cũng như cầu, cung bao gồm hai yếu tố cơ bản là khả năng và ý muốn của người 
bán. Người sản xuất có hàng để bán nhưng không muốn bán vì giá quá rẻ thì không có cung. Tương tự, khi 
hàng hóa khan hiếm, giá cao, người sản xuất rất muốn bán song sản xuất đáp ứng không kịp thì cũng không  có cung. 
Lượng cung là lượng hàng hóa hoặc dịch vụ mà người bán sẵn sàng và có khả năng bán ở mức giá đã 
cho trong một thời gian nhất định.  - Cung cá nhân: 
Là số lượng hàng hoá mà một người có khả năng bán trong một khoảng thời gian nhất định. -  Cung thị trường: 
 Là tổng khối lượng hàng hoá mà mọi người có khả năng bán trong một khoảng thời gian và không gian  nhất định. 
Ta có: Cung thị trường = Tổng cung cá nhân 2.2.2. 
Biểu cung đường cung và luật cung  a.Biểu cung 
Là một bảng miêu tả số lượng hàng hoá hoặc dịch vụ mà người bán sẵn sàng và có khả năng bán ở các  mức giá khác nhau. 
+ Tập hợp các số cung vào một biểu ta có biểu cung. 
+ Số cung phản ánh mối quan hệ giữa giá cả hàng hoá (P) và lượng hàng hoá bán ra (QS). Trong kinh tế 
thị trường, việc cung ứng hàng hoá phụ thuộc vào giá cả hàng hoá: Ứng dụng với mỗi mức giá ta có lượng      lOMoAR cPSD| 60797905
cung cụ thể. Như vây, lượng cung chỉ ra rằng: Tại một mức giá nào đó thì những người sản xuất sẽ bán ra thị 
trường một lượng hàng hoá là bao nhiêu? 
Biểu cung cho thấy: Tương ứng với mỗi mức giá là một lượng cung nhất định. Ví 
dụ: Cung thị trường về xe máy Dream II ở thành phố Hà Nội như sau: 
Giá (Triệu đồng/chiếc) 
Lượng cung (chiếc/tuần)  30  500  25  400  20  300  15  200  10  100  b.Đường cung 
- Là đường biểu diễn mối quan hệ giữa lượng cung và mức giá. Các đường cung dốc lên về phía phải. 
Khi giá cả hàng hóa hoặc dịch vụ tăng thì lượng cung tăng lên.         
Hình 2.4.Đường cung về xe máy Dream II 
+ Đường cung thị trường thường là đường cong bởi vì nó được tập hợp từ đường cung cá nhân các 
nhà sản xuất có tham gia thị trường. ở cùng một mức giá, các nhà sản xuất có điều kiện khác nhau sẽ bán ra 
một lượng không giống nhau.  P  S          Q 1 Q 2 Q 3 Q 
Hình 2.5 Đường cung thị trường hàng hoá dịch  
+ Đường cung thị trường dốc lên trên về phía phải cho biết, khi giá cả tăng lên các nhà sản xuất sẽ bán 
ra một lượng nhiều hơn trước. Tại sao lại như vây? Vấn đề ở đây là lợi nhuận, nếu chi phí sản xuất ra một 
đơn vị hàng hoá không đổi, khi giá cả của hàng hoá tăng lên đồng nghĩa với việc làm tăng thêm lợi nhuận 
cho các nhà sản xuất. Chính điều này đó tạo ra động lực để các nhà sản xuất mở rộng quy mô và làm tăng 
lượng cung trên thị trường. Mặt khác, khi giá cả tăng sẽ lôi kéo thêm một số nhà sản xuất tham gia vào thị 
trường và làm cho lượng cung thị trường tăng lên. 
Ngoài đường cung phổ biến đã nghiên cứu trên, trong thực tế ta cũng gặp một số trường hợp ngoại lệ 
của đường cung (đường cung đặc biệt).      lOMoAR cPSD| 60797905 P  6.2a  S  P  6.2 b  S  Q  Q  P  c 6.2  P      S  6.2 d  S  Q  Q 
Hình 2.6 Các dạng đường cung đặc biệt 
+ Trường hợp 1 (hình 2.6.a): Đường cung tuyến tính dốc lên trên thể hiện mối quan hệ tuyến tính giữa 
P và lượng cung QS tức là: khi P tăng hoặc giảm một lượng P thì lượng cung cũng tăng hoặc giảm tương  ứng một lượng Q. 
+ Trường hợp 2 (hình .2.6b): Đường cung dốc xuống dưới về phía phải. Khi giá P giảm thì lượng 
cung QD sẽ tăng và ngược lại. Một số hàng hoá là loại hàng nông sản tươi sống, vào vụ thu hoạch rộ, nếu 
không tiêu thụ ngay sẽ giảm phẩm cấp nên mặc dù giá giảm người sản xuất vẫn phải bán sản phẩm đó với 
lượng nhiều hơn để thu hồi vốn; hoặc một số hàng hoá đó lạc hậu về “mốt” nên người ta vẫn phải bán nó cho  dù giá giảm 
+ Trường hợp 3 (hình 2.6c): Đường cung nằm ngang so với lượng cung. Ở một mức giá thịnh hành 
P1 của thị trường thì người sản xuất sẽ bán ra bất cứ khối lượng nào (đường cung thị trường dịch vụ: ăn, 
uống, vui chơi, giải trí…) 
+ Trường hợp 4 (hình 2.6d): Đường cầu thẳng đứng. Dù giá cả tăng giảm nhưng không làm lượng 
cung thay đổi (Qs1). Đây là hình ảnh đường cung đất đai trong dài hạn, vì đất đai là sản phẩm do thiên nhiên 
ban tặng cho loài người, con người không thể sản xuất ra đất nên về lâu dài tổng diện tích đất đai là cố định, 
theo đó sự thay đổi giá thuê đất sẽ không ảnh hưởng gì đến lượng cung đất đai. c. Luật cung 
Nếu các yếu tố khác không thay đổi khi giá cả hàng hoá dịch vụ nào đó tăng lên thì lượng cung hàng hoá 
dịch vụ đó trên thị trường cũng tăng lên và ngược lại. 
Số lượng hàng hóa được cung ứng trong khoảng thời gian nhất định tăng lên khi giá của nó tăng lên và 
ngược lại. Khi giá hàng hóa cao hơn, nếu chi phí đầu vào không thay đổi, lợi nhuận dành cho nhà sản xuất 
cao hơn. Họ sẽ sản xuất nhiều hơn và thị trường sẽ có thêm các doanh nghiệp khác tham gia sản xuất cung 
ứng hàng hóa hoặc dịch vụ này.  2.3.Hàm số cung 
Như đã phân tích ở trên. Cung hàng hoá chịu sự tác động của rất nhiều yếu tố xác định cung, có thể viết 
được dưới dạng toán học như sau: 
QS(x) = f (Px,C, R, G, I, E...) 
Trong đó: QS(x): Là lượng cung hàng hoá x Px:  Giá cả hàng hoá x 
C: Giá cả các yếu tố đầu vào 
R: Trình độ công nghệ và kỹ thuật 
G : Các chính sách vĩ mô của Chính phủ 
I: Số lượng người sản xuất      lOMoAR cPSD| 60797905 E: Các kỳ vọng 
Ta có phương trình đường cung có dạng sau: 
 QS = a + bP Trong đó: + QS là lượng cung.   + P là giá bán   + a, b là các hằng số 
2.2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến cung 
2.2.4.1. Giá cả hàng hóa (Px) 
Giá cả hàng hoá là biến nội sinh, có ảnh hưởng trực tiếp đến lượng cung hàng hoá, dịch vụ nào đó trên  thị trường. 
Khi các yếu tố khác không thay đổi, nếu giá cả hàng hoá tăng thì nhà sản xuất sẽ cung hàng hoá nhiều 
hơn trên thị trường để tăng tổng doanh thu và ngược lại. 
2.2.4.2. Giá của các yếu tố sản xuất (Pf) 
Giá các yếu tố đầu vào có ảnh hưởng đến khả năng cung sản phẩm. Nếu giá các yếu tố đầu vào giảm 
xuống, chi phí sản xuất cho một đơn vị sản phẩm giảm dẫn đến xu hướng tăng cung và ngược lại  
Giá cả các yếu tố đầu vào được coi là yếu tố bên ngoài (biến ngoại sinh) có ảnh hưởng trực tiếp đến 
lượng cung hàng hoá dịch vụ nào đó. 
Nếu giá cả các yếu tố đầu vào giảm sẽ làm cho chi phí sản xuất giảm, khi chi phí giảm sẽ làm cho cung 
tăng lên, đường cung sẽ dịch chuyển về phía phải và ngược lại. 
2.2.4.3. Công nghệ (T) 
Công nghệ là một yếu tố góp phần làm tăng năng suất, giảm chi phí lao động trong quá trình sản xuất 
sản phẩm. Sự cải tiến công nghệ làm tăng cung. 
 Trình độ công nghệ và kỹ thuật là yếu tố quan trọng góp phần nâng cao năng suất lao động, giảm chi phí 
lao động trong quá trình chế tạo sản phẩm. 
Nếu sử dụng công nghệ hiện đại, kỹ thuật cao thì lượng cung sẽ tăng. Sự cải tiến công nghệ làm cho 
đường cung dịch chuyển về phía phải, nghĩa là làm tăng khả năng cung ứng. Chẳng hạn như khi sử dụng 
công nghệ hiện đại – tự động hoá, năng suất lao động tăng nhiều hơn so với lao động thủ công và cung tăng  lên. 
2.2.4.4. Chính sách của Chính phủ (G) 
Trong thực tế việc cung ứng hàng hoá, dịch vụ còn chịu ảnh hưởng các chính sách vĩ mô của Chính phủ 
như: chính sách giá cả, chính sách đầu tư, chính sách tiền tệ... mà đặc biệt là chính sách thuế. 
Chính sách thuế của Chính phủ có ảnh hưởng lớn đến quyết định sản xuất của các hãng do đó ảnh hưởng 
đến cung ứng sản phẩm hàng hoá. Mức thuế cao sẽ làm cho phần thu nhập còn lại của người sản xuất ít đi và 
họ không có ý muốn cung hàng hoá nữa và ngược lại mức thuế thấp sẽ khuyến khích các hãng mở rộng sản 
xuất. Kích thích SX phát triển do đó sẽ làm cho lượng cung tăng. 
Nếu Chính phủ tăng thuế đối với các nhà sản xuất, cung hàng hóa hoặc dịch vụ giảm và ngược lại. Tương 
tự, Chính phủ có thể trợ cấp đối với một số ngành hoặc doanh nghiệp để khuyến khích tăng cung. 
2.2.4.5. Số lượng người sản xuất (N) 
Số lượng người sản xuất càng nhiều thì khả năng cung ứng càng lớn. 
2.2.4.6. Các kỳ vọng (E) 
Người sản xuất mong đợi vào sự thay đổi của giá hàng hóa, giá yếu tố sản xuất, tiến bộ công nghệ và các 
chính sách của Chính phủ. Vì thế, lượng cung hiện tại tăng hoặc giảm tùy thuộc vào sự mong đợi này. 
2.2.5. Sự di chuyển và dịch chuyển của đường cung 
2.2.5.1. Sự di chuyển của đường cung 
+ Khái niệm: Sự di chuyển của đường cung là sự vận động dọc theo đường cung hay là sự thay đổi 
các điểm trên cùng một đường cung (thay đổi điểm cung). Trên đồ thị hình 2.7a, nếu đường cung S vận động 
từ điểm F đến H, khi đó người ta nói rằng: đường cung đó di chuyển theo hướng tăng (hay còn gọi là tăng