Bài giảng phương pháp nghiên cứu khoa học TDTT | Đại học Thái Nguyên

Lý luận về nghiên cứu khoa học. Các khái niệm về khoa học và nghiên cứu khoa học. Khái niệm khoa học. Đặc điểm về khoa học hiện đại. Tài liệu giúp bạn ôn tập, tham khảo và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

lOMoARcPSD| 45349271
1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TDTT HÀ NỘI
TẬP BÀI GIẢNG
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC THỂ DỤC THỂ THAO
Biên soạn: GVCC. PGS. TS. Bùi Quang Hải
TS. Nguyễn Thu Nga
Ths. Lê Thị Thu Thúy
lOMoARcPSD| 45349271
2
Hà Nội, 12-2021
PHẦN I. LÝ LUẬN VỀ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CHƯƠNG I CÁC KHÁI
NIỆM VỀ KHOA HỌC VÀ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 1.1. KHÁI NIỆM KHOA
HỌC
Khoa học hệ thống các tri thức về các quy luật khách quan của tự nhiên,
hội duy được ch lũy trong quá trình phát triển của lịch sloài người nhằm
phát hiện, giải thích những quy luật khách quan của các hiện tượng.
Nhưng không phải mọi tri thức đều khoa học. Những tri thức do con người
thu được qua quan sát thông thường, đơn giản, mặc dầu tác dụng rất quan trọng
đối với cuộc sống nhưng không thể gọi khoa học được, chúng không chỉ ra
được bản chất và mối quan hệ lẫn nhau giữa các hiện tượng. Do đó, chỉ những
tri thức vạch ra bản chất, mối liên hệ lẫn nhau nguyên nhân xuất hiện các hiện
ợng, khả năng dự báo sự phát triển của chúng trong tương lai mới khoa học.
Tính chính xác của các tri thức khoa học chỉ được khẳng định khi chúng được kiểm
nghiệm trong thực ễn.
Mục đích và chức năng quan trọng và cơ bản của khoa học nhận thức thế
giới khách quan. Khoa học là để trc ếp giải thích các khía cạnh hiện thực của tất
cả các hiện ợng trong tự nhiên, hội và duy, đồng thời tác động lên chúng để
mang lại những kết quả hữu ích cho hội. Do đó, sự phát triển nhanh hay chậm
của xã hội phần lớn bị chi phối bởi sự phát triển và ến bộ của khoa học. Khoa học
hiện đại là động lực cho sự ến bộ của nền kinh tế - xã hội. Nó xác định quy mô và
nhịp độ phát triển của sự ến bộ đó. Khoa học ứng dụng vào sản xuất sẽ làm tăng
trưởng năng suất lao động, nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm.
Áp dụng khoa học vào trong các hoạt động thể dục thể thao sẽ góp phần tăng
ờng sức khỏe và thể lực cho người tập, nâng cao thành ch thể thao cho vận
động viên, tối ưu hóa quá trình quản , nâng cao chất lượng, độ bền vẻ đẹp cho
các đề tài xây dựng và hàng hóa thể thao.
1.2. ĐC ĐIỂM CỦA KHOA HỌC HIỆN ĐI
Khác với trước đây, ngày nay khoa học hiện đại hàm chứa những đặc điểm
sau:
- Trước hết cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại đã bước sang một giai
đoạn mới phát triển như bão. Chúng ta đang chứng kiến một giai đoạn mới
của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ 4.0 phát triển với nhịp độ nhanh, đột
phá. Lịch sử chưa bao gidiễn ra một nhịp độ phát triển khoa học nhanh đến như
vậy. Chỉ 40 năm lại đây khối lượng tri thức khoa học của nhân loại đã đạt được bằng
75% khối lượng tri thức được ch lũy từ trước đó.
lOMoARcPSD| 45349271
3
Đặc điểm của hoạt động khoa học trong 270 năm lại đây đã tăng theo quy
luật siêu tốc. Cứ 10 - 15 năm tất cả các chỉ êu đều tăng gấp đôi.
Sự phát triển bão của khoa học còn thể hin chđã nảy sinh những bộ
môn khoa học hướng vào những vấn đề mới mẻ và ngày càng xuất hiện các ngành
mới, hướng mới vấn đề mới. Đã xuất hiện việc tách một ngành khoa học thành
2, 3 và thậm chí còn nhiều hơn các ngành mới. Chẳng hạn gần đây đã xuất hiện các
khoa học mới như: trí tuệ nhân tạo; thực tế ảo, thực tại ảo; điện toán đám y; tự
động hóa....
- Một đặc điểm không kém phần quan trọng là khoa học đã trở thành lực lượng sản
xuất trực ếp, là cơ sở của sự ến bộ kỹ thuật và là một lĩnh vực có hiệu quả nht,
đảm bảo cho hiệu quả kinh tế cao nhất nhờ áp dụng các ến bộ khoa học. dụ,
riêng ngành nông nghiệp nước ta 1/3 giá trị sản lượng gia tăng nhờ sự đóng
góp của khoa học - công ngh.
Hiện đang xuất hiện xu thế ngày càng gia tăng mức độ ứng dụng các thành
tựu khoa học vào sản xuất đời sống hội. Nhờ những chương trình cấp nhà
ớc, cấp ngành với sự tham gia của nhiều nhà khoa học, các viện trung tâm
nghiên cứu, các trường Đại học, khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất hội
đã tạo nên những sự chuyển biến sâu sắc trong mối quan hệ giữa khoa học với sản
xuất. Mối quan hệ này biểu hin ch:
+ Nhiều ngành sản xuất mới quy trình công nghệ mới trước hết bắt
nguồn từ các cơ sở khoa học (nguyên liệu mới, năng lượng mới...);
+ Rút ngắn thời gian từ khâu nghiên cứu đến khâu ứng dụng các thành tựu
khoa học vào sản xuất. Trước đây thời gian đó phải kéo dài hàng chục năm, nhưng
ngày nay, như Lazer thì chỉ sau ít năm đã được áp dụng, máy vi nh vài ba tháng đã
thay đời mới và lúc đó đồ cũ đã trở nên lỗi thời, lạc hậu;
+ Trong các cơ sở sản xuất (nhà máy, hợp tác xã...) và đơn vsự nghiệp cũng
ến hành và phát triển các đề tài nghiên cứu khoa học, trong đó sự hợp tác ny
càng chặt chẽ của các nhà khoa học với các kỹ sư, công nhân và viên chức nhà nước;
+ Trình độ tay nghề tri thức khoa học của công nhân, cán bộ kỹ thuật, cũng
như trình độ dân trí được nâng lên tạo điều kiện để ứng dụng hiệu quả các tri
thức khoa học vào thực ễn và đời sống.
Vì vậy, một hình thức nhận thức của hội, khoa học - công nghệ cùng với
giáo dục - đào tạo đã được Đảng Nhà nước ta xem quốc sách hàng đầu,
động lực phát triển kinh tế - hội, nhân tố chyếu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
và củng cố quc phòng an ninh, điều kiện cần thiết để givững độc lập dân tộc
y dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Nhưng khoa học - công nghệ ớc ta phát triển chậm, chưa tương xứng với
ềm năng sẵn có, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển trong thời kỳ công nghiệp
hóa hiện đại hóa, còn thua kém so với nhiều nước trong khu vực. Nhiều vấn đề đặt
ra trong công cuộc đổi mới chưa có sự giải đáp thỏa đáng về phương diện luận.
lOMoARcPSD| 45349271
4
Nhiều vấn đề kinh tế - hội thiếu những dự báo khoa học. Tình trạng chậm trễ
trong một số lĩnh vực lý luận và khoa học xã hội chưa được khắc phục.
Đối với Ngành Thể dục Thể thao, đặc biệt đối với cán bộ khoa học, trong
đó có đội ngũ giáo viên thể dục thể thao, không ến hành nghiên cứu khoa học thì
khó thể đạt được những thành ch đáng ktrong công tác thể dục thể thao, đặc
biệt trong huấn luyện thể thao, phát triển thể chất, trong đào tạo cán bộ tổ
chức quản lý... sở dĩ như vậy là vì:
Một: Nhiều vn đề về thể dục thể thao còn chưa được nghiên cứu.
Hai: Một số vấn đề tuy nghiên cứu nhưng chưa giải quyết đến nơi đến
chn hoặc nghiên cứu còn tủn mủn và tản mạn.
Ba: Một số vấn đề do cuộc sống thể dục thể thao đặt ra ớc ta hoàn toàn
khác với các nước (con người Việt Nam, tchức quản , kinh tế ththao...), nhất
là ở thời kỳ công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
Do đó, khoa học thể dục thể thao được đặt ra như là một trong những điu
kiện quan trọng hàng đầu để giải quyết thành công nhiệm vụ giáo dục thể chất,
huấn luyện thể thao nói riêng và thể dục thể thao nói chung.
Vì vậy, những người làm công tác thể dục thể thao đặc biệt huấn luyện
viên, giáo viên thể dục thể thao không những chỉ giỏi về lý luận, nắm vững phương
pháp và thành thạo thực hành, mà còn phải là một cán bộ khoa học mẫn cán.
Với sinh viên, trong thời gian ngồi trên ghế nhà trường ngoài việc phải học
tốt, tập luyện tốt biết phương pháp thdục thể thao, còn phải rèn luyện để
kỹ năng tổ chức và ến hành nghiên cứu khoa học.
1.3. KHOA HỌC LÀ HỆ THỐNG CÁC TRI THỨC
Theo V.I.Lênin, lộ trình nhận thức tquan sát sinh động đến duy tru
ợng và từ duy trừu ợng đến thực ễn. Quá trình nhận thức bao giờ cũng bắt
đầu từ việc thu nhận các sự kiện. Bản thân sự kiện chưa phải khoa học, song theo
I.P.Paplop, nó không khí của nhà khoa học. Vì vậy, sự kiện là một bộ phận không
tách rời của các tri thức khoa học nếu như nó được thu thập và khái quát một cách
có hệ thống.
Tiến hành hệ thống hóa và khái quát hóa skiện theo cách trừu tượng đơn
giản nhất, đó khái niệm. một thành phần cấu trúc quan trọng của khoa học.
Những khái niệm lớn hơn, nghĩa là sự trừu tượng chung nhất gọi là phân loại.
Một dạng quan trọng của các tri thức là các nguyên tắc (định , quy tắc). Các
nguyên tắc chính vị trí xuất phát của một lĩnh vực khoa học nào đấy. Chúng
dạng sơ khai của việc hthống hóa các tri thức.
Khâu quan trọng nhất trong hệ thống các tri thức khoa học các quy lut
khoa học. Các quy luật khoa học phản ánh những mối quan hbản chất nhất, n
định nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Một hình thức nh khái quát và hệ thống cao nhất gọi học thuyết. Hc
thuyết luận về các kinh nghiệm và thực ễn đã được khái quát đhình thành
các nguyên tắc phương pháp khoa học làm sở để ến hành khái quát, nhận
lOMoARcPSD| 45349271
5
thức các quá trình và hiện tượng, phân ch ảnh hưởng của các nhân tố khác nhau
lên các quá trình, hiện tượng đó và đề xuất các kiến nghị áp dụng vào thực ễn.
Khi các nhà nghiên cứu chưa đưa ra những minh chứng đáng n cậy, thì họ
sử dụng githuyết khoa học. Githuyết khoa học nhận định cần được chứng
minh. Giả thuyết nhận định bộ, kết luận giả định của nghiên cứu, hoặc
luận điểm cần chứng minh của nghiên cứu. Mendeleev nói: " Không có một nghiên
cứu nào không phải đặt giả thuyết".
Githuyết khoa học thường được xem như một sự diễn đạt khai, một
phương án giả định về các quy luật sẽ được chứng minh. Nhiều quy luật khoa học
học thuyết đã được hình thành trên cơ sở các giả thuyết này.
Một hình thức thực hiện và phát triển khoa học là nghiên cứu khoa học.
nghiên cứu các hiện tượng và các quá trình, phân ch ảnh hưởng các nhân tố khác
nhau tới các quá trình hiện tượng đó, cũng như nghiên cứu mối quan hệ gia
các hiện tượng và giữa các quá trình nhằm đi đến các quyết định có đủ sức thuyết
phục và có lợi cho khoa học và thực ễn với hiệu quả tối đa.
Nghiên cứu khoa học có đối tượng (khách thể) của nó. Đối tượng nghiên cứu
thể thế giới vật chất (ví dụ: dụng cụ thiết bị th thao, sân bãi, nhà tập...),
hiện tượng (ví dụ: mệt mỏi, hứng thú...), thuộc nh (ví dụ: năng lực làm việc, trình
độ tập luyện...), cũng như mối liên hệ giữa các hiện tượng và thuộc nh.
Mục đích nghiên cứu khoa học là: dựa trên cơ scác nguyên tắc và phương
pháp nhận thức đã được hoàn thiện trong khoa học xác định đối tượng cụ th,
nghiên cứu toàn diện và khách quan cấu trúc, đặc nh và mối quan hgiữa chúng
để gặt hái những kết quả hữu ích cho hoạt động con người, trên sở ứng dụng
các ến bộ khoa học vào thực ễn.
Phương pháp cách thức nghiên cứu dưới góc độ thuyết hoặc thực
nghiệm các hiện ợng hay qtrình nào đấy. Phương pháp công cụ để giải quyết
nhiệm vụ chyếu của khoa học (chỉ ra các quy luật hoạt động khách quan). Phương
pháp xác định sự cần thiết và vai trò của việc vận dụng cách quy nạp hoặc phép suy
diễn, phân ch và tổng hợp, so sánh các kết quả nghiên cứu lý luận và thực nghiệm.
Phương pháp nghiên cứu phương pháp nghiên cứu chung phương pháp
nghiên cứu chuyên biệt. Phương pháp nghiên cứu chung gồm phương pháp duy vt
biện chứng và phương pháp toán học. Một nhà khoa học, bất kỳ thuộc lĩnh vực nào,
cũng phải nắm chắc những nguyên lý triết học Mác - Lênin làm cơ sở phương pháp
luận cơ bản cho nghiên cứu của mình. Đồng thời, cũng cần phải biết phương pháp
toán học, đặc biệt phương pháp toán học thống kê. Khoa học sẽ càng sáng tỏ nếu
như những phương pháp nghiên cứu chất lượng đưc ứng dụng các phương pháp
nghiên cứu sợng để xử lý.
Phương pháp nghiên cứu chuyên biệt nhằm giải thích nh chất của các quá
trình hoạt động của một hiện tượng nào đấy.
Dựa vào những phương pháp nghiên cứu chung và phương pháp nghiên cứu
chuyên biệt, nhà khoa học sẽ thu được những câu trlời là bắt đầu nghiên cứu từ
lOMoARcPSD| 45349271
6
cái gì, xử lý như thế nào đối với các sự kiện, làm thế nào để khái quát và bằng cách
nào để đi đến kết luận.
Hệ phương pháp, đó tổng hợp các phương pháp, biện pháp, thủ đoạn, trình
tự của chúng các phương án được chấp nhận khi ến hành nghiên cứu khoa hc.
Hệ phương pháphệ phương pháp chung và hệ phương pháp chuyên biệt.
Hệ phương pháp chung những nguyên của phép duy vật biện chứng, học thuyết
Mác - Lênin Tư ởng Hồ Chí Minh nhằm xác định các quy luật phát triển nhận
thức nói chung. Còn hphương pháp chuyên biệt dựa trên các quy luật của các
khoa học cụ th dựa trên đặc điểm nhận thức các hiện tượng cụ thể. Nó quan
hệ mật thiết với các nguyên tắc quy luật của khoa học cụ thể, với các phương
pháp nghiên cứu chuyên biệt.
Các nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra trong khi giải quyết các vấn đề khoa học đóng
vai trò rất quan trọng trong nghiên cứu khoa học. nhiệm vụ thực nghiệm và có
nhim vụ lý luận.
Nhiệm vụ thực nghiệm nhằm giải thích và trình bày chính xác, cũng n
nghiên cứu tỷ mỷ các sự kiện khác nhau của các hiện tượng quá trình. Trong
nghiên cứu khoa học, nhiệm vụ thực nghiệm được giải quyết bằng các phương pháp
nhận thức khác nhau như quan sát và thực nghiệm.
Quan sát phương pháp nhận thức không làm ảnh hưởng đến đối ợng
nghiên cứu, trong đó sử dụng việc ghi chép, đo đạc các thuộc nh và nh chất thay
đổi của đối tượng. dụ: quan sát các hoạt động thi đấu quan sát diễn biến trạng
thái vn động viên trong một buổi tập...
Thực nghiệm phương pháp nhận thức nh thực nghiệm chung nhất,
trong đó không những ến hành quan sát đo đạc, mà còn ến hành tổ chức lại
để chi phối tác động đến đối tượng nghiên cứu... Phương pháp y thể làm
rõ ảnh hưởng của nhân tố này tới nhân tố khác.
Các phương pháp thực nghiệm đóng vai trò quan trọng trong nghiên cứu
khoa học. Chúng không chỉ điều kiện đkhẳng định các sluận thiết yếu,
mà thường là hình thành những phát minh và nghiên cứu khoa học mới.
Nhiệm vụ lý luận nhằm nghiên cứu để m ra nguyên nhân, mối quan hệ ph
thuộc và sự liên hệ cho phép xác định hành vi đối tượng, làm rõ cấu trúc, đặc nh
của dựa trên các nguyên tắc phương pháp khoa học đã được sáng tỏ. Nhờ
các tri thức thu được người ta hình thành các quy luật hoàn thiện lý luận, kiểm tra
sự kiện... Các nhiệm vụ luận được hình thành nvậy cũng thể kiểm định bằng
thực nghiệm.
Khi giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu khoa học, phương pháp nhận thức
logic đóng vai trò quan trọng. Nó cho phép lý giải các hiện tượng, quy trình, đưa ra
các kiến nghị ý tưởng khác nhau, xây dựng ltrình giải quyết vấn đề một cách
chính xác trên cơ sở các sự kiện thu được và các kết quả nghiên cứu thực nghiệm.
Như vậy, hệ thống các tri thức dưới dạng khoa học bao gồm các sự kiện, khái
niệm, nguyên tắc, giả thuyết, quy luật và học thuyết mà thông qua chúng cho phép
lOMoARcPSD| 45349271
7
ên đoán được các sự kiện và điều khiển được các mối quan hhội, quan hệ sản
xuất và sức sản xuất.
Khoa học của xã hội, mặc dầu thừa nhận sự sáng tạo to lớn của nhà khoa
học. C.Mác nói: xét theo sự phát sinh, phát triển và sử dụng thì khoa học của toàn
xã hội. Vì vậy, tất cả các phát minh khoa học suy cho cùng đều kết quả lao động
của xã hội. Ngoài ra, yêu cầu quan trọng nhất đối với mọi tri thức khoa học phải
ý nghĩa trong thực ễn, nghĩa chúng nh kiểm chứng tái hiện. Đồng thời,
mọi tri thức khoa học luôn luôn nh n định cao. Các tri thức khoa học nhanh
chóng trở nên lỗi thời chứng tỏ chúng không được nghiên cứu một cách đầy đủ,
khái quát còn nông cạn, dự báo thiếu cơ sở khoa học. Vì vậy, nh khoa học của các
kết luận khái quát càng cao, càng n cy thì kết quả nghiên cứu khoa học càng
cao. Các kết luận và khái quát đó phải là ền đề cho những đề tài nghiên cứu mới.
1.4. PHÂN LOẠI KHOA HỌC
Vấn đề phân loại, nghĩa m ra những đặc điểm chung và mối quan hệ lẫn
nhau giữa các khoa học, từ xưa đã được chú ý.
Quy nạp lại, hiện nay tồn tại phổ biến hai cách phân loại khoa học. Cách thứ
nhất cách phân loại theo lối hình thức, chủ quan, trong đó khẳng định giữa các
khoa học những ranh giới nghiêm ngặt. Thực tế phát triển của khoa học hoàn
toàn phủ nhận cách phân loại ktrên. Cách thứ hai, đó là cách phân loại khoa học
đúng đắn hơn, trong đó người ta dựa trên nguyên tắc khách quan, thừa nhận các
khoa học mối quan hệ với nhau nhất định. Theo nguyên tắc này, mỗi khoa học
riêng biệt, một dạng vận động nhất định hay một hình thái nhất định của vật chất
tổng thể các khoa học phải phản ánh tất cả các dạng vn động đó trong mối liên
hệ qua lại giữa chúng.
Ph. Ănghen trong phép biện chứng của tự nhiên, đã đề ra hai nguyên tắc
chung của phép biện chứng trong phân loại các khoa học - nguyên tắc khách quan
nguyên tắc phát triển. Riêng nguyên tắc phát triển, không cho phép sgián
đoạn giữa các khoa học, giữa chúng nảy sinh sự chuyển ếp khoa học
nhiệm vụ phát hiện nghiên cứu, nghĩa phải m ra những cái cầu nối” giữa các
khoa học. Hai nguyên tắc y đóng vai trò như một lợi khí của nhận thức, một
phương pháp để phòng, giúp các nhà bác học khỏi đi vào một sự chuyên môn hoá
quá hẹp và khuynh hướng một chiều.
Dựa vào những nguyên tắc ktrên, theo viện B.Kêđơrốp đã phân loại khoa
học gồm:
1- Khoa học triết học,
2- Khoa học toán học.
3- Khoa học tự nhiên và khoa hc kỹ thuật.
4- Khoa học xã hội.
Ngày nay, các khoa học được chia thành 3 loại một cách hợp lý hơn, mặc dù
không nảy sinh những vấn đtrái với các nguyên tắc phân loại khoa học. Theo đó
các khoa học được chia thành ba nhóm lớn khoa học xã hội nhân văn, bao gồm
lOMoARcPSD| 45349271
8
cả triết học, khoa học tự nhiên (bao gồm cả toán) và khoa học kỹ thuật. Trong mỗi
nhóm, người ta còn chia ra những thành phần nhỏ gọi là môn khoa học.
Khoa học hội nhân văn khoa học nghiên cứu các quy luật về sự vận
động phát triển của xã hội duy như triết học, chính trị kinh tế học, văn học,
tâm lý học giáo dục học... Thể dục thể thao nói chung là thuộc nhóm khoa học này.
Khoa học tự nhiên khoa học nghiên cứu các quy luật về sự vận động
phát triển của thế giới vật chất gồm: toán học, vật học, hoá học, động vật học,
thc vật học, giải phẫu học, sinh lý người...
Bảng 1. Phân loại khoa học
(Theo B.Kêđơrốp)
KHOA HỌC - Phép biện chứng
TRIẾT HỌC - Lôgich học
KHOA HỌC - Lôgich toán học
TN HỌC - Toán học… và toán học ứng dụng
- Cơ học… và cơ học ứng dụng
- Thiên văn học
- Thiên văn vật lý
- Vật lý học… và vật lý kỹ thuật
KHOA HỌC - Lý hóa…
TỰ NHIỆN - Hóa lý… Và các khoa học kỹ thuật hóa học
VÀ - Hóa học… (trong đó có khoa luyện kim)
- Địa hóa học…
KHOA HỌC - Địa chất… và kỹ thuật mỏ
KỸ THUT - Địa lý
- Sinh hóa học
- Sinh vật học… và các khoa học nông nghiệp - Sinh người…
Và các khoa học y học
- Nhân loại học
- Lịch s
- Khảo cổ
- Nhân chủng học
- Địa lý kinh tế
KHOA HỌC - Thống kê xã hội kinh tế
lOMoARcPSD| 45349271
9
XÃ HỘI - Kinh tế học
- Khoa học về cơ
- Khoa học về nhà nước và pháp luật
sở và kiến trúc
- Lịch sử và lý luận nghệ thuật thượng tầng…
- Lịch sử và lý luận văn học…
- Ngôn ngữ hc… Và giáo dục hc
- Tâm lý học… Và các khoa học khác
Khoa học kỹ thuật là khoa học nghiên cứu về sự ứng dụng các thành tựu của
khoa học tự nhiên vào trong trong lĩnh vực kỹ thuật công nghệ nhằm m ra các y
móc, thiết bị mới, các quy trình công nghệ mới...
Trong thể dục thể thao, những vấn đề như nghiên cứu quan hệ giữa thể dục
ththao phát triển kinh tế xã hội, nghiên cứu vhệ thống tổ chức cơ chế qun
trong chế thtrường theo định hướng XHCN, kinh tế thdục thể thao
luận về giá trị thdục thể thao... thuộc lĩnh vực của khoa học hội nhân
văn; những vấn đề như: sinh học, y học thể thao, di truyền học thể thao... chủ yếu
là ở nhóm khoa hc tự nhiên; còn những vấn đề nghiên cứu về kết cu hạ tầng thể
dục thể thao, các thiết bị tập luyện đo lường, kiểm tra, điều khiển, thông n
trong thể dục thể thao... thuộc nhóm khoa học kỹ thuật. Tuy nhiên, do thể dục
ththao thuộc lĩnh vực giáo dục, cho nên chủ yếu bản thể dục thể thao
đưc xếp vào khoa học xã hội và nhân văn.
1.5. ĐC ĐIỂM NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG THỂ DỤC THỂ THAO
Đối tượng của thể dục thể thao là hoạt động sống của con người trong điều
kiện vận động, thể hiện dưới dạng nhân hay tập thể, nghiên cứu khoa học trong
thể dục thể thao mang một số đặc điểm sau đây:
- Nghiên cứu khoa học trong thể dục thể thao, là nghiên cứu thuộc lĩnh vực giáo dục.
Tập luyện thể dục thể thao là hoạt động có ý thức của con người để phát tnên các
tố chất thể lực, nâng cao sức khỏe hoạt động của các quan hệ thống
thể, hình thành hoàn thiện các kỹ năng, kỹ xảo vận động, rèn luyện các phẩm
chất ý chí cho bản thân. Nó chịu sự chi phối của các quy luật giáo dục thể chất. Do
đó, nghiên cứu khoa học trong thể dục thể thao nghiên cứu về con người dưới
sự tác động của các quy luật sinh học và các quy luật xã hội - nhân văn, đặc biệt là
các quy luật giáo dục.
- Thể dục thể thao là một lĩnh vực hoạt động đa dạng, nên nghiên cứu khoa học thể
dục thể thao có vận dụng kiến thức và thành tựu của nhiều lĩnh vực khoa học khác
nhiều bộ môn khoa học khác thâm nhập vào thể dục ththao (như: Triết học,
Sinh hóa, Sinh cơ, Toán học, hội học...) để ến hành nghiên cứu hoàn thiện thể
chất con người, nâng cao thành ch thể thao cải ến các hoạt động khác nhau
trong sự nghiệp thể dục thể thao. Thể dục thể thao là giao điểm của nhiều lĩnh vực
lOMoARcPSD| 45349271
10
khoa học, nơi mở rộng và phát triển các mối quan hệ giữa thể dục thể thao với
các lĩnh vực khoa học khác đồng thời qua đó hình thành các môn khoa học mới.
- Nghiên cứu khoa học trong thdục thể thao đã thiết thực giải quyết những yêu cầu
thực ễn của cuộc sống thể dục thể thao và đang trở thành một yếu tố không thể
tách rời trong việc phát triển phong trào thể dục thể thao, đặc biệt trong vic
nâng cao thể chất cho mọi người trong lĩnh vực thể thao nâng cao thành ch,
đồng thời qua đấy khoa học thể dục thể thao cũng điều kiện để tự khẳng định
phát triển chính mình.
- Nghiên cứu khoa học thể dục thể thao nói chung sinh sau, đmuộn (nhất
ớc ta) so với các lĩnh vực khoa học khác. Nhiều lĩnh vực hoạt động thể dục thể
thao chưa được quan tâm nghiên cứu, đội ngũ làm công tác y còn ít. Tuy vậy, mt
số đề tài cấp nhà nước, cấp bộ, cấp thành phố cũng đã được ến hành, và đã được
ứng dụng vào thực tế hiệu quả.
1.6. CÁC LOẠI HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG THỂ DỤC THỂ THAO
Công tác nghiên cứu khoa học, không những chỉ có các nhà khoa học, các giáo
viên, huấn luyện viên, nghiên cứu sinh sinh viên ến hành, mà còn cả các cán b
quản lý, kỹ thuật viên… cũng tham gia. Nhưng như đã nói ở trên, khoa học thể dục
ththao về bản thuộc lĩnh vực khoa học giáo dục, vì vy nghiên cứu đây thật
đa dạng và các loại hình khác nhau: dạng đề tài về phương pháp đơn thuần,
dạng đtài về phương pháp khoa học dạng đtài nghiên cứu khoa
học.
Đề tài chỉ có đơn thuần về phương pháp và đề tài về phương pháp khoa học
đặc điểm chung hướng nghiên cứu ưu ên chủ yếu nhằm giải quyết các vấn
đề thuộc về phương pháp giáo dục và giáo dưỡng. Tuy nhiên, chúng không phải
đồng nhất, mà giữa chúng cũng sự khác biệt nhau nhất định. Đề tài về phương
pháp đơn thuần những nghiên cứu chỉ nhằm m hiểu kinh nghiệm công tác của
các nhà phạm với mục đích làm đặc điểm hoạt động của họ, không nêu
lên phương cách giải quyết độc đáo vấn đề, không chra các quy luật phạm khách
quan người ta chưa biết. Ngược lại, nếu như trong tổng kết đó lại m ra hoặc
phát hiện được những vấn đề lý thú, những lộ trình giáo dục mới và sau đấy được
chứng minh trong điều kiện thực nghiệm để khẳng định những quy luật giáo dục
giáo dưỡng trong thực ễn, tnhững nghiên cứu như vậy được xem đề tài
nghiên cứu về phương pháp khoa học.
Do đó, về thực chất, đề tài về phương pháp khoa học một trường hợp
biệt của đtài nghiên cứu khoa học thôi. Như vậy, đề tài nghiên cứu khoa học
không chỉ là các vấn đề về phương pháp luận giáo dục và giáo dưỡng, mà còn hàm
chứa những vn đề rộng lớn hơn.
Với cách lý giải ở trên, chỉ có những nghiên cứu về phương pháp khoa học và
những nghiên cứu khoa học, mới được xem là các đtài nghiên cứu khoa học. Đó
là những đề tài đáp ứng được các yêu cầu ca công tác khoa học.
lOMoARcPSD| 45349271
11
Những đề tài nghiên cứu khoa học lại tuỳ theo các dấu hiệu khác nhau
người ta lại phân ra các đề tài khác nhau:
1.6.1. Theo các mối quan hệ giữa công tác nghiên cứu khoa học với thực ễn phong
trào thể dục thể thao lại chia ra:
+ Các đề tài nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực thể dục thể thao quần chúng;
+ Các đề tài nghiên cứu khoa học trong đào tạo vn động viên;
+ Các đề tài nghiên cứu khoa học nhằm hoàn thiện công tác tổ chức quản lý
đào tạo cán bộ;
+ Những đề tài nghiên cứu khoa học trên lĩnh vực kết cấu hạ tầng, thiết bị,
dụng cụ thể dục thể thao và kinh tế thể thao.
1.6.2. Theo tầm quan trọng của công tác nghiên cứu đối với nên kinh tế quốc dân hoặc
văn hóa - xã hội chia các đề tài nghiên cứu khoa học ra:
+ Các đề tài nghiên cứu khoa học cấp nhà nước. Đó những đtài quan
trọng nhất nhằm giải quyết các vấn đề tầm của nhà ớc và thực hiện theo
kế hoạch nhà nước.
+ Các đề tài nghiên cứu khoa học cp Bộ, Ngành là những nghiên cứu có tầm
quan trọng đặc biệt đối với Bộ, Ngành và thực hiện theo kế hoch Bộ, Ngành.
+ Các đề tài nghiên cứu khoa học cấp Tỉnh, Thành.
+ Các đề tài nghiên cứu khoa học cấp Trường, Viện và trung tâm khoa học.
1.6.3. Theo nguồn kinh phí được cấp, các đề tài nghiên cứu khoa học chia ra:
+ Các đtài nghiên cứu khoa học được ến hành từ nguồn kinh phí nhà nước.
+ Các đề tài nghiên cứu khoa học được ến hành theo nguồn kinh phí hợp
đồng.
+ Các đtài nghiên cứu khoa học được ến hành từ nguồn kinh phí tự
hoc của cá nhân.
1.6.4.. Theo thời gian, các đề tài nghiên cứu khoa học chia ra:
+ Các đề tài nghiên cứu khoa học dài hạn: thường là một số năm.
+ Các đề tài nghiên cứu khoa học ngắn hạn: thường là trong vòng 1 năm.
1.6.5. Theo định hướng nghiên cứu, các đề tài nghiên cứu khoa học lại phân thành:
+ Nghiên cứu cơ bản. +
Nghiên cứu ứng dụng +
Nghiên cứu triển khai.
Nghiên cứu cơ bản các hoạt động nghiên cứu lý thuyết hoặc thực nghiệm
nhằm khám phá những tri thức mới về các quy luật tự nhiên, hội duy
(Những đề tài thuc dạng điều tra thể chất, trạng thái vận động, trạng thái tâm lý...
thuộc loại y). Nghiên cứu bản nói chung, thường được thực hiện trong
phòng thí nghiệm.
Nghiên cứu ứng dụng là nghiên cứu dựa trên các kết quả nghiên cứu cơ bản
để tạo nên những phương pháp mới, nhờ đó sản xuất ra những thiết bị, máy
móc, nguyên liệu mới hoặc cải ến phương thức cách tổ chức làm việc mới (như
lOMoARcPSD| 45349271
12
huấn luyện, giảng dạy...). Những nghiên cứu kiểu y rất phù hợp với yêu cầu của
ngành nhằm nhanh chóng phát triển phong trào thể dục thể thao nước ta.
Nghiên cứu triển khai nghiên cứu nhằm mục đích biến đổi những nghiên
cứu ứng dụng (hoặc luận) vào trong thực ễn. Nghiên cứu triển khai với mục đích
cuối cùng là chỉ rõ hoặc m ra phạm vi áp dụng trong các hoạt động khác nhau của
đời sống thể dục thể thao.
lOMoARcPSD| 45349271
13
CHƯƠNG II GIAI ĐOẠN CHUẨN BỊ NGHIÊN CỨU
ĐỀ TÀI KHOA HỌC
2.1. Phân ch lý luận và thực ễn( Đọc và tham khảo tài liệu)
Thdục thể thao cũng như các ngành khoa học khác, ngành khoa hc
lịch sử hình thành phát triển; có kho tàng luận và thực ễn phong phú, chứa
đựng số các vấn đề; các mâu thuẫn nảy sinh cần được giải quyết. Các đtài
khoa học nhằm giải quyết các mâu thuẫn, tạo nên động lực cho sự phát triển.
Các đề tài nghiên cứu được hình thành chính từ nguồn lý luận phong phú, từ
thực ễn sinh động. Nhà nghiên cứu thường xuyên theo dõi thông n nghiên cứu
thông qua hoạt động đọc tài liệu tham khảo theo từng lĩnh vực chuyên ngành hẹp,
phát hiện các “khoảng trống khoa học” hay các mảnh đất hoangđó chính những
vấn đề chưa được nghiên cứu, đang bị bỏ ngỏ, có thđi vào khai phá để biến chúng
thành mảnh đất màu mỡ, cho thu hoạch nhiều hoa, trái. Đề tài nghiên cứu cũng
thđược hình thành từ những điều vướng mắc của thực ễn tập luyện (đối với sinh
viên), của thực ễn giảng dạy, huấn luyện (đối với giáo viên huấn luyện viên)…
Giải quyết các đề tài từ chính các vấn đthc ễn, đòi hỏi có nh cấp thiết rất lớn
về mặt hội. Lý luận thực ễn luôn vận động, biến đổi nên luôn chứa đựng
nhiều mâu thuẫn cần được giải quyết, số ợng đề tài nghiên cứu không bao gi
cạn.
2.2. Lựa chọn hướng và đề tài nghiên cứu
2.2.1. Lựa chọn hướng nghiên cứu
ớng nghiên cứu (còn gọi phương hướng nghiên cứu) vấn đnghiên cứu
lớn, có thể nghiên cứu trong một số năm đến một vài chục năm.
Các hướng nghiên cứu của ngành thdục thể thao Việt Nam hiện nay là:
Tuyển chọn vận động viên các môn thể thao; điều tra thchất người Việt Nam; đào
tạo, phân bổ và sử dụng cán bộ thể dục thể thao; huấn luyện thể lực cho vn đng
viên các môn thể thao…
Để lựa chọn đề tài nghiên cứu phù hợp, nhà nghiên cứu cần xác định phương
ớng của mình, trước hết các hướng được ngành thể dục thể thao quan tâm,
chỉ đạo.
2.2.2. Lựa chọn đề tài nghiên cứu
- Khái niệm: Đề tài nghiên cứu scụ thhóa vấn đkhoa học của một hướng
nghiên cứu.
Trong một hướng nghiên cứu nhiều đề tài, thí dụ ớng nghiên cứu “Điều
tra thể cht người Việt Nam” có thể hình thành nhiều đề tài: điều tra theo độ tuổi,
điều tra theo vùng dân cư, điều tra theo nghề nghiệp... sau đó lại thể chia nhỏ
hơn nữa.
- Các yêu cầu đối với một đề tài khoa học:
lOMoARcPSD| 45349271
14
+ Đề tài phải mang nh cấp thiết, nghĩa phải xuất phát từ nhu cầu luận
thực ễn đòi hỏi. Nếu vấn đề được giải quyết, sẽ thúc đẩy công tác giảng dạy,
huấn luyn để đạt tới kết quả cao hơn trước.
+ Đề tài phải mang nh chất thời sự, mới lạ về mặt khoa học vào những lĩnh
vực sinh động, i nổi của thực ễn thể dục thể thao sức khoẻ con người hiện
đại; thể dục thể thao và thành ch cao... Những nhu cầu của thực ễn xã hội luôn
là trọng tâm thu hút sự chú ý của các nhà khoa học.
+ Đề tài phải y được nh hứng thú cao, nh hứng thú sẽ tạo ra sự say mê
nghiên cứu, giúp nhà nghiên cứu sẵn sàng khắc phục khó khăn, sẵn sàng hiến dâng
trí tuệ và sức lực của mình cho công việc. Hứng thú còn là cơ sở của nh thần trách
nhiệm sự sáng tạo. Vì vậy, nhà nghiên cứu phải tự mình chủ động m kiếm đề
tài là cách tốt nhất, không nên tham gia vào đề tài nghiên cứu bị ép buộc.
+ Đề tài nghiên cứu phải mang nh mới lạ về mặt khoa học. Nhà khoa học
không được phép nghiên cứu lại đtài mà người khác đã ến hành, với cùng một
cách giải quyết. Đôi khi cũng thể nghiên cứu một vấn đề cũ, song phải bằng
phương pháp và bịện pháp mới, có nh sáng tạo hơn hẳn.
- Đề tài phải phù hợp với trình độ nhà nghiên cứu, không chọn đtài đòi hỏi năng
lực làm việc cao hơn mức hiện có. Dựa vào trình độ nghiên cứu khoa học, thể
phân chia đề tài thành một số mức độ sau đây: Đề tài ểu luận; đề tài luận văn tt
nghiệp (dành cho sinh viên); đề tài luận án thạc sĩ (dành cho học viên cao học); đề
tài luận án ến (dành cho nghiên cứu sinh). Theo thời gian, trình độ của cán bộ
khoa học ngày một vững vàng, nhà nghiên cứu sẽ dần dần đủ năng lực đảm
đương những công việc khó nhọc và to lớn hơn.
- Chn đề tài cũng phải phù hợp với điều kiện nghiên cứu: Về đối tượng, về phương
ện sân bãi, dụng cụ tập luyện, trang thiết bị dụng cụ nghiên cứu, thời gian nghiên
cứu và kinh phí cần thiết. Thí dụ: nhiều môn thể thao của Việt Nam, số ợng vn
động viên cấp cao rất hiếm, nên chọn đề tài nghiên cứu đối tượng này không
thc tế. Nếu có chọn cần phải được cân nhắc kỹ càng.
- Nên chọn đề tài hẹp về phạm vi, để thể nghiên cứu sâu, triệt để toàn diện.
Trong dân gian câu “Cuốc càng sâu, đất càng quánh”. Không nên chọn đề tài
phạm vi rộng, khó giải quyết khó đạt được hiệu quả cao. Đề tài hẹp thông
thường liên quan đến nh chất cụ thể. Vì vậy, không thể đề tài nghiên cứu
chung chung và trìu tượng, không đảm bảo đem lại lợi ích cho thực ễn thể dục thể
thao.
Như vậy, chọn đtài nghiên cứu việc làm hết sức nghiêm túc trách
nhiệm, không chỉ liên quan đến bản thân nhà khoa học, mà còn liên quan đến tập
thể, nơi họ đang học tập hay công tác. Do đó, thể nói: Chọn đề tài nghiên cứu
ý nghĩa xã hội.
2.2.3. Các cách lựa chọn đề tài nghiên cứu:
Thông thường các nkhoa học (đặc biệt người mới bước vào nghiên cứu)
trẻ hay phân vân không biết nên sử dụng trí tuệ, sức lực như thế nào khi lựa chọn
lOMoARcPSD| 45349271
15
đề tài. Họ luôn nghĩ tất cả những cái trong tự nhiên, xã hội đều đã được người
khác nghiên cứu, không còn cái gì dành cho mình nữa. Các nhà nghiên cứu có kinh
nghiệm phải hướng dẫn họ đến với các cách lựa chọn sau đây:
- Thường xuyên theo dõi, tổng kết những thành tựu nghiên cứu khoa học của ngành.
Cho đến nay, ngành thể dục thể thao trên 60 năm phát triển, đội ngũ cán bộ khoa
học trình độ cao đã triển khai nghiên cứu nhiều đề tài cấp Nnước, cấp viện,
trường, sở thdục thể thao. Hàng trăm nghiên cứu sinh đã bảo vthành công luận
án ến sĩ. Hàng ngàn cử nhân đã bảo vệ thành công luận văn thạc sĩ. Tất cả kết quả
nghiên cứu được công bố những tài liệu quý báu giúp cho các nhà khoa học trẻ
thêm kinh nghiệm chọn đề tài cho mình, hướng suy nghĩ vào những vấn đcòn ít
được nghiên cứu.
- Tham khảo ý kiến của các chuyên gia trong lĩnh vực chuyên ngành hẹp. Ý kiến của
các chuyên gia trong từng chuyên ngành hẹp về luận thực hành thể thao rất
giá trị. Các chuyên gia thường những nhà nghiên cứu kinh nghiệm, giúp các
nhà khoa học trẻ xác định được những vấn đề quan trọng trước mắt và hướng giải
quyết đề tài đó trên sở điều kiện hiện phù hợp với khả năng và trình độ của
họ.
- Phân ch thực n hc tập hay công tác, phát hiện những mâu thuẫn đang tồn tại,
cũng thể con đường dần đến hình thành đề tài nghiên cứu giá trị cao về
mặt ứng dụng. Thông thường những đề tài được lựa chọn bằng cách y, được giải
quyết rt hiệu quả vì nhà khoa học am hiểu vấn đề nghiên cứu và có ý thức tự giác
đối với công việc rất cao.
- Tìm hiểu kết quả nghiên cứu mới nhất nằm ở ranh giới giữa các ngành khoa học, vì
đó thường xuất hiện những môn học mới quan trọng. Các lĩnh vực nằm ranh
giới y những “điểm trắngtrong khoa học. Trong lĩnh vực thể dục thể thao,
nhiều ngành mới ra đời: Tâm học, Giáo dục học, Sinh thể dục thể thao...
những mảnh đất màu mỡ để giải quyết hàng loạt đề tài quan trọng còn chưa được
nghiên cứu.
- Nghiên cứu những phương pháp biện pháp mới hiệu qucao. I. Páp Lốp đã
viết: “Khoa học sđược thúc đẩy ến vọt, tuỳ thuộc vào thành tựu khoa học vmt
phương pháp luận”. Các đề tài nghiên cứu về phương pháp, biện pháp là những đề
tài nghiên cứu hay, giá trnếu ng lên đến mức cần thiết vmặt luận được
thực ễn kiểm nghiệm. Trong lĩnh vực thể dục thể thao, nghiên cứu về phương
pháp và biện pháp cũng là một mặt quan trọng dành cho các đề tài nghiên cứu. Đó
các phương pháp dạy học. Thí dụ: Phương pháp dạy học nêu vấn đề, phương
pháp dạy học chương trình hoá dùng trong thdục thể thao; Các phương pháp
huấn luyện, phương pháp tuyển chọn vận động viên thể thao, phương pháp xác
định lượng vn động tập luyện...
- Nghiên cứu những đối tượng nhờ phương pháp mới với quan điểm mới. Việc
chọn làm đề tài luận văn khoa học theo nguyên tắc xem xét lại một cách bản
những luận điểm đã trong luận thực ễn với lập trường mới, góc đnhìn
lOMoARcPSD| 45349271
16
mới, trình độ kỹ thuật cao hơn đang được vận dụng rộng rãi trong thực ễn. Trong
lĩnh vực thể dục thể thao, thể vận dụng cách chọn đtài theo quan điểm này. Đó
những nghiên cứu thay đổi những phương pháp, biện pháp, êu chuẩn, hình
thức... bằng những cái mới, trên quan điểm mới, phù hợp với cuộc cách mạng
khoa học kỹ thuật hiện đại đang diễn ra trên đất nước ta.
Các nhà khoa học trẻ tuổi thể bằng con đường nêu trên lựa chọn cho mình
đề tài. Tuy nhiên, một đtài lựa chọn hợp nhất, nếu thỏa mãn với nhiều cách
chọn. Thí dụ: Bằng cách thường xuyên đọc tài liệu tham khảo, nhà nghiên cứu chn
được đề tài. Đề tài đó cũng xuất phát tthực ễn đòi hòi phải được giải quyết,
được cấp trên triển khai nghiên cứu với quy phạm vi lớn, các chuyên gia
chuyên ngành hay thống nhất ý kiến… Tuy nhiên, nhà nghiên cứu không được phép
chđợi hay lại vào sự giúp đỡ của người khác cần thử sức mình qua các lần
nghiên cứu và gắng sức hoàn thành công việc với chất lượng cao. Người ta cho rằng:
Việc chọn đề tài đúng, là thành công một nửa trên bước đường nghiên cứu một đề
tài khoa học.
2.3. Xác định nhiệm vụ nghiên cứu
2.3.1. Khái niệm Nhiệm vụ nghiên cứu là sự cụ thhoá vấn đề khoa học trong một
đề tài.
Mỗi đề tài nghiên cứu, thường một số nhiệm vụ. Đề tài của sinh viên, học
viên cao học có thể cấu tạo từ 2 - 3 nhiệm v. Đề tài của nghiên cứu sinh có thể
2 - 4 nhiệm vụ.
2.3.2. Các yêu cầu đối với nhiệm vụ nghiên cứu
Các nhiệm vụ nghiên cứu phải thoả mãn một số yêu cầu sau đây:
- Cũng như đề tài, nhiệm vụ nghiên cứu phải mang nh mới lạ, sáng tạo về mặt khoa
học, nghĩa không được đặt thành nhiệm vụ đối với một vấn đề nào đó đã được
tác giả khác nghiên cứu rồi.
- Các nhiệm vụ phải ngắn gọn, nêu được bản chất, nội dung vấn đề nghiên cứu, không
có từ ngthừa.
- Xác định số ợng, chất lượng nhiệm vụ phải căn cứ vào mục đích giải quyết đề tài,
ảnh hưởng trực ếp đến công việc nghiên cứu. Do đó, xác định nhiệm vụ nghiên
cứu cũng phải hết sức nghiêm túc và thận trọng.
2.4. Dự kiến phương pháp nghiên cứu
a. Khái niệm: Phương pháp nghiên cứu cách thu nhận và xử thông n nghiên cứu.
b. Phân loại phương pháp nghiên cứu: Trong nghiên cứu khoa học thể dục thể thao,
người ta sử dụng một hệ thống phương pháp nghiên cứu khác nhau để thu nhận
và xử lý kết quả các nguồn thông n. Các phương pháp thphân thành một
số loại lớn:
- Nhóm phương pháp nghiên cứu sư phạm (thể dục thể thao là một
lĩnh vực của khoa học sư phạm).
- Nhóm phương pháp nghiên cứu y sinh học.
lOMoARcPSD| 45349271
17
- Nhóm phương pháp nghiên cứu tâm lý học.
- Nhóm phương pháp nghiên cứu kỹ thuật động tác thể dục thể thao.
- Và một số nhóm phương pháp nghiên cứu khác. c. Lựa chọn
phương pháp nghiên cứu:
Lựa chọn phương pháp này hay kia phải căn cứ vào các nhiệm vcủa đề tài. Mi
nhiệm vụ của đề tài đều đòi hỏi phải một hay nhiều phương pháp thu nhận
xử thông n. Trước khi bước vào nghiên cứu thực sự, nhà nghiên cứu phải dự
kiến các phương pháp, cho phép thu nhận xử thông n phù hợp với từng
nhim vụ cụ th.
Thông thường, các đề tài nghiên cứu thuyết (lịch sử, tả…), đòi hỏi số
ợng phương pháp nghiên cứu ít hơn so với các đề tài nghiên cứu thực nghiệm.
Thí dụ: Đề tài nghiên cứu: “Sự hình thành và phát triển môn bóng bàn ở Việt Nam”
một đề tài nghiên cứu thuyết, chỉ cần sử dụng hai đến ba phương pháp là đ
(phương pháp nghiên cứu luận, phỏng vấn, toạ đàm). Trong khi đó, đtài
“Nghiên cứu các biện pháp có hiệu qu phát triển tố cht sức mạnh tốc độ cho vn
động viên chạy cự ly ngắn (nam) từ 15 đến 17 tuổi, đề tài nghiên cứu thực
nghiệm, có thể phải sử dụng đến một số phương pháp: nghiên cứu lý luận, phỏng
vấn, toạ đàm; kiểm tra sư phạm; quan sát sư phạm, thực nghiệm sư phạm và toán
học thống kê.
Việc sử dụng nhiều hay ít phương pháp, không nghĩa vấn đề nghiên cứu
phức tạp hay đơn giản hơn. đề i nghiên cứu thuyết, tuy chỉ dùng 2 đến 3
phương pháp, song để có thông n, nnghiên cứu phải đọc và phân ch một khối
ợng lớn tài liệu tham khảo khả năng duy luận cao mới rút ra được
những kết luận có giá trị về mặt khoa học.
2.5. Xác lập giả thuyết khoa học và nh mới lạ của đề tài
2.5.1. Xác lập giả thuyết khoa học
a. Khái niệm:
Githiết và giả thuyết đều các từ đúng chính tả, tuy nhiên được sử dụng
trong các trường hợp khác nhau:
Githiết: Căn cứ đưc cho sẵn để chứng minh phân ch, suy luận. giả thiết
là một điều kiện giả định trong quan sát hoặc thực nghiệm
Giả thuyết: Nhận định cần được chứng minh. Giả thuyết là nhận định sơ bộ,
kết luận giả định của nghiên cứu, hoặc luận điểm cần chứng minh của nghiên
cứu. Mendeleev nói: " Không có một nghiên cứu nào không phải đặt giả thuyết".
Githuyết khoa học những dự định ban đầu của nhà nghiên cứu về kết
qucủa đtài. Một mục êu quan trọng của nghiên cứu tả hình thành giả
thuyết về mối quan hệ nhân-quả, ền đề cho các nghiên cứu ếp theo và từ đó
có thể đề xuất được các biện pháp can thiệp hu hiệu cho quần thể.
b. Ý nghĩa của việc xác lập giả thuyết khoa học.
lOMoARcPSD| 45349271
18
Ý nghĩa của giả thuyết khoa học khó có thể đánh giá hết được. Thứ nhất:
cho phép m lối thoát của lý luận vào thực ễn, bởi vì trên cơ sở của giả thuyết sẽ
tổ chức được quá trình nghiên cứu và làm xuất hiện những skiện khoa học. Thứ
hai: đề ra giả thuyết khoa học, chính là nảy sinh những ý định mới mở rộng giới hạn
của những kiến thức hiện có. Thứ ba: giả thuyết khoa học giúp nhà nghiên cứu hình
thành đối ợng nghiên cứu cthể. Thứ tư: giả thuyết khoa học làm cho nhà nghiên
cứu không bị choáng ngợp trước sự phong phú của các sự kiện, lựa chọn được
những sự kiện phù hợp nhất cho mình. Chính vì vậy, sự hình thành giả thuyết khoa
học đúng đắn là điều rất quan trọng đối với mỗi nhà khoa học, trước khi triển khai
công việc nghiên cứu. Những giả định đúng, những dự đoán sớm về kết quả
nghiên cứu, lường trước được những khó khăn và thuận lợi trên con đường đi để
kịp thời đra những biện pháp giải quyết thích hợp. thể lấy dụ về githuyết
khoa học: Trong đề tài Nghiên cứu xây dựng các êu chuẩn thể lực chuyên môn
cho vận động viên thể dục dụng cụ. Githuyết khoa học được đặt ra là: Thể dục
dụng cụ môn thể thao hỗn hợp gồm nhiều dụng ctập luyện, đòi hỏi vận động
viên phải có nhiều tố chất thể lực chuyên môn khác nhau. Giả định rằng: ở mỗi cấp
bậc vận động, vận động viên thể dục phải được chuẩn bị đầy đủ tương xứng về th
lực chuyên môn, phù hợp với trình độ kỹ thuật của mình. Vì vậy, ứng với mỗi giai
đoạn chuẩn bị, cần y dựng một hệ thống các êu chuẩn biện pháp tập luyện
thể lực chuyên môn cần thiết, nhằm nâng cao thành ch thi đấu của môn thể thao
y.
2.5.2. Tính mới lạ của đề tài
Tính mới lạ của đề tài sự khác biệt của vấn đề được chọn nghiên cứu với
các đề tài cùng dạng, loại, do các tác giả khác đã thực hiện.
Tính mới lạ của mỗi đề tài khoa học không chỉ thhin nội dung vấn đề và
kết quả nghiên cứu mới, còn thể là các phương pháp biện pháp sử dụng
mới các dụng cụ nghiên cứu hay tập luyện mới để đem lại hiệu quả giáo dục thể
chất cao hơn trước. 2.6. Biên soạn đề cương nghiên cứu khoa học
2.6.1. Khái niệm
Đề cương nghiên cứu khoa học trình bày nội dung vấn đề nghiên cứu và kế hoạch
tổ chức thc hiện.
Đề cương nghiên cứu khoa học tác phẩm đầu ên của nhà khoa học trên
con đường nghiên cứu. Nó có kết cấu hợp lý, được sắp xếp theo trình tự quy định.
Đề cương nghiên cứu mẫu quy định, dùng chung cho các cán bnghiên cứu.
2.6.2. Mẫu đề cương nghiên cứu khoa học
a. Phn đu của đề cương bao gồm:
- Tên gọi: Đề cương nghiên cứu khoa học.
- ớng nghiên cứu: Ghi hướng nghiên cứu chính của đề tài. - Tên đề tài:
Được viết ngắn gọn, rõ ràng.
- Người nghiên cứu: Gồm họ và tên, địa chỉ hay cơ quan của nhà khoa học
lOMoARcPSD| 45349271
19
- Người hướng dẫn khoa học gồm: Họ tên, học vị học hàm (không ghi
chức vụ chính quyền, đoàn thể).
b. Phn nội dung của đề cương: Được đánh số thứ tự.
* Phần đặt vấn đề (còn được gọi sở lựa chọn của đề tài nghiên cứu) gồm
một số nội dung sau:
- Nêu rõ ý nghĩa, tầm quan trọng, sự cấp thiết của đề tài.
- Đánh giá đúng đắn và sát thực hiện trạng vấn đề được chọn đnghiên cứu:
đã có tác giả nào nghiên cứu vn đề tương tự, phạm vi và kết quả của họ?
- Xác định tên đề tài và phạm vi nghiên cứu, mục đích nghiên cứu.
- Xác lập giả thuyết khoa học và nh mới lạ của đề tài.
* Nhiệm vụ nghiên cứu: Ghi theo trình tự các nhiệm vụ của đề tài, từ ng
các nhiệm vphải chuẩn xác.
* Phương pháp nghiên cứu: Dự kiến các phương pháp được sử dụng dựa theo
các nhiệm vụ của đề tài. Chưa cần giải thích cách thu thập và xử lý thông n.
* Tchức nghiên cứu: bao gồm một số mục nhỏ ới đây:
- Thời gian nghiên cứu: ghi thời gian bắt đầu và kết thúc nghiên cứu đề tài. Sự
phân chia các giai đoạn và nhiệm vụ của mỗi giai đoạn.
- Đối tượng nghiên cứu: nói đối tượng nghiên cứu ai (độ tuổi, giới nh)
trình độ tập luyện, số ợng cần thiết.
- Địa điểm nghiên cứu: ghi quan chtrì đề tài, nơi ến hành thử nghiệm
hay thực nghiệm khoa học.
- Trang thiết bị, dụng cụ nghiên cứu: bao gồm sân bãi tập, dụng cụ tập luyện,
dụng cụ nghiên cứu (thước dây, đồng hồ, các loại máy móc khác), dự kiến s
ợng, chủng loại.
- Dự trù kinh phí nghiên cứu: dkiến kinh phí sử dụng cho các công việc phỏng
vấn, in ấn tài liệu, công tác phí chuẩn bị bảo vệ luận văn, mua sắm phương
ện nghiên cứu.
Cuối đ cương nghiên cứu, ghi rõ ngày, tháng, năm biên soạn đề ơng
nghiên cứu khoa học. Phía dưới, bên phải ghi họ, tên, chữ nhà nghiên cứu. Bên
trái phía đối diện ghi họ tên, học vị, học hàm khoa học, chữ của người
ớng dẫn đề tài.
Đề cương nghiên cứu khoa học được sửa chữa cân thận, đánh y 3 - 4 bản,
có đủ chcủa nhà nghiên cứu và người hướng dẫn khoa học. Sau đó đcương
nghiên cứu phải được bảo vệ tại các Hội đồng khoa học để nhận được những đóng
góp ý kiến. Các đề cương đã được thông qua, mới được phép triển khai nghiên cu
theo kế hoạch đã định.
CHƯƠNG III GIAI ĐOẠN TRIỂN KHAI NGHIÊN CỨU
Giai đoạn triển khai nghiên cứu vai trò quan trọng nhất trong ến trình
nghiên cứu, nhằm thu thập xử những nguồn thông n của những đtài nghiên
cứu.
lOMoARcPSD| 45349271
20
Giai đoạn này được bắt đầu sau khi đề cương nghiên cứu khoa học chính
thức được thông qua và kết thúc khi số liệu nghiên cứu được xử lý xong.
3.1. Lựa chọn đối tượng nghiên cứu
3.1.1. Đối tượng nghiên cứu:
Trong lĩnh vực thể dục thể thao, đối tượng nghiên cứu bao gồm: người tập
thể dục thể thao; các sự vật và hiện tượng tập luyện; các con vật.
a. Người tập thể dục thể thao. đối tượng nghiên cứu phổ biến hơn cả. Người tập
thdục thể thao hai loại: Người tập mục đích sức khoẻ (học sinh, sinh viên,
người cao tuổi, chiến trong lực lượng vũ trang nhân n...). Người tập thành
ch thể thao cao (vn động viên các môn thể thao khác nhau).
b. Các sự vật hiện tượng: Đối tượng nghiên cứu trong thể dục thể thao thể
các vật thể như: dụng cụ luyện tập và thi đấu, sân bãi tập…. Thí dụ: Khi nghiên cứu
sản xuất vợt cầu lông, thì vợt cầu lông là đối tượng nghiên cứu.
Các hiện tượng tập luyện cũng là đối tượng nghiên cứu. Thí dụ: Khi xây dựng
mô hình câu lạc bthể thao phường, xã, quận, huyện, ở đây đối tượng nghiên cứu
không phải là người, là sự vật mà là một hình mẫu tổ chức quản lý tổ chức thể dục
thể thao.
c. Các con vật: Đôi khi các con vật cũng là đối tượng nghiên cứu. Thí dụ: Nghiên cứu
lựa chọn giống ngựa trong môn đua ngựa; nghiên cứu lựa chọn loại trâu tốt trong
môn chọi trâu dân tộc của thị Đồ Sơn Hải Phòng. Trong các trường hợp nêu
trên, con ngựa và con trâu là đối tượng nghiên cứu.
3.1.2.Các yêu cầu khi lựa chọn đối tượng nghiên cứu:
Chọn đúng đối tượng nghiên cứu có ý nghĩa rất quan trọng, nhiều khi quyết
định sự thành công của công việc nghiên cứu.
- Đối tượng nghiên cứu phải cụ thể: ai, hay cái gì, con gì. Nếu người tập luyện
thì phải làm rõ vđộ tuổi, giới nh, trình độ tập luyện và các loại trình độ khác (nếu
cần).
- Chọn đối tượng người tập phải đủ về số ợng, số ợng đối tượng ít nhất phải
30 người để đảm bảo độ n cậy khi xử bằng toán học. Số ng người tập càng
đông, càng tốt, nhất là khi nghiên cứu trên người tập luyện mục đích sức khoẻ.
Trong trường hợp này, số người tham gia mỗi độ tuổi hay mỗi trình độ, có thể lên
tới hàng trăm, vài trăm người.
- Đối ợng nghiên cứu phải phù hợp với nhiệm vụ của đề tài; phải đồng đều về trình
độ tập luyện, lứa tuổi, giới nh, để bảo đảm nh đồng nhất, nh chất khách quan.
3.2. Đào tạo người giúp đỡ
Khi nghiên cứu triển khai đề tài, nkhoa học rất nhiều công việc cần làm,
đặc biệt khi thu nhận thông n nhờ các phương pháp. nhiều thnghiệm, quan
sát thí nghiệm một mình không thể làm nổi, cần phải sử dụng một nhóm đông người
(một nhóm) thí dụ: Khi quan sát kỹ thuật chạy ngắn, trong trường hợp này phải có
sự giúp đỡ của bạn bè, đồng nghiệp.
| 1/148

Preview text:

lOMoAR cPSD| 45349271
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TDTT HÀ NỘI TẬP BÀI GIẢNG
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC THỂ DỤC THỂ THAO
Biên soạn: GVCC. PGS. TS. Bùi Quang Hải TS. Nguyễn Thu Nga
Ths. Lê Thị Thu Thúy 1 lOMoAR cPSD| 45349271 Hà Nội, 12-2021
PHẦN I. LÝ LUẬN VỀ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CHƯƠNG I CÁC KHÁI
NIỆM VỀ KHOA HỌC VÀ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 1.1. KHÁI NIỆM KHOA HỌC
Khoa học là hệ thống các tri thức về các quy luật khách quan của tự nhiên, xã
hội và tư duy được tích lũy trong quá trình phát triển của lịch sử loài người nhằm
phát hiện, giải thích những quy luật khách quan của các hiện tượng.
Nhưng không phải mọi tri thức đều là khoa học. Những tri thức do con người
thu được qua quan sát thông thường, đơn giản, mặc dầu có tác dụng rất quan trọng
đối với cuộc sống nhưng không thể gọi là khoa học được, vì chúng không chỉ ra
được bản chất và mối quan hệ lẫn nhau giữa các hiện tượng. Do đó, chỉ có những
tri thức vạch ra bản chất, mối liên hệ lẫn nhau và nguyên nhân xuất hiện các hiện
tượng, có khả năng dự báo sự phát triển của chúng trong tương lai mới là khoa học.
Tính chính xác của các tri thức khoa học chỉ được khẳng định khi chúng được kiểm nghiệm trong thực tiễn.
Mục đích và chức năng quan trọng và cơ bản của khoa học là nhận thức thế
giới khách quan. Khoa học là để trực tiếp giải thích các khía cạnh hiện thực của tất
cả các hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy, đồng thời tác động lên chúng để
mang lại những kết quả hữu ích cho xã hội. Do đó, sự phát triển nhanh hay chậm
của xã hội phần lớn bị chi phối bởi sự phát triển và tiến bộ của khoa học. Khoa học
hiện đại là động lực cho sự tiến bộ của nền kinh tế - xã hội. Nó xác định quy mô và
nhịp độ phát triển của sự tiến bộ đó. Khoa học ứng dụng vào sản xuất sẽ làm tăng
trưởng năng suất lao động, nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm.
Áp dụng khoa học vào trong các hoạt động thể dục thể thao sẽ góp phần tăng
cường sức khỏe và thể lực cho người tập, nâng cao thành tích thể thao cho vận
động viên, tối ưu hóa quá trình quản lý, nâng cao chất lượng, độ bền và vẻ đẹp cho
các đề tài xây dựng và hàng hóa thể thao.
1.2. ĐẶC ĐIỂM CỦA KHOA HỌC HIỆN ĐẠI
Khác với trước đây, ngày nay khoa học hiện đại hàm chứa những đặc điểm sau:
- Trước hết cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại đã bước sang một giai
đoạn mới và phát triển như vũ bão. Chúng ta đang chứng kiến một giai đoạn mới
của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ 4.0 phát triển với nhịp độ nhanh, đột
phá. Lịch sử chưa bao giờ diễn ra một nhịp độ phát triển khoa học nhanh đến như
vậy. Chỉ 40 năm lại đây khối lượng tri thức khoa học của nhân loại đã đạt được bằng
75% khối lượng tri thức được tích lũy từ trước đó. 2 lOMoAR cPSD| 45349271
Đặc điểm của hoạt động khoa học trong 270 năm lại đây đã tăng theo quy
luật siêu tốc. Cứ 10 - 15 năm tất cả các chỉ tiêu đều tăng gấp đôi.
Sự phát triển vũ bão của khoa học còn thể hiện ở chỗ đã nảy sinh những bộ
môn khoa học hướng vào những vấn đề mới mẻ và ngày càng xuất hiện các ngành
mới, hướng mới và vấn đề mới. Đã xuất hiện việc tách một ngành khoa học thành
2, 3 và thậm chí còn nhiều hơn các ngành mới. Chẳng hạn gần đây đã xuất hiện các
khoa học mới như: trí tuệ nhân tạo; thực tế ảo, thực tại ảo; điện toán đám mây; tự động hóa....
- Một đặc điểm không kém phần quan trọng là khoa học đã trở thành lực lượng sản
xuất trực tiếp, là cơ sở của sự tiến bộ kỹ thuật và là một lĩnh vực có hiệu quả nhất,
đảm bảo cho hiệu quả kinh tế cao nhất nhờ áp dụng các tiến bộ khoa học. Ví dụ,
riêng ở ngành nông nghiệp nước ta 1/3 giá trị sản lượng gia tăng là nhờ sự đóng
góp của khoa học - công nghệ.
Hiện đang xuất hiện xu thế ngày càng gia tăng mức độ ứng dụng các thành
tựu khoa học vào sản xuất và đời sống xã hội. Nhờ những chương trình cấp nhà
nước, cấp ngành với sự tham gia của nhiều nhà khoa học, các viện và trung tâm
nghiên cứu, các trường Đại học, khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất xã hội và
đã tạo nên những sự chuyển biến sâu sắc trong mối quan hệ giữa khoa học với sản
xuất. Mối quan hệ này biểu hiện ở chỗ:
+ Nhiều ngành sản xuất mới và quy trình công nghệ mới trước hết là bắt
nguồn từ các cơ sở khoa học (nguyên liệu mới, năng lượng mới...);
+ Rút ngắn thời gian từ khâu nghiên cứu đến khâu ứng dụng các thành tựu
khoa học vào sản xuất. Trước đây thời gian đó phải kéo dài hàng chục năm, nhưng
ngày nay, như Lazer thì chỉ sau ít năm đã được áp dụng, máy vi tính vài ba tháng đã
thay đời mới và lúc đó đồ cũ đã trở nên lỗi thời, lạc hậu;
+ Trong các cơ sở sản xuất (nhà máy, hợp tác xã...) và đơn vị sự nghiệp cũng
tiến hành và phát triển các đề tài nghiên cứu khoa học, trong đó có sự hợp tác ngày
càng chặt chẽ của các nhà khoa học với các kỹ sư, công nhân và viên chức nhà nước;
+ Trình độ tay nghề và tri thức khoa học của công nhân, cán bộ kỹ thuật, cũng
như trình độ dân trí được nâng lên tạo điều kiện để ứng dụng có hiệu quả các tri
thức khoa học vào thực tiễn và đời sống.
Vì vậy, một hình thức nhận thức của xã hội, khoa học - công nghệ cùng với
giáo dục - đào tạo đã được Đảng và Nhà nước ta xem là quốc sách hàng đầu, là
động lực phát triển kinh tế - xã hội, là nhân tố chủ yếu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
và củng cố quốc phòng an ninh, là điều kiện cần thiết để giữ vững độc lập dân tộc
và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Nhưng khoa học - công nghệ nước ta phát triển chậm, chưa tương xứng với
tiềm năng sẵn có, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển trong thời kỳ công nghiệp
hóa hiện đại hóa, còn thua kém so với nhiều nước trong khu vực. Nhiều vấn đề đặt
ra trong công cuộc đổi mới chưa có sự giải đáp thỏa đáng về phương diện lý luận. 3 lOMoAR cPSD| 45349271
Nhiều vấn đề kinh tế - xã hội thiếu những dự báo khoa học. Tình trạng chậm trễ
trong một số lĩnh vực lý luận và khoa học xã hội chưa được khắc phục.
Đối với Ngành Thể dục Thể thao, đặc biệt là đối với cán bộ khoa học, trong
đó có đội ngũ giáo viên thể dục thể thao, không tiến hành nghiên cứu khoa học thì
khó có thể đạt được những thành tích đáng kể trong công tác thể dục thể thao, đặc
biệt là trong huấn luyện thể thao, phát triển thể chất, trong đào tạo cán bộ và tổ
chức quản lý... sở dĩ như vậy là vì:
Một: Nhiều vấn đề về thể dục thể thao còn chưa được nghiên cứu.
Hai: Một số vấn đề tuy có nghiên cứu nhưng chưa giải quyết đến nơi đến
chốn hoặc nghiên cứu còn tủn mủn và tản mạn.
Ba: Một số vấn đề do cuộc sống thể dục thể thao đặt ra ở nước ta hoàn toàn
khác với các nước (con người Việt Nam, tổ chức quản lý, kinh tế thể thao...), nhất
là ở thời kỳ công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
Do đó, khoa học thể dục thể thao được đặt ra như là một trong những điều
kiện quan trọng hàng đầu để giải quyết thành công nhiệm vụ giáo dục thể chất,
huấn luyện thể thao nói riêng và thể dục thể thao nói chung.
Vì vậy, những người làm công tác thể dục thể thao đặc biệt là huấn luyện
viên, giáo viên thể dục thể thao không những chỉ giỏi về lý luận, nắm vững phương
pháp và thành thạo thực hành, mà còn phải là một cán bộ khoa học mẫn cán.
Với sinh viên, trong thời gian ngồi trên ghế nhà trường ngoài việc phải học
tốt, tập luyện tốt và biết phương pháp thể dục thể thao, còn phải rèn luyện để có
kỹ năng tổ chức và tiến hành nghiên cứu khoa học.
1.3. KHOA HỌC LÀ HỆ THỐNG CÁC TRI THỨC
Theo V.I.Lênin, lộ trình nhận thức là từ quan sát sinh động đến tư duy trừu
tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn. Quá trình nhận thức bao giờ cũng bắt
đầu từ việc thu nhận các sự kiện. Bản thân sự kiện chưa phải là khoa học, song theo
I.P.Paplop, nó là không khí của nhà khoa học. Vì vậy, sự kiện là một bộ phận không
tách rời của các tri thức khoa học nếu như nó được thu thập và khái quát một cách có hệ thống.
Tiến hành hệ thống hóa và khái quát hóa sự kiện theo cách trừu tượng đơn
giản nhất, đó là khái niệm. Nó là một thành phần cấu trúc quan trọng của khoa học.
Những khái niệm lớn hơn, nghĩa là sự trừu tượng chung nhất gọi là phân loại.
Một dạng quan trọng của các tri thức là các nguyên tắc (định lý, quy tắc). Các
nguyên tắc chính là vị trí xuất phát của một lĩnh vực khoa học nào đấy. Chúng là
dạng sơ khai của việc hệ thống hóa các tri thức.
Khâu quan trọng nhất trong hệ thống các tri thức khoa học là các quy luật
khoa học. Các quy luật khoa học phản ánh những mối quan hệ bản chất nhất, ổn
định nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Một hình thức có tính khái quát và hệ thống cao nhất gọi là học thuyết. Học
thuyết là lý luận về các kinh nghiệm và thực tiễn đã được khái quát để hình thành
các nguyên tắc và phương pháp khoa học làm cơ sở để tiến hành khái quát, nhận 4 lOMoAR cPSD| 45349271
thức các quá trình và hiện tượng, phân tích ảnh hưởng của các nhân tố khác nhau
lên các quá trình, hiện tượng đó và đề xuất các kiến nghị áp dụng vào thực tiễn.
Khi các nhà nghiên cứu chưa đưa ra những minh chứng đáng tin cậy, thì họ
sử dụng giả thuyết khoa học. Giả thuyết khoa học là nhận định cần được chứng
minh. Giả thuyết là nhận định sơ bộ, là kết luận giả định của nghiên cứu, hoặc là
luận điểm cần chứng minh của nghiên cứu. Mendeleev nói: " Không có một nghiên
cứu nào không phải đặt giả thuyết".
Giả thuyết khoa học thường được xem như là một sự diễn đạt sơ khai, một
phương án giả định về các quy luật sẽ được chứng minh. Nhiều quy luật khoa học
và học thuyết đã được hình thành trên cơ sở các giả thuyết này.
Một hình thức thực hiện và phát triển khoa học là nghiên cứu khoa học.
nghiên cứu các hiện tượng và các quá trình, phân tích ảnh hưởng các nhân tố khác
nhau tới các quá trình và hiện tượng đó, cũng như nghiên cứu mối quan hệ giữa
các hiện tượng và giữa các quá trình nhằm đi đến các quyết định có đủ sức thuyết
phục và có lợi cho khoa học và thực tiễn với hiệu quả tối đa.
Nghiên cứu khoa học có đối tượng (khách thể) của nó. Đối tượng nghiên cứu
có thể là thế giới vật chất (ví dụ: dụng cụ và thiết bị thể thao, sân bãi, nhà tập...),
hiện tượng (ví dụ: mệt mỏi, hứng thú...), thuộc tính (ví dụ: năng lực làm việc, trình
độ tập luyện...), cũng như mối liên hệ giữa các hiện tượng và thuộc tính.
Mục đích nghiên cứu khoa học là: dựa trên cơ sở các nguyên tắc và phương
pháp nhận thức đã được hoàn thiện trong khoa học xác định đối tượng cụ thể,
nghiên cứu toàn diện và khách quan cấu trúc, đặc tính và mối quan hệ giữa chúng
để gặt hái những kết quả hữu ích cho hoạt động con người, trên cơ sở ứng dụng
các tiến bộ khoa học vào thực tiễn.
Phương pháp là cách thức nghiên cứu dưới góc độ lý thuyết hoặc thực
nghiệm các hiện tượng hay quá trình nào đấy. Phương pháp là công cụ để giải quyết
nhiệm vụ chủ yếu của khoa học (chỉ ra các quy luật hoạt động khách quan). Phương
pháp xác định sự cần thiết và vai trò của việc vận dụng cách quy nạp hoặc phép suy
diễn, phân tích và tổng hợp, so sánh các kết quả nghiên cứu lý luận và thực nghiệm.
Phương pháp nghiên cứu có phương pháp nghiên cứu chung và phương pháp
nghiên cứu chuyên biệt. Phương pháp nghiên cứu chung gồm phương pháp duy vật
biện chứng và phương pháp toán học. Một nhà khoa học, bất kỳ thuộc lĩnh vực nào,
cũng phải nắm chắc những nguyên lý triết học Mác - Lênin làm cơ sở phương pháp
luận cơ bản cho nghiên cứu của mình. Đồng thời, cũng cần phải biết phương pháp
toán học, đặc biệt là phương pháp toán học thống kê. Khoa học sẽ càng sáng tỏ nếu
như những phương pháp nghiên cứu chất lượng được ứng dụng các phương pháp
nghiên cứu số lượng để xử lý.
Phương pháp nghiên cứu chuyên biệt nhằm giải thích tính chất của các quá
trình hoạt động của một hiện tượng nào đấy.
Dựa vào những phương pháp nghiên cứu chung và phương pháp nghiên cứu
chuyên biệt, nhà khoa học sẽ thu được những câu trả lời là bắt đầu nghiên cứu từ 5 lOMoAR cPSD| 45349271
cái gì, xử lý như thế nào đối với các sự kiện, làm thế nào để khái quát và bằng cách
nào để đi đến kết luận.
Hệ phương pháp, đó là tổng hợp các phương pháp, biện pháp, thủ đoạn, trình
tự của chúng và các phương án được chấp nhận khi tiến hành nghiên cứu khoa học.
Hệ phương pháp có hệ phương pháp chung và hệ phương pháp chuyên biệt.
Hệ phương pháp chung là những nguyên lý của phép duy vật biện chứng, học thuyết
Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm xác định các quy luật phát triển nhận
thức nói chung. Còn hệ phương pháp chuyên biệt là dựa trên các quy luật của các
khoa học cụ thể và dựa trên đặc điểm nhận thức các hiện tượng cụ thể. Nó có quan
hệ mật thiết với các nguyên tắc và quy luật của khoa học cụ thể, với các phương
pháp nghiên cứu chuyên biệt.
Các nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra trong khi giải quyết các vấn đề khoa học đóng
vai trò rất quan trọng trong nghiên cứu khoa học. Có nhiệm vụ thực nghiệm và có nhiệm vụ lý luận.
Nhiệm vụ thực nghiệm nhằm giải thích và trình bày chính xác, cũng như
nghiên cứu tỷ mỷ các sự kiện khác nhau của các hiện tượng và quá trình. Trong
nghiên cứu khoa học, nhiệm vụ thực nghiệm được giải quyết bằng các phương pháp
nhận thức khác nhau như quan sát và thực nghiệm.
Quan sát là phương pháp nhận thức mà không làm ảnh hưởng đến đối tượng
nghiên cứu, trong đó sử dụng việc ghi chép, đo đạc các thuộc tính và tính chất thay
đổi của đối tượng. Ví dụ: quan sát các hoạt động thi đấu quan sát diễn biến trạng
thái vận động viên trong một buổi tập...
Thực nghiệm là phương pháp nhận thức có tính thực nghiệm chung nhất,
trong đó không những tiến hành quan sát và đo đạc, mà còn tiến hành tổ chức lại
để chi phối và tác động đến đối tượng nghiên cứu... Phương pháp này có thể làm
rõ ảnh hưởng của nhân tố này tới nhân tố khác.
Các phương pháp thực nghiệm đóng vai trò quan trọng trong nghiên cứu
khoa học. Chúng không chỉ là điều kiện để khẳng định các cơ sở lý luận thiết yếu,
mà thường là hình thành những phát minh và nghiên cứu khoa học mới.
Nhiệm vụ lý luận nhằm nghiên cứu để tìm ra nguyên nhân, mối quan hệ phụ
thuộc và sự liên hệ cho phép xác định hành vi đối tượng, làm rõ cấu trúc, đặc tính
của nó dựa trên các nguyên tắc và phương pháp khoa học đã được sáng tỏ. Nhờ
các tri thức thu được người ta hình thành các quy luật hoàn thiện lý luận, kiểm tra
sự kiện... Các nhiệm vụ lý luận được hình thành như vậy cũng có thể kiểm định bằng thực nghiệm.
Khi giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu khoa học, phương pháp nhận thức
logic đóng vai trò quan trọng. Nó cho phép lý giải các hiện tượng, quy trình, đưa ra
các kiến nghị và ý tưởng khác nhau, xây dựng lộ trình giải quyết vấn đề một cách
chính xác trên cơ sở các sự kiện thu được và các kết quả nghiên cứu thực nghiệm.
Như vậy, hệ thống các tri thức dưới dạng khoa học bao gồm các sự kiện, khái
niệm, nguyên tắc, giả thuyết, quy luật và học thuyết mà thông qua chúng cho phép 6 lOMoAR cPSD| 45349271
tiên đoán được các sự kiện và điều khiển được các mối quan hệ xã hội, quan hệ sản
xuất và sức sản xuất.
Khoa học là của xã hội, mặc dầu thừa nhận sự sáng tạo to lớn của nhà khoa
học. C.Mác nói: xét theo sự phát sinh, phát triển và sử dụng thì khoa học là của toàn
xã hội. Vì vậy, tất cả các phát minh khoa học suy cho cùng đều là kết quả lao động
của xã hội. Ngoài ra, yêu cầu quan trọng nhất đối với mọi tri thức khoa học là phải
có ý nghĩa trong thực tiễn, nghĩa là chúng có tính kiểm chứng và tái hiện. Đồng thời,
mọi tri thức khoa học luôn luôn có tính ổn định cao. Các tri thức khoa học nhanh
chóng trở nên lỗi thời chứng tỏ chúng không được nghiên cứu một cách đầy đủ,
khái quát còn nông cạn, dự báo thiếu cơ sở khoa học. Vì vậy, tính khoa học của các
kết luận và khái quát càng cao, càng tin cậy thì kết quả nghiên cứu khoa học càng
cao. Các kết luận và khái quát đó phải là tiền đề cho những đề tài nghiên cứu mới.
1.4. PHÂN LOẠI KHOA HỌC
Vấn đề phân loại, nghĩa là tìm ra những đặc điểm chung và mối quan hệ lẫn
nhau giữa các khoa học, từ xưa đã được chú ý.
Quy nạp lại, hiện nay tồn tại phổ biến hai cách phân loại khoa học. Cách thứ
nhất là cách phân loại theo lối hình thức, chủ quan, trong đó khẳng định giữa các
khoa học có những ranh giới nghiêm ngặt. Thực tế phát triển của khoa học hoàn
toàn phủ nhận cách phân loại kể trên. Cách thứ hai, đó là cách phân loại khoa học
đúng đắn hơn, trong đó người ta dựa trên nguyên tắc khách quan, thừa nhận các
khoa học có mối quan hệ với nhau nhất định. Theo nguyên tắc này, mỗi khoa học
riêng biệt, một dạng vận động nhất định hay một hình thái nhất định của vật chất
và tổng thể các khoa học phải phản ánh tất cả các dạng vận động đó trong mối liên hệ qua lại giữa chúng.
Ph. Ănghen trong phép biện chứng của tự nhiên, đã đề ra hai nguyên tắc
chung của phép biện chứng trong phân loại các khoa học - nguyên tắc khách quan
và nguyên tắc phát triển. Riêng nguyên tắc phát triển, không cho phép có sự gián
đoạn giữa các khoa học, mà giữa chúng nảy sinh sự chuyển tiếp mà khoa học có
nhiệm vụ phát hiện và nghiên cứu, nghĩa là phải tìm ra những cái “cầu nối” giữa các
khoa học. Hai nguyên tắc này đóng vai trò như một lợi khí của nhận thức, là một
phương pháp để phòng, giúp các nhà bác học khỏi đi vào một sự chuyên môn hoá
quá hẹp và khuynh hướng một chiều.
Dựa vào những nguyên tắc kể trên, theo viện B.Kêđơrốp đã phân loại khoa học gồm: 1- Khoa học triết học, 2- Khoa học toán học.
3- Khoa học tự nhiên và khoa học kỹ thuật. 4- Khoa học xã hội.
Ngày nay, các khoa học được chia thành 3 loại một cách hợp lý hơn, mặc dù
không nảy sinh những vấn đề trái với các nguyên tắc phân loại khoa học. Theo đó
các khoa học được chia thành ba nhóm lớn là khoa học xã hội và nhân văn, bao gồm 7 lOMoAR cPSD| 45349271
cả triết học, khoa học tự nhiên (bao gồm cả toán) và khoa học kỹ thuật. Trong mỗi
nhóm, người ta còn chia ra những thành phần nhỏ gọi là môn khoa học.
Khoa học xã hội và nhân văn là khoa học nghiên cứu các quy luật về sự vận
động và phát triển của xã hội và tư duy như triết học, chính trị kinh tế học, văn học,
tâm lý học giáo dục học... Thể dục thể thao nói chung là thuộc nhóm khoa học này.
Khoa học tự nhiên là khoa học nghiên cứu các quy luật về sự vận động và
phát triển của thế giới vật chất gồm: toán học, vật lý học, hoá học, động vật học,
thực vật học, giải phẫu học, sinh lý người...
Bảng 1. Phân loại khoa học (Theo B.Kêđơrốp) KHOA HỌC - Phép biện chứng TRIẾT HỌC - Lôgich học KHOA HỌC - Lôgich toán học TOÁN HỌC
- Toán học… và toán học ứng dụng
- Cơ học… và cơ học ứng dụng - Thiên văn học - Thiên văn vật lý
- Vật lý học… và vật lý kỹ thuật KHOA HỌC - Lý hóa… TỰ NHIỆN - Hóa lý…
Và các khoa học kỹ thuật hóa học VÀ - Hóa học…
(trong đó có khoa luyện kim) - Địa hóa học… KHOA HỌC
- Địa chất… và kỹ thuật mỏ KỸ THUẬT - Địa lý - Sinh hóa học
- Sinh vật học… và các khoa học nông nghiệp - Sinh lý người… Và các khoa học y học - Nhân loại học - Lịch sử - Khảo cổ - Nhân chủng học - Địa lý kinh tế KHOA HỌC
- Thống kê xã hội kinh tế 8 lOMoAR cPSD| 45349271 XÃ HỘI - Kinh tế học - Khoa học về cơ
- Khoa học về nhà nước và pháp luật sở và kiến trúc
- Lịch sử và lý luận nghệ thuật thượng tầng…
- Lịch sử và lý luận văn học…
- Ngôn ngữ học… Và giáo dục học - Tâm lý học… Và các khoa học khác
Khoa học kỹ thuật là khoa học nghiên cứu về sự ứng dụng các thành tựu của
khoa học tự nhiên vào trong trong lĩnh vực kỹ thuật công nghệ nhằm tìm ra các máy
móc, thiết bị mới, các quy trình công nghệ mới...
Trong thể dục thể thao, những vấn đề như nghiên cứu quan hệ giữa thể dục
thể thao và phát triển kinh tế xã hội, nghiên cứu về hệ thống tổ chức và cơ chế quản
lý vĩ mô trong cơ chế thị trường theo định hướng XHCN, kinh tế thể dục thể thao
và lý luận về giá trị thể dục thể thao... là thuộc lĩnh vực của khoa học xã hội nhân
văn; những vấn đề như: sinh học, y học thể thao, di truyền học thể thao... chủ yếu
là ở nhóm khoa học tự nhiên; còn những vấn đề nghiên cứu về kết cấu hạ tầng thể
dục thể thao, các thiết bị tập luyện và đo lường, kiểm tra, điều khiển, thông tin
trong thể dục thể thao... là thuộc nhóm khoa học kỹ thuật. Tuy nhiên, do thể dục
thể thao là thuộc lĩnh vực giáo dục, cho nên chủ yếu và cơ bản thể dục thể thao
được xếp vào khoa học xã hội và nhân văn.
1.5. ĐẶC ĐIỂM NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG THỂ DỤC THỂ THAO
Đối tượng của thể dục thể thao là hoạt động sống của con người trong điều
kiện vận động, thể hiện dưới dạng cá nhân hay tập thể, nghiên cứu khoa học trong
thể dục thể thao mang một số đặc điểm sau đây:
- Nghiên cứu khoa học trong thể dục thể thao, là nghiên cứu thuộc lĩnh vực giáo dục.
Tập luyện thể dục thể thao là hoạt động có ý thức của con người để phát tnên các
tố chất thể lực, nâng cao sức khỏe và hoạt động của các cơ quan và hệ thống cơ
thể, hình thành và hoàn thiện các kỹ năng, kỹ xảo vận động, rèn luyện các phẩm
chất ý chí cho bản thân. Nó chịu sự chi phối của các quy luật giáo dục thể chất. Do
đó, nghiên cứu khoa học trong thể dục thể thao là nghiên cứu về con người dưới
sự tác động của các quy luật sinh học và các quy luật xã hội - nhân văn, đặc biệt là các quy luật giáo dục.
- Thể dục thể thao là một lĩnh vực hoạt động đa dạng, nên nghiên cứu khoa học thể
dục thể thao có vận dụng kiến thức và thành tựu của nhiều lĩnh vực khoa học khác
và có nhiều bộ môn khoa học khác thâm nhập vào thể dục thể thao (như: Triết học,
Sinh hóa, Sinh cơ, Toán học, Xã hội học...) để tiến hành nghiên cứu hoàn thiện thể
chất con người, nâng cao thành tích thể thao và cải tiến các hoạt động khác nhau
trong sự nghiệp thể dục thể thao. Thể dục thể thao là giao điểm của nhiều lĩnh vực 9 lOMoAR cPSD| 45349271
khoa học, là nơi mở rộng và phát triển các mối quan hệ giữa thể dục thể thao với
các lĩnh vực khoa học khác đồng thời qua đó hình thành các môn khoa học mới.
- Nghiên cứu khoa học trong thể dục thể thao đã thiết thực giải quyết những yêu cầu
thực tiễn của cuộc sống thể dục thể thao và đang trở thành một yếu tố không thể
tách rời trong việc phát triển phong trào thể dục thể thao, đặc biệt là trong việc
nâng cao thể chất cho mọi người và trong lĩnh vực thể thao nâng cao thành tích,
đồng thời qua đấy khoa học thể dục thể thao cũng có điều kiện để tự khẳng định
và phát triển chính mình.
- Nghiên cứu khoa học thể dục thể thao nói chung là sinh sau, đẻ muộn (nhất là ở
nước ta) so với các lĩnh vực khoa học khác. Nhiều lĩnh vực hoạt động thể dục thể
thao chưa được quan tâm nghiên cứu, đội ngũ làm công tác này còn ít. Tuy vậy, một
số đề tài cấp nhà nước, cấp bộ, cấp thành phố cũng đã được tiến hành, và đã được
ứng dụng vào thực tế hiệu quả.
1.6. CÁC LOẠI HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG THỂ DỤC THỂ THAO
Công tác nghiên cứu khoa học, không những chỉ có các nhà khoa học, các giáo
viên, huấn luyện viên, nghiên cứu sinh và sinh viên tiến hành, mà còn cả các cán bộ
quản lý, kỹ thuật viên… cũng tham gia. Nhưng như đã nói ở trên, khoa học thể dục
thể thao về cơ bản là thuộc lĩnh vực khoa học giáo dục, vì vậy nghiên cứu ở đây thật
đa dạng và có các loại hình khác nhau: có dạng là đề tài về phương pháp đơn thuần,
có dạng là đề tài về phương pháp khoa học và có dạng là đề tài nghiên cứu khoa học.
Đề tài chỉ có đơn thuần về phương pháp và đề tài về phương pháp khoa học
có đặc điểm chung là hướng nghiên cứu ưu tiên chủ yếu nhằm giải quyết các vấn
đề thuộc về phương pháp giáo dục và giáo dưỡng. Tuy nhiên, chúng không phải là
đồng nhất, mà giữa chúng cũng có sự khác biệt nhau nhất định. Đề tài về phương
pháp đơn thuần là những nghiên cứu chỉ nhằm tìm hiểu kinh nghiệm công tác của
các nhà sư phạm với mục đích làm rõ đặc điểm hoạt động của họ, mà không nêu
lên phương cách giải quyết độc đáo vấn đề, không chỉ ra các quy luật sư phạm khách
quan mà người ta chưa biết. Ngược lại, nếu như trong tổng kết đó lại tìm ra hoặc
phát hiện được những vấn đề lý thú, những lộ trình giáo dục mới và sau đấy được
chứng minh trong điều kiện thực nghiệm để khẳng định những quy luật giáo dục và
giáo dưỡng trong thực tiễn, thì những nghiên cứu như vậy được xem là đề tài
nghiên cứu về phương pháp khoa học.
Do đó, về thực chất, đề tài về phương pháp khoa học là một trường hợp cá
biệt của đề tài nghiên cứu khoa học mà thôi. Như vậy, đề tài nghiên cứu khoa học
không chỉ là các vấn đề về phương pháp luận giáo dục và giáo dưỡng, mà còn hàm
chứa những vấn đề rộng lớn hơn.
Với cách lý giải ở trên, chỉ có những nghiên cứu về phương pháp khoa học và
những nghiên cứu khoa học, mới được xem là các đề tài nghiên cứu khoa học. Đó
là những đề tài đáp ứng được các yêu cầu của công tác khoa học. 10 lOMoAR cPSD| 45349271
Những đề tài nghiên cứu khoa học lại tuỳ theo các dấu hiệu khác nhau mà
người ta lại phân ra các đề tài khác nhau:
1.6.1. Theo các mối quan hệ giữa công tác nghiên cứu khoa học với thực tiễn phong
trào thể dục thể thao lại chia ra:
+ Các đề tài nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực thể dục thể thao quần chúng;
+ Các đề tài nghiên cứu khoa học trong đào tạo vận động viên;
+ Các đề tài nghiên cứu khoa học nhằm hoàn thiện công tác tổ chức quản lý và đào tạo cán bộ;
+ Những đề tài nghiên cứu khoa học trên lĩnh vực kết cấu hạ tầng, thiết bị,
dụng cụ thể dục thể thao và kinh tế thể thao.
1.6.2. Theo tầm quan trọng của công tác nghiên cứu đối với nên kinh tế quốc dân hoặc
văn hóa - xã hội chia các đề tài nghiên cứu khoa học ra:
+ Các đề tài nghiên cứu khoa học cấp nhà nước. Đó là những đề tài quan
trọng nhất nhằm giải quyết các vấn đề có tầm vĩ mô của nhà nước và thực hiện theo kế hoạch nhà nước.
+ Các đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Ngành là những nghiên cứu có tầm
quan trọng đặc biệt đối với Bộ, Ngành và thực hiện theo kế hoạch Bộ, Ngành.
+ Các đề tài nghiên cứu khoa học cấp Tỉnh, Thành.
+ Các đề tài nghiên cứu khoa học cấp Trường, Viện và trung tâm khoa học.
1.6.3. Theo nguồn kinh phí được cấp, các đề tài nghiên cứu khoa học chia ra:
+ Các đề tài nghiên cứu khoa học được tiến hành từ nguồn kinh phí nhà nước.
+ Các đề tài nghiên cứu khoa học được tiến hành theo nguồn kinh phí hợp đồng.
+ Các đề tài nghiên cứu khoa học được tiến hành từ nguồn kinh phí tự có hoặc của cá nhân.
1.6.4.. Theo thời gian, các đề tài nghiên cứu khoa học chia ra:
+ Các đề tài nghiên cứu khoa học dài hạn: thường là một số năm.
+ Các đề tài nghiên cứu khoa học ngắn hạn: thường là trong vòng 1 năm.
1.6.5. Theo định hướng nghiên cứu, các đề tài nghiên cứu khoa học lại phân thành: + Nghiên cứu cơ bản. + Nghiên cứu ứng dụng + Nghiên cứu triển khai.
Nghiên cứu cơ bản là các hoạt động nghiên cứu lý thuyết hoặc thực nghiệm
nhằm khám phá những tri thức mới về các quy luật tự nhiên, xã hội và tư duy
(Những đề tài thuộc dạng điều tra thể chất, trạng thái vận động, trạng thái tâm lý...
là thuộc loại này). Nghiên cứu cơ bản nói chung, thường được thực hiện trong phòng thí nghiệm.
Nghiên cứu ứng dụng là nghiên cứu dựa trên các kết quả nghiên cứu cơ bản
để tạo nên những phương pháp mới, nhờ đó mà sản xuất ra những thiết bị, máy
móc, nguyên liệu mới hoặc cải tiến phương thức và cách tổ chức làm việc mới (như 11 lOMoAR cPSD| 45349271
huấn luyện, giảng dạy...). Những nghiên cứu kiểu này rất phù hợp với yêu cầu của
ngành nhằm nhanh chóng phát triển phong trào thể dục thể thao nước ta.
Nghiên cứu triển khai là nghiên cứu nhằm mục đích biến đổi những nghiên
cứu ứng dụng (hoặc lý luận) vào trong thực tiễn. Nghiên cứu triển khai với mục đích
cuối cùng là chỉ rõ hoặc tìm ra phạm vi áp dụng trong các hoạt động khác nhau của
đời sống thể dục thể thao. 12 lOMoAR cPSD| 45349271
CHƯƠNG II GIAI ĐOẠN CHUẨN BỊ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI KHOA HỌC
2.1. Phân tích lý luận và thực tiễn( Đọc và tham khảo tài liệu)
Thể dục thể thao cũng như các ngành khoa học khác, nó là ngành khoa học
có lịch sử hình thành và phát triển; có kho tàng lý luận và thực tiễn phong phú, chứa
đựng vô số các vấn đề; các mâu thuẫn nảy sinh và cần được giải quyết. Các đề tài
khoa học nhằm giải quyết các mâu thuẫn, tạo nên động lực cho sự phát triển.
Các đề tài nghiên cứu được hình thành chính từ nguồn lý luận phong phú, từ
thực tiễn sinh động. Nhà nghiên cứu thường xuyên theo dõi thông tin nghiên cứu
thông qua hoạt động đọc tài liệu tham khảo theo từng lĩnh vực chuyên ngành hẹp,
phát hiện các “khoảng trống khoa học” hay “các mảnh đất hoang” đó chính là những
vấn đề chưa được nghiên cứu, đang bị bỏ ngỏ, có thể đi vào khai phá để biến chúng
thành mảnh đất màu mỡ, cho thu hoạch nhiều hoa, trái. Đề tài nghiên cứu cũng có
thể được hình thành từ những điều vướng mắc của thực tiễn tập luyện (đối với sinh
viên), của thực tiễn giảng dạy, huấn luyện (đối với giáo viên và huấn luyện viên)…
Giải quyết các đề tài từ chính các vấn đề thực tiễn, đòi hỏi có tính cấp thiết rất lớn
về mặt xã hội. Lý luận và thực tiễn luôn vận động, biến đổi nên luôn chứa đựng
nhiều mâu thuẫn cần được giải quyết, số lượng đề tài nghiên cứu không bao giờ cạn.
2.2. Lựa chọn hướng và đề tài nghiên cứu
2.2.1. Lựa chọn hướng nghiên cứu
Hướng nghiên cứu (còn gọi là phương hướng nghiên cứu) là vấn đề nghiên cứu
lớn, có thể nghiên cứu trong một số năm đến một vài chục năm.
Các hướng nghiên cứu của ngành thể dục thể thao Việt Nam hiện nay là:
Tuyển chọn vận động viên các môn thể thao; điều tra thể chất người Việt Nam; đào
tạo, phân bổ và sử dụng cán bộ thể dục thể thao; huấn luyện thể lực cho vận động viên các môn thể thao…
Để lựa chọn đề tài nghiên cứu phù hợp, nhà nghiên cứu cần xác định phương
hướng của mình, trước hết là các hướng được ngành thể dục thể thao quan tâm, chỉ đạo.
2.2.2. Lựa chọn đề tài nghiên cứu
- Khái niệm: Đề tài nghiên cứu là sự cụ thể hóa vấn đề khoa học của một hướng nghiên cứu.
Trong một hướng nghiên cứu có nhiều đề tài, thí dụ hướng nghiên cứu “Điều
tra thể chất người Việt Nam” có thể hình thành nhiều đề tài: điều tra theo độ tuổi,
điều tra theo vùng dân cư, điều tra theo nghề nghiệp... sau đó lại có thể chia nhỏ hơn nữa.
- Các yêu cầu đối với một đề tài khoa học: 13 lOMoAR cPSD| 45349271
+ Đề tài phải mang tính cấp thiết, nghĩa là phải xuất phát từ nhu cầu lý luận
và thực tiễn đòi hỏi. Nếu vấn đề được giải quyết, sẽ thúc đẩy công tác giảng dạy,
huấn luyện để đạt tới kết quả cao hơn trước.
+ Đề tài phải mang tính chất thời sự, mới lạ về mặt khoa học vào những lĩnh
vực sinh động, sôi nổi của thực tiễn thể dục thể thao và sức khoẻ con người hiện
đại; thể dục thể thao và thành tích cao... Những nhu cầu của thực tiễn xã hội luôn
là trọng tâm thu hút sự chú ý của các nhà khoa học.
+ Đề tài phải gây được tính hứng thú cao, tính hứng thú sẽ tạo ra sự say mê
nghiên cứu, giúp nhà nghiên cứu sẵn sàng khắc phục khó khăn, sẵn sàng hiến dâng
trí tuệ và sức lực của mình cho công việc. Hứng thú còn là cơ sở của tinh thần trách
nhiệm và sự sáng tạo. Vì vậy, nhà nghiên cứu phải tự mình chủ động tìm kiếm đề
tài là cách tốt nhất, không nên tham gia vào đề tài nghiên cứu bị ép buộc.
+ Đề tài nghiên cứu phải mang tính mới lạ về mặt khoa học. Nhà khoa học
không được phép nghiên cứu lại đề tài mà người khác đã tiến hành, với cùng một
cách giải quyết. Đôi khi cũng có thể nghiên cứu một vấn đề cũ, song phải bằng
phương pháp và bịện pháp mới, có tính sáng tạo hơn hẳn.
- Đề tài phải phù hợp với trình độ nhà nghiên cứu, không chọn đề tài đòi hỏi năng
lực làm việc cao hơn mức hiện có. Dựa vào trình độ nghiên cứu khoa học, có thể
phân chia đề tài thành một số mức độ sau đây: Đề tài tiểu luận; đề tài luận văn tốt
nghiệp (dành cho sinh viên); đề tài luận án thạc sĩ (dành cho học viên cao học); đề
tài luận án tiến sĩ (dành cho nghiên cứu sinh). Theo thời gian, trình độ của cán bộ
khoa học ngày một vững vàng, nhà nghiên cứu sẽ dần dần có đủ năng lực đảm
đương những công việc khó nhọc và to lớn hơn.
- Chọn đề tài cũng phải phù hợp với điều kiện nghiên cứu: Về đối tượng, về phương
tiện sân bãi, dụng cụ tập luyện, trang thiết bị dụng cụ nghiên cứu, thời gian nghiên
cứu và kinh phí cần thiết. Thí dụ: Ở nhiều môn thể thao của Việt Nam, số lượng vận
động viên cấp cao rất hiếm, nên chọn đề tài nghiên cứu đối tượng này là không
thực tế. Nếu có chọn cần phải được cân nhắc kỹ càng.
- Nên chọn đề tài hẹp về phạm vi, để có thể nghiên cứu sâu, triệt để và toàn diện.
Trong dân gian có câu “Cuốc càng sâu, đất càng quánh”. Không nên chọn đề tài có
phạm vi rộng, vì khó giải quyết và khó đạt được hiệu quả cao. Đề tài hẹp thông
thường có liên quan đến tính chất cụ thể. Vì vậy, không thể có đề tài nghiên cứu
chung chung và trìu tượng, không đảm bảo đem lại lợi ích cho thực tiễn thể dục thể thao.
Như vậy, chọn đề tài nghiên cứu là việc làm hết sức nghiêm túc và có trách
nhiệm, không chỉ liên quan đến bản thân nhà khoa học, mà còn liên quan đến tập
thể, nơi họ đang học tập hay công tác. Do đó, có thể nói: Chọn đề tài nghiên cứu có ý nghĩa xã hội.
2.2.3. Các cách lựa chọn đề tài nghiên cứu:
Thông thường các nhà khoa học (đặc biệt người mới bước vào nghiên cứu)
trẻ hay phân vân không biết nên sử dụng trí tuệ, sức lực như thế nào khi lựa chọn 14 lOMoAR cPSD| 45349271
đề tài. Họ luôn nghĩ tất cả những cái có trong tự nhiên, xã hội đều đã được người
khác nghiên cứu, không còn cái gì dành cho mình nữa. Các nhà nghiên cứu có kinh
nghiệm phải hướng dẫn họ đến với các cách lựa chọn sau đây:
- Thường xuyên theo dõi, tổng kết những thành tựu nghiên cứu khoa học của ngành.
Cho đến nay, ngành thể dục thể thao trên 60 năm phát triển, đội ngũ cán bộ khoa
học trình độ cao đã triển khai nghiên cứu nhiều đề tài cấp Nhà nước, cấp viện,
trường, sở thể dục thể thao. Hàng trăm nghiên cứu sinh đã bảo vệ thành công luận
án tiến sĩ. Hàng ngàn cử nhân đã bảo vệ thành công luận văn thạc sĩ. Tất cả kết quả
nghiên cứu được công bố là những tài liệu quý báu giúp cho các nhà khoa học trẻ
thêm kinh nghiệm chọn đề tài cho mình, hướng suy nghĩ vào những vấn đề còn ít được nghiên cứu.
- Tham khảo ý kiến của các chuyên gia trong lĩnh vực chuyên ngành hẹp. Ý kiến của
các chuyên gia trong từng chuyên ngành hẹp về lý luận và thực hành thể thao rất
có giá trị. Các chuyên gia thường là những nhà nghiên cứu có kinh nghiệm, giúp các
nhà khoa học trẻ xác định được những vấn đề quan trọng trước mắt và hướng giải
quyết đề tài đó trên cơ sở điều kiện hiện có phù hợp với khả năng và trình độ của họ.
- Phân tích thực tiễn học tập hay công tác, phát hiện những mâu thuẫn đang tồn tại,
cũng có thể là con đường dần đến hình thành đề tài nghiên cứu có giá trị cao về
mặt ứng dụng. Thông thường những đề tài được lựa chọn bằng cách này, được giải
quyết rất hiệu quả vì nhà khoa học am hiểu vấn đề nghiên cứu và có ý thức tự giác
đối với công việc rất cao.
- Tìm hiểu kết quả nghiên cứu mới nhất nằm ở ranh giới giữa các ngành khoa học, vì
ở đó thường xuất hiện những môn học mới quan trọng. Các lĩnh vực nằm ở ranh
giới này là những “điểm trắng” trong khoa học. Trong lĩnh vực thể dục thể thao,
nhiều ngành mới ra đời: Tâm lý học, Giáo dục học, Sinh cơ thể dục thể thao... Là
những mảnh đất màu mỡ để giải quyết hàng loạt đề tài quan trọng còn chưa được nghiên cứu.
- Nghiên cứu những phương pháp và biện pháp mới có hiệu quả cao. I. Páp Lốp đã
viết: “Khoa học sẽ được thúc đẩy tiến vọt, tuỳ thuộc vào thành tựu khoa học về mặt
phương pháp luận”. Các đề tài nghiên cứu về phương pháp, biện pháp là những đề
tài nghiên cứu hay, có giá trị nếu nâng lên đến mức cần thiết về mặt lý luận và được
thực tiễn kiểm nghiệm. Trong lĩnh vực thể dục thể thao, nghiên cứu về phương
pháp và biện pháp cũng là một mặt quan trọng dành cho các đề tài nghiên cứu. Đó
là các phương pháp dạy học. Thí dụ: Phương pháp dạy học nêu vấn đề, phương
pháp dạy học chương trình hoá dùng trong thể dục thể thao; Các phương pháp
huấn luyện, phương pháp tuyển chọn vận động viên thể thao, phương pháp xác
định lượng vận động tập luyện...
- Nghiên cứu những đối tượng cũ nhờ phương pháp mới với quan điểm mới. Việc
chọn làm đề tài luận văn khoa học theo nguyên tắc xem xét lại một cách cơ bản
những luận điểm đã có trong lý luận và thực tiễn với lập trường mới, góc độ nhìn 15 lOMoAR cPSD| 45349271
mới, ở trình độ kỹ thuật cao hơn đang được vận dụng rộng rãi trong thực tiễn. Trong
lĩnh vực thể dục thể thao, có thể vận dụng cách chọn đề tài theo quan điểm này. Đó
là những nghiên cứu thay đổi những phương pháp, biện pháp, tiêu chuẩn, hình
thức... cũ bằng những cái mới, trên quan điểm mới, phù hợp với cuộc cách mạng
khoa học kỹ thuật hiện đại đang diễn ra trên đất nước ta.
Các nhà khoa học trẻ tuổi có thể bằng con đường nêu trên lựa chọn cho mình
đề tài. Tuy nhiên, một đề tài lựa chọn hợp lý nhất, nếu thỏa mãn với nhiều cách
chọn. Thí dụ: Bằng cách thường xuyên đọc tài liệu tham khảo, nhà nghiên cứu chọn
được đề tài. Đề tài đó cũng xuất phát từ thực tiễn đòi hòi phải được giải quyết,
được cấp trên triển khai nghiên cứu với quy mô và phạm vi lớn, các chuyên gia
chuyên ngành hay thống nhất ý kiến… Tuy nhiên, nhà nghiên cứu không được phép
chờ đợi hay ỷ lại vào sự giúp đỡ của người khác mà cần thử sức mình qua các lần
nghiên cứu và gắng sức hoàn thành công việc với chất lượng cao. Người ta cho rằng:
Việc chọn đề tài đúng, là thành công một nửa trên bước đường nghiên cứu một đề tài khoa học.
2.3. Xác định nhiệm vụ nghiên cứu
2.3.1. Khái niệm Nhiệm vụ nghiên cứu là sự cụ thể hoá vấn đề khoa học trong một đề tài.
Mỗi đề tài nghiên cứu, thường có một số nhiệm vụ. Đề tài của sinh viên, học
viên cao học có thể cấu tạo từ 2 - 3 nhiệm vụ. Đề tài của nghiên cứu sinh có thể có 2 - 4 nhiệm vụ.
2.3.2. Các yêu cầu đối với nhiệm vụ nghiên cứu
Các nhiệm vụ nghiên cứu phải thoả mãn một số yêu cầu sau đây:
- Cũng như đề tài, nhiệm vụ nghiên cứu phải mang tính mới lạ, sáng tạo về mặt khoa
học, nghĩa là không được đặt thành nhiệm vụ đối với một vấn đề nào đó đã được
tác giả khác nghiên cứu rồi.
- Các nhiệm vụ phải ngắn gọn, nêu được bản chất, nội dung vấn đề nghiên cứu, không có từ ngữ thừa.
- Xác định số lượng, chất lượng nhiệm vụ phải căn cứ vào mục đích giải quyết đề tài,
ảnh hưởng trực tiếp đến công việc nghiên cứu. Do đó, xác định nhiệm vụ nghiên
cứu cũng phải hết sức nghiêm túc và thận trọng.
2.4. Dự kiến phương pháp nghiên cứu
a. Khái niệm: Phương pháp nghiên cứu là cách thu nhận và xử lý thông tin nghiên cứu.
b. Phân loại phương pháp nghiên cứu: Trong nghiên cứu khoa học thể dục thể thao,
người ta sử dụng một hệ thống phương pháp nghiên cứu khác nhau để thu nhận
và xử lý có kết quả các nguồn thông tin. Các phương pháp có thể phân thành một số loại lớn:
- Nhóm phương pháp nghiên cứu sư phạm (thể dục thể thao là một
lĩnh vực của khoa học sư phạm).
- Nhóm phương pháp nghiên cứu y sinh học. 16 lOMoAR cPSD| 45349271
- Nhóm phương pháp nghiên cứu tâm lý học.
- Nhóm phương pháp nghiên cứu kỹ thuật động tác thể dục thể thao.
- Và một số nhóm phương pháp nghiên cứu khác. c. Lựa chọn
phương pháp nghiên cứu:
Lựa chọn phương pháp này hay kia phải căn cứ vào các nhiệm vụ của đề tài. Mỗi
nhiệm vụ của đề tài đều đòi hỏi phải có một hay nhiều phương pháp thu nhận và
xử lý thông tin. Trước khi bước vào nghiên cứu thực sự, nhà nghiên cứu phải dự
kiến các phương pháp, cho phép thu nhận và xử lý thông tin phù hợp với từng nhiệm vụ cụ thể.
Thông thường, các đề tài nghiên cứu lý thuyết (lịch sử, mô tả…), đòi hỏi số
lượng phương pháp nghiên cứu ít hơn so với các đề tài nghiên cứu thực nghiệm.
Thí dụ: Đề tài nghiên cứu: “Sự hình thành và phát triển môn bóng bàn ở Việt Nam”
là một đề tài nghiên cứu lý thuyết, chỉ cần sử dụng hai đến ba phương pháp là đủ
(phương pháp nghiên cứu lý luận, phỏng vấn, toạ đàm). Trong khi đó, ở đề tài
“Nghiên cứu các biện pháp có hiệu quả phát triển tố chất sức mạnh tốc độ cho vận
động viên chạy cự ly ngắn (nam) từ 15 đến 17 tuổi”, là đề tài nghiên cứu thực
nghiệm, có thể phải sử dụng đến một số phương pháp: nghiên cứu lý luận, phỏng
vấn, toạ đàm; kiểm tra sư phạm; quan sát sư phạm, thực nghiệm sư phạm và toán học thống kê.
Việc sử dụng nhiều hay ít phương pháp, không có nghĩa là vấn đề nghiên cứu
phức tạp hay đơn giản hơn. Ở đề tài nghiên cứu lý thuyết, tuy chỉ dùng 2 đến 3
phương pháp, song để có thông tin, nhà nghiên cứu phải đọc và phân tích một khối
lượng lớn tài liệu tham khảo và có khả năng tư duy lý luận cao mới rút ra được
những kết luận có giá trị về mặt khoa học.
2.5. Xác lập giả thuyết khoa học và tính mới lạ của đề tài
2.5.1. Xác lập giả thuyết khoa học a. Khái niệm:
Giả thiết và giả thuyết đều là các từ đúng chính tả, tuy nhiên nó được sử dụng
trong các trường hợp khác nhau:
Giả thiết: Căn cứ được cho sẵn để chứng minh phân tích, suy luận. giả thiết
là một điều kiện giả định trong quan sát hoặc thực nghiệm
Giả thuyết: Nhận định cần được chứng minh. Giả thuyết là nhận định sơ bộ,
là kết luận giả định của nghiên cứu, hoặc là luận điểm cần chứng minh của nghiên
cứu. Mendeleev nói: " Không có một nghiên cứu nào không phải đặt giả thuyết".
Giả thuyết khoa học là những dự định ban đầu của nhà nghiên cứu về kết
quả của đề tài. Một mục tiêu quan trọng của nghiên cứu mô tả là hình thành giả
thuyết về mối quan hệ nhân-quả, là tiền đề cho các nghiên cứu tiếp theo và từ đó
có thể đề xuất được các biện pháp can thiệp hữu hiệu cho quần thể.
b. Ý nghĩa của việc xác lập giả thuyết khoa học. 17 lOMoAR cPSD| 45349271
Ý nghĩa của giả thuyết khoa học khó có thể đánh giá hết được. Thứ nhất: nó
cho phép tìm lối thoát của lý luận vào thực tiễn, bởi vì trên cơ sở của giả thuyết sẽ
tổ chức được quá trình nghiên cứu và làm xuất hiện những sự kiện khoa học. Thứ
hai: đề ra giả thuyết khoa học, chính là nảy sinh những ý định mới mở rộng giới hạn
của những kiến thức hiện có. Thứ ba: giả thuyết khoa học giúp nhà nghiên cứu hình
thành đối tượng nghiên cứu cụ thể. Thứ tư: giả thuyết khoa học làm cho nhà nghiên
cứu không bị choáng ngợp trước sự phong phú của các sự kiện, lựa chọn được
những sự kiện phù hợp nhất cho mình. Chính vì vậy, sự hình thành giả thuyết khoa
học đúng đắn là điều rất quan trọng đối với mỗi nhà khoa học, trước khi triển khai
công việc nghiên cứu. Những giả định đúng, là những dự đoán sớm về kết quả
nghiên cứu, lường trước được những khó khăn và thuận lợi trên con đường đi để
kịp thời đề ra những biện pháp giải quyết thích hợp. Có thể lấy ví dụ về giả thuyết
khoa học: Trong đề tài “Nghiên cứu xây dựng các tiêu chuẩn thể lực chuyên môn
cho vận động viên thể dục dụng cụ
”. Giả thuyết khoa học được đặt ra là: Thể dục
dụng cụ là môn thể thao hỗn hợp gồm nhiều dụng cụ tập luyện, đòi hỏi vận động
viên phải có nhiều tố chất thể lực chuyên môn khác nhau. Giả định rằng: ở mỗi cấp
bậc vận động, vận động viên thể dục phải được chuẩn bị đầy đủ tương xứng về thể
lực chuyên môn, phù hợp với trình độ kỹ thuật của mình. Vì vậy, ứng với mỗi giai
đoạn chuẩn bị, cần xây dựng một hệ thống các tiêu chuẩn và biện pháp tập luyện
thể lực chuyên môn cần thiết, nhằm nâng cao thành tích thi đấu của môn thể thao này.
2.5.2. Tính mới lạ của đề tài
Tính mới lạ của đề tài là sự khác biệt của vấn đề được chọn nghiên cứu với
các đề tài cùng dạng, loại, do các tác giả khác đã thực hiện.
Tính mới lạ của mỗi đề tài khoa học không chỉ thể hiện ở nội dung vấn đề và
kết quả nghiên cứu mới, mà còn có thể là các phương pháp và biện pháp sử dụng
mới các dụng cụ nghiên cứu hay tập luyện mới để đem lại hiệu quả giáo dục thể
chất cao hơn trước. 2.6. Biên soạn đề cương nghiên cứu khoa học 2.6.1. Khái niệm
Đề cương nghiên cứu khoa học trình bày nội dung vấn đề nghiên cứu và kế hoạch tổ chức thực hiện.
Đề cương nghiên cứu khoa học là tác phẩm đầu tiên của nhà khoa học trên
con đường nghiên cứu. Nó có kết cấu hợp lý, được sắp xếp theo trình tự quy định.
Đề cương nghiên cứu có mẫu quy định, dùng chung cho các cán bộ nghiên cứu.
2.6.2. Mẫu đề cương nghiên cứu khoa học
a. Phần đầu của đề cương bao gồm:
- Tên gọi: Đề cương nghiên cứu khoa học.
- Hướng nghiên cứu: Ghi rõ hướng nghiên cứu chính của đề tài. - Tên đề tài:
Được viết ngắn gọn, rõ ràng.
- Người nghiên cứu: Gồm họ và tên, địa chỉ hay cơ quan của nhà khoa học 18 lOMoAR cPSD| 45349271
- Người hướng dẫn khoa học gồm: Họ và tên, học vị và học hàm (không ghi
chức vụ chính quyền, đoàn thể).
b. Phần nội dung của đề cương: Được đánh số thứ tự.
* Phần đặt vấn đề (còn được gọi là cơ sở lựa chọn của đề tài nghiên cứu) gồm một số nội dung sau:
- Nêu rõ ý nghĩa, tầm quan trọng, sự cấp thiết của đề tài.
- Đánh giá đúng đắn và sát thực hiện trạng vấn đề được chọn để nghiên cứu:
đã có tác giả nào nghiên cứu vấn đề tương tự, phạm vi và kết quả của họ?
- Xác định tên đề tài và phạm vi nghiên cứu, mục đích nghiên cứu.
- Xác lập giả thuyết khoa học và tính mới lạ của đề tài.
* Nhiệm vụ nghiên cứu: Ghi rõ theo trình tự các nhiệm vụ của đề tài, từ ngữ
các nhiệm vụ phải chuẩn xác.
* Phương pháp nghiên cứu: Dự kiến các phương pháp được sử dụng dựa theo
các nhiệm vụ của đề tài. Chưa cần giải thích cách thu thập và xử lý thông tin.
* Tổ chức nghiên cứu: bao gồm một số mục nhỏ dưới đây:
- Thời gian nghiên cứu: ghi thời gian bắt đầu và kết thúc nghiên cứu đề tài. Sự
phân chia các giai đoạn và nhiệm vụ của mỗi giai đoạn.
- Đối tượng nghiên cứu: nói rõ đối tượng nghiên cứu là ai (độ tuổi, giới tính)
trình độ tập luyện, số lượng cần thiết.
- Địa điểm nghiên cứu: ghi cơ quan chủ trì đề tài, nơi tiến hành thử nghiệm
hay thực nghiệm khoa học.
- Trang thiết bị, dụng cụ nghiên cứu: bao gồm sân bãi tập, dụng cụ tập luyện,
dụng cụ nghiên cứu (thước dây, đồng hồ, các loại máy móc khác), dự kiến số lượng, chủng loại.
- Dự trù kinh phí nghiên cứu: dự kiến kinh phí sử dụng cho các công việc phỏng
vấn, in ấn tài liệu, công tác phí chuẩn bị bảo vệ luận văn, mua sắm phương tiện nghiên cứu.
Cuối đề cương nghiên cứu, ghi rõ ngày, tháng, năm biên soạn đề cương
nghiên cứu khoa học. Phía dưới, bên phải ghi họ, tên, chữ ký nhà nghiên cứu. Bên
trái phía đối diện ghi rõ họ và tên, học vị, học hàm khoa học, chữ ký của người hướng dẫn đề tài.
Đề cương nghiên cứu khoa học được sửa chữa cân thận, đánh máy 3 - 4 bản,
có đủ chữ ký của nhà nghiên cứu và người hướng dẫn khoa học. Sau đó đề cương
nghiên cứu phải được bảo vệ tại các Hội đồng khoa học để nhận được những đóng
góp ý kiến. Các đề cương đã được thông qua, mới được phép triển khai nghiên cứu
theo kế hoạch đã định.
CHƯƠNG III GIAI ĐOẠN TRIỂN KHAI NGHIÊN CỨU
Giai đoạn triển khai nghiên cứu có vai trò quan trọng nhất trong tiến trình
nghiên cứu, nhằm thu thập và xử lý những nguồn thông tin của những đề tài nghiên cứu. 19 lOMoAR cPSD| 45349271
Giai đoạn này được bắt đầu sau khi đề cương nghiên cứu khoa học chính
thức được thông qua và kết thúc khi số liệu nghiên cứu được xử lý xong.
3.1. Lựa chọn đối tượng nghiên cứu
3.1.1. Đối tượng nghiên cứu:
Trong lĩnh vực thể dục thể thao, đối tượng nghiên cứu bao gồm: người tập
thể dục thể thao; các sự vật và hiện tượng tập luyện; các con vật.
a. Người tập thể dục thể thao. Là đối tượng nghiên cứu phổ biến hơn cả. Người tập
thể dục thể thao có hai loại: Người tập vì mục đích sức khoẻ (học sinh, sinh viên,
người cao tuổi, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang nhân dân...). Người tập vì thành
tích thể thao cao (vận động viên các môn thể thao khác nhau).
b. Các sự vật và hiện tượng: Đối tượng nghiên cứu trong thể dục thể thao có thể là
các vật thể như: dụng cụ luyện tập và thi đấu, sân bãi tập…. Thí dụ: Khi nghiên cứu
sản xuất vợt cầu lông, thì vợt cầu lông là đối tượng nghiên cứu.
Các hiện tượng tập luyện cũng là đối tượng nghiên cứu. Thí dụ: Khi xây dựng
mô hình câu lạc bộ thể thao phường, xã, quận, huyện, ở đây đối tượng nghiên cứu
không phải là người, là sự vật mà là một hình mẫu tổ chức quản lý tổ chức thể dục thể thao.
c. Các con vật: Đôi khi các con vật cũng là đối tượng nghiên cứu. Thí dụ: Nghiên cứu
lựa chọn giống ngựa trong môn đua ngựa; nghiên cứu lựa chọn loại trâu tốt trong
môn chọi trâu dân tộc của thị xã Đồ Sơn – Hải Phòng. Trong các trường hợp nêu
trên, con ngựa và con trâu là đối tượng nghiên cứu.
3.1.2.Các yêu cầu khi lựa chọn đối tượng nghiên cứu:
Chọn đúng đối tượng nghiên cứu có ý nghĩa rất quan trọng, nhiều khi quyết
định sự thành công của công việc nghiên cứu.
- Đối tượng nghiên cứu phải cụ thể: Là ai, hay cái gì, con gì. Nếu là người tập luyện
thì phải làm rõ về độ tuổi, giới tính, trình độ tập luyện và các loại trình độ khác (nếu cần).
- Chọn đối tượng người tập phải đủ về số lượng, số lượng đối tượng ít nhất phải ≥
30 người để đảm bảo độ tin cậy khi xử lý bằng toán học. Số lượng người tập càng
đông, càng tốt, nhất là khi nghiên cứu trên người tập luyện vì mục đích sức khoẻ.
Trong trường hợp này, số người tham gia mỗi độ tuổi hay mỗi trình độ, có thể lên
tới hàng trăm, vài trăm người.
- Đối tượng nghiên cứu phải phù hợp với nhiệm vụ của đề tài; phải đồng đều về trình
độ tập luyện, lứa tuổi, giới tính, để bảo đảm tính đồng nhất, tính chất khách quan.
3.2. Đào tạo người giúp đỡ
Khi nghiên cứu triển khai đề tài, nhà khoa học có rất nhiều công việc cần làm,
đặc biệt là khi thu nhận thông tin nhờ các phương pháp. Có nhiều thử nghiệm, quan
sát thí nghiệm một mình không thể làm nổi, cần phải sử dụng một nhóm đông người
(một nhóm) thí dụ: Khi quan sát kỹ thuật chạy ngắn, trong trường hợp này phải có
sự giúp đỡ của bạn bè, đồng nghiệp.
20