Bài giảng quản trị tài chính | Trường Đại Học Thủ Đô Hà Nội

Bài giảng quản trị tài chính của Trường Đại Học Thủ Đô Hà Nội. Tài liệu được biên soạn dưới dạng file PDF gồm 142 trang giúp bạn tham khảo, ôn tập và hoàn thành tốt bài tập của mình đạt kết quả cao trong kỳ thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem!

Trường:

Đại học Thủ đô Hà Nội 603 tài liệu

Thông tin:
153 trang 7 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Bài giảng quản trị tài chính | Trường Đại Học Thủ Đô Hà Nội

Bài giảng quản trị tài chính của Trường Đại Học Thủ Đô Hà Nội. Tài liệu được biên soạn dưới dạng file PDF gồm 142 trang giúp bạn tham khảo, ôn tập và hoàn thành tốt bài tập của mình đạt kết quả cao trong kỳ thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem!

108 54 lượt tải Tải xuống
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ NỘI
KHOA KINH TẾ ĐÔ TH
BÀI GIẢNG
QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH
1
Tháng 8 năm 2023
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH
Quản trị tài chính vai trò rất quan trọng, ảnh hưởng đến tất cả mọi hoạt động của
doanh nghiệp. Thực tế hoạt động quản trị ở các doanh nghiệp cho thấy hầu hết các quyết định
quản trị đều được đưa ra dựa trên kết quả khảo sát nghiên cứu, phân tích dự báo về tình
hình sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính hiện tại và tương lai, trong đó những đánh giá
về mặt tài chính hết sức cần thiết. Nội dung của chương 1 sẽ giới thiệu những vấn đề
bản về doanh nghiệp quản trị tài chính doanh nghiệp quản trị i chính doanh nghiệp
như:
- Các hình thức tổ chức doanh nghiệp và hoạt động tài chính doanh nghiệp.
- Khái niệm, mục tiêu và chức năng của quản trị tài chính doanh nghiệp.
- Vị trí mối quan hệ giữa quản trị tài chính với các hoạt động quản trị khác trong
doanh nghiệp.
- Tổ chức bộ máy quản trị tài chính doanh nghiệp.
1.1. Doanh nghiệp hoạt động tài chính doanh nghiệp
1.1.1. Các hình thức tổ chức doanh nghiệp mục tiêu của doanh nghiệp
* Khái niệm về doanh nghiệp
nhiều quan điểm khác nhau về doanh nghiệp. Theo Luật Doanh nghiệp năm 2005
thì “doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, tài sản và trụ sở giao dịch ổn định, được
đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh
doanh”.
*Các hình thức tổ chức doanh nghiệp
Doanh nghiệp được tổ chức theo nhiều hình thức pháp khác nhau, song nhìn chung
có một số hình thức cơ bản sau:
- Doanh nghiệp nhân: doanh nghiệp do một nhân làm chủ tự chịu trách
nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp.
thể nói rằng doanh nghiệp nhân hình thức tổ chức kinh doanh lâu đời nhất
đơn giản nhất của một thực thể kinh doanh. Đặc điểm nổi bật của doanh nghiệp nhân
người chủ phải chịu trách nhiệm hạn đối với các nghĩa vụ tài chính của nó. Điều này
nghĩa người chủ phải chịu trách nhiệm đối với doanh nghiệp về mặt tài chính không chỉ
2
trên phần vốn đầu tư ban đầu mà khi cần còn phải đem cả tài sản cá nhân để trang trải cho các
khoản nợ của doanh nghiệp.
Thuận lợi lớn nhất của doanh nghiệp nhân việc thành lập rất đơn giản, dễ dàng.
Chủ doanh nghiệp là người có toàn quyền quyết định hoạt động kinh doanh, được nhận tất cả
thu nhập từ kinh doanh sau khi đã thanh toán các khoản nợ. Nhưng loại hình doanh nghiệp
này cũng có một số hạn chế như chủ doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm vô hạn đối với tất cả
các khoản nợ trong kinh doanh. So với các loại hình doanh nghiệp khác, các hình thức huy
động vốn của doanh nghiệp nhân cũng giới hạn nhất định. Doanh nghiệp không có
quyền huy động vốn dưới bất kỳ hình thức phát hành chứng khoán nào. thế quy của
doanh nghiệp phụ thuộc vào tiềm lực tài chính của người chủ cũng như khả năng vay mượn
của ông ta. Do đó, khônggì đáng ngạc nhiên khi thấy đa số các doanh nghiệp tư nhân đều
là doanh nghiệp nhỏ.
- Công ty hợp danh: Là doanh nghiệp trong đó:
+ Phải ít nhất 2 thành viên đồng sở hữu chung của công ty, cùng nhau kinh
doanh dưới một tên chung (gọi là thành viên hợp danh), ngoài các thành viên hợp danh có thể
có thành viên góp vốn.
+ Thành viên hợp danh phải nhân có trình độ chuyên môn uy tín nghề nghiệp
và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty.
+ Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi
số vốn đã góp vào công ty.
Loại hình công ty hợp danh lợi thế hơn doanh nghiệp nhân về khả năng huy
động vốn do có thế có nhiều thanh viên tham gia góp vốn kinh doanh.
- Công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH): Là loại công ty do các thành viên góp vốn để
thành lập và họ chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trên phần vốn đã góp vào công ty.
Việt Nam, theo Luật Doanh nghiệp năm 2005, công ty TNHH (hai thành viên trở
lên) là doanh nghiệp trong đó:
+ Các thành viên chịu trách nhiệm hữu hạn về các khoản nợ các nghĩa vụ tài sản
khác trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào doanh nghiệp.
+ Thành viên có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng thành viên không vượt quá 50.
Ngoài ra còn công ty TNHH 1 thành viên. Đây doanh nghiệp do một tổ chức
hoặc một nhân làm chủ sở hữu, chịu trách nhiệm về các khoản nợ các nghĩa vụ tài
chính khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn điều lệ của doanh nghiệp.
So với 2 loại hình doanh nghiệp nêu trên, công ty TNHH có thuận lợi hơn là các thành
viên của nó chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trên phần vốn mà họ đã góp.
3
- Công ty cổ phần: Là công ty trong đó các thành viên cùng góp vốn dưới hình thức cổ
phần để hoạt động.
Việt Nam, theo Luật Doanh nghiệp năm 2005, công ty cổ phần (CTCP) doanh
nghiệp trong đó:
+ Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần.
+ Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân, số lượng cổ đông tối thiểu là 3 và không hạn chế
số lượng tối đa.
+ Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp
trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp.
Căn cư vào hình thức phát hành cổ phiếu, công ty cổ phần có hai loại: CTCP nội bộ và
CTCP đại chúng. CTCP nội bộ là loại công ty chỉ phát hành cổ phiếu trong các cổ đông sáng
lập, công nhân những người quen thuộc với công ty. CTCP đại chúng loại công ty
phát hành cổ phiếu rộng rãi ra công chúng. Mức độ rộng rãi như thế nào tùy thuộc vào luật
pháp của từng quốc gia.
So với loại hình doanh nghiệp khác, CTCP lợi thế về các hình thức huy động vốn.
Ngoài các hình thức huy động vốn như các doanh nghiệp khác, CTCP loại doanh nghiệp
duy nhất được phép huy động vốn thông qua phát hành cổ phiếu.
- Doanh nghiệp nhà nước (DNNN): loại hình doanh nghiệp do nhà nước nắm
quyền sở hữu, quản lý nhằm phục vụ cho những mục tiêu chung của nền kinh tếxã hội.
Việt Nam, theo luật DNNN năm 2003 thì DNNN tổ chức kinh tế do nhà nước sở hữu toàn
bộ vốn điều lệ, hoặc cổ phần vốn góp chi phối, được tổ chức dưới hình thức công ty nhà
nước, công ty cổ phần, công ty TNHH.
Trong nền kinh tế thị trường, Chính phủ thường đầu thành lập các DNNN trong
những ngành chậm thu hồi vốn, khó thu hút vốn từ khu vực nhân, hoặc đầu vào những
ngành kinh tế mũi nhọn nhằm thúc đẩy sự phát triển của các ngành kinh tế khác phát triển…
- Doanh nghiệp vốn đầu nước ngoài Việt Nam: doanh nghiệp được thành
lập Việt Nam do các nhà đầu nước ngoài đầu một phần, hoặc toàn bộ vốn nhằm thực
hiện các mục tiêu chung tìm kiếm lợi nhuận, cách pháp nhân, mang quốc tịch Việt
Nam, tổ chức hoạt động theo quy chế của công ty TNHH, CTCP tuân theo quy định
của pháp luật Việt Nam.
* Muc tiêu của doanh nghiệp:
Hầu hết các doanh nghiệp trong kinh doanh đều mục tiêu càng làm ra nhiều lợi
nhuận nâng cao giá trị thị trường của doanh nghiệp càng tốt. Tuy nhiên, mục tiêu tối đa
hóa lợi nhuận không phải lúc nào cũng thể dễ dàng xác định, bởi mục tiêu này chịu ảnh
hưởng của nhiều yếu tố như thời gian, rủi ro… và mối quan hệ tác động đến nhiều vấn đề
4
khác trong doanh nghiệp cũng như nền kinh tế - hội. Do đó không thể coi tối đa hóa lợi
nhuận yếu tố duy nhất tác động đến các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Nói cách khác, ở một mức độ nào đó, tối đa hóa lợi nhuận không phải là mục tiêu hành động
trong nhiều tình huống thực tế.
Tối đa hóa giá trị thị trường của doanh nghiệp chính là tối đa hóa giá trị tài sản của các
chủ sở hữu hiện tại của doanh nghiệp. Điều này dẫn tới kết quả thị giá cổ phần của doanh
nghiệp ngày càng cao hơn. thế, đây mục tiêu được các cổ đông dễ chấp nhận. Nhưng,
các nhà quản trị cũng rất khó thể đánh giá chính xác mức độ ảnh hưởng của một quyết
định đối với giá trị của doanh nghiệp, bởi nó chịu tác động của rất nhiều yếu tố. Hơn thế nữa,
thị trường đồng nghĩa với những biến đổi khôn lường. Tuy nhiên, nhà quản trị giỏi phải
người đưa ra được nhiều quyết định đúng hơn những quyết định sai lầm tối đa hóa giá
trị của doanh nghiệp phải luôn là mục tiêu của mọi hoạt động.
1.1.2. Hoạt động tài chính của doanh nghiệp
Mặc nhiều loại hình doanh nghiệp, với những hình thức pháp bộ máy tổ
chức khác nhau, những đặc điểm riêng về sản xuất, kinh doanh, tài chính… nhưng nội
dung các hoạt động tài chính, mục tiêu chức năng của quản trị tài chính doanh nghiệp thì
giống nhau.
Hoạt động tài chính của doanh nghiệp khá phức tạp thể hiện thông qua nhiều quan
hệ kinh tế giữa doanh nghiệp với các chủ thể khác trong nền kinh tế. Tuy nhiên, thể xếp
chúng thành 3 nhóm bản: quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với nhà nước, quan hệi
chính giữa doanh nghiệp với thị trường và quan hệ tài chính trong nội bộ doanh nghiệp.
- Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với nhà nước được thể hiện qua việc doanh
nghiệp thực hiện các nghĩa vụi chính của mình đối với nhà nước như nộp các khoản thuế
lệ phí (thuế xuất khẩu, nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị gia tăng, thuế thu
nhập doanh nghiệp, thuế môn bài, lệ phí trước bạ, lệ phí chứng thư v.v…) Ngoài ra, riêng đối
với DNNN, doanh nghiệp được nhà nước cấp vốn để hoạt động theo chức năng nhiệm vụ
được giao.
- Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với các chủ thể kinh tế khác trên thị trường
như: quan hệ thanh toán trong mua bán tài sản, vật tư, hàng hóa, dịch vụ; quan hệ với ngân
hàng các tổ chức tín dụng khác trong huy động vốn cho vay, đầu vốn, tài sản; quan
hệ với cá tổ chức bảo hiểm trong tham gia bảo hiểm và nhận tiền bồi thường bảo hiểm v.v…
- Quan hệi chính trong nội bộ doanh nghiệp được thể hiện thông qua các hoạt động
thanh toán tiền lương, tiền công thực hiện các khoản tiền thưởng, phạt với công nhân viên
của doanh nghiệp; hoạt động phân chia điều hòa vốn giữa các bộ phận của doanh nghiệp;
hoạt động phân phối lợi nhuận sau thuế, phân phối và sử dụng cá quỹ của doanh nghiệp, hoạt
động chị trả cổ tức cho các cổ đông,…
5
1.2. Quản trị tài chính doanh nghiệp
1.2.1. Khái niệm mục tiêu quản trị tài chính doanh nghiệp
* Khái niệm về quản trị tài chính
Quản trị nói chung quản trị tài chính nói riêng một hiện tượng hội xuất hiện
cùng với quá trình tồn tại, hoàn thiện phát triển của loài người. Ngay từ khi bắt đầu hình
thành những nhóm người để thực hiện các mục tiêu mỗi người không thể thực hiện được
với cách nhân riêng lẻ thì quản trị đã trở thành một yếu tố quan trọng, cần thiết, đảm
bảo sự phối hợp hành động dựa trên một nỗ lực chung. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế
- hội, các mối quan hệ ngày càng đa dạng phức tạp hơn nên những nội dung quản trị
cũng phong phú hơn, các yêu cầu quản trị cũng đòi hởi chặt chẽ, chuẩn hóa hơn và con người
cũng nhận thức rõ hơn tầm quan trọng đặc biệt của hoạt động quản trị.
Lúc đầu, quản trị được hiểu là những thủ thuật, thủ pháp và cao hơn là một nghệ thuật.
Dần dần cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ, quản trị trở thành một môn khoa
học độc lập vị trí ngày càng quant rọng trong hệ thống các môn khoa học về quản kinh
tế.
Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được tiến hành trong mối quan hệ giữa nhiều
bộ phận như: sản xuất, marketing, nhân sự, tài chính nên nhu cầu về quản trị cũng đòi hỏi
phải được tổ chức triển khai ở tất cả các bộ phận nêu trên. Vì vậy, đối tượng nghiên cứu quản
trị tài chính là các hoạt động tài chính của doanh nghiệp được đặt trong mối quan hệ tác động
qua lại lẫn nhau giữa các bộ phận, các lĩnh vực hoạt động cùa doanh nghiệp quan hệ của
doanh nghiệp với môi trường bên ngoài.
Quản trị tài chính doanh nghiệp bao gồm tổng thể các hoạt động của nhà quản trị trong
quá trình nghiên cứu, dựo, phân tích, ra các quyết định tài chính tổ chức thực hiện các
quyết định đó nhằm thực hiện các mục tiêu đã được xác định.
Cấn nhấn mạnh rằng: không phải chỉ có quản trị tài chính nghiên cứu về các hoạt động
tài chính doanh nghiệp. Các môn khoa học khác như: Tài chính doanh nghiệp cũng hướng các
nghiên cứu về hoạt động tài chính. Tuy nhiên 2 môn khoa học này có những điểm khác nhau
căn bản. Tài chính doanh nghiệp tập trung nghiên cứu các nghiệp vụ tài chính doanh nghiệp.
“Quản trị tài chính”, trên cơ sở các phương pháp và kỹ năng phân tích các hoạt động tài chính
trong mối quan hệ với các hoạt động khác của doanh nghiệp môi trường bên ngoài để ra
các quyết định tài chính căn bản như: kế hoạch tài trợ, kế hoạch đầu tư, quản trị cấu vốn
của doanh nghiệp.
*Mục tiêu của quản trị tài chính doanh nghiệp
Mỗi hoạt động quản trị đều nhằm thực hiện những mục tiêu nhất định. Quản trị tài
chính nhằm thực hiện các mục tiêu cơ bản sau:
6
+ Mục tiêu dài hạn: Hoạch định các giải pháp tối ưu trong từng giai đoạn để thực hiện
mục tiêu của doanh nghiệp, cụ thể là:
- Đưa ra các quyết định đầu tư đúng, hiệu quả cao.
- Đưa ra các quyết định tài trợ hợp lý với chi phí sử dụng vốn thấp.
+ Mục tiêu ngắn hạn: Đảm bảo năng lực thanh toán của doanh nghiệp với nguồn tài
chính tối ưu – thỏa mãn điều kiện đủ về số lượng, đúng về thời gian.
1.2.2. Chức năng của quản trị tài chính doanh nghiệp
Quản trị tài chính doanh nghiệp có các chức năng cơ bản sau:
(1) Hoạch định chiến lược chính sách tài chính của doanh nghiệp
Rủi ro của một doanh nghiệp thể được phân thành rủi ro kinh doanh rủi ro tài
chính. Rủi ro kinh doanh thường gắn liền với các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Lãnh đạo doanh nghiệp giữ vai trò kiểm soát đối với mức độ rủi ro kinh doanh thông qua sự
lựa chọn những dự án đầu tư, công nghệ và các chiến lược đầu tư cụ thể. Rủi ro tài chính xuất
phát từ sử dụng nợ vay. Mỗi doanh nghiệp khác nhau thìthể đòn cân nợ khác nhau.
vậy, để hạn chế rủi ro tài chính, nhà quản trị tài chính doanh nghiệp cần căn cứ vào đặc điểm
ngành nghề kinh doanh, môi trường kinh doanh... của doanh nghiệp để hoạch định cơ cấu vốn
mục tiêu nguồn i trợ cho các quỹ của doanh nghiệp. cấu vốn mục tiêu thể hiện sự
phối kết hợp giữa vốn chủ sở hữu nợ trong tổng vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Nhìn
chung doanh nghiệp rủi ro kinh doanh cao thường khuynh hướng sử dụng ít nợ hơn
những doanh nghiệp khác.
Chính sách tài chính một bộ phận quan trọng trong các chính sách của doanh
nghiệp,được cấu thành bới 3 chính sách thành phần: chính sách đầu tư, chính sách tài trợ
chính sách phân phối thu nhập. Mỗi chính sách thành phần mục tiêu riêng. Song sự
tương thích giữa chúng là điều kiện cần thiết để chu trình tài chính vận hành trôi chayrm hay
nói cách khác là tạo nên một chính sách tài chính có tính khả thi.
- Chính sách đầu
Chính sách đầu tiền đề cho việc triển khai hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp. Nhìn vào chính sách đầu của một doanh nghiệp cho chúng ta biết được xu hướng
phát triển trong tương lai của doanh nghiệp như thế nào. Chính sách đầu chỉ ra các hình
thức đầu tư, hoặc một danh mục đầu tưquy mô đầu tư của doanh nghiệp trong một thời kỳ
nhất định, ấn định thời hạn đầu tư, tỷ suất lợi nhuận mà dự án đầu tư đòi hỏi.
Chính sách đầu tư của doanh nghiệp chịu tác động bởi một số yếu tố như: Mối quan hệ
giữa người điều hành người sở hữu doanh nghiệp, môi trường kinh doanh, khả năng i
chính của doanh nghiệp, chính sách quản kinh tế của nhà nước, nhu cầu thị trường tiềm
ng…
7






- Chính sách tài trợ
Chính sách tài trợ sở của việc tạo vốn, trong đó chỉ ra các định hướng bản
trong việc xác định nguồn, số lượng, thời hạn thời điểm huy động vốn của doanh nghiệp
trong một thời kỳ nhất định. Các định hướng đề ra phải đạt được mục tiêu tối thiểu hóa chi
phí sử dụng vốn, trên cơ sở tôn trọng ràng buộc chiến lược về cấu trúc vốn để hạn chế chi phí
điều nh, cũng như ràng buộc về quy phát triển quan hệ với môi trường của doanh
nghiệp. Căn cứ để xây dựng chính sách tài trợ là chính sách đầu tư của doanh nghiệp.
Chính sách tài trợ của doanh nghiệp chịu tác động bởi nhiều yếu tố như: Hình thức
pháp lý của doanh nghiệp, cơ cấu vốn mục tiêu của doanh nghiệp, sự phát triển của thị trường
vốn
- Chính sách phân phối thu nhập
Chính sách phân phối thu nhập thể hiện quan điểm về việc phân chia lợi nhuận doanh
nghiệp, đặc biệt vấn đề trích lập các quỹ doanh nghiệp không? Trích lập những quỹ
với tỷ lệ như thế nào? Chia lãi cho các cổ đông với tỷ lệ cổ tức bao nhiêu, theo hình
thức nào? Chia lợi tức cổ phần bằng tiền (chia cổ tức cổ phần thường kỳ, lợi tức cổ phần chia
thêm, lợi tức cổ phần đặc biệt) hay chia lợi tức bằng cổ phần…?
Chính sách phân phối thu nhập chịu tác động bởi một số yếu tố như: Tính chất sở hữu
hình thức pháp của doanh nghiệp, chính sách quản phân phối thu nhập doanh nghiệp
của Nhà nước, chính sách thuế, cấu trúc và tâm lý cổ đông…
Mối quan hệ giữa các chính sách tài chính
Chính sách đầu chinh sách tài trợ liên quan đến nhau trong mối quan hệ cân đối
giữa nhu cầu vốn hình thành bởi chính sách đầu khả năng cung cấp vốn hình thành từ
chính sách tài trợ. Quan hệ cân đối này phải được xem xét trên cả 2 phương diện số lượng
thời gian khi xét đến lịch trình tài trợ và hoàn trả.
Chính sách phân phối thu nhập xác định tỷ lệ thu nhập để tích lũy, nhằm bổ sung vốn
chủ sở hữu cho mở rộng kinh doanh hiện đại hóa công nghê, do đó sở để hoạch
8
định phương thức huy động nguồn vốn từ bên ngoài, một mảng quan trọng trong chính sách
tài trợ. Điều này sẽ tác động đến cầu trúc nguồn vốn ảnh hưởng đến chi phí sử dụng vốn
của doanh nghiệp và do vậy nó tác động ngược trở lại đến chính sách phân phối thu nhập.
Chính sách đầu tác động đến chính sách phân phối thu nhập trong tương lai. Bởi
quy của lợi nhuận kỳ vọng sẽ thu được từ các dự án đầu thể dẫn tới sự điều chỉnh
trong chính sách phân phối thu nhập chia lãi c phần của doanh nghiệp. Ngoài ra, việc
theo đuổi một cấu trúc vốn tối ưu cùng với một chính sách chia lãi cổ phần ổn định có thể dẫn
đến sự thặng ngân quỹ dài hạn của doanh nghiệp. Điều này làm xuất hiện các quyết định
đầu tư tài chính do đặc điểm linh hoạt của loại hình đầu tư này so với đầu tư trực tiếp.
(2) Tổ chức thực hiện các chiến lược chính sách tài chính doanh nghiệp
Đây quá trình xác lập hình, phân công giao nhiệm vụ cho mỗi cấp mỗi
nhân viên trong doanh nghiệp để thực hiện các chiến lược, kế hoạch, chính sách tài chính của
doanh nghiệp. Thực hiện chức năng này nhà quản trị tài chính cần quan tâm đến một số vấn
đề cụ thể như sau:
- Tổ chức huy động nguồn vốn cho đầu tư, kinh doanh với chi phí thấp
Mọi hoạt động của doanh nghiệp đòi hỏi phải có vốn. thế căn cứ vào các dự án đầu
tư, các kế hoạch sản xuất kinh doanh đã được phê duyệt, nhà quản trị tài chính phải xác định
được nhu cầu vốn cần thiết của doanh nghiệp trong từng thời kỳ. Đồng thời để thực hiện
được các mục tiêu trong dài hạn cũng như ngắn hạn, nhà quản trị tài chính cần xem xét, cân
nhắc trên nhiều mặt như: lợi ích, bất lợi của mỗi hình thức huy động vốn, chi phí sử dụng mỗi
loại nguồn như thế nảo…? Cụ thể, đẻ thực hiện tốt các chức năng này, nhà quản trị phải trả
lời được các câu hỏi: Cần bao nhiêu vốn? Vào thời điểm nào? Thời gian bao lâu (dài hạn hay
ngắn hạn)? Huy động nguồn vốn nào (vốn chủ sở hữu hay nợ), huy động nội tệ hay ngoại
tệ?...
- Tổ chức sử dụng vốn tiết kiệm, hiệu qu
Thực hiện chức ng này, nhà quản trị tài chính doanh nghiệp phải tìm ra các biện
pháp nhằm góp phần huy động tối đa số vốn hiện vào hoạt động kinh doanh, giải phóng
các khoản vốn còn bị ứ đọng. Theo dõi chặt chẽ và thực hiện tốt các hoạt động thanh toán các
khoản phải thu, phải trả. Tìm kiếm các giải pháp thích hợp để đảm bảo sự cân bằng thu chi
tiền tệ, ổn định tình hình tài chính, đảm bảo doanh nghiệp luôn có đủ khả năng thanh toán các
khoản nợ đến hạn.
- Tổ chức thực hiện tốt quá trình phân phối thu nhập
Thu nhập của doanh nghiệp được tạo ra từ nhiều nguồn khác nhau. Theo nguồn hình
thành, thu nhập của doanh nghiệp bao gồm: thu nhập sản xuất kinh doanh, thu nhập tài chính
thu nhập bất thường, trong đó thu nhập tạo ra từ hoạt động sản xuất kinh doanh thường
chiếm tỷ trọng lớn. Trên sở xác định tính chính xác tổng thu nhập của doanh nghiệp, nhà
9
quản trị phải xây dựng được chính sách phân phối thu nhập hợp lý, giải quyết hài hòa mối
quan hệ về lợi ích giữa nhà nước, chủ sở hữu doanh nghiệp người lao động; đảm bảo yêu
cầu tích lũy của doanh nghiệp để đầu phát triển, tăng trưởng doanh nghiệp, chú trọng lợi
ích của cổ đông người lao động trong doanh nghiệp… chính sách phân chia lợi tức c
phần ảnh hưởng trực tiếp đến giá trị doanh nghiệp. vậy, trước khi ra quyết định tổ
chức quá trình phân phối này, nhà quản trị cần xem xét kỹ các nhân tố tác động như những
quy định pháp về phân phối thu nhập doanh nghiệp, những hội đầu tư, tâm cổ đông,
thuế và tính hấp dẫn đối với các nhà đầu tư tiềm năng của doanh nghiệp.
(3) Kiểm soát tình hình tài chính doanh nghiệp
Kiểm soát bao gồm việc thiết lập các tiêu chuẩn lượng hóa các kết quả đạt được,
tiến hành các hoạt động điều chỉnh nếu kết quả không đúng với mục tiêun định. Kiểm soát
tài chính có thể thực hiện kết hợp theo nhiều hình thức: Kiểm soát định kỳ, kiểm soát liên tục,
kiểm soát bằng mục tiêu kết quả; kiểm soát toàn bộ kiểm soát bộ phận, kiểm soát nhân
và tiến hành cả trước và sau khi triển khai thực hiện các hoạt động tài chính.
Phân tích i chính nội dung quan trọng trong hoạt động kiểm soát. Phân tích tài
chính doanh nghiệp được thực hiện thông qua các chỉ tiêu tài chính thường tiến hành theo
những định kỳ nhất định nhằm đánh giá tình hình hoạt động của doanh nghiệp, những điểm
mạnh, điểm yếu trong hoạt động tài chính cũng như thực trạng tình hình tài chính của doanh
nghiệp. Trên cơ sở đó có thể đưa ra những quyết định đúng về kinh doanh, tài chính, đảm bảo
mọi tài sản, tiền vốn và các nguồn tài chính của doanh nghiệp được sử dụng một cách có hiệu
quả nhất.
Các chức năng của quản trị tài chính mối quan hệ mật thiết tác động tương hỗ
lẫn nhau. Việc hoạch định chiến lược tài chính cho phép định ra một phương hướng chung
cho mọi suy nghĩ hành động, một kim chỉ nam hướng dẫn các quyết định đối với mọi
thành viên của doanh nghiệp. Việc tổ chức thực hiện chiến lược tài chính góp phần giúp
doanh nghiệp biến các chiến lược, kế hoạch kinh doanh, dự án đầu thành hiện thực. Tuy
nhiên, việc hoạch định cũng hạn chế nhất định, đó kết quả dự báo thể sai lầm làm
giảm tác động tích cực của hoạch định. Vì vậy, thực hiện chức năng kiểm soát không chỉ đảm
bảo cho quá trình tổ chức triển khai công tác quản trị tài chính đi theo đúng định hướng chiến
lược đã vạch định ra, góp phầnng cao hiệu quả của quá trình tổ chức thực hiện các chiến
lược, kế hoạch chính sách tài chính còn thể kịp thời đưa ra những quyết sách, các
hành vi ứng xử khi thực tế phát sinh những tình huống ngoài dự kiến, hoặc phát hiện những
hiện tượng vi phạm quy trình, chính sách tài chính trong quá trình tổ chức thực hiện.
* Một số vấn đề cần lưu ý trong quản trị tài chính doanh nghiệp
Để thực hiện các mục tiêu của doanh nghiệp, hoạt động quản trị tài chính doanh
nghiệp cần tuân thủ một số vấn đề mang tính nguyên tắc sau:
10
- Tiền giá trị theo thời gian: một đồng tiền thời điểm hiện tại luôn giá trị lớn
hơn một đồng tiền ở thời điểm trong tương lai.
- Số lượng và thời gian phải được xem xét đồng thời: cân đối thu-chi, cung-cầu về tiền
của doanh nghiệp phải bao gồm cả hai yếu tố: số lượng và thời gian.
- Khó thể tìm được các dự án hoàn hảo: thị trường cạnh tranh nên điều kiện để
đánh giá lựa chọn các dự án đầu cần biến hóa, không cố định theo các khuôn mẫu
sẵn.
ro.
- Mọi rủi ro đều phải được đền thỏa đáng: rủi ro luôn tồn tại trong mối quan hệ rủi
- Chi phí sử dụng vốn luôn tham số bản: chi phí sử dụng vốn ảnh hưởng trực
tiếp đến kết quả hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. vậy, cần lựa chọn nguồn vốn
trên sở xemt giá vốn trên thị trường khả năng linh hoạt trong điều chỉnh cấu sử
dụng vốn.
- Chính sách hợp với người điều hành doanh nghiệp: Khi sự phân biệt giữa
quyền sở hữu với quyền điều hành thì lợi ích của người điều hành sẽnh nặng với người
sở hữu ảnh hưởng tới các lựa chọn tài chính dài hạn thể hiện bởi cấu trúc vốn chi phí
điều hành. Vì thế cần có chính sách kích thích hợp lý với người điều hành và doanh nghiệp.
- Chính sách thuế ảnh hưởng đến quyết định kinh doanh: các vấn đề thuế ảnh
hưởng đến các lựa chọn tài chính dài hạn, các quyết định về quản trị nguồn tài trợ tài sản
của doanh nghiệp… vậy, cần căn cứ vào môi trường thuế nơi doanh nghiệp hoạt động để
xây dựng chính sách quản lý tài chính thích hợp, đảm bảo yêu cầu tuân thủ đúng pháp luật và
có lợi cho doanh nghiệp.
1.2.3. Vị trí tổ chức bộ máy quản trị tài chính doanh nghiệp
* Vị trí của quản trị tài chính trong bộ máy tổ chức doanh nghiệp
Các doanh nghiệp khác nhau có mô hình quản lý khác nhau. Để thực hiện các mục tiêu
đã được xác định, mỗi doanh nghiệp đều thực hiện nhiều chức năng và nhiệm vụ quản lý như
quản lý sản xuất, quản lý nhân lực, quản lý tiêu thụ, quản lý tài chính. Các chức năng quản lý
này thường do những bộ phận riêng chuyên trách đảm nhiệm nhưng giữa chúng lại mối
quan hệ mật thiết để tạo nên kết quả hiệu quả kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Quản trị
sản xuất kinh doanh ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh sức cạnh tranh của doanh nghiệp
thông qua năng suất lao động, chất lượng và giá thành sản phẩm. Quản trị nhân lực thông qua
việc tuyển dụng tổ chức lao động hợp lý, đúng người, đúng việc góp phần tạo nên sự nhịp
nhàng hiệu quả trong mỗi khâu công việc. Quản trị tài chính vai trò quan trọng trong
việc đảm bảo các nguồn lực tài chính, một điều kiện không thể thiếu để thực hiện các hoạt
động sản xuất, kinh doanh. vậy, quản tài chính vai trò, vị trí then chốt trong bộ máy
quản trị của doanh nghiệp.
11
Hội đồng
quản tr
Trong đồ tổ chức doanh ngiệp, bộ phận quản tài chính luôn được xem một bộ
phận quan trọng bên cạnh người lãnh đạo cao cao cấp nhất của doanh nghiệp luôn ảnh
hưởng rất lớn đến việc đưa ra những quyết định quan trọng đối với doanh nghiệp. Tính chất
quan trọng này là do vấn đề tài chính bao trùm mọi hoạt động của doanh nghiệp và thông tin
tài chính của doanh nghiệp luôn được quan tâm bởi mọi chủ thể liên quan đến sự tồn tại
phát triển của doanh nghiệp.
* Nhà quản trị tài chính là ai?
+ Giám đốc tài chính: các công ty lớn thường các giám đốc tài chính, giúp tổng
giám đốc kiểm soát mọi công việc liên quan đến tài chính kế toán. Giám đốc tài chính
người trực tiếp quản toàn bộ tình hình tài chính của công ty, tham mưu cho tổng giám đốc
trong việc ra các quyết định tài chính.
+ Trưởng phòng tài chính: Giúp giám đốc tài chính tổ chức quản các hoạt động
sau:
12



!

"
#
$%&
'(%
)
'(%
*+
,-.%%

'/%
010
234
5-#(%6

'(%

25
-
7804
)9

:44
*5;<
$=4
doanh.
- Quan hệ với ngân hàng các tổ chức tín dụng để tìm kiếm nguồn tài trợ vốn kinh
- Quản lý quá trình sử dụng và huy động vốn
- Quản trị tín dụng thương mại (bán chịu)
- Quản trị phân phối kết quả kinh doanh (KQKD)
- Phân tích và lập kế hoạch tài chính,…
+ Kế toán trưởng: thực hiện một số chức năng nhiệm vụ sau:
- Tổ chức soạn thảo các báo cáo tài chính (BCTC)
- Kiểm toán nội bộ (KTNB)
- Kế toán tài chính
- Kế toán quản trị
+ Ngoài các nhà quản trị i chính cấp cao, mỗi cán bộ quản trị tài chính trách
nhiệm quản lý tài chính ở mỗi bộ phận mà mình được phân công phụ trách.
13
CHƯƠNG 2
QUẢN TRỊ TÀI SẢN CỐ ĐỊNH
Bất cứ một doanh nghiệp nào, có quy lớn hay nhỏ, thuộc lĩnh vực sản xuất
chế biến, hay kinh doanh hàng hóa dịch vụ, để thực hiện các hoạt động kinh doanh đều cần
phải các yếu tố cần thiết như kho tàng, cửa hàng, văn phòng, máy móc thiết bị, phương
tiện vận tải, vật tư, tiền, vốn… Theo thời gian luân chuyển giá trị, toàn bộ tài sản của doanh
nghiệp bao gồm: các tài sản có thời gian sử dụng (hay thu hồi, luân chuyển giá trị) mang tính
ngắn hạn gọi tài sản lưu động (TSLĐ) những tài sản thời gian sử dụng (hay thu hồi,
luân chuyển giá trị) mang tính dài hạn. Căn cứ vào hình thái tồn tại, tài sản luân chuyển giá
trị mang tính dài hạn của doanh nghiệp bao gồm 3 loại: Tài sản cố định (TSCĐ), đầu tài
chính dài hạn các tài sản dài hạn khác. Nội dung chương này chỉ tập trung nghiên cứu về
TSCĐ và quản trị TSCĐ.
2.1. Phân loại tài sản cố đnh
2.1.1. Khái niệm
Bất cứ quá trình kinh doanh nào cũng cần sự hiện của 3 yếu tố bản, đó là: đối
tượng lao động, liệu lao động sức lao động. Bộ phận liệu lao động giá trị lớn
thời gian sử dung, thu hồi, luân chuyển giá trị mang tính dài hạn (như nhà xương, văn phòng,
máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, giá trị quyền sử dụng đất…) được gọi TSCĐ. Nói
cách khác, TSCĐ những liệu lao động giá trị lớn, thời gian sử dụng (thu hồi, luân
chuyển giá trị) dài.
Dấu hiệu nhận biết TSCĐ: thông thường một tài sản được coi TSCĐ nếu thỏa mãn
đồng thời 3 điều kiện:
- Tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp với tư cách là tư liệu lao động.
- Có thời gian sử dụng dài, thường từ 1 năm trở lên.
- Có giá trị lớn, đạt đến một mức độ nhất định. Tiêu chuẩn này phụ thuộc vào quy định
của từng quốc gia trong từng thời kỳ.
Những tài sản không hội tụ đủ các tiêu chuẩn kể trên được coi TSLĐ của doanh
nghiệp. Việc nhận biết phân biệt TSCĐ với TSLĐ ý nghĩa không chỉ trong công tác
nghiên cứu mà còn giúp cho doanh nghiệp có thể quán lý, sử dụng tài sản một cách tốt nhất.
Thực tế ở Việt Nam hiện nay: Theo thông tư 45/2013/TT-BTC. Một tài sản của doanh
nghiệp nếu thỏa mãn đồng thời 4 điều kiện sau thì được coi là TSCĐ:
+ Chắc chắn thu được lợi ích kinh tế trong tương lai từ việc sử dụng tài sản đó.
+ Nguyên giá phải được xác định một cách đáng tin cy.
14
+ Có thời gian sử dụng từ 1 năm trở lên
+ Có giá trị từ 30.000.000 đồng trở lên.
2.1.2. Đặc điểm
nhiều loại TSCĐ khác nhau và được sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau, song
chúng đều có các đặc điểm chung sau đây:
+ TSCĐ tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp với vai trò
là các tư liệu lao động chủ yếu
+ Trong quá trình tồn tại, hình thái vật chất đặc tính sử dụng ban đầu của TS
hầu như không thay đổi, song giá trị và giá trị sử dụng giảm dần.
Trong quá trình TSCĐ tồn tại được sử dụng, giá trị giá trị sử dụng của bị
giảm đi do tác động của nhiều yếu tố. Hiện tượng này được gọi sự hao mòn TSCĐ. Nói
cách khác, hao mòn TSCĐ sự giảm sút về giá trị giá trị sử dụng cảu TSCĐ. Trong thực
tế có 2 loại hao mòn TSCĐ: hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình.
- Hao mòn hữu hình của TS
Đây là sự hao mòn về hiện vật và giá trị của TSCĐ trong quá trình chúng tồn tại và sử
dụng. Hình thức hao mòn này được biểu hiện dưới hai khía cạnh:
Về mặt hiện vật: giá trị sử dụng của TSCĐ giảm đi thể hiện ở sự thay đổi trạng thái vật
lý, sự giảm sút về chất lượng và tính năng công dụng ban đầu. Nếu quá trình này cứ tiếp diện
thì đến một lúc nào đó TSCĐ sẽ không còn sử dụng được nữa. Muốn khôi phục lại giá trị sử
dụng của nó thì phải sửa chữa, hoặc thay thế.
Về mặt giá trị: hao mòn hữu hình là sự giảm dần giả trị của TSCĐ phần giá trị hao
mòn này thường được các nhà quản tính toán hạch toán vào chi phí kinh doanh hay giá
thành sản phẩm, dịch vụ.
Nguyên nhân của hao mòn hữu hình do tác động hóa học xảy ra với TSCĐ khi
chúng tham gia quá trình kinh doanh của doanh nghiệp do tác động của điều kiện tự
nhiên như nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng của môi trường sử dụng TSCĐ. Mức độ hao mòn hữu
hình phụ thuộc vào cường độ sử dụng TSCĐ, việc chấp hành các quy trình kỹ thuật chất
lượng chế tạo TSCĐ
Đối với TSCĐ hữu hình, hao mòn hữu hình được thể hiện cả về mặt hiện vật và giá trị.
Tuy nhiên, đối với TSCĐ vô hình, hao mòn hữu hình chỉ thể hiện về mặt giá trị mà thôi.
- Hao mòn vô hình của TSCĐ:
Hao mòn vô hình là sự giảm đi thuần túy về mặt giá trị (hay giá trị trao đổi) của TSCĐ
do tác động của tiến bộ khoa học kỹ thuật. một số nguyên nhân bản sau dẫn đến hao
mòn vô hình TSCĐ:
15
Một là, TSCĐ bị giảm giá trị trao đổi do sự xuất hiện của TSCĐ như cũ nhưng với giá
rẻ hơn. Nguyên nhân cơ bản của hình thức hao mòn này là do tiến bộ khoa học được áp dụng
vào sản xuất, làm cho năng suất lao động tăng lên, kết quả giá thành sản xuất TSCĐ giảm
xuống, từ đó doanh nghiệp sản xuất ra TSCĐ có điều kiện để hạ giá bán.
Hai TSCĐ bị giảm giá trị trao đổi do xuất hiện những TSCĐ mới, hoàn thiện
hiện đại hơn về tính năng kỹ thuật. Nguyên nhân bản của hiện tượng này do tiến bộ
khoa học kỹ thuật được áp dụng vào sản xuất đã chế tạo ra những TSCĐ hoàn thiện hiện
đại hơn và có thể thay thế TSCĐ cũ, từ đó làm cho giá trị trao đổi của TSCĐ cũ bị giảm.
Ba là TSCĐ bị mất hoàn toàn giá trị trao đổi do sự kết thúc chu kỳ sống của sản phẩm,
dẫn đến những TSCĐ sử đụng dể sản xuất ra những sản phẩm đó cũng bị lạc hậu, mất tác
dụng. Kể cả trường hợp các máy móc thiết bị, quy trình công nghệ… còn nằm trên các dự án
thiết kế song đã trở lên lạc hậu tại thời điểm đó. Do vậy, hao mòn hình xảy ra đối với cả
TSCĐ hữu hình và vô hình,
Nguyên nhân của hiện tượng kể trên trước hết do sự phát triển của khoa học công
nghệ dẫn tới sự xuất hiện những sản phẩm mới thay thế và làm kết thúc chu kỳ sống của sản
phẩm cũ, hậu quả những TSCĐ dùng để sản xuát ra những sản phẩm bị lạc hậu, giảm
hoặc mất tác dụng. Ngoài ra, trong nhiều trường hợp, sự kết thúc chu kỳ sống của sản phẩm
không phải do tiến bộ khoa học kỹ thuật do các nguyên nhân khác như thay đổi thị hiếu,
tập quán… của người tiêu dùng. Tuy vậy, nguyên nhân bản bao trùm hiện tượng hao
mòn vô hình TSCĐ là do sự phát triển của tiến bộ khoa học kỹ thuật.
Việc nghiên cứu các loại hao mòn TSCĐ và nguyên nhân gây ra chúngcăn cứ quan
trọng để đề ra các biện pháp hạn chế khắc phục hao mòn. Đồng thời, đây cũng một
trong những cơ sở để doanh nghiệp đưa ra các quyết định đầu tư, khai thác sử dụng, quản lý,
trích khấu hao và đổi mới TSCĐ phù hợp với tình hình của doanh nghiệp.
2.1.3. Phân loại TSCĐ
Phân loại TSCD được hiểu việc phân chia, sắp xếp TSCĐ đang thuộc quyền quản
lý, sử dụng của doanh nghiệp thành từng nhóm, từng loại theo những tiêu thức cụ thể nhằm
phục vụ cho mục đích nghiên cứu và quản của doanh nghiệp. Sau đây là một số cách phân
loại thông dụng.
* Căn cứ vào hình thái vật chất của TS
Theo tiêu thức này, tổng TSCĐ thuộc quyền quản sử dụng của doanh nghiệp
được chia thành hai loại: TSCĐ hữu hình và TSCĐ vô hình.
+ TSCĐ hữu hình: những TSCĐ hình thái vật chất cụ thể. TSCĐ hữu hình bao
gồm:
16
- Nhà cửa, vật kiến trúc: đâycác TSCĐ được hình thành qua quá trình thi công, xây
dựng như nhà xưởng, văn phòng, nhà kho, hàng rào, tháp nước, sân bãi, các công trình trang
trí cho nhà cửa, đường sá, cầu cống,…
- Máy móc, thiết bị: toàn bộ các máy móc, thiết bị dùng cho hoạt động kinh doanh
công tác quản kinh doanh của doanh nghiệp nhưy móc thiết bị động lực, máy công
tác, thiết bị chuyên dùng, dây chuyền công nghệ, máy tính, phần mềm máy tính, thiết bị điện
tử phục vụ quản lý, thiết bị dụng cụ đo lường, kiểm tra chất lượng, máy hút ẩm, hút bụi…
- Phương tiện vận tải và thiết bị truyền dẫn: là các loại phương tiện vận tải như vận tải
đường sắt, đường thủy, đường bộ, đường ng không, đường ống các thiết bị truyền dẫn
như hệ thống điện, hệ thống nước, hệ thống thông tin, đường khí đốt, băng tải hàng hóa.
- Vườn y lâu năm, súc vật làm việc (hoặc) cho sản phẩm: vườn cây kinh
doanh lâu năm như vườn chè, vườn cà phê, vườn cây cao su, vườn cây ăn quả, thảm cỏ, thảm
cây xanh, súc vật làm việc và (hoặc) cho sản phẩm như đàn voi, đàn bò, đàn trâu, đàn ngựa…
- Các loại TSCĐ khác: toàn bộ những TSCĐ chưa liệt vào các loại kể trên như
tranh ảnh, tác phẩm nghệ thuật,…
+ TSCĐ hình: nhứng TSCĐ không hình thái vật chất cụ thể được thể hiện
bằng một lượng giá trị doanh nghiệp đã đầu liên quan, hay phát huy tác dụng trong
nhiều kỳ kinh doanh của doanh nghiệp như quyền sử dụng đất, thương hiệu, quyền phát hành,
bằng phát minh sáng chế, nhãn hiệu thương mại, bản quyền tác giả,…
Việc phân loại TSCĐ theo tiêu thức kể trên giúp doanh nghiệp thấy được cấu vốn
đầu tư vào TSCĐtheo hình thái biểu hiện, từ đó có thể đưa ra các quyết định đầu tư, khai thác
sử duingj TSCĐ, hay điều chỉnh cơ cấu này sao cho phù hợp và có hiệu quả nhất.
* Căn cư vào mục đích sử dụng
Theo tiêu thức này,toàn bộ TSCĐ của doanh nghiệp được chia thành ba loại:
- TSCĐ sử dụng cho mục đích kinh doanh: đây là những tài sản doanh nghiệp sử dụng
trong các hoạt động cụ thể khác nhau nhưng cùng nhằm mục đích phục vụ trực tiếp, hoặc
gián tiếp cho kinh doanh.
dụ: kho tàng, cửa hàng, nhà xưởng,y móc thiết bị, giá trị quyền sử dụng đất…
dùng cho các hoạt động sản xuất kinh doanh.
- TSCĐ sử dụng cho mục đích phúc lợi, sự nghiệp, an ninh quốc phòng. Đây là những
TSCĐ do doanh nghiệp quản sử dụng cho hoạt động phúc lợi, sự nghiệp an ninh quốc
phòng trong doanh nghiệp. Chẳng hạn như nhà ăn, nhà ở tập thể, câu lạc bộ, trạm y tế, phòng
đọc…
17
- TSCĐ bảo quản, giữ hộ: những TSCĐ không thuộc quyền sở hữu của doanh
nghiệp nhưng doanh nghiệp trách nhiệm bảo quản, giữ hộ cho nhà nước, hay cho doanh
nghiệp khác.
Việc phân loại như trên giúp doanh nghiệp biết được kết cầu TSCĐ theo mục đích sử
dụng, từ đó biện pháp quản lý, khai thác sử dụng, trích khấu hao thích hợp hiệu quả
nhất.
* Căn cứ vào tình hình sử dụng
Theo tiêu thức này, tổng TSCĐ của doanh nghiệp được chia thành các loại sau:
- TSCĐ đang sử dụng tại doanh nghiệp: đây những TSCĐ của doanh nghiệp sử
dụng cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, phúc lợi, sự nghiệp an ninh, quốc phòng của
doanh nghiệp.
- TSCĐ cho thuê: những TSCĐ do doanh nghiệp đầu song hiện tại doanh nghiệp
không trực tiếp khai thác sử dụng cho các đơn vị khác thuê theo những điều kiện ràng
buộc nhất định.
- TSCĐ chưa cần dùng: là những TSCĐ của doanh nghiệp cần thiết cho các hoạt động
của doanh nghiệp song hiện tại chưa được đưa ra sử dụng, đang trong quá trình dự trữ, cất
giữ để sử dụng sau này.
- TSCĐ không cần dùng chờ nhượng bán, thanh lý: những TSCĐ không cần thiết
hay không phù hợp với hoạt động của doanh nghiệp, hoặc đã hỏng cần được nhượng bán,
thanh lý để giải phóng mặt bàng, thu hồi vốn đầu tư.
Cách phân loại này cho thấy thực trạng tình hình đầu tư, khai thác sử dụng TSCĐ của
doanh nghiệp, từ đó có thể đề ra các biện pháp quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ.
* Căn cứ vào quyền sở hữu.
Theo tiêu thức này, TSCĐ của doanh nghiệp được chia thành 2 loại:
+ TSCĐ thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp: bao gồm các loại TSCĐ được đầu
bằng nguồn vốn của doanh nghiệp, hoặc bằng nguồn vốn vay, doanh nghiệp có quyền sở hữu
và sử dụng chúng. Các TSCĐ này được đăng ký đứng tên doanh nghiệp.
+ TSCĐ không thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp: những TSCĐ của đơn vị
khác nhưng doanh nghiệp quyền quản lý, sử dụng theo những điều kiện ràng buộc nhất
định. Thuộc nhóm TSCĐnày bao gồm 3 loại: TSCĐ nhận của đối tác liên doanh, TSCĐ thuê
ngoài và TSCĐ nhận giữ hộ, quản lý hộ.
- TSCĐ nhận của đối tác liên doanh các tài sản do đối tác liên doanh góp theo các
hợp đồng hợp tác kinh doanh. Doanh nghiệp quyền quản sử dụng theo các điều
khoản hợp đồng đã ký. Khi kết thúc hợp đòng, việc xử tài sản này cũng sẽ được tiến hành
theo hợp đồng hay theo thỏa thuận giữa các bên.
18
động.
- TSCĐ thuê ngoài được hình thành theo 2 phương thức: Thuê i chính thuê hoạt
TSCĐ thuê tài chính: những TSCĐ được hình thành theo phương thức thuê tài
chính. Việt Nam hiện nay, tài sản thuê tài chính những tài sản thuê từ các tổ chức kinh
doanh chức năng cho thuê tài chính (công ty cho thuê tài chính) hợp đồng thuê phải
thỏa mãn 2 điều kiện sau:
(1) Khi kết thúc thời hạn thuê, bên đi thuê được quyền lựa chọn mua lại tài sản thuê,
hoặc tiếp tục thuê theo các điều kiện đã thỏa thuận trong hợp đồng thuê tài chính.
(2) Tổng số tiền thuê tài sản quy đinh trong hợp đồng thuê tài chính, ít nhất phải tương
đương với giá trị của tài sản đó trên thị trường vào thời điểm ký kết hợp đồng.
Nếu các hợp đồng thuê tài sản không thỏa mãn bất kì điều kiện nào trong các điều kiện
nêu trên thì hình thức thuê đó được gọi là thuê hoạt động.
Cách phân loại trên sẽ giúp doanh nghiệp nắm bắt được tình hình cấu TSCĐ
theo nguồn hình thành quyền shữu đối với TSCĐ, từ đó thể đưa ra các biện pháp
quản lý, sử dụng và trích khấu hao thích hợp.
Tình hình TSCĐ của doanh nghiệp trong mỗi thời kỳ được phản ánh tổng quát ở bảng
cân đối kế toán của doanh nghiệp trong thời kỳ đó.
2.2. Các phương pháp tính khấu hao TS
2.2.1. Khái niệm mục đích khấu hao TS
Qua các nội dung nghiên cứu ở trên cho thấy TSCĐ bị giảm dần giá trong quá trình dự
trữ và tham gia vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, và đến một lúc nào đó, TSCĐ sẽ
không sử dụng được nữa cần phải đổi mới thay thế. Để nguồn tài chính đầu TSCĐ
khi cần thiết, doanh nghiệp phải tính toán c định phần giá trị hao mòn TSCĐ dịch
chuyển vào chi phí sản xuất kinh doanh, hay giá trị sản phẩm, dịch vụ tạo ra. Phần giá trị
này cần được thu hồi thông qua hoạt động khấu hao TSCĐ. Như vậy, khấu hao TSCĐ quá
trình tính toán, xác định thu hồi phần giá trị TSCĐ hao mòn đã dịch chuyển vào chi phí
sản xuất kinh doanh, hay giá thành sản phẩm của doanh nghiệp.
Trong thực tế, việc xác định chính xác giá trị TSCĐ hao mòn không thể thực hiện
được. Hơn nữa, mục đích chủ yếu của khấu hao xác định phần giá trị TSCĐ cần được thu
hồi tích lũy lại nhằm đảm bảo nguồn vốn cho tái đầu TSCĐ. Cho nên việc xác định
chính xác giá trị hao mòn TSCĐ không quan trọng bằng việc đạt được mục đích của khấu
hao. vậy, việc tính khấu hao theo phương pháp nào còn tùy thuộc vào mục đích thu hồi
vốn. thực tế sử dụng tài sản mỗi doanh nghiệp chế quản khấu hao TSCĐ của Nhà
nước trong từng thời kỳ. Đó cũng là lý do giải thích tại sao, trong công tác kế toán, việc khấu
hao được thực hiện bằng cách phân bổ giá trị TSCĐ vào chi phí sản xuất kinh doanh. Hay,
19
khấu hao là việc tính toán và phân bổ một cách có hệ thống nguyên giá TSCĐ vào chi phí sản
xuất kinh doanh trong thời gian sử dụng của TSCĐ.
Phần giá trị hao mòn (hay phần giá trị TSCĐ phân bổ) được dịch chuyên vào chi phí
sản xuât kinh doanh, hay giá trị sản phẩm, dịch vụ tạo ra được coi một yếu tố chi phí
được gọi chi phí khấu hao TSCĐ. Bộ phận chi phí này thể hiện dưới hình thái tiền tệ được
gọi tiền khấu hao. Sau khi sản phẩm, hàng hoa, dịch vụ được tiêu thụ số tiền khấu hao
được tích lũy lại trở thành nguôn tài chính quan trọng đê đảm bảo tái đầu TSCĐ của
doanh nghiệp. Trên thực tế, khi chưa nhu câu đâu TSCĐ mới, nguồn vốn thu hồi được
từ việc khấu hao tồn tại dưới hình thức một bộ phận tài sản lưu động của doanh nghiệp
doanh nghiệp được sử dụng linh hoạt bộ phận này.
2.2.2. Căn cứ tính khấu hao TS
Để tính khấu hao TSCĐ người ta thường dựa vào một số yếu tố như nguyên giá, thời
gian sử dụng TSCĐ, sản lượng theo công suất thiết kế và sản lượng thực tế của TSCĐ….
2.2.2.1. Nguyên giá TS
Nguyên giá TSCĐ là toàn bộ các chi phí thực tế doanh nghiệp bỏ ra để có được TSCĐ
tính đến thời điểm đưa TSCĐ đó vào trạng thái sẵn sàng sử dụng. Nói cách khác, nguyên giá
TSCĐ là toàn bộ giá trị đầu tư ban đầu vào TSCĐ.
Ở Việt Nam hiện nay, nguyên giá TSCĐ được xác định như sau:
* Đối với TSCĐ hữu hình
- TSCĐ hữu hình được hình thành theo phương thức mua sắm (kể cả mua mới cũ),
nguyên giá TSCĐ bao gồm: giá mua thực tế phải trả các khoản thuế (không bao gồm các
khoản thuế được khấu trừ, được hoàn lại) các chi phí khác tính đến thời điểm đưa TSCĐ
vào trạng thái sẵn sàng sử dụng như: lãi tiền vay đầu tư TSCĐ, lệ phí trước bạ…
Trường hợp mua TSCĐ hữu hình theo phương thức trả chậm, trả góp thì nguyên giá
tài sản này bao gồm: giá mua trả tiền ngay tại thời điểm mua, các khoản thuế (không bao gồm
các khoản thuế được khấu trừ, hoàn lại) và các chi phí khác tính đến thời điểm đưa TSCĐ vào
trạng thái sẵn sàng sử dụng như: chi phí vận chuyên, bốc dơ, chi phí nâng cấp, lắp đặt, chạy
thử, lệ phí trước bạ… Khoản chênh lệch giữa giá mua trả chậm và giá mua trả tiền ngay được
hạch toán vào chi phí hoạt động tài chính theo kỳ hạn thanh toán.
TSCĐ hữu hình được mua dưới hình thức trao đổi. Khi doanh nghiệp tài sản mình để
trao đổi lấy một TSCĐ hữu hình không tương tự, hoặc lấy một tài sản khác thì nguyên giá
TSCĐ nhận về được xác định là giá trị hợp lý của TSCĐ hữu hình nhận vê hoặc giá trị hợp lý
của tài sản đem trao đổi (sau khi cộng them các khoản phải trả thêm, hoặc trừ đi các khoản
thu về) cộng (+) các khoản thuế không bao gồm các khoản thuế được khấu trừ, được hoàn lại
cộng (+) các chi phí khác tính đến thời điện đưa TSCĐ vào trạng thái sẵn sàng sử dụng như:
chi phí vận chuyên, bốc dơ, chi phí nâng cấp, lắp đặt, chạy thử, lệ phí trước bạ…
20
- TSCĐ hữu hình được hình thành theo phương thức doanh nghiệp tự xây dựng hoặc
tự sản xuất. Nguyên giá TSCĐ loại này được cấu thành bởi các bộ phận như: giá thành thực
tế của TSCĐ, chi phí lắp đặt chạy thử, các chi phí trực tiếp khác tính đến thời điểm đưa
TSCĐ vào trạng thái sẵn sàng sử dụng (trừ các khoản lãi nội bộ, các chi phí không hợp
như vật liệu lãng phí, lao động hoặc các khoản chi phí vượt định mức trong xây dựng, hoặc
sản xuất).
- TSCĐ hữu hình do đầu xây dựng bản hình thành theo phương thức giao thầu ,
nguyên giá tài sản này là giá quyết toán công trình xây dựng theo quy định tại Quy chế quản
lý đầu tư và xây dựng cộng (+) lệ phí trước bạ và các chi phí liên quan trực tiếp khác .
-TSCĐ hữu hình được cấp , được điều chuyển đến .Nguyên giá TSCĐ loại này được
xác định theo giá trị còn lại trên sổ kế toán TSCĐ ở các đơn vị cấp , đơn vị điều chuyển, hoặc
giá trị theo đánh giá thực tế của Hội đồng giao nhận cộng (+) các chi phí mà bên nhận tài sản
phải chi ra tính đến thời điểm đưa TSCĐ vào trạng thái sẵn sàng sử dụng như : chi phí vận
chuyển , bốc dỡ, chi phí nâng cấp, lắp đặt,chạy thử ,lệ phí trước bạ ( nếu có),…
-TSCĐ hữu hình được cho , được biếu , được tặng , nhận vốn góp liên doanh , nhận lại
vốn góp,.. Nguyên giá TSCĐ hữu hình loại này giá trị theo đánh giá thực tế của Hội đồng
giao nhận cộng (+) các chi phí bên nhận phải chi ra tính đến thời điểm đưa TSCĐ vào
trạng thái sẵn sàng sử dụng như: chi phí vận chuyên, bốc dơ, chi phí nâng cấp, lắp đặt, chạy
thử, lệ phí trước bạ…
* Đối với TSCĐhình: Cách xác định nguyên giá của TSCĐhình phụ thuộc vào
từng loại tài sản theo phương thức hình thành.
- TSCĐhình mua sắm: việc xác định nguyên giá của TSCĐ này tương tự như cách
xác định nguyên giá TSCĐ hữu hình loại mua sắm.
TSCĐ hình được tạo ra từ nội bộ doanh nghiệp: Trong trường hợp này, nguyên giá
TSCĐ là các chi phí liên quan trực tiếp đến khâu thiết kế, xây dựng, sản xuất thử nghiệm phải
chi ra tính đến thời điểm đưa TSCĐ đó vào sử dụng theo dự tính.
Riêng các chi phát sinh tring nội bộ để doanh nghiệp nhãn hiệu hàng hóa, quyền
phát hành, danh sách khách hàng, chi phí phát sinh trong giai đoạn nghiên cứu các khoản
mục tương tự không được coi bộ phận cấu thành nguyên giá TSCĐ hình hạch toán
vào chi phí kinh doanh trong kỳ.
- TSCĐ vô hình được cấp, được biếu, được tặng: Nguyên giá tài sản này là giá trị theo
đánh giá thực tế của Hội đồng giao nhận cộng (+) các chi phí liên quan trực tiếp phải chi ra
tính đến thời điểm đưa TSCĐ đó vào sử dụng theo dự tính.
Đối với một số TSCĐ vô hình đặc thù, cách thức xác định nguyên giá như sau:
+ Quyền sử dụng đất: Nguyên giá của TSCĐ là quyền sử dụng đất bao gồm quyền sử
đụng đất có thời hạn và quyền sử dụng đất lâu dài: là tiền chi ra để có quyền sử dụng đất hợp
21
pháp cộng (+) chi phí cho đền giải phóng mặt bằng, san lấp mặt bằng, lệ phí trước bạ…
(không bao gồm các chi phí chi ra để xây dựng các công trình trên đất), hoặc giá trị quyền
sử dụng đất nhận góp vốn.
Riêng đối với trường hợp doanh nghiệp thuê đất thì tiền thuê đất được phân bổ dần
vào chi phí kinh doanh, không ghi nhận là TSCĐ vô hình.
+ Quyền phát hành, bản quyền, bằng sáng chế. Nguyên giá của tài sản này toàn bộ
các chi phí thực tế doanh nghiệp đã chi ra để có quyền phát hành, bản quyền, bằng sáng chế.
+ Nhãn hiệu hàng hóa. Nguyên giá của tài sản này được xác định là các chi phí thực tế
liên quan trực tiếp đến việc mua nhãn hiệu hàng hóa.
+ Phần mềm máy vi tính. Nguyên giá của TSCĐ phần mềm máy vi tính (trong trường
hợp phần mềm một bộ phận thể tách rời với phần cứng liên quan) toàn bộ các chi
phí thực tế doanh nghiệp đã chi ra để có phần mềm máy vi tính.
* Đối với TSCĐ thuê tài chính: Nguyên giá TSCĐ thuê tài chính phản ánh đơn vị
thuê giá trị hợp lý của tài sản thuê tại thời điểm bắt đầu thuê tài sản. Nếu giá trị hợp lý của tài
sản thuê cao hơn giá trị hiện tại của khoản thanh toán tiền thuê tài sản tối thiểu, thì nguyên
giá được ghi theo giá trị hiện tại của khoản thanh toán tiền thuê tối thiểu. Chi phí phát sinh
ban đầu liên quan trực tiếp đến hoạt động thuê tài chính cũng được tính vào nguyên giá của
TSCĐ đi thuê.
Trong quá trình sử dụng TSCĐ, nguyên giá TSCĐ thể thay đổi cần xác định lại
khi có các nghiệp vụ nâng cấp, tháo dỡ bộ phận, hay đánh giá lại giá trị TSCĐ. Khi đó, doanh
nghiệp phải lập biên bản ghi các căn cứ thay đổi nguyên giá TSCĐ được xác đinh như
sau:
Nguyên
giá mới
=
Nguyên
giá cũ
+
Chi phí
nâng cấp
(nếu có)
-
Giá trị tháo dỡ bộ
phận (nếu có)
2.2.2.2. Thời gian sử dụng TS
Thời gian sử dụng TSCĐ thời gian doanh nghiệp dự kiến sử dụng TSCĐ vào hoạt
động kinh doanh phù hợp với các thông số kinh tế- kỹ thuật của TSCĐ và các yếu tố khác
liên quan đến sự hoạt động của TSCĐ.
Thời gian sử dụng của TSCĐ được xác định dựa vào một số yếu tố cơ bản sau:
(1) Tuổi thọ kỹ thuật của TSCĐ theo thiết kế
(2) Hiện trạng TSCĐ khi đầu (mới hay cũ, thời gian TSCĐ đã sử dụng, thế hệ
TSCĐ, tình trạng thực tế của tài sản…)
(3) Tuổi thọ kinh tế của TSCĐ: phụ thuộc vào điều kiến dụng TSCĐ thực tế (thời
gian, cường độ và trình độ sử dụng…) tại mỗi doanh nghiệp.
Ở Việt Nam hiện nay, thời gian sử dụng các loại TSCĐ được xác dịnh như sau:
22
* Thời gian sử dụng TSCĐ hữu hình
- Đối với TSCĐ mới (chưa qua sử dụng), doanh nghiệp phải căn cứ vào quy định hiện
hành của Nhà nước về khung thời gian sử dụng TSCĐ để xác địnhthời gian sử dụng của từng
TSCĐ.
- Đối với TSCĐ đã qua sử dụng (TSCĐ cũ),thời gian sử dụng của tài sản này được xác
định như sau:
Thời gian sử
Giá trị hợp lý của TSCĐ cũ
Thời gian sử dụng của TS
dụng của
mới cùng loại (xác đinh theo
TSCĐ cũ
(đã qua sử
dụng)
=
Giá bán của TSCĐ mới cùng
x
loại (hoặc của TSCĐ tương
đương trên thị trường
quy định hiện hành của nhà
nước về khung thời gian sử
dụng TSCĐ)
Trong dó:
Giá trị hợp của TSCĐ giá mua hoặc trao đổi thực tế (trong trường hợp mua
bán, trao đổi), hoặc giá trị còn lại của TSCĐ (trong trường hợp được cho, biếu tặng. nhận vốn
góp)…
Trường hợp doanh nghiệp muốn xác định thời gian sử dụng của TSCĐ khác với khung
thời gian sử dụng do Nhà nước quy định, doanh nghiệp phải giải trình các căn cứ để xác
định thời gian sử dụng của TSCĐ đó đê bộ tài chính xem xét, quyết định.
Nếu phát sinh các hoạt động (như nâng cấp, hay tháo dỡ một hay một số bộ phận của
TSCĐ…) nhằm kéo i hoặc rút ngắn thời gian sử dụng đã xác định trước đó của TSCĐ,
doanh nghiệp phải tiến hành xác định lại thời gian sử dụng của TSCĐ theo ba yếu tố trên tại
thời điểm hoàn thành nghiệp vụ phát sinh, đồng thời phải lập biên bản nêu các căn cứ làm
thay đổi thời gian sử dụng.
* Thời gian sử dụng TSCĐ hình: Doanh nghiệp tự xác định thời gian sử dụng của
từng TSCĐ hình nhưng tối đa không quá 20 năm. Riêng đối với TSCĐ hình quyền
sử dụng đất thời hạn thì thời gian sử dụng của tài sản này thời hạn được phép sử dụng
đất theo quy định.
* Thời gian sử dụng thuê tài chính: Nếu trong hợp đồng thuê tài sản, doanh nghiệp đi
thuê cam kết không mua tài sản thuê trong hợp đồng thuê tài chính, thì doanh nghiệp đi thuê
xác định thời gian sử dụng TSCĐ thuê tài chính theo thời hạn thuê trong hợp đồng làm căn
cứ để tính khấu hao tài sản này. Ngược lại, doanh nghiệp xác định thời gian sử dụng TSCĐ
thuê tài chính theo cách thức xác định thời gian sử dụng TSCĐ thuê tài chính theo cách thức
xác định thời gian sử dụng TSCĐ hữu hình nêu trên,
2.2.2.3. Các căn cứ khác
23
Ngoài nguyên giá thời gian sử dụng TSCĐ, để tính khấu hao TSCĐ một cách linh
hoạt phù hợp với tình hình khai thác sử dụng TSCĐ, tùy theo phương pháp khấu hao
người ta còn thể dựa vào một số yếu tố khác như giá trị còn lại của TSCĐ, số lượng, khối
lượng sản phẩm được sản xuất trong kỳ, sản lượng theo công suất thiết kế, diện tích canh
c…
2.2.3. Các phương pháp khấu hao TS
2.2.3.1. Phương pháp khấu hao đường thẳng Straight line depreciation method
Phương pháp khấu hao đường thẳng (còn được gọi phương pháp khấu hao tuyến
tính cố định, khấu hao bình quân theo thời gian): là phương pháp khấu hao mà tỷ lệ khấu hao
và mức khấu hao hàng năm được xác định theo một mức cố định trong suốt thời gian sử dụng
TSCĐ. Công thức xác định mức khấu hao hàng năm như sau:
Trong đó:
+ NG: nguyên giá của TSCĐ
+ N: thời gian sử dụng của TSCĐ (tính theo năm)
+ M: mức khấu hao trung bình hàng năm
Hoặc
Đặt T=1/NG, T được gọi là tỷ lệ khấu hao bình quân hàng năm, ta có:
M = NG x T
Nếu doanh nghiệp thực hiện việc trích khấu hao theo quý, hoặc theo tháng thì lấy mức
khấu hao trung bình năm chia cho số quý, hoặc số tháng trong năm.
Trường hợp thời gian sử dụng, hay nguyên giá của TSCĐ thay đổi, doanh nghiệp phải
xác định lại mức trích khấu hao trung bình của TSCĐ bằng cách lấy giá trị còn lại trên sổ kế
toán chia cho thời gian sử dụng c định lại (được xác định chênh lệch giữa thời gian sử
dụng đã đăng ký trừ thời gian đã sử dụng) của TSCĐ.
dụ: Công ty ABC mua một TSCĐ dùng cho hoạt động kinh doanh với nguyên giá
được xác định 60 triệu đồng. Theo quy định của Nhà nước, khung thời gian sử dụng của
TSCD này tử 4 đến 8 năm, doanh nghiệp xác định thời gian sử dụng 5 năm. Các kết quả tính
toán như sau:
Tỷ lệ khấu hao của TSCĐ là: 1/5= 0,2 (20%)
Mức khấu hao trung bình năm: 60 trđ/5 =12trđ
Mức khấu hao trung bình tháng: 12trđ/12 = 1trđ
24
Có thể minh họa mức khấu hao TSCĐ trên bằng đồ thị như sau:
12
1 2 3 4 5 N (m)
* Ưu, nhược điểm của phương pháp:
Phương pháp khấu hao theo đường thẳng ưu điểm cách tính toán đơn giản, mức
khấu hao được phân bổ đều qua các năm tạo điều kiện để doanh nghiệp ổn định chi phí kinh
doanh giá thành sản phẩm. Tuy nhiên, phương pháp này nhược điểm mức khấu hao
không phản ánh chính xác mức độ hao mòn, cũng như năng lực phục vụ thực tế của TSCĐ
trong các thời kỳ sử dụng khác nhau.
Việt Nam, theo Thông số 45/2013/TT-BTC, phương pháp khấu hao đường thẳng
thể được áp dụng đối với mọi TSCĐ tham gia vào hoạt động kinh doanh. Riêng đối với
các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh có hiệu quả cao, được tính khấu hao nhanh nhưng tối
đa không quá 2 lần mức khấu hao xác định theo phương pháp đường thẳng để nhanh chóng
đổi mới công nghệ. TSCĐ tham gia vào hoạt động kinh doanh được trích khấu hao nhanh
phải là máy móc, thiết bị, dụng cụ làm việc đo lường, thí nghiệm, thiết bị phương tiện vận
tải, dụng cụ làm việc đo lường, thí nghiệm, thiết bị phương tiện vận tải, dụng cụ quản lý,
súc vật, vườn cây lâu năm. Khi thực hiện trích khấu hao nhanh, doanh nghiệp phải đảm bảo
kinh doanh có lãi.
2.2.3.2. Phương pháp khấu hao theo s giảm dần điều chỉnh Declining balance
depreciation method.
Khấu hao theo số giảm dần điều chỉnh phương pháp khấu hao trong đó mức
khấu hao trong những năm đầu của thời gian sử dụng TSCĐ được xác định bằng cách lấy giá
trị còn lại của TSCĐ nhân với một tỷ lệ khấu hao điều chỉnh. Còn trong những năm cuối của
thời gian sử dụng TSCĐ thì mức khấu hao được xác định theo phương pháp được thằng dựa
trên giá trị còn lại thời gian sử dụng còn lại của TSCĐ. Tỷ lệ khấu hao điều chỉnh mức
khấu hao hàng năm được xác định theo các công thức sau:
M(i) = G(i) x
Tdc Tdc = T x H
Trong đó:
M(i): Mức khấu hao năm thứ i
G(i): Giá trị còn lại của TSCĐ ở đầu năm thứ i
25
>?@
i: là số nguyên và nằm trong đoạn [từ 1 đến N]
Tdc: Tỷ lệ khấu hao điều chỉnh
T: là tỷ lệ khấu hao xác định theo phương pháp đường thẳng
H: Hệ số điều chỉnh, được xác định như sau:
H=1,5 nếu N ≤ 4 năm
H = 2,0 nếu 4 năm < N ≤ 6 năm
H= 2,5 nếu N> 6 năm
Riêng những năm cuối khi mức khấu hao năm xác định theo phương pháp số giảm
dần nói trên bằng hoặc thấp hơn giá trị trung bình (tính bằng cách lấy giá trị còn lại chia cho
số năm sử dụng còn lại của TSCĐ), thì kể từ năm đó mức khấu hao được tính bằng giá trị
trung bình kể trên.
Trong phương pháp khấu hao này, nếu doanh nghiệp muốn thực hiện việc trích khấu
hao hàng quý, hoặc hàng tháng thì lấy mức khấu hao năm chia cho số quý, hoặc số tháng
trong năm.
dụ: Một doanh nghiệp đầu một TSCĐ thiết bị sản xuất nguyên giá 100
triệu đồng thời gian sử dụng dược xác định 5 năm. Nếu khấu hao theo phương pháp
này thì kết quả khấu hao như sau:
N = 5 => H =2; T = 1/N = 1/5 = 0,2 và Tdc = TxH = 0.2x2 = 0,4 (40%)
TT G (i) Tdc
Cách tính
số khấu
hao hàng
năm
M(i)
(trđ)
Khấu hao
lũy kế
(trđ)
Giá trị
còn lại
1 100,0 40% 100 x 40% 40,0 40,0 60,0
2 60,0 40% 60 x 40% 24,0 64,0 36,0
3 36,0 40% 36 x 40% 14,4 78,4 21,6
4 21,6 21,6 : 2 10,8 89,2 10,8
5 10,8 21,6 : 2 10,8 100,0 0
* Ưu nhược điểm của phương pháp
Phương pháp khấu hao theo số giảm dần điều chỉnh ưu điểm cho phép
doanh nghiệp thể thu hồi phần lớn vốn đầu TSCĐ ngay từ những năm đầu (do mức
khấu hao của TSCD trong những năm đầu rất cao). Từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho
doanh nghiệp thể sử dụng nguồn tài chính này để nhanh chóng đổi mới TSCĐ, giảm hao
mòn hình. Tuy vậy, phương pháp này cũng một số nhược điểm là: mức khấu hao chưa
phản ánh chính xác mức độ hao mòn thực tế của TSCĐ, làm cho chi phí giá thành không
ổn định, cách tính tương đối phức tạp, không thống nhất trong suốt thời gian sử dụng TSCĐ.
26
Có thể minh họa mức khấu hao hàng năm của TSCĐ trên bằng đồ thị sau:
Việt Nam, theo Thoongtuw 45/2013/TT-BTC, phương pháp khấu hao theo số
giảm dần điều chỉnh chỉ được áp dụng đối với những TSCĐcác loại máy móc, thiết bị,
dụng c làm việc, đo lường, thí nghiệm đầu mới (chưa qua sử dụng) tham gia vào hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp.
2.2.3.3. Phương pháp khấu hao theo tỷ kệ khấu hao giảm dần Declining rate depreciation
method.
Phương pháp khấu hao theo tỷ lệ khấu hao giảm dần (còn gọi phương pháp khấu
hao lũy thoái) là phương pháp khấu hao theo đó mức khấu hao hàng năm được xác định bằng
cách lấy nguyên giá TSCĐ nhân với tỷ lệ khấu hao giảm dần qua các năm. Tỷ lệ khấu hao và
mức khấu hao hàng năm được xác định như sau:
M(i) = T(i) x NG
Trong đó:
M(i): Mức khấu hao của TSCĐ năm thứ i
T(i): Tỷ lệ khấu hao năm thứ i
NG: Nguyên giá TS
N: Thời gián sử dụng của TSCĐ (năm)
i: Số thứ tự năm sử dụng
1 ≤ i ≤ N, i là số nguyên.
dụ: Một TSCĐ nguyên giá 100 triệu đồng, thời gian sử dụng dự kiến là 4 năm. Tỷ
lệ khấu hao và mức khấu hao theo phương pháp này được tính như sau:
i= 1 -> T(1) = 2(4-1+1)/4(4+1) = 8/20 = 0,4 hay 40%
và M(1) = T(1) x NG = 40% x 100 = 40 triệu đồng
Tính tương tự như thế ở các năm tiếp theo ta có bảng kết quả sau:
i T(i) M(i) Khấu hao lũy kế Giá trị còn lại
1 40% 40 40 60
2 30% 30 70 30
3 20% 20 90 10
4 10% 10 100 0
* Ưu nhược điểm của phương pháp
Phương pháp khấu hao theo tỷ lệ khấu hao giảm dần ưu điểm mức khấu hao
những năm đầu sử dụng TSCĐ lớn, giúp doanh nghiệp thể thu hồi phần lớn vốn đầu
27
ngay từ những năm đầu. Từ đó, tạo điều kiện cho doanh nghiệp nhanh chóng tái đầu đổi
mới TSCĐ, ngăn ngừa hạn chế được hao mòn vô hình, So với phương pháp khấu hao theo số
giảm dần điều chỉnh thì phương pháp này còn ưu điểm cách tính toán mức khấu
hao hàng năm được thống nhất trong suốt thời gian sử dụng TSCĐ. Tuy nhiên, phương pháp
này còn nhược điểm mức khấu hao không phản ánh đúng mức hao mòn thực tế của
TSCĐ, mức khấu hao giảm dần qua các năm cho nên đã làm cho chi phí kinh doanh giá
thành sản phẩm không ổn định, thêm vào đó việc tính khấu hao theo phương pháp này cũng
phức tạp.
2.2.3.4. Phương pháp khấu hao theo sản lượng
Đây là phương pháp theo đó tỷ lệ khấu hao và mức khấu hao được xác định trên cơ sở
số lượng, khối lượng sản phẩm (gọi tắt sản lượng) TSCĐ thực tế sản xuất được trong
kỳ sản lượng biểu hiện thời gian sử dụng hữu ích (sản lượng theo thiết kế) của TSCĐ.
Công thức tính như sau:
Mi = NG x (Si/So)
Trong đó:
Mi: Mức trích khấu hao TSCĐ trong kỳ i
NG: Nguyên giá TSCĐ
Si: Sản lượng thực tế TSCĐ sản xuất được trong kỳ
i So: Tổng sản lượng theo công suất thiết kế của TSCĐ.
đây, So biểu hiện thời gián sử dụng hữu ích của TSCĐ , còn Si phản hánh mức độ
thực tế khai thác, sử dụng TSCĐ:
Trường hợp công suất thiết kế, hoặc nguyên giá của TSCĐ thay đổi, doanh nghiệp
phải xác định lại mức trích khấu hao của TSCĐ theo công suất mới hoặc nguyên giá mới.
dụ: Công ty ABC mua máy trộn tông với nguyên giá 400 triệu đồng. Công suất
thiết kế của máy trộn tông này 2m3/giờ. Tổng sản lượng theo công suất thiết kế của
TSCĐ này là 20.000 m3. Khối lượng sản phẩm đạt được trong năm thứ nhất của máy trôn
tông này là:
Tháng Khối lượng sản phẩm hoàn
thành (m3)
Tháng Khối lượng sản phẩm hoàn
thành (m3)
1 400 7 400
2 450 8 500
3 480 9 560
4 460 10 540
5 500 11 560
6 550 12 550
28
Mức trích khấu hao của máy trộn bê tông theo phương pháp khấu hao theo sản lượng
được xác định như sau:
Tháng Sản lượng thực tế (m3) Mức trích khấu hao (trđ)
1 400 400 x (400/20.000) = 8,0
2 450 400 x (450/20.000) = 9,0
3 480 400 x (480/20.000) = 9,6
4 460 400 x (460/20.000) = 9,2
5 500 400 x (500/20.000) = 10,0
6 550 400 x (550/20.000) = 11,0
7 400 400x (400/20.000) = 8,0
8 500 400x (500/20.000) = 1,0
9 560 400x (560/20.000) = 11,2
10 540 400x (540/20.000) = 10,8
11 560 400x (560/20.000) = 11,2
12 550 400x (550/20.000) = 11,0
Cả năm 119,0
* Ưu nhược điểm của phương pháp:
Phương pháp khấu hao theo sản lượng ưu điểm mức khấu hao gắn liền với mức
độ khai thác sử dụng TSCD. Do đó, nó phản ánh tương đối chính xác mức độ hao mòn TSCĐ
do khai thác sử dụng. Bên cạnh đó, việc khấu hao không lệ thuộc vào thời gian sử dụng
TSCĐ nên đã tạo điều kiện cho doanh nghiệp chủ động tận dụng khai thác triệt để công suất,
công dụng TSCĐ nhằm nhanh chóng thu hồi vốn để đổi mới TSCĐ.
Tuy vậy, phương pháp này cũng có một số nhược điểm sau:
- Phạm vi áp dụng phương pháp này bị giới hạn bởi không phải TSCĐ nào cũng
thông số biểu hiện đời sống kinh tế hữu ích của nó. Thêm vào đó, việc xác định các thông số
trong nhiều trường hợp gặp khó khăn do sự không ổn định của môi trường khai thác, sử dụng
TSCĐ. Chẳng hạn, cùng một máy móc thiết bị nếu sử dụng trong môi trường nhiệt độ
không cao, độ ẩm thấp chấp hành tốt các quy định sử dụng bảo quản thì đời sống kinh
tế hữu ích sẽ cao hơn so với trường hợp sử dụng môi trường nhiệt độ độ ẩm cao
bảo quản không tốt, hay một phương tiện vận tải nếu sử dụng trên được loại 1 và bảo đảm tải
trọng theo quy định thì đời sống kinh tế sẽ dài hơn so với phương tiện vận tải trên đường loại
2,3 … và quả tải trọng.
- Trong trường hợp mức độ khai thác, sử dụng TSCĐ thấp thì mức khấu hao sẽ không
thể phản ánh mức độ hao mòn do tiến bộ khoa học kỹ thuật điều kiện tự nhiên gây ra dẫn
đến kéo dài thời gian khấu hao. Do đó, để tránh xảy ra trường hợp này, người ta chỉ áp dụng
phương pháp khấu hao theo sản phảm khi công suất khai thác TSCĐ phải đạt ở mức tối thiểu
nhất định.
29
Trong thực tế phương pháp khấu hao kể trên được vận dụng trông nhiều ngành như
xây dựng bản, giao thông vận tải, sản xuất công nghiệp… Tuy nhiên, thông số để tính
khấu hao lúc đó không phải là sản lượngsố km vận chuyển, số ca máy hoạt động, diện
tích canh tác…
Việt Nam, theo Thông 45/2013/TT-BTC, phương pháp khấu hao theo sản phẩm
chỉ được áp dụng đối với những TSCĐ thỏa mãn các điều kiện:
- TSCĐ các loại máy móc, thiết bị tham gia vào hoạt động kinh doanh trực tiếp
liên quan đến việc sản xuất sản phẩm;
- Xác định được tổng số lượng, khối lượng sản phẩm sản xuất theo công suất thiết kế
của TSCĐ;
Công suất sử dụng thực tế bình quân tháng trong năm tài chính không thấp hơn 50%
công suiaats thiết kế.
2.3. Quản trị TS
TSCĐ là bộ phận tài sản quan trọng không thể thiếu được đối với mọi doanh
nghiệp. Mặt khác, quá trình đầu tư, sử dụng những tài sản này có thể bị thất thoát, lãng phí do
bị hỏng trước thời hạn, đọng không sử dụng, doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ nên
không thể thu hồi được vốn, giá trị tài sản bị giảm sút do tác động của lạm phát tiền tệ, tỷ
giá.. Do đó, doanh nghiệp cần phải quản lý TSCĐ nhằm bảo toàn, phát triển giá trị của chúng
và góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng tổng tài sản của doanh nghiệp.
Để đánh giá chất lượng, hiệu quả quản lý, sử dụng TSCĐ của doanh nghiệp trong mỗi
thời kỳ tốt hay chưa tốt, người ta thường sử dụng các chỉ tiêu cơ bản sau:
(1) Hiệu suất sử dụng TSCĐ (H1)
H1 = Công suất khai thác thực tế trong kỳ/ Công suất thiết kế của TSCĐ
(2) Tỷ lệ sử dụng TSCĐ (H2)
H2 = Giá trị TSCĐ được sử dụng trong kỳ/ Giá trị TSCĐ hiện có trong k
(3) Hàm lượng TSCĐ (H3)
H3 = Nguyên giá TSCĐ/ Doanh thu
(4) Hệ số sinh lợi của TSCĐ (H4)
H4= Lợi nhuận/ Nguyên giá
TSCĐ
Để nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ, trong quản lý TSCĐ doanh nghiệp cần quan tâm
giải quyết một số vấn đề sau:
2.3.1. Nguồn vốn hình thành TS
30
Khai thác tạo lập nguồn vốn để hình thành duy trì quy TSCĐ thích hợp
hoạt động đầu tiên trong công tác quản trị TSCĐ. Việc khai thác tạo nguồn hình thành
TSCĐ sẽ quyết định đến quy ảnh hưởng đến sự tồn tại của các TSCĐ. Do đó, để tạo
lập nguồn vốn thích hợp, trước hết các doanh nghiệp, cần phải xác định cơ cấu tài sản và nhu
cầu vốn đầu tư TSCĐ.
Việc hình thành một cấu i sản thích hợp tác động trực tiếp đến tình hình sử
dụng tài sản và hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. TSCĐ của doanh nghiệp đầu tư đồng
bộ, phù hợp với nhu cầu khả năng tài chính của doanh nghiệp điều kiện tiên quyết góp
phần nâng cao hiệu suất sử dụng tài sản. Ngược lại, nếu doanh nghiệp đầu TSCĐ không
đồng bộ, đầu quá sớm, không phù hợp với nhu cầu sử dụng… sẽ làm tăng tỷ trọng TSCĐ
chưa dùng hoặc không cần dùng, làm láng phí vốn của doanh nghiệp. Hơn thế nữa, vốn và tài
sản của doanh nghiệp và điều kiện bảo quản không đảm bảo.
Để được cấu nguồn tài trợ thích hợp, đáp ứng cácu cầu của cấu vốn mục
tiêu, giảm thiểu chi phí sử dụng vốn mang tính khả thi, doanh nghiệp cần xác định đặc
điểm và thời gian luân chuyển của từng loại tài sản. Trên thực tế, tùy theo khả năng tài chính;
điều kiện; đặc điểm kinh doanh của doanh nghiệp; tình hình phát triển của thị trường vốn…
doanh nghiệp có thể khai thác lựa chọn, hoặc sử dụng kết hợp một số nguồn vốn sau:
+ Quỹ khấu hao, quỹ đầu tư phát triển, lợi nhuận để lại của doanh nghiệp
+ Vốn ngân sách Nhà nước (đối với doanh nghiệp Nhà nước)
+ Vốn vay, vốn huy động qua phát hành chứng khoán (cổ phiếu, trái phiếu)
+ Vốn liên doanh, liên kết
+ Các nguồn khác: Thuê tài chính, thuê hoạt động
Mỗi nguồn đều ưu, nhược điểm riêng với điều kiện khai thác chi phí sử dụng
khác nhau. Vấn đề này sẽ được nghiên cứu kỹ hơn chương 4. Doanh nghiệp cân nhắc, lựa
chọn để xác lập một cơ cầu nguồn vốn thích hợp.
2.3.2. Quản quá trình sử dụng TSCĐ
* Về mặt hiện vật, công tác quản trị TSCĐ của doanh nghiệp phải quan tâm tới các nội
dung sau:
+ Thực hiện đúng quy chế về quản lý đầu tư và xây dựng. Tất cả các dự án đầu tư hình
thanh TSCĐ của doanh nghiệp đều phải được lập, thẩm định, tổ chức thực hiện quản
đúng theo các quy định của Nhà nước. Công tác này sẽ giúp cho doanh nghiệp được các
dự án đầu tư TSCĐ mang tính khả thi và có hiệu quả nhất.
+ Xây dựngtổ chức thực hiện đúng các quy trình sử dụng, bảo quản, bảo dưỡng
sửa chữa TSCĐ nhằm duy trì ng lực phục vụ của tài sản ngăn ngừa, hạn chế tình trạng
31
TSCĐ bị hỏng trước thời hạn sử dụng. Nếu phải sửa chữa lớn TSCĐ cần phải cân nhắc
hiệu quả kinh tế của nghiệp này.
+Khai thác tối đa công suất, công dụng của tài sản, tránh tình trạng TSCĐ không sử
dụng, bị ứ đọng, bị mất mát.
+ Nhượng bán thanh nhanh chóng những TSCĐ không cần dùng bị hỏng
để giải phóng mặt bằng, đảm bảo an toàn lao động và thu hồi phần giá trị TSCĐ bị ứ đọng.
* Về mặt giá trị, để bảo toàn phát triển bộ phận giá trị đã đầu vào TSCĐ, doanh
nghiệp cần thực hiện tốt các công tác sau:
-Xác định phản ánh đúng nguyên giá thời gian sử dụng dự kiến của TSCĐ. Đây
sở để xác định đúng quy vốn đầu ban đầu căn cứ để tính chiết khấu hao
chính xác.
- Đánh giá đúng giá trị còn lại của TSCĐ để xác định đúng quy mô hiện có còn lại của
TSCĐ để xác định đúng quy mô vốn hiện có, quy mô phải bảo toàn, đồng thời điều chỉnh kịp
thời giá trị TSCĐ, tạo điều kiện tính đúng, tính đủ chi phí khấu hao.
- Quản chặt chẽ quá trính luân chuyển của bộ phận giá trị đã đầu vào TSCĐ. Do
đặc điểm của TSCĐ tham gia vào nhiều tru kinh doanh của doanh nghiệp, trong quá
trình ấy hình thái vật chất ban đầu của TSCĐ đầu như không đổi, song giá trị của TSCĐ bị
giảm dần dịch chuyển vào chi phi sản xuất kinh doanh, nên giá TSCĐ dễ bị thấm thoát.
Chính thế, nhà quản trị tài chính cần phải quản theo dõi chặt chẽ quá trình luân
chuyển của bộ phận giá trị này. Đó là:
Xác định đúng phạm vi khấu hao TS
Về nguyên tắc, mọi TSCĐ của doanh nghiệp liên quan phục vụ cho các hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ thì đều phải trính khấu hao. Mức trích khấu hao
được hạch toán vào chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ. Những TSCĐ không liên quan
không tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nhiệp thì không trích khấu hao.
Ở Việt Nam hiện nay, các TSCĐ sau được trích khấu hao:
+ TSCĐ của doanh nghiệp đang được sử dụng vào các hoạt động sản xuất kinh doanh
tại doanh nghiệp nhưng chưa khấu hao hết.
+TSCĐ của doanh nghiệp dùng cho kinh doanh nhưng ngừng sử dụng vì lí do thời vụ.
+ TSCĐ của doanh nghiệp cho thuê hoạt động.
+ TSCĐ của doanh nghiệp nhận các đối tác góp vốn theo hinh thức liên doanh, liên
kết.
+TSCĐ của doanh nghiệp đem thế chấp, cầm cố để vay vốn.
32
+TSCĐ thuê tài chính. Mặc đây không phải TSCĐ của doanh nghiệp nhưng
doanh nghiệp có trách nhiệm quản lý, sử dụng và triết khấu hao như là TSCĐ thuộc quyền s
hữu của mình.
Cũng theo quy định hiện hành của Nhà nước, những trường hợp TSCĐ không được
trích khấu hao gồm:
+ TSCĐ đi thuê hoạt động, bảo quản hộ cho đơn vị khác.
+TSCĐ thuộc dự trữ Nhà nước giao cho doanh nghiệp quản lí hộ, giữ hộ.
+TSCĐ phục vụ cho hoạt động phúc lợi trong doanh nghiệp như: nhà trẻ, câu lạc bộ,
nhà truyền thống, nhà ăn,... Các tài sản thuộc các đơn vị s nghiệp, an ninh quốc phòng trong
doanh nghiệp.
+TSCĐ phục vụ cho nhu cầu chung của toàn hội, không phục vụ cho hoạt động
kinh doanh của riêng doanh nghiệp như đê đập, cầu cống, đường sá,..Nhà nước giao cho
doanh nghiêp quản lý.
+TSCĐ của doanh nghiệp đã khấu hao hết nguyên giá song vẫn còn sdụng vào hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp.
+TSCĐ của doanh nghiệp chưa khấu hao hết nguyên giá nhưng đã hỏng chờ xử
(doanh nghiệp phải xác định nguyên nhân, quy đổi trách nhiệm đền bù, đòi bồi thường thiệt
hại, tiến hành thanh lý,..).
+TSCD của doanh nghiệp tỏng thời gian ngừng s dụng để tiến hành nâng cấp hoặc
sửa chữa, tháo dỡ theo kế hoạch.
+ TSCĐhình là quyền sử dụng đất dai lâu dài của doanh nghiệp. Đây là TSCĐ đặc
biệt. không có hao mòn nên doanh nghiệp chỉ ghi nhận nguyên giá và không tính khấu hao.
+ TSCĐ khác không tham gia vào hoạt dộng kinh doanh của doanh nghiệp.
Riêng đối với các TSCĐ của doanh nghiệp phục vụ cho các hoạt động phúc lợi, sự
nghiệp… doanh nghiệp không trích khấu hao nhưng phải quản lý, theo dõi các TSCĐ này
như đối với các TSCĐ dùng trong hoạt động kinh doanh và tính mức hao mòn của TSCĐ này
(nếu có); mức hao mòn hàng năm được xác định bằng cách lấy nguyên giá chia cho thời gian
sử dụng của TSCĐ xác định theo quy định hiện hành. Nếu các TSCĐ này tham gia vào
hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp thực hiện tính trích khấu hao vào chi phí kinh doanh
của doanh nghiệp theo mức hao mòn tính ở trên.
Nguyên tắc phản ánh, nguyên giá tính khấu hao TSCĐ; theo quy định hiện hành,
việc phản ánh tăng (giảm) nguyên giá TSCĐ trên sổ sách kế toán được thực hiện tại thời
điểm phát sinh nghiệp vụ tăng (giảm) TSCĐ để đảm bảo tính kịp thời tỏng công tác hạch
toná kế toán. Việc trích khấu hao, hoặc thôi trích khấu hao đối với TSCĐ được thực hiện
bắt đầu từ
33
ngày (theo số ngày của tháng) mà TSCĐ tăng, giảm, hoặc ngừng tham gia vào hoạt động kinh
doanh.
Lựa chọn phương pháp khấu hao và xác định mức khấu hao thích hợp.
Mục đích của khấu hao là nhằm thu hồi bộ phận giá trị đã đầu tư vào TSCĐ. Do đó, về
nguyên tắc mức khấu hao phản ánh đúng mức đọ hao mòn năng lực phục vụ thực tế của
TSCĐ. Nếu mức khấu hao thấp hơn giá trị hao mòn thực tế của TSCĐ thì sẽ không đảm bảo
việc thu hồi vốn đầy đủ, kịp thời, làm cho số vốn thực tế còn lại TSCĐ nhỏ hơn giá trị sổ
sách và kết quả kinh doanh bị thổi phồng lên một cách giả tao. Ngược lại, nếu mức khấu hao
cao hơn giá trị hao mòn thực tế của TSCĐ thì sẽ làm tăng chi phí giá thành một cách giả
tạo, làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp. Do đó, doanh nghiệp cần xem xét mục tiêu, yêu
cầu trong đầu thu hồi vốn, đặc điểm của từng loại TSCĐ cũng như các mối quan hệ
giữa chi phí, giá thành với giá bán sản phẩm để có phương pháp khấu hao thích hợp, vừa đảm
bảo thu hồi vốn, vừa không gây ra những đột biến trong giá cả.
Quản lý, sử dụng tiền khấu hao theo đúng nguồn hình thành TSCĐ.
TSCĐ được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, do đó phải theo dõi quảnchặt
chẽ tiền khấu hao theo từng nguồn hình thành. Về nguyên tắc, TSCĐ được hình thành bằng
nguồn vốn vay thì tiền khấu hao phải dùng để trả nợ vay, TSCĐ được hình thành từ nguồn
liên doanh, liên kết thì tiền khấu hao được tích lũy lại để hoàn trả vốn góp cho đối tác khi kết
thúc hợp đồng liên doạn, còn TSCĐ được hình thành từ nguồn vốn chủ sở hữu thì tiền khấu
hao được tích lũy lại để tái đầu TSCĐ khi cần thiết hoặc tạm thời bổ sung vốn lưu động
của doanh nghiệp.
CHƯƠNG 3
QUẢN TRỊ TÀI SẢN LƯU ĐỘNG
34
Trong các doanh nghiệp, giá trị TSLĐ thường chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng giá trị
tài sản. vậy, quản sdụng một các hợp các loại TSLĐ ảnh hưởng rất lớn đến
việc thực hiện mục tiêu của doanh nghiệp. Thực tế cho thấ, mặc hầu hết các vụ phá sản,
làm ăn thua lỗ trong kinh doanh là hệ quả của nhiều yếu tố chứ không phải chỉ do việc quản lí
TSLĐ yếu kém, nhưng thể khẳng định rằng s bất lực trong việc hoạch định, kiểm soát
TSLĐ và các khoản nợ là một nguyên nhân quan trọng dẫn đến sự thất bại của nhiều công ty.
Nội dung của chương 3 tập trung giải quyết các vấn đề sau:
- Giới thiệu các loại TSLĐ theo một số tiêu thức nghiên cứu.
- Luận giải những yêu cầunội dung cơ bản của hoạt động quản trị 3 bộ phận chính
của TSLĐ, đó là: quản trị tiền, quản trị khoản phải thu và quản trị hàng tồn kho.
3.1. Phân loại TSLĐ của doanh nghiệp
3.1.1. Khái niệm
Như đã đề cập trong chương 2, để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh với bất
kỳ quy nào, người kinh doanh cần phải một số tài sản nhất định. Nếu căn cứ vào vai
trò của tài sản đối với quá trình tái sản xuất, tài sản của doanh nghiệp bao gồm: liệu lao
động và đối tượng lao động. liệu lao động thường được cấu thành bới 2 bộ phậnTSCĐ
và công cụ lao động. Các công cụ lao động này cùng với đối tượng lao động hợp thành TSCĐ
của doanh nghiệp.
Việt Nam hiện nay, theo hệ thống chuẩn mực kế toán, chuẩn mực số 21 về “trình
bày báo cáo tài chính, tài sản ngắn hạn (hay TSLĐ) những tài sản thỏa mãn một trong các
điều kiện sau:
- Được dự tính để bán hoặc sử dụng trong khuôn khổ của chu kỳ kinh doanh bình
thường của doanh nghiệp.
- Được nắm giữ chủ yếu cho mục đích thương mại, hoặc cho mục đích ngắn hạn và dự
kiến thu hồi hoặc thanh toán trong vòng 1 tháng kể từ ngày kết thúc niên độ kế toán.
- Là tiền hoặc tài sản tương đương tiền và việc sử dụng không gặp một hạn chế nào.
Như vậy, TSLĐ của doanh nghiệp toàn bộ những tài sản thuộc quyền sở hữu của
doanh nghiệp thời gian sử dụng, thu hồi, hoặc luân chuyển giá trị trong vòng 1 năm, hoặc
một chu kỳ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
3.1.2. Đặc điểm của TS
TSLĐ bao gồm nhiều loại khác nhau, nhưng nhìn chung chúng một số đặc điểm
sau:
- Trong quá trình sản xuất kinh doanh TSLĐ luôn vận động, thay thế chuyển a
lẫn nhau, đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được tiến hành liên tục.
35
- Mỗi bộ phận TSLĐ đặc điểm luân chuyển giá trị khác nhau. Bộ phận TSLĐ
hàng hóa, hoặc nguyên vật liệu thì luân chuyển giá trị toàn bộ một lần trong một chu kỳ kinh
doanh. Bộ phận TSLĐ công clao động thì luân chuyển dần dần từng bộ phận giá trị của
chúng.
- TSLĐ luân chuyển giá trị nhanh hơn TSCĐ.
- TSLĐ trong các doanh nghiệp lĩnh vực, ngành nghề, nghiệp vụ sản xuất kinh
doanh khác nhau thì đặc điểm luân chuyển giá trị cũng khác nhau.
3.1.3. Phân loại TS
Phân loại TSLĐ việc phân chia, sắp xếp TSLĐ của doanh nghiệp ra thành từng
nhóm nhằm đáp ứng yêu cầu của công tác quản lý TSLĐ. Tùy theo ngành nghề, lĩnh vực kinh
doanh TSLĐ của doanh nghiệp được cấu thành bởi các bộ phận khác nhau. Sau đây
một số tiêu thức phân loại thường được sử dụng.
* Dựa vào các khâu trong quá trình sản xuất kinh doanh TSLĐ được chia thành TSLĐ
trong khâu dự trữ, TSLĐ khâu sản xuất và TSLĐ tròn khâu lưu thông.
+ TSLĐ trong khâu dự trữ bao gồm nguyên vật liệu, nhiên liệu, phụ tùng thay thế,
công cụ lao động... dự trữ để đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
thể tiến hành được thường xuyên, liên tục.
+ TSLĐ trong khâu sản xuất bao gồm sản phẩm dở dang, bán thành phẩm. Trong
doanh nghiệp thương mại thuần túy thì không có bộ phận TSLĐ ở khâu này.
+ TSLĐ trong khâu lưu thông bao gồm thành phẩm, tiền, các khoản thế chấp, quỹ,
ký cược ngắn hạn, các khoản phải thu...
* Dựa vào hình thái biểu hiện của tài sản thì TSLĐ của doanh nghiệp được chia thành:
vật tư, hàng hóa và tiền.
+ Vật tư, hàng hóa bao gồm nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ, bao bì, vật đong gói,
sản phẩm dở dang, bán thành phẩm, thành phẩm và hàng hóa đang được dự trữ ở các khâu và
địa điểm của quá trình kinh doanh như: hàng mua hàng bán đang đi trên đường, hàng đợi
kiểm nghiệm, hàng gửi bán, hàng tại kho và các điểm bán hàng.
+ Tiền: bao gồm tiền mặt tại quỹ, tiền gửi ngân hàng, tiền đang chuyển, các khoản vốn
trong thanh toán.
* Việt Nam, theo chế quản tài chính doanh nghiệp hiện hành, TSLĐ của các
doanh nghiệp bao gồm:
+ Tiền bao gồm: Tiền mặt tồn quỹ, tiền gửi ngân hàng, tiền đang chuyển.
+ Các khoản phải thu bao gồm: phải thu từ khách hàng (người mua), phải thu từ nhà
cung cấp (người bán) trong trường hợp trả trước tiền hàng, phải thu từ nhà nước về thuế giá
36
trị gia ng được hoàn thuế, phải thu nội bộ, các khoản phải thu khác dự phòng phải thu
khó đòi.
+ Vật tư, hàng tồn kho bao gồm: Hàng mua đang đi trên đường; nguyên liệu, vật liệu,
công cụ, dụng cụ, thành phẩm, hàng hóa tồn kho; hàng gửi bán, dự phòng giảm giá hàng tồn
kho.
+ TSLĐ khác gồm: tạm ứng, chi phí trả trước, tài sản thiếu chờ xử lý, các khoản cầm
cố, ký cược, lý quỹ ngắn hạn.
Việc phân loại TSLĐ ý nghĩa quan trọng trong công tác quản trị tài chính doanh
nghiệp. Qua nghiên cứu giúp nhà quản trị thấy được tính hợp hoặc không hợp của các
bộ phận tài sản cũng như cấu vốn đầu của doanh nghiệp, từ đó biện pháp điều chỉnh
cho phù hợp.
Tình hình TSLĐ của doanh nghiệp trong mỗi thời kỳ được phản ánh tổng quátbảng
cân đối kế toán của doanh nghiệp trong thời kỳ đó.
3.2. Quản trị tiền
3.2.1. Động của việc giữ tiền
Tiền là một bộ phận TSLĐ không sinh lời hoặc tỷ lệ sinh lời rất thấp. Hơn nữa, do sức
mua của tiền tệ luôn xu hướng giảm đi do ảnh hưởng của lạm phát, nên thể nói tỷ lệ
sinh lời thực của tiền một số âm. Bởi vậy việc duy trì mức tiền hợp nhằm thỏa mãn các
nhu cầu chi tiêu tiền một vấn đề quan trọng liên quan đến hiệu quả kinh doanh chung của
doanh nghiệp.
Bất cứ doanh nghiệp nào cũng cần giữ một lượng tiền nhất định bởi các lý do sau đây:
- Một là, để thực hiện các giao dịch: Động chủ yếu của nắm giữ tiền trong doanh
nghiệp để làm thông suốt các giao dịch kinh doanh. Tiền tài sản tỉnh lỏng cao nhất.
Từ tiền doanh nghiệp thể chuyển ngay sang các hàng hóa khác. Nếu doanh nghiệp không
giữ tiền chỉ giữ các tài sản khác thì chi phí giáo dịch thể rất cao, hơn nữa lại mất
nhiều thời gian cho một giao dịch kinh doanh thông thường các tài sản khác tính thanh
khoản thấp hơn. Từ tài sản đang nắm giữ doanh nghiệp phải chuyển nó thành tiền, sau đó mới
dùng tiền để mua hàng hóa mà doanh nghiệp cần. Động cơ này gọi là động cơ kinh doanh.
- Hai là, để đáp ứng nhu cầu chi trả và thanh toán: Ngoài nhu cầu sử dụng tiền để mua
tài sản, hàng ngày hàng giờ ở doanh nghiệp còn phải dùng tiền để thanh toán các món nợ, các
khoản phải trả, phải nộp khác như: trả lương công nhân, nộp thuế nhà nước... Nếu không
tiền để thanh toán các khoản phải trả, phải nộp tất yếu cũng gây nên những khó khăn bất
lợi nhất định đối với doanh nghiệp.
- Ba là, để dự phòng đầu cơ: Dòng tiền vào ra của doanh nghiệp đôi khi không
thể dự đoán trước được. Do vậy, doanh nghiệp cần phải giữ một lượng tiền nhất định để phục
37
vụ cho các nhu cầu ngầu nhiên, không xác định được trước, điều đó giúp doanh nghiệp duy
trì được khả năng thanh toán ổn định tình hình tài chính của doanh nghiệp mọi thời điểm.
Ngoài ra, tiền còn được dùng để thỏa mãn lợi thế mua sắm của doanh nghiệp khi hội
kinh doanh. Nguồn tiền này được gọi là ngân quỹ đầu cơ.
* Ưu điểm của việc nắm giữ tiền:
Thanh toán nhanh các nghĩa vụ với chủ nợ
Có nhiều cơ hội kinh doanh
Có cơ hội nhận được chiết khấu
Đáp ứng được nhu cầu vốn lưu động thay đổi theo mùa.
* Nhược điểm của việc nắm giữ
tiền Phát sinh chi phí quản lý
Bị ảnh hưởng của lạm phát và thay đổi tỷ giá
Mất chi phí cơ hội của vốn tiền mặt.
3.2.2. Nội dung quản trị tiền
Quản trị tiền đề cập đến việc quản lý tiền mặt, tiền đang chuyển và tiền gửi ngân hàng.
Đối với doanh nghiệp, nội dung của quản lý tiền bao gồm: Tăng tốc độ thu hồi tiền, giảm tốc
độ chi tiêu và lập ngân sách thu chi tiền tệ. Tuy nhiên cần lưu ý rằng, việc thực hiện mục tiêu
đẩy nhanh tốc độ thu tiền và giảm tốc độ chi tiêu có mối quan hệ đẩy nhanh tốc độ thu tiền và
giảm tốc độ chỉ tiêu có mối quan hệ trực tiếp với chính sách quản lý hàng tồn kho, chính sách
tín dụng thương mại của doanh nghiệp mục tiêu trên không phải lúc nào cũng thực hiện
được. Trên thực tế vẫn những thời điểm hoặc thời kỳ doanh nghiệp phải tăng chi giảm
tốc độ thu tiền.
* Tăng tốc độ thu hồi tiền
Một nguyên tắc đơn giản trong quản lý tiền là tăng tốc độ thu hồi tiền. Nguyên tắc này
giúp công ty ổn định tình hình tài chính, tình hình thanh toán khả năng sinh lời trên khối
lượng tiền thu hồi sớm và do đó có thể tăng vốn cho đầu tư.
Có nhiều biện pháp để tăng tốc độ thu hồi tiền:
- Áp dụng biện pháp khuyến khích khách hàng thanh toán sớm bằng cách đưa lại
cho khách hàng các mối lợi như áp dụng chính sách chiết khấu đối với các khoản nợ được
thanh toán trước hay đúng hạn.
- Áp dụng các phương thức thanh toán phù hợp với từng đối tượng khách hàng.
- Lựa chọn các phương tiện chuyển tiền và địa điểm thanh toán thích hợp.
- Tổ chức công tác theo dõi và đôn đốc thu hồi công nợ.
38
* Giảm tốc độ chi tiêu
Cùng với việc tăng tốc độ thu hồi tiền, doanh nghiệp còn có thể thu lợi bằng cách giảm
tốc độ chi tiêu để có thêm tiền đầu tư sinh lợi. Có một số chiến thuật mà doanh nghiệp có thể
sử dụng để chậm thanh toán các hóa đơn mua hàng như:
- Tận dụng tối đa thời gian chậm thanh toán trong giới hạn cho phép/
- Lựa chọn phương thức, phương tiện và địa điểm thanh toán thích hợp.
- Thay dùng tiền thanh toán sớm các hóa đơn mua hàng người quản tài chính
thể trì hoãn việc thanh toán trong phạm vi thời gian mà các chi phí tài chính, tiền phạt, hay sự
suy giảm vị thế tín dụng của doanh nghiệp thấp n những lợi ích từ việc thanh toán chậm
mang lại...
* Lập ngân sách thu chi tiền tệ
Việc tăng tốc độ thu hồi tiền và giảm tốc độc chi tiêu trong những phạm vi những giới
hạn vị thế tín dụng của doanh nghiệp những nội dung quan trọng của quản tiền. Tuy
nhiên, điều đó không đủ hỗ trợ cho các nhà quản tài chính trong việc thả mãn các nhu cầu
chi tiêu đầu sinh lợi bằng tiền của doanh nghiệp. Bởi vậy, một nội dung quan trọng
khác của quản tiền việc hoạch định ngân sách (kế hoạch) thu chi tiền. Để lập được kế
hoạch này doanh nghiệp phải dự báo được tổng thu và nhu cầu chi tiền trong kỳ.
Tổng lượng tiền thu được trong kỳ thường bao gồm:
- Bán hàng kỳ trước thu tiền trong kỳ này (tiền hàng bán chịu kỳ trước).
- Bán hàng kỳ này thu tiền trong kỳ này (tiền bán hàng trả ngay).
- Bán hàng kỳ sau thu tiền trong kỳ này (tiền hàng người mua trả trước).
- Các khoản thu khác
Tổng lượng tiền chi trong kỳ thường bao gồm:
- Mua hàng kỳ trước trả tiền trong kỳ này (tiền hàng mua chịu kỳ trước)
- Mua hàng kỳ này trả tiền trong kỳ này (tiền hàng mua trả ngay)
- Mua hàng kỳ sau trả tiền trong kỳ này (tiền hàng trả trước người bán)
- Trả lương cán bộ công nhân trong k
- Tiền thuế phải nộp trong k
- Lãi vay phải trả trong kỳ
- Các khoản chi khác
39
Kế hoạch thu chi tiền tệ thường được xây dựng theo quý, tháng tuần. Yếu tố quan
trọng ảnh hưởng đến tính xác thực của ngân sách thu chi tiền những dự báo về doanh số
bán hàng, mua hàng và tình hình thanh toán.
Kết quả dự báo về tình hình thu chi tiền là cơ sở quan trọng giúp nhà quản trị tài chính
thể đưa ra các giải pháp thích hợp nhằm đảm bảo sự ổn địnhi chính nâng cao hiệu
quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp. dụ: khi dự báo thấy tiền thừa, doanh nghiệp
thể sử dụng số tiền nayd để đầu chứng khoán khả năng thanh khoản cao, ngược lại khi
thiếu hụt cần tổ chức huy động nguồn thích hợp để bảo đảm khả năng thanh toán.
Bảng 3.1 dưới đây cho thấy một mẫu về hoạch định ngân sách thu chi tiền của doanh
nghiệp.
Bảng 3.1: Dự báo thu chi tiền tệ của doanh nghiệp.
Khoản mục
Tháng
12 1 2 3 4 5 6
Phần thu
1. Doanh số bán hàng
2. Bán chịu
3. Thu sau 1 tháng
4. Thu sau 2 tháng
5. Thu tiền bán hàng trả ngay trong tháng
Tổng thu trong tháng
Phần chi
1.Trị giá nguyên vật liệu mua trong tháng
2.Trả tiền nguyên vật liệu mua trong tháng
3. Trả tiền nguyên vật liệu mua chịu k
trước
4.Trả tiền mua nguyên vật liệu sau 1 tháng
5.Tiền lương CBCNV
6. Các khoản chi khác
7.Thuế
8.Lãi vay
9. Đầu tư vào TS
10. Chia lợi tức cổ phần
Tổng chi trong tháng
Chênh lệch thu chi trong tháng
Tồn quỹ đầu tháng
Mức dự trữ tiền dự phòng trong tháng
Số (thiếu hụt) tiền so với mục tiêu
* Mức dự trữ tiền hợp lý
Mức tồn quỹ
tiền mặt tối
ưu
=
Mức chi tiêu vốn tiền mặt
bình quân 1 ngày trong k
x
Số ngày dự trữ tiền
mặt hợp lý
40
* Các biện pháp quản lý
- Mọi khoản thu chi vốn tiền mặt đều phải thực hiện qua quỹ;
- Phân định trách nhiệm rõ ràng trong quản lý vốn tiền mặt;
- Xây dựng quy chế thu chí quỹ tiền mặt;
- Quản chặt chẽ các khoản tạm ứng tiền mặt, cần quy định đối tượng, thời gian
mức tạm ứng,.. để quản chặt chẽ, tránh việc lợi dụng quỹ tiền mặt của doanh nghiệp vào
mục đích cá nhân.
3.3. Quản trị khoản phải thu
Trong thực tiễn kinh doanh, các doanh nghiệp thường phải bán chịu hàng hóa của
mình trong một thời gian nhất định. Trong khi chờ thu các khoản tiền này, doanh nghiệp vẫn
tiếp tục bánng do đó sẽ lại xuất hiện các khoản bán chịu mới. Đồng thời doanh nghiệp
cũng các khoản mua chịu hàng hóa từ các doanh nghiệp khác. Như vậy, việc mua chịu,
bán chịu là công việc thường xuyên phát sinh trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp.
Độ lớn khoán phải thu của doanh nghiệp phụ thuộc vào nhiều yếu tố như tốc độ thu
hồi nợ cũ, tốc độ tạo ra nợ mới sự tác động của các yếu tố nằm ngoài sự kiểm soát của
doanh nghiệp như chu kỳ suy thoái của nên kinh tế, khùng hoảng tiền tệ. Doanh nghiệp cần
đặc biệt chú ý tới các yếu tố mà mình thể kiểm soát được nhằm tác động tới tốc độ lớn
chất lượng của các khoản phải thu, trong đó đáng lưu ý là chính sách tín dụng.
3.3.1. Chính sách tín dụng các nhân tố ảnh hưởng đến chính sách tín dụng
* Chính sách tín dụng
Bán chịu hàng hóa một hình thức doanh nghiệp cấp tín dụng cho các khách hàng
của mình (tín dụng thương mại) nguyên nhân phát sinh các khoản phải thu. Độ lớn
rủi ro của các khoản phải thu phụ thuộc vào nhiểu yếu tố, trong đó chính sách tín dụng là một
nhân tố quan trọng. Chính sách tín dụng của doanh nghiệp được thực hiện thông qua việc
kiểm soát các biến số sau:
- Tiêu chuẩn tín dụng. Nguyên tắc chỉ đạo phải xác định được tiêu chuẩn tín dụng
tức sức mạnh tài chính tối thiểu uy tín hay được vị thế tín dụng tức sức mạnh tài
chính tối thiểu uy tín hay vị thế tín dụng thể chấp nhận được của các khách hàng mua
chịu. Nếu khách hàng có sức mạnh tài chính hay vị thế tín dụng thấp hơn tiêu chuẩn đó thì sẽ
bị từ chối cấp tín dụng theo hình thức bán chịu hàng hóa. Tiêu chuẩn tín dụng phụ thuộc vào
nhiều yếu tố như chính sách của doanh nghiệp trong mỗi thời kì, giá trị sản phẩm cao hay
thấp ...
- Chiết khấu thanh toán: là biện pháp khuyến khích khách hàng trả tiền sớm bằng cách
thực hiện việc giảm giá đối với các trường hợp mua hàng trả tiền trước thời hạn.
41
- Thời hạn bán chịu (thời hạn tín dụng): quy định về độ dài thời gian của các khoản
tín dụng.
Chiết khấu thanh toán thời gian bán chịu chỉ hình thức các khoản tín dụng.
Chẳng hạn , một thương vụ mua bán quy định “2/10 net 30”, Điều đó nghĩa doanh
nghiệp áp dụng tỉ lệ chiết khấu 2% nếu hóa đơn bán hàng được thanh toán trong vòng 10
ngày kể từ ngày giao hàng. Mặt khác, số tiền hàng phải được thanh toán trong vòng 30 ngày,
nếu không đúng hạn sẽ phải chịu lãi suất phạt (lãi suất quá hạn).
- Chính sách thu tiền: bao gồm các quy định về cách thức thu tiền như thu tiền 1 lần
hay nhiều lần, hay trả góp và biện pháp xử lý đối với các khoản tín dụng quá hạn.
* Các yếu tố tác dụng đến chính sách tín dụng
Có nhiều yếu tố tác động đến chính sách tín dụng của doanh nghiệp. Sau đây là một số
yếu tố cơ bản:
+ Điều kiện của doanh nghiệp
Đặc điểm về sản phẩm, nghành nghề kinh doanh và tiềm lực tài chínhnhững yếu tố
tác động trực tiếp đến chính sách tín dụng của doanh nghiệp. Doanh nghiệp quy lớn,
tiềm lực tài chính mạnh, sản phẩm có thời gian sử dụng lâu bền thường cho phép mở rộng
chính sách tín dụng lâu hơn các doanh nghiệp ít vốn, sản phẩm dễ hỏng, mất phẩm chất,
khó bảo quản. Đối với thời kì sản phẩm của doanh nghiệp có nhu cầu tiêu thụ lớn cần khuyến
khích tiêu thụ để thu hồi vốn.
+ Điều kiện của khách hàng
Điều kiện của khách hàng được đánh giá dựa vào các phán đoán sau:
(1) Vốn hay sức mạnh tài chính (Captial ): là thước đo về tình hình tài chính của doanh
nghiệp, ảnh hưởng đến rủi ro thanh toán. Yếu tốy được xác định dựa vào quy vốn
chủ sở hữu, tổng giá trị tài sản của doanh nghiệp, khả năng sinh lợi từ hoạt động kinh doanh.
(2) khả năng thanh toán (Capacity ): được đánh giá qua các hệ số thanh toán chung, hệ
số thanh toán nhanh, hệ số thanh toán lãi vay ... của khách hàng.
(3) cách tín dụng (Charater): là thái độ với việc thanh toán nợ khách hàng . Yếu tố
này được coirất quan trọngmỗi một giao dịch tín dụng được ngầm hiểu một hứa hẹn
thanh toán.
(4) Vt thế chấp (Collateral): là tài sản khách hàng dùng đảm bảo cho món nợ mình.
(5) Điều kiện kinh tế (Condition ): sphát triển của nền kinh tế nói chung mức
độ phát triển của từng vùng địa lý nói riêng có ảnh hưởng đến việc thanh toán của khách hàng
đối với món nợ.
42
Thông tin khách hàng thể thu thập được thông qua việc điều tra trực tiếp như phân
tích báo cáo tài chính của khách hàng, phỏng vấn trực tiếp, phân tích thông tin thu thập từ các
nhà cung cấp trước đó, đến thăm khách hàng ... Đồng thời, thể thu thập thông tin từ các
trung tâm xử lí dữ liệu về vị thế tín dụng của doanh nghiệp.
Kết quả điều tra căn cứ quan trong để xác định chính sách tín dụng đối với khách
hàng. Nếu khách hàng có tiềm lực tài chính hạn chế, uy tín (hay tư cách tín dụng) thấp không
thể thực hiện một chính sách tín dụng (hay cách tín dụng) thấp không thể thực hiện một
chính sách tín dụng nới lỏng như những khách hàng có tiềm lực tài chính mạnh, luôn giữ chữ
tín trong quan hệ thanh toán.
+ Lợi ích kinh tế đạt được khi thực hiện chính sách tín dụng.
Để đánh giá lợi ích kinh tế đạt được khi thực hiện chính sách tín dụng, doanh nghiệp
cần dự báo, tính toán các thông số sau.
- Số lượng giá bán sản phẩm, ng hóa, dịch vụ dự kiến tiêu thụ. Thông thường,
doanh thu sẽ có xu hướng tăng lên khi các tiêu chuẩn tín dụng được nới lỏng, tỷ lệ chiết khấu
tăng, thời gian bán chịu dài và phương thức thu tiền bớt gắt gao.
- Các chi phí phát sinh do tăng các khoản nợ: chi phí quản nợ phải thu, chi phí thu
hồi nợ, chi phí rủi ro.
- So sánh lợi nhuận gộp do doanh số bán tăng lên với những chi phí tăng thêm do sự
thay đổi của chính sách tín dụng gây ra.
Việc thiết lập chính sách tín dụng ảnh hưởng rất lớn tới tình hình kinh doanh của
doanh nghiệp. Bởi vì, nếu các tiêu chuẩn tín dụng quá cao có thể loại bỏ nhiều khách ng
tiềm năng, do đó làm giảm lợi nhuận. Ngược lại, nếu tiêu chuẩn tín dụng quá thấp có thể làm
tăng doanh số bán nhưng đồng thời cũng làm cho rủi ro tín dụng tăng, gia tăng các khoản nợ
khó đòi, chi phí thu tiền cũng tăng lên.
3.3.2. Phân tích, đánh giá các khoản phải thu
Người làm công tác quản tài chính phải mở sổ theo dõi chi tiết các khoản phải thu,
đồng thời thường xuyên đôn đốc khách nợ để thu hồi đúng hạn. Theo định kỳ nhất định,
doanh nghiệp phải tiến hành phân loại tổng nợ phải thu chi tiết theo từng khách nợ. Tổng
nợ phải thu có thể phân loại theo các tiêu thức sau:
- Nhóm 1, nợ loại A (nợ có độ tin cậy cao hay nợ đủ tiêu chuẩn): thường bao gồm các
khoản nợ trong hạn doanh nghiệp đánh giá đủ khả năng thu hồi đúng hạn. Các khách
nợ này thường những doannh nghiệp vững chắc về tài chính, về tổ chức, uy tín thương
hiệu.
43
- Nhóm 2, nợ loại B (nợ rủi ro thấp hay nợ cần chú ý): thường bao gồm các khoản
nợ quá hạn dưới 90 ngày và các khoản nợ đã cơ cấu lại thời hạn nợ. Các khách này thường là
những doanh nghiệp có tình hình tài chính khá tốt, khách nợ truyền thống có độ tin cậy.
- Nhóm 3, nợ loại C (nợ quá hạn thể thu hồi được hay nợ dưới tiêu chuẩn): thường
bao gồm các khoản nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày các khoản nợ đã cấu lại thời
hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn cấu lại. Các khách nợ này thường là những
doanh nghiệp có tình hình tài chính không ổn định, hiện tại có khó khăn nhưng có triển vọng
phát triển hoặc cải thiện.
- Nhóm 4, nợ loại D (nợ ít khả năng thu hồi nợ quá hạn khó đòi hay nợ nghi
ngờ): thường bao gồm các khoản nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày và các khoản nợ đã cơ cấu
lại thời hạn trả nợ quá hạn từ 90 đến 180 ngày theo thời hạn cấu lại. Các khách nợ này
thường những doanh nghiệp tình hình tài chính xấu, không triển vọng ràng hoặc
khách nợ cố ý không thanh toán nợ.
- Nhóm 5, nợ loại E (nợ không thể thu hồi được hay nợkhả năng mất vốn): thường
bao gồm các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày các khoản nợ đã cấu lại thời hạn trợ nợ
quá hạn trên 180 ngày theo thời hạn cấu lại. Các khách nợ này thường những doanh
nghiệp phá sản hoặc chuẩn bị phá sản không có khả năng trả nợ hoặc không tồn tại.
Kết quả phân loại nợ là cơ sở quan trọng giúp nhà quản trị xác định đúng thực trạng và
tính hữu hiệu của các chính sách thu tiền của doanh nghiệp. Nếu tỷ lệ nợ xấu (bao gồm các
khoản nợ thuộc nhóm 3, 4, 5) cao, chứng tỏ chất lượng quản trị khoản phải thu của doanh
nghiệp còn yếu kém. Doanh nghiệp cần nhanh chóng triển khai các biện pháp giải quyết thích
hợp. Đồng thời, đây cũng là căn cứ để xây dựng chính sách tín dụng trong các kỳ tiếp theo.
Bảng 3.2. Bảng xếp hạng nợ của doanh nghiệp
STT Nhóm nợ Xếp
hạng
Các dấu hiệu đặc trưng Các biện pháp kiểm
soát n
1
Nợ có độ tin cậy
cao
A
Khách nợ những
doanh nghiệp vững chắc
về tài chính, về tổ chức,
uy tín và thương hiệu
Sử dụng các biện pháp
kiểm soát nợ thông
thường, duy trì mối
quan hệ tốt với khách nợ
2
N có rủi ro
thấp
B
Khách nợ những
doanh nghiệp tình
hình i chính khá tốt,
khách
nợ
truyền
thống,
có độ tin cậy
Sử dụng tốt các biện
pháp kiểm soát nợ thông
thường
3 N q hạn
nhưng có thể thu
hồi
C Khách n những
doanh nghiệp có nh
hình tài chính không n
Theo dõi chặt chẽ để thu
nợ, có giải pháp đặc biệt
phù hợp với từng món
44
định, hiện tại khó
khăn nhưng triển
vọng phát triển hoặc cải
thiện
nợ.
4
Nợ ít khả
năng thu hồi
nợ quá hạn khó
đòi
D
Khách nợ những
doanh nghiệp tình
hình tài chính xấu, không
triển vọng phát triển
hoặc cải thiện
Áp dụng các biện pháp
đặc biệt, theo dõi chặt
chẽ, tận dụng hội thu
n
5
N không thể
thu hồi được
E
Khách nợ những
doanh nghiệp phá sản
hoặc chuẩn bị phá sản
không có khả năng trả n
hoặc không tồn tại
Nợ thuộc nhóm phải xóa
sổ, không làm phát sinh
thêm chi phí kiểm soát
nợ. Xác định chi phí tổn
thất trong kinh doanh
Ngoài ra, để theo dõi các khoản phải thu có thể sử dụng các công cụ sau:
Kỳ thu tiền bình quân (The Average Collection Period ACP)
Kỳ thu tiền bình quân (còn gọi là số ngày của một vòng quay các khoản phải thu) phản
ánh số ngày cần thiết bình quân để thu được các khoản phải thu. được tính bằng các lấy
số dư bình quân khoản phải thu nhân (x) với 360 ngày rồi chia cho tổng doanh thu trong kỳ.
dụ: Số khoản phải thu của công ty ABC ngày 01/01/N 500 triệu đồng, ngày
31/12/N 650 triệu đồng. Doanh thu năm N của công ty 5.950 triệu đồng. Kỳ thu tiền
bình quân năm N của công ty được xác định như sau:
Kỳ thu tiền bình quân ngắn, chứng tỏ doanh nghiệp không bị đọng vốn trong khâu
thanh toán. Ngược lại, nếu kỳ thu tiền dài chứng tỏ thời gian thu hồi khoản thu chậm. Tuy
nhiên, để đánh giá thực trạng này tốt hay xấu còn phụ thuộco chính sách tín dụng thương
mại thực tế thanh toán nợ của từng khoản phải thu. Trong nhiều trường hợp do công ty
muốn chiếm lĩnh thị trường thông qua bán hàng trả chậm, hay tài trợ cho các chi nhánh đại lý
nên dẫn tớ kỳ thu tiền bình quân tăng lên.
3.3.3. Phòng ngừa rủi ro xử đối với khoản phải thu khó đòi
* Phòng ngừa rủi ro.
Khi doanh nghiệp nới lỏng chính sách tín dụng thường góp phần làm mở rộng thị
trường tiêu thụ, tăng doanh thu nhưng cũng chứa đựng nhiều rủi ro tiềm ẩn. vậy, phòng
ngừa rủi ro đối với khoản phải thu nhu cầu cần thiết đối với mọi doanh nghiệp để ổn định
45
tình hình tài chính, tăng hiệu quả của chính sách tín dụng. Rủi ro đối với khoản phải thu
thường bao gồm:
- Rủi ro do không thu hồi được nợ (rủi ro tín dụng).
- Rủi ro do tác động của sự thay đổi tỷ giá, lãi suất...
Để phòng ngừa thực tế phát sinh khoản phải thu khó đòi, ngoài việc phải tìm hiểu kỹ
khách hàng để xác định giới hạn tín dụng như đã nêu trên, căn cứ o kết quả phân loại nợ
phải thu doanh nghiệp cần phải lập dự phòng thể xác định theo những tỷ lệ % nhất định
trên từng loại khoản phải thu, hoặc theo khách nợ đáng ngờ. Cách thức này giúp doanh
nghiệp có thể chủ động đối phó khi rủi ro xảy ra.
Ở Việt Nam hiện nay, theo quy định quảntài chính doanh nghiệp hiện hành, căn cứ
để ghi nhận khoản nợ phải thu khó đòi phải những khoản nợ đã quá hạn từ 2 năm trở lên,
doanh nghiệp đã đòi nhiều lần nhưng vẫn chưa thu được nợ, hoặc những khoản nợ chưa quá
hạn 2 năm nhưng con nợ đang trong thời gian xem xét giải thể, phá sản. Mức lập dự phòng
không được vượt quá 20% tổng số nợ phải thu của doanh nghiệp tại thời điểm 31 tháng 12
hàng năm và đảm bảo doanh nghiệp không bị lỗ.
Đối với các rủi ro do tác động của tỷ giá, lãi suất thể lựa chọn các nghiệp vụ kinh
doanh trên thị trường ngoại hối và thị trường tiền tệ như: nghiệp vụ kỳ hạn, quyền chọn, hoán
đổi tiền tệ và lãi suất, lựa chọn loại tiền vay...
* Xử lý đối với khoản phải thu khó đòi
Trên sở phân loại các khoản nợ quá hạn, tìm nguyên nhân của từng khoản nợ
(khách quan chủ quan), doanh nghiệp phải các giải pháp thích hợp để nhanh chóng thu
hồi tiền vốn trong thanh toán theo nguyên tắc hiệu quả, linh hoạt kiên quyết. Tùy từng
trường hợp cụ thể, doanh nghiệp có thể lựa chọn hoặc sử dụng kết hợp một số giải pháp sau:
- cấu lại thời hạn nợ: doanh nghiệp thể điều chỉnh kỳ hạn nợ hoặc gia hạn nợ
cho khách hàng nếu doanh nghiệp đánh giá khách hàng suy giảm khả năng trả nowjnhuwng
có thể trả nợ đầy đủ theo thời hạn nợ cơ cấu lại.
- Xóa một phần nợ cho khách hàng
- Thông qua các bạn hàng của khách nợ để giữ hàng
- Bán nợ
- Tranh thủ sự giúp đỡ của các ngân hàng, các tổ chức tín dụng để phong tỏa tài sản,
tiền vốn của khách nợ.
- Khởi kiện trước pháp luật...
3.4. Quản trị tồn kho
3.4.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến tồn kho dự tr
46
Tồn kho dự trữ của doanh nghiệp những tài sản doanh nghiệp lưu giữ để sản xuất
hoặc bán ra sau này. Trong các doanh nghiệp, tồn kho thường bao gồm nguyên liệu, nhiên
liệu dự trữ sản xuất, sản phẩm dở dang, thành phẩm hàng hóa chờ tiêu thụ. Tùy theo ngành
nghề kinh doanh tỷ trọng các loại tài sản trên khác nhau. Trong các doanh nghiệp sản
xuất, nguyên liệu, nhiên liệu dự trữ thường chiếm tỉ trọng lớn. Trong các doanh nghiệp
thương mại, tồn kho chủ yếu là hàng hóa chờ tiêu thụ.
Việc quản trị hàng tồn kho trong các doanh nghiệp là rất quan trọng, không phải chỉ
trong doanh nghiệp tồn kho dự trữ chiếm một tỉ trọng đáng kể trong tổng i sản của doanh
nghiệp. Điều quan trọng hơn nhờ dự trữ đúng mức, hợp sẽ giúp cho doanh nghiệp
không bị gián đoạn trong kinh doanh, không bị thiếu sản phẩm hàng hóa để bán đồng thời
giúp doanh nghiệp sử dụng tiết kiệm, giảm chi phí tồn kho...
Mức tồn kho dự trữ của doanh nghiệp nhiều hay ít thường phụ thuộc vào một số yếu tố
cơ bản sau:
- Quy sản xuất nhu cầu dự trữ nguyên vật liệu cho sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Nhu cầu dự trữ nguyên vật liệu hàng hóa của doanh nghiệp thường bao gồm:
dự trữ thường xuyên, dự trữ bảo hiểm, dự trữ thời vụ.
- Khả năng sẵn sàng cung ứng của thị trường
- Thời gian vận chuyển hàng từ nhà cung cấp đến doanh nghiệp
- Xu hướng biến động giá cả hàng hóa, nguyên vật liệu
- Độ dài thời gian chu kỳ sản xuất sản phẩm
- Trình độ tổ chức sản xuất và khả năng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp
- Khả năng xâm nhập và mở rộng thị trương tiêu thụ sản phẩm...
Quản trị tồn kho bao gồm việc lập kế hoạch, tổ chức quản các hoạt động nhằm
vào nguồn nguyên liệu và hàng hóa đi vào, đi ra khỏi doanh nghiệp. Quản trị tồn kho phải trả
lời các câu hỏi:
- Lượng hàng đặt là bao nhiêu để chi phí tồn kho là nhỏ nhất?
- Vào thời điểm nào thì bắt đầu đặt hàng?
3.4.2. Chi phí tồn kho
Chi phí tồn kho liên quan trực tiếp đến giá vốn của hàng bán. Bởi vậy các quyết
định tốt liên quan đến khối lượng hàng hóa mua vào và quản lý hàng tồn kho dự trữ cho phép
doanh nghiệp tiết kiệm chi phí, tăng thu nhập.
Các chi phí gắn liên với hàng hóa tồn kho (gọi là chi phí tồn kho) bao gồm:
- Chi phí đặt hàng: bao gồm các chi phí liên quan đến việc chuẩn bị và phát hành đơn
đặt hàng như chi phí giao dịch, quản lý, kiểm tra thanh toán. Chi phí đặt hàng cho mỗi lần
47
đặt hàng thường tương đối ổn định không phụ thuộc vào số lượng hàng được mua. Trong mỗi
kỳ kinh doanh chi phí đặt hàng thường tỷ lệ với số lần đặt hàng trong kỳ. Khi khối lượng
hàng của mỗi lần đặt hàng nhỏ thì số lần đặt hàng tăngn chi phí đặt hàng do vậy cũng
tăng lên và ngược lại.
- Chi phí lưu kho (hay chi phí bảo quản): Chi phí này xuất hiện khi doanh nghiệp phải
lưu giữ hàng để bán, bao gồm chi phí đóng gói hàng, chi phí bốc xếp hàng vào kho, chi phí
thuê kho, bảo hiểm, khấu hao kho và thiết bị kho, chi phí hao hụt, hư hỏng hàng hóa, lãi vay...
Các yếu tổ chi phí này phụ thuộc vào khối lượng hàng hóa mua vào. Nếu khối lượng hàng đặt
mua mỗi lần lớn, thì chi phí lưu kho tăng và ngược lại:
- Các chi phí khác:
+ Chi phí giảm doanh thu do hết hàng: thể xemđây một loại chi phí hội do
doanh nghiệp hết một loại hàng nào đó mà khách hàng có nhu cầu. Doanh nghiệp có thể xử lý
tình trạng hết hàng bằng cách hối thúc một đơn đặt hàng từ người cung cấp loại hàng đó. Chi
phí hối thúc cho lần đặt hàng sẽ bao gồm chi phí đặt hàng bổ sung cộng với chi phí vận
chuyển (nếu có). Nếu không doanh nghiệp sẽ mật một khoản doanh thu do hết hàng.
+ Chi phí mất uy tín với khách hàng: đây cũng được xem một loại chi phí cơ hội
được xác định căn cứ vào khoản thu nhập dự báo sẽ thu được từ việc bán hàng trong tương lai
bị mất đi do việc mất uy tín với khách hàng vì việc hết hàng gây ra.
+ Chi phí gián đoạn sản xuất...
Cần lưu ý rằng một số yếu tố chi phí liên quan đến việc ra quyết định về hàng tồn kho
quản lý hàng bán khồn tồn tại trong hệ thống kế toán hiện hành. Chẳng hạn chi phí hội
là một yếu tố chi phí quan trọng nhưng không được ghi chép trong hệ thống kế toán.
3.4.3. hình đặt hàng hiệu quả (Economic Ordering Quantity EOQ)
hình EOQ một hình quản trị tồn kho mang tính định lượng, thế sdụng
nó để tìm mức tồn kho tối ưu cho doanh nghiệp.
Yếu tố quyết định trong quản trị hàng tồn kho dự báo chính xác khối lượng các loại
hàng hóa cần dự trữ trong kỳ nghiên cứu thường một năm. Những doanh nghiệp nhu
cầu dự trữ hàng hóa mang tính thời vụ thể chọn kỳ dự báo phù hợp với đặc điểm kinh
doanh của mình.
Sau khi đã sliệu dự báo chính xác về mức dự trữ hàng năm, doanh nghiệp thể
xác định số lần đặt hàng trong năm và khối lượng hàng hóa trong mỗi lần đặt hàng. Mục đích
của những tính toán này là tìm được cơ cấu tồn kho có tổng chi phí năm ở mức tối thiểu.
Giữa chi phí đặt hàng chi phí bảo quản hàng tồn khi mối quan hệ tương quan tỷ
lệ nghịch. Khi số lần đặt hàng nhiều, khối lượng hàng hóa tồn kho bình quân thấp, dẫn tới chi
phí tồn kho thấp song chi phí đặt hàng cao. Ngược lại, khi số lần đặt hàng giảm đi thì khối
48
lượng hàng trong mỗi lần đặt hàng cao, lượng tồn kho lớn hơn, do đó chi phí tồn trữ hàng hóa
cao và chi phí đặt hàng giảm.
Như vậy, vấn đề quan trọng đầu tiên của việc quản hàng tồn kho quyết định cần
đặt mua bao nhiều đối với một loại hàng nhất định. hình đặt ng hiệu quả (EOQ) xác
định số lượng hàng mua tối ưu trong mỗi lần đặt hàng để dự trữ. Mô hình này giả thiết rằng:
- Lượng hàng mua trong mỗi lần đặt hàng là như nhau.
- Nhu cầu, chi phí đặt ng chi phí bảo quản xác định. Thời gian mua hàng
(Purchase order lead time) thời gian từ khi đặt một đơn hàng tới khi nhận được hàng cũng
là xác định.
- Chi phí mua của mỗi đơn vị không bị ảnh hưởng bởi số lượng hàng được đặt. Giả
thiết này làm cho chi phí mua hàng sẽ không ảnh hưởng đến mô hình EOQ bởi vì chi phí mua
hàng của tất cả các hàng hóa mua vào sẽ như nhau bất kể quy đơn hàng với số lượng đặt
là bao nhiêu.
- Không xảy ra hiện tượng hết hàng: một do biện hộ cho giả thiết này chỗ chi
phí cho một lần hết hàng quá đắt. Chúng ta phải luôn duy trì một lượng tồn kho thích hợp
để đảm bảo hiện tượng hết hàng không xảy ra.
Với những giả thiết này, phân tích EOQ bỏ qua các chi phí hội như chi phí giảm
doanh thu do hết hàng, chi phí mất uy tín với khách hàng, chi phí gián đoạn sản xuất... Để
xác định EOQ, chúng ta phải tối thiểu hóa chi phí đặt hàng và chi phí bảo quản.
Tổng chi phí tồn kho
=
Tổng chi phí đặt hàng
+
Tổng chi phí bảo quản
Như vậy theo lý thuyết về mô hình số lượng đặt hàng có hiệu quả thì
Trong đó:
EOQ: Số lượng đặt hàng có hiệu qu
D: Tổng nhu cầu số lượng 1 loại sản phẩm cho một khoảng thời gian nhất định
P: Chi phí cho mỗi lần đặt hàng
C: Chi phí bảo quản trên một đơn vị hàng tồn kho
Công thức cho thấy EOQ tỷ lệ thuận với nhu cầuchi phí đặt hàng, tỷ lệ nghịch với
chi phí bảo quản.
dụ: Cửa hàng Huy Hoàng kinh doanh các hộp băng video trắng, đồng thời cho thuê
các băng phim và các sự kiện thể thao. Cửa hàng này mua các hộp băng video từ hãng Sontek
với giá 140.000 đồng/hộp. Hãng Sontek chịu toàn bộ chi phí vận chuyển. Chi phí kiểm tra
không cần thiết vì hãng Sontek có uy tín cao trong việc giao hàng có chất lượng. Nhu cầu mỗi
năm 13.000 hộp với mức tiêu thụ mỗi tuần 250 hộp. Cửa hàng Huy Hoàng đòi hỏi lợi
49
nhuận 15% hàng năm cho các khoản đầu tư. Thời gian mua hàng 2 tuần; đồng thời biết
thêm các thông tin sau:
- Chi phí đặt hàng mỗi lần là: 2.000.000 đồng
- Chi phí bảo quản mỗi hộp một năm là:
+ Lãi yêu cầu hàng năm của khoản đầu tư: 15% x 140.000 = 21.000 đồng
+ Chi phí bảo hiểm, bảo quản, hao hụt... hàng năm là: 31.000 đồng
EOQ của cửa hàng Huy Hoàng là:
= 1.000
Như vậy, cửa hàng nên đặt 1.000 cuộn băng mỗi lần để tối thiểu tổng chi phí đặt hàng
và chi phí bảo quản.
Số lần đặt hàng mỗi năm là: 13.000 : 1.000 = 13 lần
Tổng chi phí đặt hàng trong năm là:
13 x 2.000.000 = 26.000.000 đ
Tổng chi phí bảo quản hàng tồn kho là:
(1.000 : 2) x 52.000 = 26.000.000 đ
Tổng chi phí tồn kho mỗi năm là:
26.000.000 + 26.000.000 = 52.000.000 đ
Bây giờ chúng ta sẽ xem xét tiếp vấn đ khi nào đặt hàng thì shợp nhất cần
phải dự trữ hàng như thế nào để tránh tình trạng hết hàng xảy ra:
* Xác định thời điểm đặt hàng lại
Quyết định quan trọng thứ hai liên quan đến quản trị hàng tồn kho vấn đề khi nào
thì đặt hàng. Điểm tái đặt hàng (Reorder point) là chỉ tiêu phản ánh mức hàng tối thiếu còn lại
trong kho để khởi phát một yêu cầu đặt hàng mới. Điểm tái đặt hàng được tính toán đơn giản
nhất khi cả nhua cầu và thời gian mua hàng là xác định.
Điểm tái
đặt hàng
= Số lượng hàng bán trong mt
đơn vị thời gian
x Thời gian mua hàng
Trong ví dụ trên, khi chọn đơn vị thời gian là một tuần, ta có:
+ Số lượng hàng đặt có hiệu qủa: 1.000 hộp
+ Số lượng hàng bán mỗi tuần: 250 hộp
+ Thời gian mua hàng: 2 tuần
Do đó, điểm tái đặt hàng là 250 x 2 = 500 hộp
50
Như vậy, cửang Huy Hoàng sẽ đặt hàng với mức 1.000 hộp mỗi lần khi mức dự
trữ trong kho giảm xuống còn 500 hộp.
* Lượng dự trữ an toàn
Giả thiết rằng nhu cầu và thời gian đặt hàng là xác định. Khi cửa hàng bán lẻ không có
sự ổn định về nhu cầu thời gian mua hàng hoặc slượng hàng người cung cấp thể
đáp ứng, họ thường phải duy trì một mức dự trữ an toàn (Safety Stock). Dự trữ an toàn
mức dự trữ ở mọi thời điểm ngay cả khi lượng tồn kho đã được xác định theohình EOQ.
Nó được sử dụng như là một lớp đệm chống lại sự tăng bất thường của nhu cầu hay thời gian
mua hàng, hoặc tình trạng không sẵn sàng cung cấp của nhà cung cấp. Trong dụ trên, nhu
cầu kỳ vọng là 250 hộp mỗi tuần nhưng người quản lý hàng có thể thấy xuất hiện nhu cầu tối
đa 400 hộp 1 tuần. Nếu người quản cửa ng cho rằng cần phải loại trừ hoàn toàn chi
phí hết hàng, họ thể quyết định duy trì 1 mức dự trữ an toàn 300 hộp, Trong điều kiện
thời gian mua hàng 3 tuần, số lượng này cho phép thảo mãn mức vượt nhu cầu tối đa
150 hộp mỗi tuần. Việc xác định mức dự trữ an toàn phụ thuộc vào dự báo nhu cầu. Người
quản thường dựa vào nhu cầu theo kinh nghiệm để thiết lập dãy số về nhu cầu mỗi tuần.
Việc theo dõi các số liệu hàng ngày, hoặc hàng tuần trước đó sẽ giúp cho việc xác định được
các chi phí đi kèm với việc duy trì sự an toàn.
51
Chương 4
QUẢN TRỊ NGUỒN TÀI TRỢ CỦA DOANH NGHIỆP
4.1. Phân loại nguồn tài trợ
4.1.1. Căn cứ vào quyền sở hữu
* Nguồn vốn chủ sở hữu: là số vốn thuộc sở hữu của chủ doanh nghiệp, doanh nghiệp
có đầy đủ các quyền chiếm hữu, chi phối và định đoạt.
Xét theo quá trình hình thành phát triển của doanh nghiệp, vốn chủ sở hữu bao
gồm:
- Vốn góp ban đầu: Khi doanh nghiệp mới được thành lập thì vốn chủ sở hữu do c
thành viên đóng góp hình thành vốn điều lệ. Đối với doanh nghiệp Nhà nước thì vốn góp
ban đầu chính là vốn đầu tư của Nhà nước, đối với doanh nghiệp cổ phần thì vốn góp ban đầu
do chủ doanh nghiệp hoặc những người góp vốn. Chẳng hạn, đối với công ty cổ phần vốn
do cổ đông đóng góp là yếu tố quyết định sự hình thành công ty.
- Vốn bổ sung từ quá trình kinh doanh (Nguồn vốn từ lợi nhuận không chia): đây
nguồn vốn tích lũy từ lợi nhuận không chia, được sử dụng để tái đầu tư, mở rộng sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp.
Ưu điểm bản của nguồn vốn này chi phí huy động vốn thấp, vốn thuộc sở hữu
của doanh nghiệp nên chủ đầu toàn quyền chủ động quyết định sử dụng chúng
không găp phải bất cứ một sự cản trở nào. Mặt khác, nguồn vốn huy động từ nội bộ thường
có chi phí cơ hội thấp do đó an toàn hơn cho chủ đầu tư trong quá trình đầu tư.
Tuy nhiên nếu giang quá lớn tỷ lệi trợ từ nguồn nội bộ thì thể dẫn đến một số
bất lợi cơ bản sau đây:
- Làm suy giảm khả năng tài chính hiện tại của công ty do đó có thể sẽ ảnh hưởng đến
toàn bộ các hoạt động của công ty.
- Làm giảm tỷ suất sinh lợi vốn có của doanh nghiệp, điều này trực tiếp ảnh hưởng đến
tỷ suất lợi nhuận trên cổ phần của cổ đông.
52
* Các khoản nợ: Là khoản vốn được hình thành từ vốn vay các ngân hàng thương mại,
các tổ chức tín dụng khác, vốn vay thông qua phát hành trái phiếu, vay người lao động trong
doanh nghiệp, các khoản nợ phát sinh từ mua bán chịu, đi thuê tài sản dưới hình thức thuê
hoạt động hay thuê tài chính.
* Các nguồn vốn khác: Ngoài các nguồn vốn nêu trên, vốn kinh doanh của doanh
nghiệp còn có thể được tài trợ bằng các nguồn khác như: các khoản nợ có tính chu kỳ (nợ tích
lũy), nguồn vốn liên doanh, liên kết,…
4.1.2. Căn cứ vào thời gian sử dụng vốn
- Tài trợ ngắn hạn bao gồm các nguồn tài trợ có thời gian hoàn trả trong vòng 1 năm.
Tài trợ ngắn hạn được thể hiện chủ yếu dưới các hình thức như nợ tích lũy, mua bán chịu
hàng hóa, vay ngắn hạn, thuê hoạt động,…
- Tài trợ dài hạn bao gồm các nguồn tài trợ có thời gian đáo hạn dài hơn 1 năm. Tài trợ
dài hạn được thể hiện chủ yếu dưới các hình thức huy động vốn cổ phần qua phát hành cổ
phiếu, phát hành trái phiếu, thuê tài chính.
4.2. Nguồn tài trợ ngắn hạn của doanh nghiệp
4.2.1. Nợ phải trả tính chất chu kỳ
Các khoản phải trả cho người lao động và các khoản phải nộp khác, các khoản này
tên gọi nợ tích luỹ, những khoản này phát sinh thường xuyên trong hoạt động kinh doanh,
tuy nhiên chúng chưa đến kỳ thanh toán.
Những khoản này bao gồm:
- Tiền lương, tiền công trả cho người lao động, nhưng chưa đến kỳ trả. Thông thường,
tiền lương hoặc tiền công của người lao động chi trả hàng tháng bao gồm 2 kỳ: kỳ tạm ứng
thường vào giữa tháng kỳ thanh toán vào đầu tháng sau. Giữa 2 kỳ trả lương sẽ phát sinh
những khoản nợ lương trong kỳ.
- Các khoản thuế, BHXH phải nộp nhưng chưa đến kỳ nộp, các khoản thuế phải nộp
hàng tháng như thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp năm trước nộp vào đầu năm
sau, khi mà quyết toán được duyệt.v.v…
Ngoài những khoản nợ có tính chất thường xuyên trên đây, còn những khoản phát
sinh cũng mang tính chất như một nguồn tài trợ doanh nghiệp tận dụng trước nhưng
không phải trả chi phí, những khoản tiền tạm ứng trước của khách hàng, số tiền này nhiều
hay ít tuỳ thuộc vào tính chất quan trọng của sản phẩm hàng hoá đó, tình hình cung cầu trên
thị trường, khả năng mở rộng hay thu hẹp qui sản xuất, yêu cầu điều kiện thanh toán
của đôi bên.
4.2.2. Tín dụng thương mại (Khoản nợ nhà cung cấp)
53
Việc mua chịu, bán chịu giữa doanh nghiệp với các nhà cung ứng vật tư, hàng hoá,
dịch vụ đã xuất hiện từ lâu, hình thức tín dụng này chiếm vị trí quan trọng trong nguồn tài trợ
ngắn hạn đối với doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp mới hình thành hoặc vốn hoạt động còn
bị hạn chết. Được nhận vật tư, tài sản, dịch vụ để hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng
chưa phải thanh toán, trả tiền ngay, điều rất lợi cho doanh nghiệp. Lợi ích của TDTM nhà
cung cấp rất lớn, đó là:
+ Cung cấp tín dụng cho doanh nghiệp hoạt động.
+ Đàm phán, tự nguyện giữa doanh nghiệp và nhà cung cấp.
+ Kết quả đưa đến nhanh, khi nhà cung cấp biết khách hàng, thể đánh giá được
khả năng thu hồi, mức độ tín nhiệm, cũng như những rủi ro có thể gánh chịu.
- Về phía doanh nghiệp, tuy được hưởng tín dụng của nhà cung cấp nhưng cũng không
nên cho đó loại hình tín dụng không mất chi phí cần kiểm tra, xem xét giá mua chịu
hàng hoá có cao quá mức bình thường không.
Việc sử dụng tín dụng thương mại của doanh nghiệp cũng phải tính đến chi phí của
khoản tín dụng đó, cho nên trong nhiều trường hợp, việc doanh nghiệp nên sử dụng tín
dụng thương mại hay không cần xác định chi phí của các khoản tín dụng thương mại đó.
dụ: Một giao dịch giữa nhà cung cấp với doanh nghiệp, nhà cung cấp đồng ý bán
chịu cho doanh nghiệp một hàng với qui định hình thức thanh toán “2/10 net 30”. Điều
đó nghĩa nhà cung cấp sẽ chiết khấu 2% trên giá trị hóa đơn mua hàng nếu người mua
đồng ý trả tiền trong thời gian 10 ngày kể từ ngày giao hàng. Ngoài thời hạn 10 ngày, tức
từ ngày thứ 11 đến ngày thứ 30 thì doanh nghiệp phải đủ 100% giá trị hóa đơn không
được hưởng chiết khấu nữa.
Có thể tính chi phí của tín dụng thương mại theo công thức sau:
Chi phí
của tín
dụng
thương mại
% tỷ lệ chiết khấu
=
100 - % chiết khấu
360
x
Thời hạn tín dụng - Thời gian hưởng chiết khấu
Với ví dụ trên, thì:
CPTDTM =
Cần so sánh với lãi suất vay ngân hàng để xem chi phí của khoản TDTM cao hay thấp.
4.2.3. Tín dụng ngân ng
Nguồn vốn của ngân hàng thương mại là một nguồn tài trợ đặc biệt cho doanh nghiệp,
đó nguồn tài trợ ngắn hạn, như nhu cầu VLĐ của doanh nghiệp gia tăng trong hoạt động
kinh doanh. Các tổ chức tín dụngthể cho các doanh nghiệp vay ngắn hạn với thời gian tối
đa là 12 tháng (…1 năm). Thời hạn cho vay cụ thể của từng doanh nghiệp được xác định phù
hợp với chu kỳ sản xuất, kinh doanh và khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Lãi suất cho vay là
54
lãi suất thoả thuận theo chế thị trường phù hợp với các qui định của ngân hàng Nhà
nước, qui định của Luật về các tổ chức tín dụng về lãi suất cho vay khi kết hợp đồng tín
dung.
Để vay được nguồn vốn ngắn hạn từ Ngân hàng các tổ chức tín dụng, các doanh
nghiệp cần chấp hành đầy đủ các nguyên tắc qui định hiện hàng về tín dụng ngắn hạn.
4.2.4. Chiết khấu thương phiếu
Thương phiếu là chứng chỉ có giá trị nhận lệnh yêu cầu thanh toán hoặc cam kết thanh
toán không điều kiện một số tiền xác định trong một thời gian nhất định.
Các doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu, thông thường muốn vay ngắn hạn cần thế chấp
bằng khoản phải thu, nhưng thay việc dùng hình thức này để thế chấp, thể sử dụng
thương phiếu để chiết khấu trên thị trường tiền tệ.
Doanh nghiệp thể đem chiết khấu các hối phiếu xuất khẩu trả tiền trước hối
phiếu xuất khẩu có thời hạn tại bộ phận i chuyển khoản thuộc Ngân hàng để nhận được
những khoản tiền vay ngắn hạn. Nguồn vốn vay ngắn hạn này mức chi phí thấp hơn hình
thức vay ngắn hạn khác, mức lãi suất chiết khấu thường thấp hơn lãi suất cho vay cảu các
Ngân hàng thương mại.
Số tiền thu được khi đem các thương phiếu đi chiết khấu thể được tính theo công
thức sau:
M = V -
Trong đó:
M: Số tiền thu được khi đem thương phiếu đi chiết khấu.
V: Giá trị ghi trên thương phiếu (mệnh giá).
i: Lãi suất chiết khấu (tính theo năm).
n: Số ngày chiết khấu.
4.2.5. Các nguồn tài trợ ngắn hạn khác
Ngoài các nguồn vốn để tài trợ ngắn hạn trên, doanh nghiệp còn thể sử dụng các
nguồn khác để tài trợ nhu cầu tăng vốn lưu động tạm thời, như các khoản tiền đặt cọc, tiền
ứng trước của khác hàng, các nguồn tài trợ không bảo đảm khác như tín dụng thư, các
khoản cho vay theo từng hợp đồng cụ thể v.v…
4.2.6. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động
4.2.6.1. Tốc độ luân chuyển vốn lưu động
55
Việc sử dụng hợp vốn lưu động biểu hiện tăng tốc độ luân chuyển vốn lưu động.
Tốc độ luân chuyển vốn lưu động nhanh hay chậm nói lên hiệu suất sử dụng vốn lưu động
của doanh nghiệp cao hay thấp.
Tốc độ luân chuyển vốn lưu động được biểu hiện bằng 2 chỉ tiêu:
a. Số lần luân chuyển vốn lưu động (L)
Nói lên số lần quay (vòng quay) của vốn lưu động trong một thời kỳ nhất định (thường
là 1 năm).
Công thức xác định:
L =
Trong đó:
L: Số lần luân chuyển (số vòng quay) của vốn lưu động trong kỳ kế hoạch.
M: Tổng mức luân chuyển vốn lưu động kỳ kế hoạch. Thông thường tổng mức luân
chuyển vốn lưu động được xác định bằng doanh thu thuần của doanh nghiệp trong kỳ kế
hoạch.
V
bq
: Vốn lưu động bình quân sử dụng kỳ kế hoạch, được xác định theo phương pháp
bình quân số học, tuỳ theo số liệu để có cách tính thích hợp
V
bq
=
Hay: V
bq
=
Hoặc: V
bq
=
Trong đó:
V
ql
, V
q2
, V
q3
, V
q4
: Vốn lưu động bình quân các quý 1, 2, 3, 4
V
đql
: Vốn lưu động đầu quý 1
V
cql,
V
cq2
, V
cq3
, V
cq4
: Vốn lưu động cuối quý 1, 2, 3, 4
V
LĐđn,
V
LĐcn
: Số vốn lưu động đầu năm và cuối năm.
b. Số ngày luân chuyển vốn lưu động (K)
Nói lên độ dài bình quân của một lần luân chuyển của vốn lưu động hay số ngày bình
quân cần thiết để vốn lưu động thực hiện một vòng quay trong kỳ:
Công thức xác định như sau:
K = hay K =
Trong đó:
M, V
bq
: như chú thích trên
56
K: Số ngày luân chuyển vốn lưu động (Kỳ luân chuyển vốn lưu động)
N: Số ngày trong kỳ (một năm là 360 ngày, một quý là 90 ngày, một tháng là 30 ngày).
Vòng quay vốn lưu động càng nhanh thì kỳ luân chuyển vốn lưu động càng được rút
ngắn và chứng tỏ vốn lưu động càng được sử dụng có hiệu quả.
dụ: Trong năm N, doanh thu thuần của doanh nghiệp A đạt được là 360 triệu. Theo
tài liệu báo cáo, số vốn lưu động đầu năm 110 triệu; cuối quý 1 115 triệu; cuối quý 2
120 triệu; cuối quý 3 là 125 triệu và cuối quý 4 là 130 triệu.
Từ tài liệu trên có thể xác định.
Số vốn lưu động bình quân sử dụng trong năm N:
110
+ 115 + 120 + 125 +
130
V
bq
=
2 2
= 120 triệu
4
Số lần luân chuyển vốn lưu động trong năm N:
K =
360
= 180 ngày
2
4.2.6.2. Mức tiết kiệm vốn lưu động
Mức tiết kiệm vốn lưu động do tăng tốc độ luân chuyển vốn lưu động phản ánh số vốn
lưu động thể tiết kiệm được do tăng tốc độ luân chuyển vốn lưu động kỳ này so với kỳ
trước:
Công thức tính như sau:
V
tktgđ
() =
M
1
x (K
1
– K
0
)
360
V
tktgđ
(): Số vốn lưu động có thể tiết kiệm (-) hay phải tăng thêm (+) do sự thay đổi
của tốc độ luân chuyển vốn lưu động của năm kế hoạch so với năm báo cáo.
M
1
: Tổng mức luân chuyển vốn lưu động (doanh thu thuần) năm kế hoạch.
K
1
: Kỳ luân chuyển vốn lưu động năm kế hoạch.
K
0
: Kỳ luân chuyển vốn lưu động năm báo cáo.
4.2.6.3. Hàm lượng vốn lưu động (Mức đảm nhiệm vốn lưu động)
Chỉ tiêu này phản ánh số vốn lưu động cần để đạt được một đồng doanh thu thuần.
Đây chỉ tiêu nghịch đảo của chỉ tiêu hiệu quả một đồng vốn lưu động được tính bằng
cách lấy vốn lưu động bình quân trong năm kế hoạch chia cho tổng doanh thu thuần thựchiện
trong năm kế hoạch.
Công thức: Hàm lượng vốn lưu động =
57
Trong đó: V
LĐbq
: Vốn lưu động bình quân năm kế
hoạch M: Doanh thu thuần bán hàng trong kỳ
dụ: theo ví dụ trên ta có:
Mức đảm nhiệm vốn lưu động
=
120 triệu
= 0,333
360 triệu
Cũng thể nói để đạt được một đồng doanh thu thuần cần 0,333 đồng vốn u
động.
4.3. Nguồn tài trợ dài hạn của doanh nghiệp
4.3.1. Phát hành cổ phiếu thường
Cổ phiếu chứng chỉ thể hiện quyền sở hữu của cổ đông trong công ty cổ phần
cho phép cổ đông được hưởng những quyền lợi của công ty. Đối với công ty cổ phần, cổ
phiếu phương tiện để hình thành vốn chủ sở hữu ban đầu cùng phương tiện để huy
động tăng thêm vốn chủ sở hữu.
Trên các góc độ khác nhau, có thể phân biệt các loại cổ phiếu của công ty cổ phần:
- Dựa vào tình hình phát hành lưu hành, cổ phiếu của công ty cổ phần thể phân
biệt: Cổ phiếu được phép phát hành, cổ phiếu phát hành, cổ phiếu đang lưu hành cổ phiếu
quĩ
- Dựa o hình thức cổ phiếu thể phân biệt: Cổ phiếu hữu danh (ghi tên) cổ
phiếu ghi danh (Không ghi tên)
- Dựa o quyền lợi cổ phiếu mang lại cho người nắm giữ thể phân biệt cổ
phiếu thường (cổ phiếu phổ thông) và cổ phiếu ưu đãi
Cổ đông nắm giữ cổ phiếu thường một trong những người chủ doanh nghiệp nên
người trực tiếp thụ hưởng kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như lãnh chịu mọi rủi
ro trong kinh doanh, do đó: cổ phiếu thường có những đặc điểm:
+ Rủi ro nhiều
+ Lợi nhuận cao
+ Giá cả biến động
Cổ phiếu thường là chứng chỉ xác nhận quyền sở hữu trong công ty và cho phép người
sở hữu được hưởng các quyền lợi thông thường trong công ty cổ phần. Cđông thường -
Người sở hữu cổ phiếu thường của công ty cổ phần được hưởng các quyền chủ yếu sau:
- Quyền trong quản kiểm soát công ty: Cổ đông thường được quyền tham gia bỏ
phiếu ứng cử vào hội đồng quản trị; được tham gia quyết định các vấn đề quan trọng đối
với hoạt động công ty.
58
- Quyền đối với tài sản của công ty: Cổ đông thường được quyền nhận phần lợi nhuận
của công ty chia cho cổ đông hàng năm dưới hình thức lợi tức cổ phần. Khi công ty bị giải
thể hoặc phá sản cổ đông thường được quyền nhận một phần giá trị còn lại của công ty sau
khi đã thanh toán các khoản nợ, các khoản chi phí và thanh toán cho các cổ đông ưu đãi.
- Quyền chuyển nhượng quyền sở hữu cổ phần: Cổ đông thường không được quyền
rút vốn trực tiếp ra khỏi công ty, nhưng được quyền chuyển nhượng quyền sở hữu cổ phần
cho người khác dưới hình thức bán lại cổ phiếu hoặc để lại cho người thừa kế.
- Ngoài các quyền chủ yếu kể trên, cổ đông thường có thể được hưởng các quyền khác
như quyền được ưu tiên mua trước các cổ phần mới do Công ty phát hành, quyền được xem
xét, tra cứu, trích lục hoặc sao chụp điều lệ công ty, sổ biên bản họp Đại hội cổ đông, các
nghị quyết của Đại hội cổ đông, kiểm tra sổ sách kế toán v…v theo qui định cụ thể trong điều
lệ của công ty.
Để đáp ứng nhu cầu tăng vốn mở rộng kinh doanh, Công ty cổ phần thể lựa chọn
phương pháp huy động vốn bằng cách phát hành thêm cổ phiếu thường bán ra thu thêm tiền
vốn theo các hình thức sau:
- Phát hành cổ phiếu mới với việc dành quyền ưu tiên mua cho các cổ đông hiện hành
Đây hình thức phổ biến được các Công ty cổ phần nhiều nước áp dụng khi quyết
định tăng thêm vốn chủ sở hữu để mở rộng hoạt động kinh doanh. Việc áp dụng quyền ưu
tiên mua cho cổ đông là nhằm bảo vệ quyền lợi của các cổ đông hiện hành.
- Phát hành cổ phiếu mới ra công chúng
Để huy động tăng thêm vốn đầu tư, Công ty cổ phần thể lựa chọn con đường phát
hành cổ phiếu mới ra công chúng với việc chào bán công khai. Việc thực hiện chào bán công
khai cổ phiếu mới thể thực hiện theo các phương pháp: Phát hành trực tiếp, chào bán qua
người bảo lãnh (hay ủy thác phát hành) và chào bán qua đấu thầu; trong đó, hai phương pháp
chủ yếu thường được thực hiện là phát hành qua người bảo lãnh và phương pháp đấu thầu.
- Phát hành cổ phiếu mới bằng việc chào bán cho người thứ ba
Luật pháp của nhiều nước hoặc trong điều lệ của nhiều công ty cổ phần cho phép, nếu
được sự tán thành của Đại hội cổ đông, Công ty có thể phát hành thêm cổ phiếu mới với việc
dành quyền mua cphiếu cho người thứ ba những người quan hệ mật thiết với công ty
như người lao động trong Công ty, các đối tác kinh doanh, các định chế tài chính…Việc phát
hành cổ phiếu theo phương pháp này vừa giúp công ty tăng được vốn kinh doanh, vừa tạo ra
sự gắn bó chặt chẽ hơn giữa công ty và những người thường xuyên có quan hệ với công ty.
Khi quyết định tăng thêm vốn kinh doanh bằng việc phát hành cổ phiếu mới dành
quyền ưu tiên mua cho cổ đông hiện hàn, Công ty ấn định số lượng vốn cần huy động
giá phát hành một cổ phiếu mới (còn gọi là giá ghi bán). Trên cơ sở đó, Công ty xác định số
59
cổ phiếu cần phát hành số quyền mua cần thiết đmua một cổ phiếu mới. Số lượng cổ
phiếu mới cần phát hành xác định theo công thức:
Số vốn cần huy động
Số lượng cổ phiếu mới cần phát hành =
Giá ghi bán một cổ phiếu
Các cổ đông hiện hành được quyền ưu tiên mua số cổ phiếu mới phát hành theo tỷ lệ
với số quyền mua cần thiết để mua một cổ phiếu mới:
Số quyền mua cần thiết để được mua Số cổ phiếu đang lưu
hành một cổ phiếu mới =
Số cổ phiếu mới dự kiến phát hành
Ưu điểm đối với việc phát hành cổ phiếu mới và dành quyền ưu tiên mua cho cổ đông
hiện hành có những điểm lợi sau:
Thứ nhất: Công ty thể mở rộng được hoạt động kinh doanh nhưng vẫn bảo vệ cho
các cổ đông hiện hành, giúp các cổ đông giữ được quyền kiểm soát đối với công ty và bảo vệ
được các quyền lợi kinh tế của cổ đông. Đây là vấn đề hết sức quan trọng đối với các công ty
nhỏ và công ty mới thành lập.
Thứ hai: Việc huy động tăng vốn kinh doanh được thực hiện khá dễ dàng. Nếu công ty
đang tiến hành triển vọng, các cổ đông hiện hành dễ dàng chấp nhận bỏ tiền mua thêm c
phần mới, tăng vốn đầu tư vào công ty.
Thứ ba: Tiết kiệm chi phí phát hành cổ phiếu thường so với trường hợp phát hành rộng
rãi ra công chúng. Theo phương pháp này công ty không cần bỏ ra chi phí quảng cáo. Theo
phương pháp này phần lớn các công ty đều thực hiện tự phát hành, hoặc phát hành thông qua
đại lý với chi phí hoa hồng ở mức thấp.
Thứ tư: Giúp công ty tránh được áp lực của cổ đông do sự sụt giảm thị giá cổ phiếu
khi phát hành cổ phiếu mới. Thông thường mỗi khi công ty phát hành cổ phiếu mới, thị giá cổ
phiếu thường có sự sụt giảm. Tuy nhiên nhờ được hưởng giá trị quyền ưu tiên mua nên các cổ
đông hiện hành không bị thiệt hại do việc sụt giảm thị giá cổ phiếu gây ra.
Bên cạnh những điểm lợi kể trên, phương pháp huy động tăng vốn này cũng bộc lộ
những hạn chế nhất định. Do cổ phiếu mới phát hành chủ yếu được phân phối trong phạm vi
các cổ đông hiện hành của công ty, vì vậy việc phát hành thêm cổ phiếu mới để tăng vốn này
ít m tăng tính hoán tệ của cổ phiếu Công ty. Mặt khác với việc n cổ phần mới cho cổ
đông hiện hành với giá thấp hơn giá thị trường đã làm cho qui mô nguồn vốn có thể huy động
được là thấp hơn so với hình thức chào bán công khai trên thị trường.
4.3.2. Phát hành cổ phiếu ưu đãi
60
- Cổ phiếu ưu đãi là chứng chỉ xác nhận quyền sở hữu trong công ty cổ phần đồng thời
cho phép người nắm giữ cổ phiếu này được hưởng một số quyền lợi ưu đãi hơn so với cổ
đông thường.
Cùng với sự phát triển của thị trường chứng khoán, ngày nay nhiều nước các Công
ty cổ phần phát hành nhiều cổ phiếu ưu đãi khác nhau. Tuy nhiên loại cổ phiếu ưu đãi thường
được các Công ty cổ phần nhiều nước sử dụng loại cổ phiếu ưu đãi cổ tức, loại cổ phiếu
này có các đặc trưng chủ yếu sau:
Quyền ưu tiên về cổ tức thanh toán khi thanh công ty
Khác với c phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi mang lại cho người nắm giữ được
hưởng một khoản lợi tức cổ phần cố định và đã được xác định trước, không phụ thuộc vào kết
quả hoạt động của Công ty. Mặt khác cổ phiếu ưu đãi còn nhận được các cổ tức trước các cổ
đông thường. Ngoài ra khi công ty bị thanh hoặc giải thể thì cổ đông ưu đãi còn được
thanh toán giá trị cổ phiếu của họ trước các cổ đông thường.
Sự tích lũy cổ tức
Phần lớn các cổ phiếu ưu đãi của Công ty phát hành đều cổ phiếu ưu đãi tích lũy.
Điều đó có nghĩa là, nếu trong một năm nào đó công ty gặp khó khăn trong kinh doanh thì
thể tuyên bố hoãn trả nợ lợi tức cổ phần ưu đãi. Số cổ tức đó được tích lũy lại tức được
cộng dồn lại và được chuyển sang kỳ kế tiếp. Số cổ tức này phải được trả cho cổ đông ưu đãi
trước khi công ty tuyên bố trả cổ tức cho các cổ đông thường. Quy định này nhằm bảo vệ lợi
ích cho các cổ đông ưu đãi.
Không được hưởng quyền bỏ phiếu
Khác với cổ đông thường, các cổ đông ưu đãi thường không được hưởng quyền bỏ
phiếu để bầu ra Hội đồng quản trị, cũng như khi thông qua các vấn đề quan trọng trong quản
lý công ty.
Quỹ thanh toán
Một số công ty phát hành cổ phiếu ưu đãi điều khoản lập quĩ thanh toán nhằm mỗi
năm mua lại và giải phóng một số lượng cổ phiếu ưu đãi theo một tỷ lệ nhất định.
Thời hạn
Cổ phiếu ưu đãi nói chung không thời hạn thanh toán vốn gốc. Tuy nhiên, trong
những năm gần đây, một số Công ty cổ phần các nước phát hành cổ phiếu ưu đãi với việc
lập quỹ thanh toán, do vậy với loại cổ phiếu ưu đãi này có thời hạn thanh toán.
Như vậy thể thấy rằng cổ phiếu ưu đãi ngày càng phát triển phong phú đa dạng.
Tuy nhiên, nhìn nhận trên số lớn thì cổ phiếu ưu đãi thường được sử dụng là loại có lợi tức cố
định, được ưu tiên nhận cổ tức thanh toán khi giải thể công ty không quyền biểu
quyết. Với các đặc trưng như vậy, cổ phiếu ưu đãi được coi là một loại chứng khoán lai ghép
61
giữa cổ phiếu thường trái phiếu. Nói cách khác, cổ phiếu ưu đãi một loại chứng khoán
lưỡng tính, vừa mang một số đặc điểm ca c phiếu thường, vừa đặc trưng của trái
phiếu.
Những đặc trưng của cổ phiếu ưu đãi giống cổ phiếu thường :
- Cùng thể hiện quyền sở hữu đối với công ty
- Không có thời hạn thanh toán vốn gốc
- Lợi tức cổ phần ưu đãi không được giảm trừ khi tính thuế thu nhập DN
- Khi công ty gặp khó khăn trong kinh doanh, chỉ thu được ít lợi nhuận hoặc không thu
được lợi nhuận thì có thể hoãn trả lợi tức cổ phần ưu đãi mà không bị đe dọa bởi nguy cơ phá
sản
Những đặc trưng của cổ phiếu ưu đãi giống trái phiếu:
- Lợi tức cổ phần ưu đãi được trả theo 1 mức cố định
- Khi Công ty thu được lợi nhuận cao thì cổ đông ưu đãi không được tham dự vào việc
phân chia lợi nhuận cao đó. Ngược lại nếu công ty kinh doanh sút kém thì công ty vẫn phải
trách nhiệm thanh toán lợi tức cho cổ đông ưu đãi, tuy nhiên Công ty thể hoãn trả vào
kỳ tiếp theo.
- Về cơ bản cổ đông ưu đãi không có quyền biểu quyết.
Những điểm lợi
Thứ nhất, không bắt buộc phải trả tức cố định đúng hạn
Một lợi thế quan trọng của cổ phần ưu đãi đối với Công ty phát hành là chỗ mặc
phải trả lợi tức cố định nhưng khác với trái phiếu , Công ty phát hành không nhất thiết phải
trả đúng hạn hàng năm màthể hoãn trả sang kỳ sau. Điều này giúp cho công ty tránh khỏi
nguy cơ phá sản khi hoạt động kinh doanh đang gặp khó khăn, công ty không có khả năng trả
cổ tức đúng hạn.
Thứ hai, có khả năng làm tăng lợi tức cổ phần thường
Việc phát hành cổ phiếu ưu đãi có khả năng giúp cho các cổ đông thường thu được lợi
tức cổ phần cao hơn khi Công ty triển vọng thu được lợi nhuận cao trong hoạt động kinh
doanh do cổ đông thường không phải chia sẻ lợi nhuận cao cho các cổ đông ưu đãi, đồng thời
Công ty chỉ phải trả cho cổ đông ưu đãi một khoản cổ tức không thay đổi.
Thứ ba, giúp công ty tránh được việc chia sẻ quyền quản quyền kiểm soát cho
các cổ đông mới
Việc phát hành cổ phiếu ưu đãi mặc dẫn tới việc tăng thêm các cổ đông; tuy nhiên
do các cổ đông ưu đãi không quyền biểu quyết, vậy các cổ đông thường hiện tại của
62
công ty không bị chia sẻ quyền kiểm soát các hoạt động kinh doanh của công ty cho các cổ
đông mới.
Thứ tư, không phải cầm cố, thế chấp tài sản cũng như lập quĩ thanh toán vốn gốc
Việc phát hành cổ phiếu ưu đãi không bắt buộc công ty phải thế chấp, cầm cối sản.
Mặt khác, do cổ phiếu ưu đãi không thời hạn hoàn trả không bắt buộc phải lập quĩ
thanh toán; do vậy việc sử dụng cổ phiếu ưu đãi tính chất mềm dẻo linh hoạt hơn trái
phiếu.
Những điểm bất lợi
Lợi tức cổ phiếu ưu đãi cao hơn lợi tức trái phiếu
So với trái phiếu, lợi tức của cổ phiếu ưu đãi thường cao hơn, do mức độ rủi ro đối với
người đầu tư vào cổ phiếu ưu đãi cao hơn so với người đầu tư trái phiếu.
Lợi tức cổ phiếu đãi không được trừ vào thu nhập chịu thuế của công ty
Giống như đối với cổ phiếu thường, lợi tức cổ phiếu ưu đãi cũng không được trừ vào
thu nhập chịu thuế của công ty. Điều này làm cho chi phí sử dụng cổ phiếu ưu đãi cao hơn so
với chi phí sử dụng trái phiếu. Chính thế, các công ty rất hạn chế sử dụng cổ phiếu ưu đãi
trong việc tài trợ nhu cầu tăng vốn.
Trên đay là những điểm lợibất lợi khi sử dụng cổ phiếu ưu đãi để đáp ứng nhu cầu
tăng vốn. Những điểm này đòi hỏi các công ty cần phải cân nhắc kỹ khi đi đến quyết định sử
dụng cổ phiếu ưu đãi. Do tính chất lưỡng tính của cổ phiếu ưu đãi nên nhìn chunng việc s
dụng cổ phiếu ưu đãi để tăng vốn tỏ ra thích hợp hơn trong tình thế của công ty cho thấy sử
dụng cổ phiếu thường hoặc sử dụng trái phiếu đều đưa lại những điểm bất lợi đối với công ty.
Tình thế đó thường khi công ty khả ng mở rộng hoạt động kinh doanh đạt được tỷ
suất lợi nhuận vốn ở mức cao nhưng công ty đã có hệ số nợ quá cao, đồng thời công ty rất coi
trọng việc giữ nguyên quyền kiểm soát công ty.
4.3.3. Vay ngân hàng thương mại các tổ chức tài chính tín dụng khác
Để thực hiện các dự án đầu trường hợp đã huy động hết các nguồn vốn bên trong
doanh nghiệp vẫn không đủ đáp ứng nhu cầu vốn đầu thì các doanh nghiệp buộc phải
tìm kiếm các nguồn tài trợ từ bên ngoài. Trong điều kiện kinh tế thị trường, các doanh nghiệp
thể xem xét việc huy động các nguồn vốn bên ngoài như phát hành thêm cphiếu để huy
động thêm vốn góp cổ phần (đối với công ty cổ phần), hoặc kết nạp thêm thành viên mới để
tăng vốn chủ sở hữu (đối với công ty trách nhiệm hữu hạn), hoặc huy động góp vốn liên
doanh v..v. Tuy vậy, việc phát hành thêm cổ phiếu, kết nạp thêm thành viên góp vốn huy
động góp vốn liên doanh đều dẫn tới sự chia sẻ quyền quản lý và kiểm soát doanh nghiệp của
các chủ sở hữu hiện tại. Trường hợp các chủ sở hữu doanh nghiệp không chấp nhận việc chia
sẻ quyền quản kiểm soát doanh nghiệp cho các thành viên mới, họ thể sử dụng một
kênh huy động khác thông qua vay dài hạn.
63
Vay dài hạn một thỏa ước tín dụng dưới dạng giữa người vay người cho vay
(thường các ngân hàng thương mại, công ty tài chính...) theo đó người vay nghĩa vụ
hoàn trả tiền vay theo lịch trình đã định. Thông thường người ta qui định các khoản vay có kỳ
hạn từ một năm trở lên được tính là vay dài hạn. Lợi thế của vay dài hạn so với các hình thức
tài trợ dài hạn khác chi phí tài trợ thấp tính linh hoạt cao n. Khi vay tiền người vay
thường thương lượng trực tiếp với nhà tài trợ do đó chỉ phải chịu một khoản chi phí nhỏ cho
các thủ tục tài trợ.
Vay dài hạn thường được trả vào những thời hạn định kỳ với những khoản tiền bằng
nhau. Đó sự hoàn trả dần khoản tiền vay bao gồm cả vốn gốc lãi trong suốt thời gian
diễn ra giao dịch. Tuy nhiên, giao dịch vay mượn này cũng rất linh hoạt người cho vay có thể
thiết lập lịch trả nợ phù hợp với dòng tiền thu nhập của người vay.
Lãi suất của những khoản vay dài hạn thể lãi suất cố định hoặc lãi suất thả nổi
tùy theo sự thương lượng giữa hai bên. Lãi suất cố định được áp dụng dựa trênsở mức độ
rủi ro và và thời lượng thời gian đáo hạn và chúng được đặt ở mức cao hơn so với lãi suất của
những trái phiếu công ty mức độ rủi ro thời gian đáo hạn tương tự. Lãi suất thả nổi
được thiết lập dựa trên phần lãi suất bản ổn định cộng với một tỷ lệ phần trăm nào đó tùy
thuộc vào mức độ rủi ro có liên quan của giao dịch đó tại thời điểm trả lãi.
nhiều hình thức vay i hạn như: vay dài hạn của ngân hàng các tổ chức tài
chính tín dụng, vay thông qua phát hành trái phiếu, thuêi chính v..v. Trong đó vay ngân
hàng một trong những nguồn vốn quan trọng nhất, không những đối với sự phát triển của
các doanh nghiệp mà còn đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Không một doanh nghiệp hay
một công ty nào có thể hoạt động mà không vay vốn của ngân hàng. Đối với Việt Nam, trước
năm 2000 do chưa thị trường vốn nên các doanh nghiệp chủ yếu dựa vào ngân hàng
thương mại để huy động vốn vay dài hạn. Trong quá trình hoạt động các doanh nghiệp
thường vay dài hạn ngân ng để đảm bảo nguồn tài chính cho các dự án đầu mới, mở
rộng hoặc đầu chiều sâu của doanh nghiệp. Thông thường các khoản vay từ 3 năm trở lên
(có nơi tính từ 5 năm) được coi là vay dài hạn; còn các khoản vay từ 1 đên 3 năm được coi là
vay trung hạn. Tuy nhiên, tiêu chuẩn về mặt thời gian để phân biệt vay trung và dài hạn có sự
khác nhau giữa các nước các ngân hàng. Theo tính chất mục đích sử dụng tiền vay,
thể phân chia vay dài hạn ngân hàng thành các loại: vay đầu tư tài sản cố định. vay hình thành
vốn lưu động thường xuyên.
Nguồn vốn tín dụng ngân hàng có nhiều ưu điểm nhưng nguồn vốn này cũng có những
hạn chế nhất định. Đó là, các hạn chế về điều kiện tín dụng, sự kiểm soát của ngân hàng đối
với việc huy động sử dụng tiền vay chi phí sử dụng vốn (lãi suất). Ngoài ra các ngân
hàng thương mại thường đặt trọng tâm vào thị trường tín dụng ngắn hạn, vậy việc huy
động nguồn vốn vay dài hạn của doanh nghiệp từ các ngân hàng thương mại chỉ giới hạn
nhất định.
64
Bên cạnh việc huy động vốn tín dụng dài hạn từ các ngân hàng thương mại, trong
những trường hợp nhất định, các doanh nghiệp thể huy động vốn vay trung dài hạn từ
các tổ chức i chính, công ty bảo hiểm, quỹ hỗ trợ phát triển,v..v. Tuy nhiên do sự hạn chế
về vốn điều lệ hoặc sự giới hạn của luật pháp về phạm vi huy động vốn; vậy, quy
nguồn vốn tín dụng thể huy động từ các tổ chức tín tài chính dụng này nhiều hạn chế.
Trong điều kiện đó, các doanh nghiệp có thể tính tới khả năng huy động vốn vay dài hạn khác
trên thị trường thông qua phátnh trái phiếu doanh nghiệp (hay trái phiếu công ty) hoặc sử
dụng thuê tài chính.
4.3.4. Phát hành trái phiếu doanh nghiệp
Trái phiếu doanh nghiệp chứng chỉ vay vốn do doanh nghiệp phát hành thể hiện
nghĩa vụ và sự cam kết của doanh nghiệp thanh toán số lợi tức và tiền vay vào những thời hạn
xác định cho người nắm giữ trái phiếu. Doanh nghiệp là người phát hành với tư cách là người
đi vay. Người mua trái phiếu là người cho vay còn gọi là trái chủ
Xét trên góc độ của doanh nghiệpthể thấy rằng cổ phiếu và trái phiếu đều là chứng
khoán giá đều công cụ doanh nghiệp thể sử dụng để huy động vốn qua thị
trường. Tuy vậy, cổ phiếu và trái phiếu có những điểm khác nhau cơ bản sau:
Cổ phiếu loại chứng khoán vốn, việc phát hành cổ phiếu làm tăng vốn chủ sở hữu;
còn trái phiếu là chứng khoán nợ, việc phát hành trái phiếu để huy động vốn trung và dài hạn.
Cổ phiếu không kỳ hạn thanh toán, người mua cổ phiếu không được trực tiếp rút
vốn ra khỏi công ty chỉ thể rút vốn một cách gián tiếp thông qua việc chuyển nhượng
cổ phiếu cho người khác. Trái phiếu luôn có kỳ hạn thanh toán và được xác định trước.
Lợi tức trái phiếu được xác định trước không phụ thuộc o kết quả hoạt động của
công ty. Trong khi đó, lợi tức cổ phần thường phụ thuộc vào kết quả hoạt động của công ty.
Khi công ty bị thanh giải thể, người mua trái phiếu được ưu tiên thanh toán trước người
nắm giữ cổ phiếu.
Người mua cổ phiếu cổ đông của công ty, tức người chủ shữu của công ty,
quyền quản lý công typhải gánh chịu những rủi ro của công ty. Còn người mua trái phiếu
người cho công ty vay, họ không có quyền tham gia vào việc quản lý công ty và nói chung
không phải chịu rủi ro của công ty.
Việt Nam theo qui định hiện hành chỉ có các loại hình doanh nghiệp như công ty cổ
phần, công ty trách nhiệm hữu hạn mới có quyền phát hành trái phiếu doanh nghiệp để huy
động vốn vay. Các doanh nghiệp nhân công ty hợp danh không được phép phát hành
bất kỳ loại chứng khoán nào để huy động vốn qua thị trường.
Các loại trái phiếu
Dựa vào hình thức trái phiếu thể phân biệt trái phiếu ghi danh trái phiếu hữu
danh
65
Dựa vào lợi tức trái phiếu có thể phân biệt trái phiếu có lãi suất cố định và trái phiếu
có lãi suất biến đổi
Dựa vào mức độ đảm bảo thanh toán có thể phân biệt trái phiếu bảo đảm và trái phiếu
không bảo đảm
Dựa vào tính chất của trái phiếu có thể phân biệt trái phiếu thông thường, trái phiếu có
thể chuyển đổi và trái phiếu có quyền mua cổ phiếu
Dựa vào mức độ rủi ro tín dụng của trái phiếu có thể chia trái phiếu của doanh nghiệp
thành các loại khác nhau thông qua việc đánh giá hệ số tín nhiệm
Dựa vào thời hạn của trái phiếu có thể chia ra trái phiếu dài hạn và trái phiếu ngắn hạn
Giá cả của trái phiếu
Trái tức là số tiền lãi nhận được trong kỳ đầu tư
Tổng vốn cần huy động đợt phát hành
Mệnh giá 1 trái phiếu =
Tổng số trái phiếu cần phát hành
Lãi suất của trái phiếu là tỷ lệ % giữa trái tức và số vốn bỏ ra mua trái phiếu đó
+ Lãi suất danh nghĩa là tỷ lệ % giữa trái tức với mệnh giá trái phiếu
+ Lãi suất hiện hành là tỷ lệ % giữa trái tức so với thị giá trái phiếu
+ Lãi suất đáo hạn lãi suất được tính từ khi mua theo giá thị trường hôm nay
được giữ tới ngày đáo hạn (hết hạn thanh toán)
Thị giá = mệnh giá: ngang giá (trả lãi sau)
Nếu mua với giá chiết khấu: (giá < mệnh giá)Trả lãi trước
(MG x i) +
Lãi suất đáo hạn = x 100
Nếu mua với giá tăng trưởng:(giá >mệnh giá) Lãi suất khi bán cao
(MG x i) –
Lãi suất đáo hạn = x 100
Trong đó: TG: thị giá; MG: Mệnh giá; N: Số năm; i: Lãi suất
Trong nền kinh tế thị trường trái phiếu công cụ rất quan trọng cho phép doanh nghiệp chủ
động huy động vốn vay qua thị trường. Xét trên góc độ của doanh nghiệp, việc phát hành trái
phiếu để đáp ứng nhu cầu tăng vốn đầu tư dài hạn có những điểm lợi cơ bản sau
Những điểm lợi bản khi phát hành trái phiếu:
66
Một là, lợi tức trái phiếu được trừ vào thu nhập chịu thuế khi tính thuế thu nhập
doanh nghiệp
hầu hết các nước , lợi tức trái phiếu được xem như một khoản chi phí được trừ vào
thu nhập chịu thuế khi xác định thuế thu nhập doanh nghiệp, điều này lợi cho doanh
nghiệp do giảm bớt số thuế phải nộp vào Nhà nước (tiết kiệm tiền thuế), tăng thu nhập của
các chủ sở hữu.
Hai là, lợi tức trái phiếu được giới hạn mức độ nhất định
Lợi tức trái phiếu thường được xác định trước thường thấp hơn lợi tức cổ phiếu ưu
đãi. Nếu doanh nghiệp triển vọng tốt trong kinh doanh, khả năng thu lợi nhuận thì việc
sử dụng trái phiếu để huy động thêm vốn vay sẽng cao tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu
mà không phải chia sẻ quyền phân chia thu nhập cao cho các trái chủ
Ba là, chi phí phát hành trái phiếu thấp hơn so cổ phiếu thường cổ phiếu ưu đãi
Trái phiếu hấp dẫn công chúng mức rủi ro thấp hơn cổ phiếu thườngcổ phiếu ưu
đãi; vì vậy, chi phí cho việc tuyên truyền quảng cáo, phát hành và bán trái phiếu là thấp hơn.
Bốn là, chủ sở hữu doanh nghiệp không bị chia sẻ quyền quản kiểm soát doanh
nghiệp cho các trái chủ
Trái chủ là chủ nợ của doanh nghiệp, trái chủ không có quyền biểu quyết. Do vậy, việc
phát hành trái phiếu để huy động tăng vốn không ảnh hưởng tới quyền quản kiểm
soát doanh nghiệp của các chủ sở hữu doanh nghiệp hiện hành.
Năm là, giúp doanh nghiệp chủ động điều chỉnh cấu vốn một cách linh hoạt
Khi doanh nghiệp làm ăn thành đạt, khả năng thu lợi nhuận chắc chắn thể tăng
huy động vốn vay nhằm mở rộng thị trường và tăng tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu. Ngược
lại, khi thị trường biến động theo hướng bất lợi, để thu hẹp quy mô kinh doanh, doanh nghiệp
có thể chủ động giảm vốn bằng cách mua lại trái phiếu trước thời hạn (nếu doanh nghiệp phát
hành loại trái phiếu thể mua lại). vậy, trái phiếu được doanh nghiệp sử dụng một cách
linh hoạt trong việc điều chỉnh cơ cấu vốn kinh doanh đảm bảo sử dụng vốn tiết kiệm và hiệu
qu
Những điểm bất lợi khi phát hành trái phiếu
Thứ nhất, buộc phải trả lợi tức cố định đúng hạn
Sử dụng trái phiếu buộc doanh nghiệp phải nghĩa vụ trả lợi tức cố định đúng kỳ
hạn cho các trái chủ. Điều này thể gây căng thẳng về mặt tài chính dễ dẫn tới nguy
rủi ro trong trường hợp doanh thu lợi nhuận của doanh nghiệp không ổn định, doanh
nghiệp không có đủ nguồn tài chính để trang trải lợi tức trái phiếu.
Làm tăng hệ số nợ của DN
67
Thứ hai, làm tăng hệ số nợ của doanh nghiệp
Phát hành trái phiếu chínhhuy động thêm vốn vay qua thị trường. Do vậy việc tăng
vốn bằng cách phát hành trái phiếu sẽ làm tăng hệ số nợ mức độ sử dụng đòn bẩy tài
chính của doanh nghiệp. Điều này một mặt thể nâng cao thu nhập của chủ sở hữu khi
doanh nghiệp làm ăn lãi; mặt khác, cũng làm tăng nguy rủi ro, đe dọa sự tồn tại của
doanh nghiệp trong trường hợp doanh nghiệp không đảm bảo khả năng thanh toán các khoản
nợ đúng hạn.
Thứ ba, phải trả nợ gốc đúng kỳ hạn
Phát hành trái phiếu sử dụng nợ vay kỳ hạn hoàn trả, do vậy doanh nghiệp buộc
phải lo việc hoàn trả tiền vay đúng kỳ hạn. Nếu một doanh nghiệp doanh thu và lợi nhuận
dao động thất thường, việc sử dụng trái phiếu để tài trợ tăng vốn dài hạn dễ đưa doanh nghiệp
tới nguy cơ mất khả năng thanh toán, tăng nguy cơ bị phá sản.
Thứ tư, sử dụng trái phiếu dài hạn việc sử dụng nợ trong thời gian i
Tác động của việc sử dụng nợ dưới hình thức trái phiếu tới doanh nghiệp mang tính
hai mặt: Một mặt, nó đóng vai trò đòn bẩy thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp; mặt khác,
lại trở thành nguy đe dọa sự tồn tại phát triển của doanh nghiệp. Việc sử dụng trái
phiếu thể giúp doanh nghiệp ng vốn thực hiện các dự án đầu mở rộng kinh doanh,
nhưng nếu việc đầu của doanh nghiệp không đúng hướng hoặc trong bối cảnh của thị
trường sự biến động theo hướng bất lợi cho doanh nghiệp như: Giá trị tiền tệ tăng lên, sự
phát triển của khoa học kỹ thuật... thì việc phải hoàn trả lợi tức một số nợ lớn trở thành
gánh nặng đối với doanh nghiệp.
Thứ năm, việc sử dụng trái phiếu để tài trợ nhu cầu tăng vốn của doanh nghiệp cũng
giới hạn nhất định
Các doanh nghiệp không thể để hệ số nợ vượt quá xa mức thông thường của doanh
nghiệp trong cùng ngành kinh doanh (hệ số nợ trung bình của ngành) – đó là giới hạn an toàn
về mặt tài chính mà các doanh nghiệp cần phải quan tâm trong tổ chức nguồn vốn của mình.
Do đó, hệ số chính là yếu tố đặt giới hạn cho khả năng vay nợ nói chung, cũng như việc sử
dụng trái phiếu nói riêng của doanh nghiệp.
Vì vậy, để đi đến quyết định phát hành trái phiếu đáp ứng nhu cầu tăng vốn cần cân
nhắc nhiều nhân tố, trong đó cần chú ý các nhân tố chủ yếu sau:
Một là, mức độ ổn định của doanh thu lợi nhuận trong tương lai
Nếu doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp tương đối ổn định hoặc mức tăng lên
trong tương lai được đánh giá là tương đối chắc chắn thì việc sử dụng trái phiếu trong kinh
doanh là hợp lý và có cơ sở. Trong điều kiện đó, doanh nghiệp nên phát hành trái phiếu; bởi
vì mặc dù doanh nghiệp phải trả lợi tức tiền vay cố định nhưng doanh nghiệp có thể mở rộng
68
kinh doanh, tăng doanh thu và vừa tăng được tổng lợi nhuận, vừa tăng được tỷ suất lợi nhuận
vốn chủ sở hữu.
Hai là, hệ số nợ hiện tại của doanh nghiệp
Nếu hệ số nợ hiện tại của doanh nghiệp còn ở mức thấp thì việc sử dụng trái phiếu là
phù hợp. Nếu hệ số nợ của doanh nghiệp đã ở mức khá cao thì cần phân tích, đánh giá một
cách thận trọng tác động của việc sử dụng nợ trái phiếu đến hiệu quả kinh doanh và giá trị
của doanh nghiệp trước khi đi đến quyết định sử dụng trái phiếu để tăng vốn kinh doanh.
Ba là, sự biến động của lãi suất thị trường trong tương lai
Nếu lãi suất thị trường có xu hướng gia tăng trong tương lai thì việc sử dụng trái phiếu
để ng vốn sẽ lợi cho doanh nghiệp do giá trị thực của số lợi tức tiền vay doanh
nghiệp phải hoàn trả sẽ thấp hơn so với dự tính tại thời điểm phát hành.
Bốn là, yêu cầu giữ nguyên quyền kiểm soát doanh nghiệp của các chủ sở hữu hiện tại
Nếu các chủ sở hữu doanh nghiệp hiện tại đặt ra yêu cầu trong tương lai cần giữu
nguyên quyền kiểm soát doanh nghiệp thì việc sử dụng trái phiếu là cần thiết.
Trên đây là các nhân tố chủ yếu cần được cân nhắc, xem xét kỹ lưỡng từng nhân tố
đồng thời phải xem xét tổng quan đến bối cảnh thị trường và bối cảnh của doanh nghiệp.
Việc đưa ra quyết định đúng đắn hay sai lầm tùy thuộc vào năng lực phân tích, đánh giá và
dự đoán của người quản lý doanh nghiệp.
4.3.5. Thuê tài chính
Thuê tài chính còn gọi là thuê vốn là phương thức tài trợ tín dụng trung và dài hạn
không thể hủy ngang. Theo phương thức này, người cho thuê thường mua tài sản, thiết bị
theo yêu cầu của người thuê và nắm giữ quyền sở hữu đôi với tài sản cho thuê. Người thuê sử
dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn đã thỏa thuận và không được
hủy bỏ hợp đồng trước thời hạn. Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được chuyển quyền sở
hữu, mua lại hoặc tiếp tục thuê tài sản đó tùy theo các điều kiện đã thỏa thuận trong hợp đồng
thuê.
Trên góc độ doanh nghiệp, người quản lý cần nhận biết các phuuwong thức thuê tài
sản để tận dụng các ưu thế của phương thức thuê phù hợp với tình hình của doanh nghiệp
cũng như để có biện pháp quản lý phù hợp, thích ứng với đặc điểm và qui định của Nhà
nước đối với mỗi hình thức thuê.
Ủy ban tiêu chuẩn quốc tế (IASC) đã đưa ra 4 tiêu chuẩn để phân loại và nhận biết các
hợp đồng thuê tài sản:
+ Quyền sở hữu tài sản thuê có được chuyển giao cho người thuê khi kết thúc hợp
đồng không? nếu có thì đó là giao dịch thuê tài chính
\69
+ Hợp đồng qui định quyền chọn mua tài sản khi kết thúc hợp đồng với giá
thấp hơn giá trị tài sản thuê tại thời điểm vào lúc kết thúc hợp đồng không? nếu có là giao
dịch thuê tài chính
+ Thời gian của hợp đồng thuê có chiếm phần lớn thời gian hữu dụng của tài sản? Nếu
thỏa mãn thì giao dịch thuộc về thuê tài chính
+ Giá trị hiện tại của toàn bộ tiền thuê tối thiểu do người thuê trả nếu có bằng hoặc lớn
hơn giá trị thị trường của tài sản ở thời điểm ký kết hợp đồng? Nếu có là giao dịch thuê tài
chính
Tất cả các giao dịch thuê tài sản nếu thỏa mãn 1 trong 4 tiêu chuẩn này đều thuộc
phương thức thuê tài chính
Trên cơ sở các tiêu chuẩn phân loại của IASC, mỗi quốc gia đều có qui định cụ thể về
tiêu chuẩn nhận biết thuê tài chính phù hợp với điều kiện cụ thể của nước mình. Ở Việt Nam
ngày 9/10/1995 Chính Phủ ban hành nghị định 64/1995 NĐ – CP về qui chế tạm thời về tổ
chức hoạt động của công ty cho thuê tài chính. Ngày 2/5/2001 Chính Phủ ban hành nghị
định 16/2001/NĐ-CP về tổ chức hoạt động của công ty cho thuê tài chính thay thế nghị định
64.
Ngày 19/5/2005 Chính Phủ tiếp tục ban hành nghị định 65 về sửa đổi bổ sung một số điều
của Nghị định 16. Theo các qui định hiện hành, một giao dịch cho thuê tài chính phải
thỏa mãn một trong các điều kiện sau:
- Khi kết thúc thời hạn cho thuê hợp đồng, bên thuê được chuyển quyền sở hữu tài
sản thuê hoặc được tiếp tục thuê theo sự thỏa thuận của hai bên.
- Nội dung hợp đồng thuế qui định: Khi kết thúc thời hạn thuê bên thuê được
quyền lựa chọn mua tài sản thuê theo giá danh nghĩa thấp hơn giá trị thực tế của tài sản thuê
tại thời điểm mua lại
- Thời hạn cho thuê tài sản tối thiểu phải chiếm phần lớn thời gian sử dụng kinh tế
của tài sản đó cho dù không có sự chuyển giao quyền sở hữu
- Tại thời điểm khởi đầu thuê i sản, giá trị hiện tại của khoản thanh toán tiền thuê
tối thiểu chiếm phần lớn (tương đương) giá trị hợp lý của tài sản thuê.
Sự khác biệt giữa thuê tài chính thuê vận hành
Thứ nhất, thời hạn thuê dài. Tùy theo qui định cụ thể của mỗi nước mà mức thời gian
thuê tài sản tài chính là khác nhau; nhưng nói chung thời gian thuê thường chiếm phần lớn
thời gian sử dụng kinh tế của tài sản. Ví dụ: Ở Mỹ qui định thời hạn thuê tối thiểu là 75%
vòng đời của tài sản. Nhật Bản qui định đối với tài sản có thời gian sử dụng dưới 10 năm thì
thời gian thuê tối thiểu là 70%, với tài sản có thời gian sử dụng trên 10 năm thì thời gian thuê
thừ 60% thời gian hữu dụng của tài sản trở lên.
70
Ở Việt Nam theo nghị định 64/CP thì thời thuê qui định từ 60% trở lên, hiện nay theo
nghị định 65/CP qui định thời gian thuê tài sản tối thiểu phải chiếm phần lớn thời gian sử
dụng kinh tế của tài sản.
Thứ hai, người thuê chịu trách nhiệm bảo dưỡng, sửa chữa, bảo hành tài sản thuê
trong thời gian thuê. Trong suốt thời gian diễn ra hoạt động thuê tài sản, quyền sở hữu tài sản
vẫn thuộc về người cho thuê. Tuy nhiên, các chi phí bảo trì, vận hành, phí bảo hiểm, thuế tài
sản và mọi rủi ro thường do người thuê chịu.
Thứ ba, người thuê không được hủy bỏ hợp đồng trước thời hạn (trừ trường hợp do lỗi
của bên cho thuê)
Thứ tư, khi kết thúc thời hạn hợp đồng thuê, bên thuê được chuyển giao quyền sở hữu,
mua lại hoặc tiếp tục thuê tài sản đó theo các thỏa thuận trong hợp đồng thuê
Thứ năm, tổng số tiền thuê người đi thuê phải trả cho thuê thường đủ đắp giá
gốc của tài sản. Luật của Mỹ, Anh, Nhật Bản qui định: giá trị hiện tại của số tiền thuê tối
thiểu bằng 90% giá trị ban đầu của tài sản thuê. Việt Nam qui định tại thời điểm khởi đầu
thuê tài sản, giá trị hiện tại của khoản thanh toán tiền thuê tối thiểu chiếm phần lớn (tương
đương) giá trị hợp lý của tài sản thuê. Giá trị hợp lý hoặc giá trị hiện tại của khoản thanh toán
tiền thuê tối thiểu là giá chưa có thuế giá trị tăng (Kể cả trường hợp tài sản cố định thuê tài
chính dùng vào hoạt động động sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thuộc đối tượng chịu
thuế giá trị gia tăng tính theo phương pháp khấu trừ thuế và trường hợp tài sản cố định thuê
tài chính dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thuộc đối tượng không
chịu thuế giá trị gia tăng hoặc chịu thuế giá trị gia tăng theo phương pháp trực tiếp).
Thông thường trong khoản tiền thuê mà người thuê trả cho người cho thuê theo định
kỳ bao gồm tiền vốn gốc, tiền lãi tín dụng, chi phí quản lý và phần lợi nhuận hợp lý. Do vậy,
nếu xét theo góc độ người thuê thì thuê tài chính là một hình thức vay trung hạn hoặc dài
hạn; còn theo góc độ người cho thuê, thì đây là hình thức tài trợ tín dụng.
Những điểm lợi của thuê tài chính
Thứ nhất, thuê tài chính công cụ tài chính giúp doanh nghiệp tăng thêm vốn trung
dài hạn để mở rộng hoạt động kinh doanh.
Sử dụng hình thức thuê tài chính giúp cho doanh nghiệp không phải huy động tập
trung tức thời một lượng vốn lớn để mua tài sản; do vậy với số vốn hạn chế doanh nghiệp
vẫn có khả năng mở rộng hoạt động kinh doanh. Mặt khác, việc sử dụng hình thức bán và tái
thuê có thể giúp cho doanh nghiệp tăng thêm vốn lưu động.
Thứ hai, sử dụng phương thức thuê tài chính giúp doanh nghiệp (nhất các doanh
nghiệp vừa nhỏ) dễ dàng trong việc huy động vốn sử dụng vốn vay.
Do đặc thù của thuê tài chính là người cho thuê không đòi hỏi người đi thuê là phải thế
chấp tài sản (mặc thể trả trước một tỷ lệ tiền thuê ban đầu). Đây ưu thế rất lớn của
71
thuê tài chính so với tín dụng thông thường. Điều y ý nghĩa rất lớn đối với các doanh
nghiệp mới thành lập chưa có nhiều uy tín với ngân hàng trong việc huy động các nguồn vốn
tín dụng đáp ứng nhu cầu mở rộng kinh doanh.
Thứ ba, giúp doanh nghiệp thực hiện nhanh chóng dự án đầu nắm bắt các thời
trong kinh doanh
Trong phương thức thuê tài chính, người thuê quyền chọn tài sản thiết bị thỏa
thuận trước hợp đồng thiết bị với nhà sản xuất hay người cung ứng, sau đó mới yêu cầu bên
cho thuê (công ty cho thuê tài chính) tài trợ, vì vậy sẽ rút ngắn thời gian tiến hành đầuvào
tài sản thiết bị. Mặt khác, các công ty cho thuê tài chính thường mạng lưới tiếp thị, đại
rộng rãi và đội ngũ chuyên gia có trình độ chuyên sâu về thiết bị, công nghệ nên có thể
vấn hữu ích cho bên đi thuê về thuật, công nghệ người thuê cần sử dụng, đảm bảo các
tài sản thuê phát huy tác dụng cao nhất trong hoạt động kinh doanh.
Thứ tư, giúp doanh nghiệp đi thuê nhanh chóng đổi mới thiết bị công nghệ
Thông thường các tài sản cố định thuê tài chínhthời gian thu hồi vốn trong khoảng
thời gian từ 60-70% thời gian sử dụng hữu ích của tài sản. Điều này tạo điều kiện để các
doanh nghiệp đi thuê thể thu hồi vốn nhanh, phục vụ kịp thời nhu cầu đổi mới máy móc
thiết bị, nâng cao không ngừng hiệu quả và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp.
Thứ năm, giúp doanh nghiệp thể hoãn thuế thu nhập
Với việc doanh nghiệp được phép khấu hao nhanh đồng thời chi phí khấu hao được
tính thẳng vào chi phí hoạt động kinh doanh làm giảm lợi nhuận trước thuế của doanh nghiệp,
đồng thời thuế thu nhập trong thời hạn thuê sẽ giảm đi. Sau khi kết thúc thời gian thuê, bên
cho thuê chuyển giao máy móc thiết bị với giá tượng trưng rất nhỏ, bên thuê vẫn tiếp tục s
dụng được tài sản trong một thời gian nữa trong khi không phải khấu hao hoặc khấu hao với
tỷ lệ rất thấp, lúc này lợi nhuận doanh nghiệp tăng lên, thuế thu nhập nộp ngân sách nhà nước
cũngng lên. Như vậy doanh nghiệp đã được lợi nhiều bởi được hoãn thuế thu nhập doanh
nghiệp.
Thứ sáu, thuê tài chính khả năng thu hút nguồn vốn lớn từ bên ngoài thông qua
việc vay vốn nhập khẩu máy móc thiết bị
Các doanh nghiệp khi muốn mua máy móc thiết bị của nước ngoài theo phương thức
trả chậm thường phải đáp ững nhu cầu của nhà cung cấp phải một Ngân ng uy tín
đứng ra bảo lãnh. Đây là điều kiện không dễ thực hiện đối với doanh nghiệp. Tuy nhiên, nếu
thông qua công ty cho thuê tài chính thì việc y được giải quyết một cách dễ dàng hơn.
Ngoài ra việc thu hút nguồn vốn từ bên ngoài dưới hình thức mua máy móc thiết bị thông qua
công ty cho thuê tài chính sẽ hạn chế được việc nhập các thiết bị lạc hậu, do có sự thẩm định
của các chuyên gia trong công ty cho thuê tài chính.
72
Ngoài ra với việc xác định thời hạn thanh toán linh hoạt hơn so với các ngân hàng: Có
thể trả theo từng tháng, hoặc theo mùa vụ phù hợp với chu chuyển tiền tệ của doanh nghiệp,
giúp doanh nghiệp đỡ căng thẳng về mặt tài chính, yên tâm hơn trong việc tiến hành sản xuất
kinh doanh.
Những điểm hạn chế của thuê tài chính
Thuê tài chính một phương thức tài trợ tín dụng trung dài hạn, vậy
cũng bộc lộ hạn chế đó doanh nghiệp đi thuê phải chịu chi phí sử dụng vốn mức tương
đối cao so với tín dụng thông thường. Ngoài ra, do thời hạn thuê dài và không được phép hủy
ngang hợp đồng,vậy bên thuê có thể gánh chịu nhiều rủi ro về tài chính (sự biến động của
tỷ giá hối đoái, về lạm phát, về lãi suất...); bên cạnh đó là các rủi ro về tài sản (sự tiến bộ của
khoa học kỹ thuật, sự kết thúc chu kỳ sống của sản phẩm), sự biến động của chế chính
sách của Nhà nước.
4.4. Lựa chọn hình nguồn tài tr
- hình 1: Toàn bộ tài sản cố định, tài sản lưu động thường xuyên một phần tài
sản lưu động tạm thời được hình thành bởi nguồn vốn thường xuyên, phần tài sản lưu động
tạm thời còn lại được đảm bảo bằng nguồn vốn tạm thời.
Ưu điểm của việc tổ chức nguồn vốn theo hình này đưa lại cho các doanh
nghiệp khả năng thanh toán độ an toàn mức cao. Nguồn vốn thường xuyên đảm bảo
phần lớn nhu cầu vốn, tạo ra sự ổn định cho doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh, tạo
điều kiện cho doanh nghiệp thực hiện tốt nguyên tắc giữ chữ tín trong các quan hệ thanh toán.
Tuy nhiên nhược điểm của việc sử dụng hình này ngoài nguồn vốn chủ sở hữu,
doanh nghiệp phải huy động thêm nhiều vốn vay dài hạn và ngay cả khi không có nhu cầu về
tài sản lưu động tạm thời cũng phải hoàn thành một lượng nguồn vốn thường xuyên nên chi
phí sử dụng vốn sẽ cao.
- hình 2: Toàn bộ tài sản cố định và tài sản lưu động thường xuyên được đảm bảo
bằng nguồn vốn thường xuyên, toàn bộ tài sản lưu động tạm thời được đảm bảo bằng nguồn
vốn tạm thời.
Ưu điểm của cách tổ chức nguồn vốn này làm giảm bớt được chi phí sử dụng vốn
hạn chế được rủi ro trong thanh toán. Nhưng nhược điểm lớn của việc sử dụng hình này
không tạo ra sự linh hoạt trong việc tổ chức cấu nguồn vốn của doanh nghiệp. Trong
thực tế kinh doanh, doanh thu tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp thường xuyên biến động,
khi gặp những khó khăn nhất định doanh nghiệp tạm thời pphải giảm bớt quy mô kinh doanh,
trong đó vẫn phải duy trì một lượng vốn thường xuyên khá lớn, do vậy hình này ít được
sử dụng.hình này chỉ nên áp dụng khi doanh nghiệpquy mô kinh doanh tương đối ổn
định.
73
- hình 3: Toàn bộ tài sản cố định và một phần tài sản lưu động thường xuyên được
đảm bảo bằng nguồn vốn thường xuyên, phần còn lại của tài sản lưu động thường xuyên
toàn bộ tài sản lưu động tạm thời được đảm bảo bằng nguồn vốn tạm thời.
Ưu điểm lớn của hình này chi phí sử dụng vốn thấpn cả so với hai hình
trên việc tổ chức cấu nguồn vốn cũng khá linh hoạt. Song nếu sdụng hình doanh
nghiệp dễ gặp rủi ro hơn so với việc sử dụng hai mô hình trên.
Thông thường, các doanh nghiệp không chỉ theo một hình tuỳ tình hình cụ thể
bên trong và bên ngoài doanh nghiệp trong thời kỳ để có thể điều chỉnh một cách thích hợp.
Trong cả ba hình tài trợ vốn nêu trên, doanh nghiệp đều phải sử dụng nguồn vốn
tạm thời để đáp ứng một phần hoặc toàn bộ nhu cầu về vốn lưu động.
Nguồn vốn này bao gồm các khoản vay ngắn hạn ngân hàng các tổ chức tín dụng,
các khoản nợ người cung cấp, nợ tiền lương và bảo hiểm xã hội người lao động, các khoản nợ
thuế, lệ phí đối với ngân sách nhà nước các khoản nợ phải trả khác tính chất ngắn
hạn…
Việc sử dụng các khoản tín dụng ngắn hạn trong nguồn vốn tạm thời để đảm bảo nhu
cầu về vốn lưu động có những điểm lợi và bất lợi sau đây:
- Điểm lợi của việc sử dụng tín dụng ngắn hạn:
+ Chi phí sử dụng tín dụng ngắn hạn thấp hơn so với việc sử dụng tín dụng dài hạn.
+ Việc sử dụng tín dụng ngắn hạn có thể giúp doanh nghiệp linh hoạt hơn trong việc tổ
chức nguồn vốn thôgn thường được thực hiện dễ dàng, thuận lợi so với sử dụng tín dụng
dài hạn.
- Điểm bất lợi của việc sử dụng tín dụng ngắn hạn:
+ Lãi suất ngắn hạn thay đổi nhiều hơn lãi xuất dài hạn nên doanh nghiệp thường phải
chịu rủi ro về lãi suất cao hơn.
+ Nếu sử dụng tín dụng ngắn hạn đòi hỏi doanh nghiệp phải trả nợ trong thời igan
ngắn, hoặc nếu dùng nợ ngắn hạn để đảm bảo hco nhu cầu đầu dài hạn sẽ tạo thêm rủi ro
cho doanh nghiệp, dễ làm cho doanh nghiệp rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán khi
tình hình kinh doanh gặp khó khăn.
74
Chương 5 : CHI PHÍ SỬ DỤNG VỐN HỆ THỐNG ĐÒN BẨY
5.1. Chi phí sử dụng vốn của doanh nghiệp
5.1.1. Khái niệm, đặc điểm của chi phí sử dụng vốn
5.1.1.1. Khái niệm
Để đáp ứng nhu cầu vốn cho đầu tư và hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp có thể huy
động sử dụng nhiều nguồn vốn hay nói khác đi là nhiều nguồn tài trợ khác nhau như vay vốn,
phát hành cổ phiếu ưu đãi, cổ phiếu thường (đối với công ty cổ phần)... Đối với nhà đầu tư,
khi cho doanh nghiệp sử dụng vốn người ta sẽ mất hội sử dụng số vốn này vào các hội
đầu khác, điều đó cũng đồng nghĩa mất đi một khoản thu nhập nhà đầu thể
nhận được từ hội khác đó. Khi đó, Nhà đầu sẽ đòi hỏi một mức sinh lời khi đầu vốn
cho doanh nghiệp. Nhìn từ góc độ doanh nghiệp là người sử dụng vốn, tỷ suất sinh lời đòi hỏi
của nhà đầu tư chính là chi phí sử dụng vốn.
Chi phí sử dụng vốn là tỷ suất sinh lời đòi hỏi của nhà đầu tư đối với số vốn mà doanh
nghiệp huy động cho một dự án đầu tư hay một kế hoạch kinh doanh nhất định.
Về bản chất, chi phí sử dụng vốn chính là chi phí cơ hội của nhà đầu tư vốn.
5.1.1.2. Đặc điểm của chi phí sử dụng vốn
- Thứ nhất: Chi phí sử dụng vốn dựa trên các quy luật của thị trường. Trong nền kinh
tế thị trường, vốn một loại hàng hóa được mua bán trên thị trường. Nếu như doanh
nghiệp s dụng vốn không tạo ra được mức sinh lời như đòi hỏi của thị trường, thì các
nhà đầu tư sẽ không đầu tư vốn vào doanh nghiệp. Nói cách khác, chi phí sử dụng vốn không
phải do chủ quan của doanh nghiệp quyết định mà nó được hình thành trên cơ sở các quy luật
của thị trường.
- Thứ hai: Chi phí sdụng vốn được xem xét trên cở sở mức độ rủi ro của một dự án
đầu cụ thể. Thông thường, khi dự án đầu rủi ro cao, thì tỷ suất sinh lời đòi hỏi của
nhà đầu tư càng cao do đó chi phí sử dụng vố sẽ cao và ngược lại.
- Thứ ba: Chi phí sử dụng vốn thường được phản ánh bằng tỷ lệ %. Điều này để đảm
bảo tính so sánh được của chi phí sử dụng vốn giữa các dự án, giữa các doanh nghiệp, giữa
chi phí và mức sinh lời của dự án để ra quyết định tài chính.
- Thứ tư: Chi phí sử dụng vốn phản ánh mức lãi suất danh nghĩa mà nhà đầu tư đòi hỏi
đối với số vốn khi họ đầu tư vào doanh nghiệp dưới dạng cho doanh nghiệp vay vốn hay góp
75
vốn. Điều này nghĩa chi phí sử dụng vốn đã bao hàm cả mức lạm phát mức lãi
suất thực mà nhà đầu tư đòi hỏi.
- Thứ năm: Chi phí sử dụng vốn phản ánh mức sinh lời đòi hỏi của nhà đầu hiện
tại chứ không phải dựa trên đòi hỏi của nhà đầu tư trong quá khứ. Vì việc ước tính chi phí sử
dụng vốn để đưa ra các quyết định tài chính trong tương lai, do đó không cần ước lượng chi
phí sử dụng vốn cho những đồng vốn đã huy động trong quá khứ.
5.1.1.3. Tác dụng của việc xác định chi phí sử dụng vốn
Việc xem t ước lượng chi phí sử dụng vốn vấn đề rất quan trọng đối với các
nhà quản trị tài chính doanh nghiệp. Chi phí sử dụng vốn được sử dụng chủ yếu để ra quyết
định liên quan đến việc huy động thêm vốn mới cho dự án đầu tư. vậy, chúng ta phải
nghiên cứu chi phí cận biên cho số vốn mới (thực chất chi phí sử dụng vốn bình quân cho
một đồng vốn mới tăng thêm) để lựa chọn quy mô vốn huy động tối ưu. Ngoài ra, xem xét chi
phí sử dụng vốn tạo ra tầm nhìn cho nhà quản khi cân nhắc lựa chọn chiến lược huy động
vốn dài hạn của doanh nghiệp. Do đó, khi ước lượng chi phí sử dụng vốn, người ta thường
chỉ xem xét đến những nguồn tài trợ dài hạn.
luận thực tiễn đã chứng minh các khó khăn trong ước lượng chi phí sử dụng
vốn, bởi lẽ phụ thuộc vào khá nhiều yếu tố: tính mạo hiểm của việc sử dụng vốn, lãi suất
của các khoản nợ phải trả, cấu trúc tài chính của doanh nghiệp, chính sách phân phối lợi
nhuận... vậy, khi ước lượng chi phí sử dụng vốn cần một tầm nhìn phải lượng hoá
chi phí bình quân của tất cả các nguồn tài trợ.
5.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến chi phí sử dụng vốn
Có nhiều nhân tố khác nhau ảnh hưởng đến chi phí sử dụng vốn của doanh nghiệp.
* Nhóm nhân tố khách quan:
- Lãi suất thị trường: Khi lãi suất thị trường mức cao thì tỷ suất sinh lời đòi hỏi của
các nhà đầu tư cũng cao, do đó chi phí sử dụng vốn của doanh nghiệp cũng cao và ngược lại.
- Chính sách thuế thu nhập: Do lãi vay được tính vào chi phí làm giảm trừ khoản thu
nhập chịu thuế, dẫn đến giảm số thuế thu nhập mà doanh nghiệp phải nộp. Vì vậy, lãi vay đưa
lại khoản lợi về thuế, nếu thuế suất cao khoản lợi về thuế lớn làm giảm chi phí sử dụng vốn
vay và ngược lại.
* Nhóm nhân tố chủ quan
- Chính sách đầu tư: Nếu công ty thực hiện chính sách đầu vào những tài sản
mức độ rủi ro cao thì tỷ suất sinh lời đòi hỏi của các nhà đầu tư cũng cao và ngược lại. Do đó,
cũng làm cho chi phí sử dụng vốn thay đổi.
- Chính sách tài trợ: Khi doanh nghiệp huy động vốn vay nhiều sẽ làm tăng rủi ro tài
chính đối với khoản vốn của các nhà đầu tư, điều đó kéo theo sự gia tăng chi phí sử dụng vốn
của doanh nghiệp.
76
- Chính sách cổ tức: Chính sách cổ tức của công ty quyết định quy lợi nhuận tái
đầu nhiều hay ít. Nếu tái đầu nhiều, doanh nghiệp hạn chế phải huy động vốn từ n
ngoài có chi phí sử dụng vốn cao hơn.
5.1.3. Chi phí sử dụng vốn của từng nguồn vốn
Mỗi nguồn vốn doanh nghiệp sử dụng đặc điểm khác nhau chi phí khác
nhau. Sau đây sẽ xem xét chi phí sử dụng vốn của từng nguồn vốn riêng biệt.
5.1.3.1. Chi phí sử dụng vốn vay
Một trong ưu thế của việc sử dung vốn vay so với các nguồn tài trợ bên
ngoài khác tiền lãi vay phải trả được trừ ra trước khi tính thuế thu nhập. Do
đó, khi xác định chi phí sử dụng vốn vay phải chia ra 2 trường hợp chi phí sử
dụng vốn vay trước thuế và chi phí sử dụng vốn vay sau thuế.
* Chi phí sử dụng vốn vay trước thuế
Chi phí sử dụng vốn vay trước thuế tỷ suất sinh lời đòi hỏi của nhà đầu
cho vay (Chủ nợ) chưa tính đến ảnh hưởng của thuế thu nhập doanh
nghiệp phải nộp. Lãi suất vay vốn chính là chi phí sử dụng vốn vay trước thuế.
Gọi D là vốn vay
- r
d
là chi phí sử dụng vốn vay trước thuế thu nhập doanh nghiệp.
- C
i
tiền (gốc lãi) trả cho chủ nợ (i = 1
n) Thì:
Bằng phương pháp nội suy, chúng ta có thể xác định được r
d
* Chi phí sử dụng vốn vay sau thuế
Theo Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, lãi vay được coi một khoản chi phí làm
giảm trừ thu nhập chịu thuế, trong khi cổ tức phải trả cho cổ phiếu ưu đãi, cổ tức trả cho cổ
đông thường không được hưởng "đặc ân" này. Do đó để có cơ sở đồng nhất nhằm so sánh chi
phí sử dụng các nguồn vốn khác nhau, người ta thường đưa chúng về cùng một mặt bằng
chung. Mặt bằng thường được lựa chọn là đưa về sau thuế.
Vì vậy có thể tính lại chi phí sử dụng vốn vay theo công thức sau:
Chi phí sử dụng
vốn vay sau thuế
= r
d
x {1 – Thuế suất thuế TNDN}
Như vậy, thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp làm giảm đáng kể chi phí sử dụng vốn
vay và chi phí sử dụng nợ vay tỷ lệ thuận với thuế suất thuế thu nhập.
5.1.3.2. Chi phí sử dụng vốn từ cổ phiếu ưu đãi
77
Như phần trên đã nêu, cổ phiếu ưu đãi nhíều loại, tuy nhiên loại cổ phiếu ưu đãi
thường được các công ty nhiều nước sử dụng loại cổ phiếu ưu đãi cổ tức. Loại cổ phiếu
ưu đãi này một loại chứng khoán lai ghép giữa cổ phiếu thường trái phiếu. Chủ sở hữu
cổ phiếu ưu đãi được nhận cổ tức cố định và không có quyền biểu quyết. Những đặc điểm đó
làm cho cổ phiếu ưu đãi gần giống với trái phiếu. Nhưng ctức của cổ phiếu ưu đãi không
được tính trừ vào thu nhập chịu thuế của công ty lại làm cho giống như cổ phiếu thường.
Nhưng điểm đặc biệt lưu ý cổ phiếu ưu đãi chỉ nhận được tiền lãi cố định
hàng năm, không được hưởng suất tăng trưởng của lợi nhuận. Do đó:
Nếu ta gọi P
0
giá thị trường hiện hành của cổ phiếu ưu
đãi. e là tỷ lệ chi phí phát hành
d là cổ tức một cổ phiếu ưu đãi.
Thì chi phí sử dụng cổ phiếu ưu đãi r
p
được xác định như sau:
5.1.3.3. Chi phí sử dụng lợi nhuận để lại
Công
ty
cổ
phần
cũng
như
các
doanh
nghiệp
khác
thể
sử
dụng
một
phần lợi nhuận sau thuế để lại tái đầu tư. Đây là nguồn vốn chủ sở hữu nội sinh của công ty.
Xét về mặt kế toán, khi doanh nghiệp giữ lại lợi nhuận để tái đầu thì
doanh nghiệp không phải trả một khoản chi phí nào cho việc sử dụng nguồn vốn
này. Tuy nhiên, trên c độ tài chính phải tính đến chi phí hội của số lợi
nhuận giữ lại cho nhà đầu tư (là chủ sở hữu).
Lợi nhuận sau thuế của công ty sau khi trả cổ tức cho cổ đông ưu đãi (nếu
có) thuộc quyền sở hữu của cổ đông thường. Cổ đông thể nhận toàn bộ số lợi
nhuận đó dưới hình thức cổ tức sau đó thể sử dụng số tiền cổ tức nhận
được để đầu vào nơi khác hoặc theo một cách khác, cổ đông nhận một phần
lợi nhuận sau thuế dưới hình thức cổ tức, còn một phần để lại công ty để tái đầu
tư. Vậy, vấn đề đặt ra khi nào cổ đông thể chấp nhận để lại lợi nhuận để i
đầu tư?
Nếu công ty quyết định sử dụng lợi nhuận để lại tái đầu thì công ty cần
phải đảm bảo đạt được tỷ suất sinh lời tối thiểu bằng tỷ suất sinh lời cổ đông
thể thu được khi sử dụng số tiền đó đầu vào nơi khác với mức độ rủi ro
tương đương với mức rủi ro hiện tại của công ty.
78
Từ đó thể rút ra, chi phí sử dụng lợi nhuận để lại tái đầu tỷ suất
sinh lời đòi hỏi của cổ đông đối với cổ phần thường của công ty.
- Ước lượng chi phí sử dụng lợi nhuận để lại tái đầu .
ba phương pháp chủ yếu ước lượng chi phí sử dụng lợi nhuận để lại tái
đầu tư:
+ Phương pháp theo mô hình tăng trưởng cổ tức.
Đây một phương pháp thường được sử dụng. Theo hình tăng trưởng
cổ tức, giá cổ phiếu thường giá trị hiện tại của dòng cổ tức nhà đầu kỳ
vọng thu được ở tương lai và được xác định theo công thức sau:
Trong đó:
- P
o
: Giá thị trường hiện hành của cổ phiếu thường.
- d
t
: Cổ tức dự tính nhận được trong năm thứ t.
- r
e
: Tỷ suất sinh lời đòi hỏi của cổ đông đối với cổ phần thường.
Trường hợp giả định cổ tức tăng đều đặn hàng năm với tốc độ tăng trưởng
là g thì giá cổ phiếu được xác định bằng công thức:
Trong đó: + d1 là cổ tức dự tính nhận được ở năm thứ 1
+ g là tốc độ tăng trưởng cổ tức đều đặn hàng năm dự tính.
Từ công thức trên, có thể suy ra tỷ suất sinh lời đòi hỏi của cổ đông và cũng chính là chi phí
sử dụng lợi nhuận để lại được xác định theo công thức sau:
79
Cách xác định chi phí sử dụng lợi nhuận để lại như trên đã nêu được gọi phương
pháp theo hình tăng trưởng cổ tøc hay phương pháp chiết khấu dòng tiền (DCF). Trong
phương pháp này, việc xác định tốc độ tăng trưởng cổ tức đều đặn hàng năm (g) trong tương
lai là vấn đề không đơn giản. Thông thường, đối với các công ty mà việc trả cổ tức không có
sự tăng, giảm đột biến các nhà đầu dựa vào tình hình và số liệu trả cổ tức trong những năm
đã qua để xác định tốc độ tăng trưởng cổ tức bình quân từ đó dự kiến cho tương lai. Đối với
các
công
ty
cổ
tức
trả
không
ổn
định
phải
xem
xét
kỹ
đồng
thời
tham
khảo ý kiến dự báo của các nhà phân tích chứng khoán để dự tính.
dụ: về c định chi phí sử dụng lơị nhuận để lại: Giá hiện hành 1 cổ
phiếu
thường
trên
thị
trường
của
công
ty A
23.000đ,
cổ
tức
kỳ
vọng
trong
năm tới 1.240đ/cổ phần tốc độ tăng cổ tức trong những năm sắp tới
8%/năm, Công ty dự định trong năm tới dành 40% lợi nhuận sau thuế để lại i
đầu tư. Vậy, chi phí sử dụng lợi nhuận để lại là:
13,4%
tỷ
suất
sinh
lời
cổ
đông
đòi
hỏi
cũng
tỷ
suất
sinh
lời
tối
thiểu cần phải đạt được khi công ty quyết định giữ lại một phần lợi nhuận để tái
đầu tư.
Sử
dụng
phương
pháp
theo
hình
tăng
trưởng
cổ
tức
để
xác
định
chi
phí sử dụng lợi nhuận để lại tái đầu tư có những ưu điểm, hạn chế chủ yếu sau:
Ưu điểm: Phương pháp này dễ hiểu và dễ sử dụng.
Hạn chế: Phương pháp y chỉ thể áp dụng cho những công ty cổ phần
trả cổ tức cổ tức không sự tăng, giảm đột biến; Chi phí sử dụng lợi
nhuận để lại xác định theo phương pháp này rất nhạy cảm với tốc độ tăng trưởng
cổ tức ước định (g); Phương pháp này cũng không cho thấy một cách dàng tác
động của yếu tố rủi ro đến chi phí sử dụng vốn của công ty.
+ Phương pháp mô hình định giá tài sản vốn (phương pháp CAPM).
80
hình định giá tài sản vốn cho thấy mối quan h giữa tỷ suất sinh lời
nhà đầu đòi hỏi và mức rủi ro, do vậy thể sử dụng phương pháp
CAPM để xác định chi phí sử dụng lợi nhuận để lại thể xác định theo công
thức sau:
r
e
: Tỷ suất sinh lời đòi hỏi của nhà đầu tư đối với lợi nhuận giữ lại.
R
f
:
Tỷ
suất
sinh
lời
(hay
lãi
suất)
phi
rủi
ro,
thường
được
tính
bằng
lãi
suất trái phiếu của Chính phủ.
R
m
: Tỷ suất sinh lời kỳ vọng thị
trường. β
i
: Hệ số rủi ro của cổ phần
công ty i
dụ: lãi suất phi rủi ro (R
f
)là 8%, tỷ suất sinh lời thị trường (R
m
)
13%, hệ số rủi ro đối với c phiếu của công ty X được xác định 1,2. Vậy, tỷ
suất sinh lời đòi hỏi của nhà đầu hay cổ đông đối với cổ phần của công ty X
là :
r
e
= 8% + 1,2.(13% - 8% ) = 14%
14% cũng là chi phí sử dụng lợi nhuận để lại tái đầu tư của công ty X.
Áp dụng phương pháp CAPM để xác định chi phí sử dụng lợi nhuận để lại tái đầu
ưu điểm chủ yếu sau: phương pháp này cho thấy tác động của
rủi ro đến chi phí sử dụng vốn một cách ràng, mặt khác phương pháp này có
thể áp dụng cho c các công ty trả cổ tức ổn định hay không ổn định cũng
nghĩa thể sử dụng cho nhiều tình huống hơn. Tuy vậy, phương pháp này
cũng một số hạn chế: việc sử dụng phương pháp nay đòi hỏi phải ước định
mức rủi ro thị trường hệ số rủi ro cổ phiếu của công ty. Đây vấn đề
không đơn giản, n nữa các yếu tố này thường thay đổi theo thời gian. Mặt
khác,
cũng
giống
như
phương
pháp
theo
hình
tăng
trưởng
cổ
tức,
khi
sử
dụng phương pháp CAPM dựa vào quá khứ để dự đoán tương lai. Hiện nay,
các điều kiện của nền kinh tế thay đổi rất nhanh, thế quá khứ không phải luôn
luôn là sự chỉ dẫn tốt cho tương lai.
+ Phương pháp theo lãi suất trái phiếu cộng thêm mức bù rủi ro.
sở chủ yếu của phương pháp này thể hiện chỗ: Người đầu vào trái
phiếu công ty sẽ chịu rủi ro ít hơn so với cổ đông người đầu vào cổ phiếu
của công ty, do vậy tỷ suất sinh lời đòi hỏi của cổ đông thể xác định bằng
cách
lấy
lãi
suất
trái
phiếu
của
công
ty
cộng
thêm
một
mức
rủi
ro.
Như
vậy,
81
công ty rủi ro cao thì lãi suất trái phiếu của công ty cũng mức cao hiển
nhiên mức bù rủi ro đòi hỏi của cổ đông cũng cao hơn, từ đó có thể rút ra:
Chi phí sử dụng LN để lại = Lãi suất trái phiếu + Mức bù rủi ro tăng thêm
Lãi suất trái phiếu được xác định là lãi suất đáo hạn của trái phiếu (YTM).
Ở Mỹ, mức bù rủi ro tăng thêm theo các nhà kinh tế là khoảng từ 3% - 5%.
dụ: công ty c phần X vừa phát hành 1 loại trái phiếu lãi suất cố
định 9%/năm, mỗi năm trả lãi 1 lần cuối mỗi m, thời hạn 5 năm. Mức
rủi ro tăng thêm được xác định 4%. Vậy, chi phí sử dụng lợi nhuận để lại sẽ
là: re = 9% +4% = 13%
Nhìn
chung,
phương
pháp
này
ưu
điểm
dễ
hiểu,
cũng
cho
thấy
mối líên hệ giữa rủi ro và chi phí sử dụng vốn, tuy nhiên hạn chế chủ yếu chỗ,
phương pháp này mang tính chủ quan khá cao trong việc xác định mức rủi ro
tăng thêm.
Trên đây 3 phương pháp chủ yếu xác định chi phí sử dụng lợi nhuận để
lại tái đầu tư. Xem xét rộng n cũng thể thấy rằng, trong trường hợp muốn
xác định chi phí s dụng cổ phần thường hiện hành của công ty thì chi phí sử
dụng cổ phần thường hiện hành cũng chính tỷ suất sinh lời đòi hỏi của cổ
đông đối với cổ phần thường hiện hành mà công ty đang sử dụng.
5.1.3.4. Chi phí sử dụng vốn từ cổ phiếu thường mới
Nếu như mua trái phiếu, nhà đầu xác định ngay tiền lãi sẽ nhận được,
còn đầu vào việc mua cổ phiếu thường thì tiền lãi (cổ tức) lại phụ thuộc vào
kết qu
kinh doanh của công ty. Mặt khác
khi công ty giải thể
(hoặc
phá sản)
tiền mua trái phiếu sẽ được thanh toán trước tiền mua cổ phiếu thường. vậy
đầu vào cổ phiếu thường sẽ mức độ mạo hiểm cao hơn đầu vào trái
phiếu.
Khi
phát
hành
cổ
phiếu
thường
mới
sẽ
phát
sinh
chi
phí
phát
hành.
Chi
phí phát hành bao gồm: chi phí in ấn, quảng cáo, chi phí bảo lãnh phát hành, chi
phí hoa hồng, môi giới...
vậy số vốn doanh nghiệp được sử dụng cho đầu bằng giá thị trường
hiện hành của cổ phiếu thường trừ đi chi phí phát hành.
Gọi
P
0
là giá thị trường hiện hành của cổ phiếu thường
e là tỷ lệ chi phí phát hành, khi đó giá ròng = P
0
(1-e)
d
1
: là cổ tức một cổ phiếu thường dự kiến năm thứ
nhất
g là tốc độ tăng trưởng cổ tức kỳ vọng (giả thiết tăng trưởng đều).
82
r
s
là chi phí sử dụng vốn cổ phần thường mới
Chú ý: Xác định tốc độ tăng trưởng cổ tức kỳ vọng (g).k là tỷ lệ lợi nhuận tái đầu tư.
ROE0: Tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu kỳ trước
g = ROE
0
x k
5.1.4. Chi phí sử dụng vốn bình quân
Mỗi nguồn vốn chi phí sử dụng khác nhau, thông thường doanh nghiệp
phải phối hợp huy động vốn cho đầu từ nhiều nguồn vốn khác nhau. Do vậy
cần thiết
phải
tính chi
phí sử dụng vốn
bình quân. Chi phí
sử dụng vốn
bình
quân được xác định theo phương pháp bình quân gia quyền quyền số tỷ
trọng các nguồn vốn trong tổng vốn doanh nghiệp huy động. Chi phí sử dụng
vốn bình quân trong doanh nghiệp phụ thuộc vào 2 yếu tố: Chi phí sử dụng của
từng nguồn vốn và tỷ trọng của từng nguồn vốn.
Gọi WACC là chi phí sử dụng vốn bình
quân W
k
tỷ trọng nguồn vốn k (k = 1÷n)
5.1.5. Chi phí cận biên về sử dụng vốn
Khi doanh nghiệp huy động tăng thêm vốn sẽ làm gia tăng rủi ro cho nhà
đầu tư, nên nhà quản trị phải xác định chi phí cho mỗi đồng vốn tăng thêm, qua
đó, để lựa chọn quy vốn tối ưu cho viêc thực hiện dự án đầu tư. chỉ những
đồng vốn nào chi phí sử dụng vốn cận biên thấp hơn tỷ suất sinh lời của dự
án đầu tư thì sẽ được chấp thuận.
+ Khái niệm: Chi phí cận biên sử dụng vốn là chi phí của đồng vốn mới huy động tăng
thêm cho hoạt động đầu tư của doanh nghiệp.
Thực chất chi phí cận biên chi phí bình sử dụng vốn bình quân cho mỗi
đồng vốn mới tăng thêm trong cùng thời kỳ.
+ Xác định điểm gãy của đường chi phí cận biên
Mỗi doanh nghiệp đều lựa chọn một cấu vốn phù hợp với đặc điểm sản
xuất, sản phẩm, mức độ mạo hiểm... Một kết cấu vốn như vậy gọi kết cấu vốn tối ưu. Kết
83
cấu vốn tối ưu một kết cấu an toàn về mặt i chính chi phí
sử dụng vốn thấp nhất. Nhưng trong thực tế khi nhu cầu đầu mới, do nhu
cầu vốn đầu tăng lên chi phí sử dụng các nguồn vốn cũng thể thay đổi, do
đó chi phí sử dụng vốn bình quân cũng thay đổi. Thông thường bắt đầu doanh
nghiệp sẽ tìm kiếm những nguồn vốn chi phí sử dụng thấp nhất, sau đó mới
tới những nguồn vốn chi phí sử dụng cao hơn. Chính vậy, khi doanh nghiệp
huy
động
thêm
những
đồng
vốn
mới,
chi
phí
của
mỗi
đồng
vốn
tại
một
thời
điểm nào đó sẽ tăng lên.
Tại thời điểm giới hạn từ đó chi phí sử dụng vốn mới bắt đầu tăng lên
được gọi điểm gãy của chi phí sử dụng vốn.
Điểm gãy (BP) được xác định
theo công thức:
Đối
với
một
doanh
nghiệp
khi
liên
tục
huy
động
thêm
những
đồng
vốn
mới với chi phí sử dụng khác nhau thể nhiều điểm gãy. thể minh hoạ
chi phí sử dụng vốn bình quân và các điểm gãy trên đồ thị.
Việc
nghiên
cứu
chi
phí
sử
dụng
vốn
bình
quân
nói
chung,
chi
phí
sử
dụng vốn nói riêng ý nghĩa rất lớn đối với doanh nghiệp. Bởi nói giúp cho
các nhà tài chính thêm các n cứ xác đáng để ra quyết định lựa chọn dự án
đầu tư. Còn việc nghiên cứu chi phí cận biên sẽ căn cứ để lựa chọn quy
vốn tối ưu để thực hiện đầu tư.
84
5.2. Hệ thống đòn bẩy rủi ro của doanh nghiệp
Trong tài chính, đòn bẩy được coi công cụ doanh nghiệp thể sử
dụng để gia tăng lợi nhuận. Các đòn bẩy các nhà quản trị tài chính thường sử
dụng đòn bẩy kinh doanh đòn bẩy tài chính. Tuy nhiên, việc sử dụng đòn
bẩy cũng làm gia tăng rủi ro cho doanh nghiệp.
5.2.1. Đòn bẩy kinh doanh phân tích hòa vốn
5.2.1.1. Đòn bẩy kinh doanh
Đòn bẩy kinh doanh việc s dụng các tài sản chi phí cố định kinh
doanh nhằm hy vọng gia tăng lợi nhuận trước lãi vay thuế hay tỷ suất sinh lời
kinh tế của tài sản. Nói cách khác, đòn bẩy kinh doanh thể hiện mức độ sử dụng
chi
phí
cố
định
kinh
doanh
của
doanh
nghiệp
trong
hoạt
động
sản
xuất
kinh
doanh nhằm hy vọng gia tăng lợi nhuận trước lãi vay thuế (hay tỷ suất lợi
nhuận kinh tế của tài sản).
Mức độ sử dụng đòn bẩy kinh doanh của doanh nghiệp được thể hiện tỷ trọng chi
phí cố định kinh doanh trong tổng chi phí sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Một doanh nghiệp tỷ trọng chi phí cố định kinh doanh mức
cao thể hiện doanh nghiệp có đòn bẩy kinh doanh lớn và ngược lại.
Một doanh nghiệp đòn bẩy kinh doanh cao thì chỉ cần một sự thay đổi
nhỏ
của
doanh
thu (hoặc sản lượng
hàng hoá tiêu
thụ), thể dẫn
đến
sự thay
đổi lớn hơn về lợi nhuận trước lãi vay thuế của doanh nghiệp. Điều đó
nghĩa lợi nhuận trước lãi vay thuế của doanh nghiệp rất nhạy cảm với mức
độ sử dụng chi phí cố định kinh doanh trong mối quan hệ với chi phí biến đổi và quy mô kinh
doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, s dụng đòn bẩy kinh doanh
như sử dụng con dao hai lưỡi. Doanh nghiệp đòn bẩy kinh doanh lớn khả
năng gia tăng nhanh lợi nhuận trước lãi vay thuế, nhưng cũng ẩn chứa rủi ro
kinh doanh lớn.
5.2.1.2. Mức độ ảnh hưởng của đòn bẩy kinh doanh
Mức độ ảnh hưởng của đòn bẩy kinh doanh đến lợi nhuận trước lãi vay
thuế của doanh nghiệp được xác định theo công thức sau:
85
Như
vậy
mức
độ
ảnh
hưởng
của
đòn
bẩy
kinh
doanh
phản
ánh
mức
độ
thay đổi lợi nhuận trước lãi vay thuế do kết quả từ sự thay đổi của doanh
thu tiêu thụ (hoặc sản lượng hàng hoá tiêu thụ). Nói một cách khác cho thấy
khi doanh thu (hoặc sản ợng) tiêu thụ thay đổi 1% thì lợi nhuận trước lãi vay
và thuế sẽ thay đổi bao nhiêu %.
Gọi:
F: tổng chi phí cố định kinh doanh(không bao gồm lãi vay)
v: Chi phí biến đổi tính cho 1 sản phẩm
g: Giá bán một sản phẩm
Q: Số lượng sản phẩm tiêu thụ
Xem xét mức độ ảnh hưởng của đòn bẩy kinh doanh có thể nhận thấy:
+ Ở mỗi mức sản lượng sản phẩm sản xuất tiêu thụ hay doanh thu bán hàng khác nhau
thì mức độ ảnh hưởng của đòn bẩy kinh doanh cũng có sự khác nhau.
+ Mức độ ảnh hưởng của đòn bẩy kinh doanh cũng một trong những thước đo rủi ro kinh
doanh của doanh nghiệp hay của một dự án. Từ công thức trên chúng ta công thức đo
lường sự tác động của đòn bẩy kinh doanh đến sự thay đổi lợi nhuận trước lãi vay thuế
như sau:
5.2.1.3. Điểm cân bằng EBIT điểm hòa vốn
Điểm cân bằng EBIT
Khi nghiên cứu về sử dụng đòn bẩy kinh doanh giữa các phương án đầu tư khác nhau,
người ta thường xem xét xác định với lượng sản phẩm cần sản
xuất bao nhiêu thì sẽ đưa đến sự cân bằng về EBIT giữa hai phương án đầu tư. Khi đó, người
ta gọi đó là điểm cân bằng EBIT (hay còn gọi là điểm bàng quan).
Ý nghĩa của kết quả tính ra để so sánh với sản lượng kỳ vọng phương án
đầu thể đạt được để quyết định lựa chọn phương án đầu sử dụng đòn
bẩy kinh doanh phù hợp.
Điểm hòa vốn
86
Mục đích của phân tích điểm hòa vốn để xác định lợi nhuận hoạt động sẽ thay đổi
như thế nào so với mức sản xuất tại đó sản xuất từ thua lỗ chuyển sang có lợi nhuận.
Chúng ta có mối quan hệ sau:
EBIT = Doanh số bán - tổng chi phí (1)
Tổng chi phí = Chi phí biến đổi + chi phí cố định (2)
Thay (2) vào (1), ta có:
EBIT = Doanh số bán – (Chi phí biến đổi + chi phí cố đinh) (3)
Nếu sử dụng các ký hiệu như sau:
TC : Tổng chi p
"
S : Doanh thu
A
h
à
4
n
B
g n
Chúng ta có: S =
P.Q Tổng chi phí biến đổi =
Q.V
TC = QV + F
2 C D
EBIT = PQ – (QV + F)
EBIT = Q (P - V) – F
Trong phương trình trên, (P V) số đảm phí, phần tăng thêm trong EBIT do
việc bán thêm một đơn vị sản phẩm. Q (P - V) là lợi nhuận hoạt động.
Bảng 5.1. Doanh thu, chi phí lợi nhuận biến đổi theo số lượng hàng n
Số lượng đơn
vị hàng bán
Doanh
thu
Tổng chi phí
biến đổi
Tổng chi phí
cố định
Tổng chi
phí
EBIT
Q Q.P Q.V F TC=Q.V+F Q(P-V)-F
15.000 3.000.000 1.800.000 2.000.000 3.800.000 (800.000)
20.000 4.000.000 2.400.000 2.000.000 4.400.000 (400.000)
25.000(*) 5.000.000 3.000.000 2.000.000 5.000.000 0
30.000 6.000.000 3.600.000 2.000.000 5.600.000 400.000
35.000 7.000.000 4.200.000 2.000.000 6.200.000 800.000
40.000 8.000.000 4.800.000 2.000.000 6.800.000 1.200.000
(*) Điểm hòa vốn
Bảng 5.1 trình bày những tính toán EBIT tại các mức sản lượng hàngn khác nhau.
Chúng ta thấy, số lượng hàng bán càng thấp hơn mức 25.000 đơn vị, thì mức thua lỗ càng
cao, bởi số dư đảm phí của mỗi đơn vị (200-120=80USD) nhân với số lượng hàng bán không
đủ đắp chi phí cố định EBIT < 0. mức 25.000 đơn vị, tổng s đảm phí
2.000.000USD (80 x 25.000), vừa đủ trang trải chi phí cố định và EBIT = 0. Chỉ khi số lượng
hàng bán nhiều hơn 25.000 đơn vị, thì doanh nghiệp bắt đầu có lợi nhuận.
87
Bởi vậy, điểm hoà vốn là mức doanh thu tạo ra thu nhập bằng 0. Trong thí dụ trên, sản
lượng hòa vốn 25.000 đơn vị hàng bán và doanh thu hoà vốn 5tr.USD. Từ khái niệm về
điểm hòa vốn có thể rút ra các công thức sau:
EBIT = Q
B
(P V) F = 0
Với Q
B
là sản lượng tương ứng với điểm hòa vốn.
Thay các giá trị vào công thức ta có:
đơn vị
5.2.1.4. Rủi ro kinh doanh
Rủi ro kinh doanh nảy sinh bắt nguồn từ chính ngay các yếu tố trong hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp. Rủi ro kinh doanh sự dao động hay s không chắc
chắn về lợi nhuận trước lãi vay và thuế hoặc tỷ suất sinh lời kinh tế của tài sản.
Thước đo chủ yếu thường được sử dụng để đánh giá rủi ro kinh doanh của
doanh nghiệp độ lệch chuẩn hệ số biến thiên của lợi nhuận trước lãi vay
thuế (EBIT).
Rủi ro kinh doanh có thể biến động từ ngành này sang ngành kia thay
đổi theo thời gian. nhiều yếu tố ảnh hưởng tới rủi ro kinh doanh của một
doanh nghiệp, trong đó bao hàm các yếu tố chủ yếu: Sự biến động của cầu về
loại sản phẩm doanh nghiệp sản xuất; biến động giá của sản phẩm đầu ra; biến
động giá các yếu tố đầu vào; khả năng điều chỉnh giá bán sản phẩm của doanh
nghiệp khi giá của yếu tố đầu vào sự thay đổi; mức độ đa dạng hóa sản phẩm; tốc độ tăng
trưởng; cấu chi phí sản xuất kinh doanh hay mức độ sử dụng đòn
bẩy kinh doanh của doanh nghiệp.
Trong việc quản trị tài chính doanh nghiệp cần phải nhận biết, phân tích
đánh giá để hạn chế, phòng ngừa và quản lý rủi ro kinh doanh của doanh nghiệp.
5.2.2. Đòn bẩy tài chính rủi ro tài chính
5.2.2.1. Đòn bẩy tài chính
Đòn bẩy tài chính là thể hiện mức độ sử dụng vốn vay trong nguồn vốn của doanh nghiệp
nhằm hy vọng giang tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu (hay thu nhập trên một cổ phần của
công ty).
Mức độ sử dụng đòn bẩy tài chính doanh nghiệp được thể hiệnhệ số nợ. Doanh nghiệp
có hệ số nợ cao thể hiện doanh nghiệp có đòn bẩy tài chính ở mức độ cao và ngược lại.
Doanh nghiệp
đòn bẩy tài
chính
càng
cao
thì mức
độ
rủi ro
trong
hoạt
động tài chính càng cao, nhưng hội gia tăng tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu
(ROE) càng lớn.
Gọi: ROE là tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu
88
D là vốn vay
E là vốn chủ sở hữu
BEP là Tỷ suất sinh lời kinh tế của tài sản
BEP =
EBIT
----------
A
EBIT: Lợi nhuận trước lãi vay và thuế
A: Giá trị tài sản bình quân (hay vốn kinh doanh bình quân)
r
d
là lãi suất vay
t là thuế suất thuế TNDN
Vậy:
- Khi
BEP >rd:
Doanh
nghiệp
tăng
vay
nợ
=>
ROE
càng
được
khuyếch
đại, đồng thời gia tăng rủi ro tài chính.
- Khi BEP = rd: Doanh nghiệp tăng vay nợ nhưng ROE không thay đổi,
đồng thời gia tăng rủi ro tài chính.
- Khi BEP < rd: Doanh nghiệp tăng vay nợ => làm suy giảm ROE, đồng
thời gia tăng rủi ro tài chính.
Đây
chính
giới
hạn
của
hệ
số
nợ
trong
trong
tổng
vốn
của
doanh
nghiệp, và điều này cần được lưu ý khi ra quyết định huy động vốn.
Cần lưu ý rằng, cũng như sử dụng đòn bẩy kinh doanh, việc sử dụng đòn
bẩy tài chính như sử dụng "con dao hai lưỡi". Nếu tổng tài sản không khả
năng sinh ra một tỷ suất sinh lời đủ lớn để đắp chi phí lãi vay nợ thì tỷ suất
lợi nhuận vốn chủ sở hữu (vốn cổ phần thường) bị giảm sút, bởi lẽ phần lợi
nhuận do vốn chủ sở hữu (vốn cổ phần thường) m ra phải dùng để đắp sự
thiếu hụt của khoản lãi vay phải trả.
Khả năng gia tăng lợi nhuận cao điều mong ước của các chủ sở hữu,
trong đó đòn bẩy tài chính một công cụ được các nhà quản thường dùng. Đòn bẩy i
chính công cụ hữu ích để khuyếch đại tỷ suất lợi nhuận vốn chủ
sở hữu hay gia ng thu nhập một cổ phần, đồng thời cũng tiềm ẩn sự gia tăng
rủi ro cho chủ sở hữu. Sự thành công hay thất bại này tuỳ thuộc vào chiến lược
của chủ sở hữu khi lựa chọn cơ cấu tài chính.
5.2.2.2. Mức độ ảnh hưởng của đòn bẩy tài chính (DFL)
89
Đòn bẩy tài chính sự đánh giá chính sách vay nợ được sử dụng trong
việc điều hành doanh nghiệp. lãi vay phải trả không đổi khi sản lượng thay
đổi, do đó đòn bẩy tài chính sẽ rất lớn trong các doanh nghiệp hệ số nợ cao,
ngược lại đòn bẩy tài chính sẽ rất nhỏ trong c doanh nghiệp hệ s nợ
thấp. Những doanh nghiệp hệ
số nợ bằng không sẽ không đòn bẩy tài
chính. Như vậy, đòn bẩy tài chính đặt trọng tâm vào hệ số nợ. Khi đòn by tài
chính cao, thì chỉ cần một sự thay đổi nhỏ về lợi nhuận trước lãi vay thuế
cũng thể làm thay đổi với một tỷ lệ cao hơn về tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở
hữu (vốn cổ phần thường) nghĩa tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu (vốn cổ
phần thường) rất nhạy cảm khi lợi nhuận trước lãi vay thuế biến đổi.
Như vậy, mức độ ảnh hưởng của đòn bẩy tài chính phản ánh nếu lợi
nhuận trước lãi vay thuế thay đổi 1% thì tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu
(hay thu nhập một cổ phần thường) sẽ thay đổi bao nhiêu %.
Nếu ta gọi I là lãi vay phải tr
Xem xét đòn bẩy tài chính có thể rút ra:
+ mỗi mức lợi nhuận trước lãi vay thuế khác nhau thì mức ảnh
hưởng của đòn bẩy tài chính cũng có sự khác nhau.
+
Mức
độ
ảnh
hưởng
của
đòn
bẩy
tài
chính
cũng
một
trong
những
thước đo mức độ rủi ro tài chính của doanh nghiệp.
Từ công
thức
trên chúng ta
công
thức
đo lường
sự tác động
của
đòn
bẩy tài chính đến sự thay đổi tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ s hữu (ROE) như
sau:
Như vậy đòn bẩy tài chính thể hiện cách thức sử dụng nguồn vốn của
doanh nghiệp.
5.2.2.3. Điểm cân bằng ROE (EPS)
90
Trong trường hợp nhiều phương án huy động vốn khác nhau với hệ số
nợ
khác
nhau,
người
ta
thường
xác
định
điểm
cân
bằng
ROE
(hay
EPS),
nghĩa đi xác định EBIT để cân bằng ROE (hay EPS) giữa hai phương án huy
động vốn. Kết quả tính ra ý nghĩa trong việc so sánh với EBIT kỳ vọng để
quyết định lựa chọn phương án huy động vốn sử dụng đòn bẩy i chính phù
hợp.
5.2.2.4. Rủi ro tài chính
Trong
quá
trình
hoạt
động,
doanh
nghiệp
sử dụng
vốn
vay
một
mặt
nhằm
đắp sự thiếu hụt vốn, mặt khác nhằm hy vọng gia tăng tỷ suất lợi nhuận chủ
sở
hữu
(hoặc
thu
nhập
trên
một
cổ
phần)
nhưng
đồng
thời
cũng
làm
tăng
thêm
rủi ro cho doanh nghiệp, đó là rủi ro tài chính.
Rủi ro tài chính sự dao động hay sự biến thiên của tỷ suất lợi nhuận vốn
chủ sở hữu (hoặc thu nhập trên một cổ phần) làm tăng thêmc suất mất khả năng thanh
toán khi doanh nghiệp sử dụng vốn vay các nguồn tài trợ khác
chi phí cố định tài chính.
Việc sử dụng vốn vay tạo ra khả năng cho doanh nghiệp tăng được tỷ suất
lợi nhuận vốn chủ sở hữu nhưng cũng làm cho tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu
thể mức độ dao động lớn hơn. Khi tỷ suất sinh lời kinh tế của i sản
(BEP) doanh nghiệp tạo ra lớn hơn chi phí sử dụng vốn vay sẽ làm gia tăng
tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu, nhưng nếu tỷ suất sinh lời của tài sản thấp hơn
chi phí sử dụng vốn vay thì càng làm giảm sút nhanh hơn tỷ suất sinh lời vốn
chủ sở hữu. Mặt khác, doanh nghiệp sử dụng vốn vay làm nảy sinh nghĩa vụ tài
chính phải thanh toán lãi vay cho các chủ nợ bất kể doanh nghiệp đạt được mức
độ lợi nhuận trước lãi vay thuế bao nhiêu, đồng thời doanh nghiệp phải
nghĩa vụ hoàn trả vốn gốc cho các chủ nợ đúng hạn. Doanh nghiệp càng sử dụng
nhiều vốn vay thì nguy mất khả năng thanh toán càng lớn. Như vậy, việc sử
dụng vốn vay đã ẩn chứa rủi ro tài chính doanh nghiệp thể gặp phải trong
quá trình kinh doanh.
5.1.3. Phối hợp đòn bẩy tài chính đòn bẩy kinh doanh
Đòn bẩy kinh doanh phản ánh mức độ sử dụng chi phí cố định kinh doanh
trong tổng chi phí sản xuất kinh doanh. Mức độ ảnh hưởng của đòn bẩy kinh
doanh sẽ rất lớn những doanh nghiệp chi phí cố định kinh doanh cao hơn
chi phí biến đổi. Nhưng đòn bẩy kinh doanh chỉ tác động tới lợi nhuận trước lãi
vay thuế, bởi lẽ hệ số nợ không ảnh hưởng tới độ lớn của đòn bẩy kinh
doanh.
Còn mức độ ảnh hưởng của đòn bẩy tài chính chỉ phụ thuộc vào hệ số nợ,
không phụ thuộc vào kết cấu chi phí cố định chi phí biến đổi của doanh
nghiệp.
Do
đó,
đòn
bẩy
tài
chính
tác
động
tới
tỷ
suất
lợi
nhuận
vốn
chủ
sở
hữu.
91
vậy, khi ảnh hưởng của đòn bẩy kinh doanh chấm dứt thì ảnh hưởng của đòn
bẩy tài chính sẽ thay thế đ khuyếch đại tỷ suất lợi nhuận vốn chủ s hữu (thu
nhập một cổ phần thường). lẽ đó người ta gọi đòn bẩy kinh doanh đòn bẩy
cấp một, đòn bẩy tài chính đòn bẩy cấp hai, thể kết hợp đòn bẩy kinh
doanh đòn bẩy tài chính thành một đòn bẩy tổng hợp. Mức độ ảnh hưởng của
đòn bẩy tổng hợp (DTL) được xác định như sau:
Mức độ ảnh hưởng của đòn bẩy tổng hợp phản ánh mức độ nhạy cảm của
tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu (vốn cổ phần thường) trước sự thay đổi của
doanh thu hay sản lượng sản phẩm tiêu thụ. Nói cách khác nếu doanh thu thay
đổi 1% thì tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu thay đổi bao nhiêu %.
thể nhận thấy: mỗi mức doanh thu hay sản lượng tiêu thụ khác nhau
thì mức độ tác động của đòn bẩy tổng hợp cũng sự khác nhau. Mức độ tác
động của đòn bẩy tổng hợp cũng một thước đo cho phép đánh giá mức độ rủi
ro
tổng
thể
của
doanh
nghiệp
bao
hàm
rủi
ro
kinh
doanh
rủi
ro
tài
chính.
Vấn
đề
quan
trọng
khi
xem
xét
đòn
bẩy
tổng
hợp
đối
với
nhà
quản
trị
tài
chính doanh nghiệp cần phải sử dụng phối hợp hai loại đòn bẩy kinh doanh
đòn bẩy tài chính để sao cho gia tăng được tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu
(hay EPS) đồng thời phải đảm bảo sự an toàn tài chính cho doanh nghiệp.
Chương 6
QUYẾT ĐỊNH ĐẦU DÀI HẠN CỦA DOANH NGHIỆP
92
6.1. Tổng quan về đầu dài hạn của doanh nghiệp
6.1.1. Khái niệm đầu dài hạn
Đầu i hạn một trong những nhân tố chủ yếu quyết định đến sự phát triển của
một doanh nghiệp. Đầu việc sử dụng các nguồn lực hiện tại nhằm biến các lợi ích dự
kiến thành hiện thực trong tương lai.
Xét về mặt kinh tế: Đầu hy sinh tiêu dùng hiện tại để hy vọng trong tương lai
thu nhập cao hơn.
Trên góc độ của doanh nghiệp kinh doanh, có thể thấy rằng một trong những mục tiêu
hàng đầu của doanh nghiệp thu được lợi nhuận. Để thực hiện được mục tiêu này đòi hỏi
doanh nghiệp phải có lượng vốn nhất định và với số vốn đó doanh nghiệp thực hiện được các
hoạt động mua sắm máy móc thiết bị, xây dựng nhà xưởng, mua bằng phát minh sáng chế,
bản quyền, đào tạo công nhân, hình thành một lượng tài sản lưu động thường xuyên cần thiết.
Trong quá trình phát triển doanh nghiệp tiếp tục bổ sung vốn để tăng thêm tài sản kinh doanh
tương ứng với sự tăng trưởng của qui mô kinh doanh. Các hoạt động của quá trình trên chính
quá trình đầu i hạn của một doanh nghiệp. Ngoài hoạt động đầu tính chất điển
hình như trên, doanh nghiệp còn thể thực hiện các hoạt động như bỏ vốn mua c phiếu,
trái phiếu của các chủ thể khác nhằm thu lợi nhuận trong một thời gian dài. Các cổ phiếu, trái
phiếu mà doanh nghiệp bỏ vốn ra mua hình thành nên một loại tài sản của doanh nghiệp được
gọi là tài sản tài chính dài hạn.
Từ đó, thể thấy rằng đầu i hạn quá trình hoạt động sử dụng vốn để hình
thành nên những tài sản cần thiết nhằm phục vụ mục đích thu lợi nhuận trong khoảng thời
gian dài trong tương lai.
Theo khái niệm trên, đầu dài hạn của doanh nghiệp chính là hoạt động bỏ vốn để
mua sắm, xây dựng hình thành các tài sản cố định hữu hình tài sản cố định hình, hình
thành lượng tài sản lưu động thường xuyên cần thiết phù hợp với một qui mô kinh doanh nhất
định hoặc để góp vốn liên doanh dài hạn hoặc để mua cổ phiếu, trái phiếu của đơn vị khác
nhằm thu lợi nhuận
Như vậy, đầudài hạn của một doanh nghiệp không phải chỉđầu tư vào tài sản cố
định còn bao m cả việc đầu cho nhu cầu tương đối ổn định về vốn lưu động
thường xuyên cần thiết tương ứng với với một qui kinh doanh nhất định của doanh
nghiệp, đầu tư có tính chất dài hạn vào các hoạt động khác để thu lợi nhuận.
Đầu tư dài hạn của doanh nghiệp có đặc điểm là phải ứng ra một lượng vốn tiền tệ ban
đầu tương đối lớn được sử dụng có tính chất dài hạn trong tương lai, do đó đầu tư dài hạn
luôn gắn liền với rủi ro. Các quyết định đầu của doanh nghiệp mặc đều dựa trên sở
dự tính về thu nhập trong tương lai do đầu tư đưa lại, tuy nhiên khả năng nhận được thu nhập
93
trong tương lai thường không chắc chắn nên rủi ro trong đầu tư là rất lớn. Thời gian đầu tư
càng dài thì rủi ro càng cao và ngược lại.
6.1.2. Các loại đầu dài hạn của doanh nghiệp
6.1.2.1. Theo cấu vốn đầu
a. Đầu tư xây dựng cơ bản:
khoản đầunhằm tạo ra tài sản cố định cho doanh nghiệpthông thường doanh
nghiệp phải s dụng một khoản vốn lớn để thực hiện đầu về TSCĐ thông qua việc xây
dựng và mua sắm. Trong đầu tư XDCB lại có thể thực hiện phân loại chi tiết dựa theo những
tiêu thức nhất định:
- Theo tính chất công tác, đầu tư xây dựng của doanh nghiệp gồm:
+ Đầu cho xây lắp bao gồm đầu cho việc lắp ráp các kết cấu kiến trúc, lắp đặt
máy móc thiết bị sản xuất trên nền bệ cố định.
+ Đầu cho thiết bị: đầu về mua sắm máy móc, thiết bị cần thiết của doanh
nghiệp bao gồm chi phí mua thiết bị theo giá mua, chi phí vận chuyển, bảo quản thiết bị
+ Đầu tư xây dựng cơ bản khác: Bao gồm đầu tư cho việc khảo sát, thiết kế xây dựng,
chi phí dùng đất xây dựng, đền đất đai, hoa màu, tài sản, chi phí di chuyển nhà cửa trên
đất đai xây dựng, chi phí mua bản quyền phát minh sáng chế, chi phí công nghệ, mua nhãn
hiệu hàng hóa v.v…
- Theo hình thái vật chất, đầu tư xây dựng cơ bản của doanh nghiệp gồm:
+ Đầu tư về tài sản cố định hữu hình bao gồm toàn bộ việc xây dựng, mua sắm các tài
sản như nhà xưởng, máy móc thiết bị …
+ Đầu về tài sản cố định hình như đầu mua bằng phát minh sáng chế, bản
quyền, quy trình công nghệ sản xuất mới v.v…
b. Đầu tư về vốn lưu động thường xuyên cần thiết
Đây khoản đầu để hình thành nên tài sản lưu động tối thiểu thường xuyên cần
thiết (nguyên liệu, vật liệu, nhiên liệu) đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp tiến hành hoạt động bình thường. Tùy thuộc vào hình tổ chức nguồn vốn
thể đầu một phần hoặc toàn bộ tài sản lưu động thường xuyên cần thiết tương ứng với qui
mô kinh doanh nhất định.
c. Đầu tư góp vốn liên doanh dài hạn và đầu tư vào tài sản tài chính
Đây các khoản đầu ra bên ngoài doanh nghiệp. Trong hoạt động sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp nhiều hình thức liên doanh liên kết. Trong đó hình thức
liên doanh dài hạn, các doanh nghiệp tham gia góp vốn sản xuất kinh doanh trong thời gian
94
tương đối dài, chịu trách nhiệm chung phân chia lợi nhuận theo tỷ lệ tương ứng với phần
đóng góp. Thuộc loại này có thể có:
- Đầu tư góp vốn sản xuất kinh doanh trong thời gian dài ra ngoài doanh nghiệp
- Đầu mua cổ phn, mua trái phiếu dài hn của doanh nghiệp khác phát hành (tài
sản tài chính)
Việc phân loại đầu tư theo cấu vốn giúp cho doanh nghiệpthể xem xét tính chất
hợp của các khoản đầu trong tổng thể đầu của doanh nghiệp để đảm bảo xây dựng
được cơ cấu vốn đầu tư thích ứng với điều kiện cụ thể của từng doanh nghiệp nhằm nhằm đạt
hiệu quả đầu tư cao.
6.1.2.2. Theo mục tiêu đầu
- Đầu hình thành doanh nghiệp: Bao gồm các khoản dầu ban đầu để thành lập
doanh nghiệp.
- Đầu mở rộng qui kinh doanh: toàn bộ các khoản đầu nhằm mở rộng
thêm các phân xưởng mới hay các đơn vị trực thuộc.
- Đầu chế tạo sản phẩm mới: khoản đầu cho nghiên cứu phát triển sản
phẩm, tạo điều kiện phát triển lâu dài cho doanh nghiệp.
- Đầu thay thế, hiện đại hoá máy móc, thiết bị: khoản đầu thay thế hoặc đổi
mới các trang thiết bị cho phù hợp với tiến bộ khoa học kỹ thuật nhằm duy trì hoặc tăng khả
năng sản xuất sản phẩm của doanh nghiệp.
- Đầu ra bên ngoài: s đầu góp vốn thực hiện liên doanh dài hạn với các
doanh nghiệp, tổ chức kinh tế khác, đầu tư về tài sản tài chính khác…
Việc phân loại này giúp cho doanh nghiệp thể kiểm soát được tình hình thực hiện
đầu tư theo những mục tiêu nhất định mà doanh nghiệp đặt ra trong một thời kỳcó thể tập
trung vốn và biện pháp thích ứng để đạt được mục tiêu đầu tư đã đề ra.
6.1.3. Các yếu tố tác động đến quyết định đầu dài hạn của doanh nghiệp
Sự thành bại của doanh nghiệp trong tương lai tùy thuộc rất lớn vào các quyết định
đầu ngày hôm nay. Chính thế, để đi đến đầu quyết định đầu đòi hỏi doanh nghiệp
phải cân nhắc kỹ lưỡng nhiều vấn đề, xem xét nhiều yếu tố. nhiều yếu tố tác động đến
việc đầu tư của doanh nghiệp, trong đó có những yếu tố tác động có tính chất quyết định gồm
các yếu tố chủ yếu sau đây:
6.1.3.1. Chính sách kinh tế của Nhà nước trong việc phát triển nền kinh tế
Thông qua chính sách kinh tế, pháp luật biện pháp kinh tế, Nhà nước tạo môi
trường và hành lang cho các doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh, đi theo quĩ đạo của
kế hoạch vĩ mô
95
Nhà nước định hướng đầu phát triển kinh doanh, khuyến khích các doanh nghiệp
đầu tư vào những ngành nghề có lợi cho quốc kế, dân sinh
Bởi thế, để đi quyết định đầu tư, trước tiên các doanh nghiệp cần phải xem xét đến
chính sách kinh tế của nhà nước cũng như chính sách khuyến khích đầu tư, chính sách thuế…
6.1.3.2. Thị trường sự cạnh tranh
Trong sản xuất hàng hóa, thị trường tiêu thụ sản phẩm một căn cứ hết sức quan
trọng để doanh nghiệp quyết định đầu tư. Vấn đề đặt ra cho doanh nghiệp phải đầu để
sản xuất ra những loại sản phẩm người tiêu dùng cần, tức phải căn cứ vào nhu cầu sản
phẩm trên thị trường hiện tại tương lai để xem xét vấn đề đầu tư. Thị trường tiêu thụ sản
phẩm là căn cứ quan trọng để doanh nghiệp quyết định đầu tư.
Trong đầu tư khi xem xét thị trường thì không thể bỏ qua yếu tố cạnh tranh. Trong đầu
tư, doanh nghiệp phải căn cứ vào tình hình hiện tại của doanh nghiệp, tình hình cạnh tranh
giữa các doanh nghiệp trên thị trường và dự đoán tình hình trong tương lai để có phương thức
đầu tư thích hợp
6.1.3.3. Lãi suất thuế trong kinh doanh
Đây yếu tố ảnh hưởng tới chi phí đầu của doanh nghiệp. Thông thường để thực
hiện đầu ngoài vốn tự có, doanh nghiệp phải vay đương nhiên phải trả khoản lãi tiền
vay. Lãi suất chính chi phí về vốn đầu trong kinh doanh, do vậynh hưởng tới chi phí
đầu của doanh nghiệp. Do vậy, doanh nghiệp không thể không tính đến yếu tố lãi suất tiền
vay trong quyết định đầu tư.
Thuế công cụ rất quan trọng của Nhà nước để điều tiết hướng dẫn các doanh
nghiệp đầu kinh doanh. Thuế ảnh hưởng tới doanh thu tiêu thụ lợi nhuận của doanh
nghiệp.
6.1.3.4. Sự tiến bộ của khoa học công ngh
thể cơ hội hoặc cũng thể nguy đe doạ đối với sự đầu của doanh
nghiệp.
- Doanh nghiệp phải chấp nhận mạo hiểm trong đầu tư để phát triển sản phẩm mới
- Nếu doanh nghiệp không tiếp cận với sự tiến bộ của khoa học công nghệ sẽ dẫn tới
làm ăn thua lỗ do không còn phù hợp với nhu cầu thị trường
6.1.3.5. Mức độ rủi ro của đầu
Trong sản xuất hàng hóa với cơ chế thị trường, mỗi quyết định đầu tư đều có thể gắn
liền với rủi ro nhất định do sự biến động trong tương lai về sản xuất và về thị trường v..v
Cần đánh giá mức độ rủi ro và tỷ suất sinh lời để xem xét quyết định đầu tư
6.1.3.6. Khả năng tài chính của doanh nghiệp
96
Mỗi doanh nghiệp nguồn tài chính để đầu giới hạn nhất định bao gồm nguồn
vốn tự có và nguồn vốn có khả năng huy động
Doanh nghiệp không thể quyết định đầu tư thực hiện dự án vượt xa khả năng tài chính
của mình
6.1.4. Trình tự ra quyết định đầu dài hạn
Quyết định đầu cũng một quyết định tài chính dài hạn của doanh nghiệp, ảnh
hưởng rất lớn đến tương lai của doanh nghiệp. Thông thường để quyết định đầu cần thực
hiện các bước cần thiết sau đây:
- Phân tích tình hình, xác địnhhội đầu tư hay định hướng đầu tư: Đâyvấn đề hết
sức quan trong để đi đến quyết định đầu tư. Việc phân tích tình hình bao gồm đánh giá tình
hình hiện tại dự đoán tình hình trong tương lai bên ngoài cũng như bên trong doanh
nghiệp.
Cần thu thập thông tin phân tích, đánh giá tình hình hiện tại về các mặt thị trường,
cạnh tranh, sự tiến bộ của kỹ thuật công nghệ sản xuất…, những thay đổi trong tương
lai. Việc phân tích đánh giá tình hình bên ngoài vấn đề rất phức tạp cũng cùng
quan trọng đối với doanh nghiệp, bởi khi đánh giá dự đoán đúng mới giúp doanh
nghiệp xác định hướng đầu thích ứng với sự thay đổi của tình hình. Nếu dự đoán sai tình
hình thể gây ra hậu quả nghiêm trọng cho doanh nghiệp trong tương lai. Tiếp theo cần
phân tích, đánh giá đùng tình hình hiện tại của doanh nghiệp về năng lực sản xuất, tiêu thụ
sản phẩm, tình hình tài chính…đối với tình hình bên ngoài. Rút ra những mặt mạnh, mặt còn
hạn chế trong sản xuất kinh doanh và khả năng tài chính để xác định hướng đầu tư thích hợp.
- Xác định mục tiêu đầu tư: Mỗi quyết định đầu tư của doanh nghiệp đều phải xác định
mục tiêu cần đạt được về sản xuất về tài chính. Mục tiêu được xác định mang tính dài
hạn.
- Lập dự án đầu tư: Sau khi xác định mục tiêu đầu và xem xét tình hình kinh doanh
hiện tại, những yếu tố dữ kiện liên quan đến khả năng đầu trong tương lai cần phải tiến
hành lập các dự án để giải quyết nhiệm vụ kinh tế được đặt ra cho việc đầu tư. Trong mỗi dự
án đầu phải trình bày luận chứng kinh tế kỹ thuật của việc đầu dự toán để thực
hiện việc đầu tư.
- Đánh giá, thẩm định dự án và lựa chọn dự án đầu tư: Sau khi dự án được thành lập sẽ
tiến hành đánh giá, thẩm định dự án. Đây là quá trình kiểm tra, xem xét một cách khách quan,
khoa học toàn diện các nội dung bản của dự án nhằm đánh giá tính hợp lý, tính hiệu
quả và tính khả thi của dự án để có sự lựa chọn thích ứng
- Ra quyết định đầu tư: Chọn được dự án đầu tư tối ưu cần xem xét khả năng thực hiện
và cuối cùng đi đến việc ra quyết định đầu tư.
6.2. Xác định dòng tiền của dự án
97
6.2.1. Các nguyên tắc bản khi xác định dòng tiền của dự án
Xem xét trên góc độ tài chính thì đầu tư là bỏ tiền chi ra ngày hôm nay để hy vọng thu
về những khoản tiền thu nhập lớn hơn trong tương lai. Do vậy, đầu một quá trình phát
sinh ra các dòng tiền gồm dòng tiền ra và dòng tiền vào của dự án.
Dòng tiền ra: những khoản tiền doanh nghiệp chi ra để thực hiện dự án đầu
tư Dòng tiền vào: Là những khoản tiền thu nhập do dự án đầu tư mang lại
Xác định dòng tiền của dự án phải dựa trên những nguyên tắc sau:
+ Đánh giá dự án cần dựa trên cơ sở đánh giá dòng tiền tăng thêm do dự án đầu tư đưa
lại chứ không dựa vào lợi nhuận kế toán. Dòng tiền mặt cho phép các nhà đầu biết được
lượng tiền thực từng thời điểm doanh nghiệp được phép sử dụng để những quyết
định mới: hoặc dùng tiền đó để trả nợ, hoặc trả lợi tức cho cổ đông, hoặc tăng vốn luân
chuyển, hoặc đầu tài sản cố định… Trong khi đó nếu sử dụng lợi nhuận kế toán thì không
thể đưa ra những quyết định như vậy được. Bởi lợi nhuận kế toán một mặt phụ thuộc vào
phương pháp hạch toán kế toán của doanh nghiệp mặt khác doanh thu để tính lợi nhuận kế
toán bao gồm cả phần doanh thu bán chịu, làm cho doanh nghiệp thể lợi nhuận nhưng
lại không có tiền.
+ Phải tính đến chi phí cơ hội khi xem xét dòng tiền của dự án. Chi phí cơ hội là khoản
thu nhập nhà đầu tư có thể thu được từ dự án tốt nhất còn lại. Chi phí hội đây muốn
nói đến chính phần thu nhập cao nhất thể được từ tài sản sở hữu của doanh nghiệp
nếu nó không sử dụng cho dự án. Chi phí cơ hội không phải là một khoản thực chi nhưng vẫn
được tính vàođó là một khoản thu nhậpdoanh nghiệp phải mất đi khi thực hiện dự án.
dụ: Một doanh nghiệp thể cho thuê mặt bằng nhà máy với giá 1.300 trđ/năm hoặc sử
dụng để sản xuất mặt hàng mới. Như vậy, nếu dự án sản xuất mặt hàng mới được triển khai
thì doanh nghiệp đã mất đi hội được thu nhập cho thuê mặt bằng với mức 1.300
trđ/năm. Khoản thu nhập 1.300 trđ/năm từ việc cho thuê mặt bằng phải được xem chi phí
cơ hội của dự án sản xuất sản phẩm mới.
+ Không được tính chi phí chìm vào dòng tiền của dự án. Chi phí chìm là những khoản
chi phí của những dự án đầu tư quá khứ (những chi phí đã xảy ra rồi) không còn khả năng thu
hồi doanh nghiệp phải hoàn toàn gánh chịu bất kể dự án được chấp thuận hay không.
Chúng không liên quan đến dự án đầu tư lới nên nó không được đưa vào để phân tích.
+ Phải tính đến yếu tố lạm phát khi xem xét dòng tiền. Lạm phát có ảnh hưởng rất lớn
đến dòng tiền thu vào dòng tiền chi ra của dự án đồng thời ảnh hưởng đến chi phí hội
của vốn. Lạm phát cao thể làm cho thu nhập mang lại từ dự án trong tương lai không đủ
đắp cho khoản đầu hôm nay. Do đó, nếu lạm phát phải tính đến ảnh hưởng của lạm
phát đến dòng tiền và tỷ lệ chiết khấu dòng tiền khi đánh giá dự án.
98
+ Ảnh hưởng chéo: Phải tính đến nh hưởng của dự án đến các bộ phận khác của
doanh nghiệp
6.2.2. Xác định dòng tiền của dự án đầu tư
6.2.2.1. Xác định dòng tiền ra của dự án
Những khoản chi tiêu liên quan đến việc bỏ vốn thực hiện đầu tạo thành dòng tiền
ra của đầu tư. Vốn đầu thể bỏ rải rác trong nhiều năm, cũng thể bỏ ra ngay một lần
(theo phương thức chìa khóa trao tay). Tùy theo tính chất của các khoản đầu thể xác
định được khoản chi cụ thể của dự án. Thông thường đối với những dự án đầu điển hình
(là những dự án tạo ra sản phẩm, dịch vụ) thì nội dung dòng tiền ra của đầu tư dự án gồm:
- Những khoản chi để hình thành nên tài sản cố định hữu hình tài sản cố định
hình, những khoản chi liên quan đến hiện đại hóa để nâng cấp máy móc thiết bị khi dự án đi
vào hoạt động
- Vốn đầu để hình thành vốn lưu động thường xuyên, cần thiết cho dự án khi dự án
đi vào hoạt động bao gồm: Số vốn đầu vào TSLĐ thường xuyên cần thiết ban đầu đưa dự
án o hoạt động số vốn lưu động thường xuyên cần thiết bổ sung thêm trong quá trình
hoạt động của dự án khi có sự tăng về qui mô kinh doanh.
Thông thường để xác định dòng tiền chi về vốn lưu động, đặc biệt đối với vốn lưu
động bổ sung người ta đưa ra qui tắc: Khi có nhu cầu vốn lưu động tăng thêm năm nay thì
việc bổ sung vốn lưu động được thực hiện ở cuối năm trước.
6.2.2.2. Xác định dòng tiền vào của dự án đầu
Mỗi dự án đầu tư sẽ đưa lại khoản tiền thu nhập ở một hay một số thời điểm khác nhau
trong tương lai tạo thành dòng tiền vào của dự án. Việc xác định dòng tiền vào của dự án đầu
tư là vấn đề rất phức tạp, phải căn cứ vào tính chất của khoản đầu tư để lượng định các khoản
thu nhập do đầu tư tạo ra một cách thích hợp. Dòng tiền vào của dự án bao gồm:
(1) Dòng tiền thuần hoạt động hàng năm: khoản chênh lệch giữa số tiền thu được
(dòng tiền vào) và số tiền chi ra (dòng tiền ra) phát sinh từ hoạt động thường xuyên hàng năm
khi dự án đi vào hoạt động. Đối với một dự án đầu trong kinh doanh tạo ra doanh thu bán
hàng hóa hoặc dịch vụ thì dòng tiền thuần từ hoạt động hàng năm của dự án được xác định
trực tiếp bằng chênh lệch giữa dòng tiền vào do bán sản phẩm, hàng hóa với dòng tiền ra do
mua vật tưchi phí khác bằng tiền liên quan đến việc sản xuất, tiêu thụ sản phẩm hàng hóa
và tiền thuế thu nhập mà doanh nghiệp phải nộp.
Hoặc có thể tính gián tiếp như sau:
Dòng tiền thuần =
Lợi nhuận sau thuế + Khấu hao TSCĐ
hoạt động hàng năm hàng năm hàng năm
99
(2) Số tiền thuần từ thanh tài sản khi kết thúc dự án: số tiền còn lại từ thu nhập
thanh tài sản sau khi đã nộp thuế thu nhập về thanh tài sản (nếu có), thể xảy ra 3
trường hợp sau:
+ Khoản thu nhập từ nhượng bán tài sản bằng giá trị còn lại của tài sản cố định, trường
hợp này không lãi, lỗ). Do đó không phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp từ khoản
nhượng bán thanh lý tài sản.
Thu nhập từ
=
Số tiền thu được do
Chi phí liên quan đến
thanh lý tài sản nhượng bán, thanh lý TSCĐ nhượng bán thanh lý TS
+ Khoản thu nhập từ nhượng bán tài sản lớn hơn giá trị còn lại của tài sản cố định
(trường hợp này có lãi và phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp)
+ Khoản thu nhập từ nhượng bán tài sản nhỏ hơn giá trị còn lại của tài sản cố định,
trường hợp này bị lỗ vốn do nhượng bán, thanh TSCĐ,khoản lỗ này xét về nguyên sẽ
làm giảm thuế thu nhập mà doanh nghiệp phải nộp.
(3) Thu hồi vốn lưu động thường xuyên đã ứng ra
Khi dự án đưa vào hoạt động, doanh nghiệp đã đầu tư vốn lưu động thường xuyên cần
thiết (đầu tư ban đầu khi dự án bắt đầu hoạt động và đầu tư bổ sung thêm trong quá trình hoạt
động). Toàn bộ số vốn lưu động đã ứng ra để được thu hồi lại đầy đủ theo nguyên tắc số vốn
lưu động đã được ứng ra bao nhiêu phải thu hồi hết bấy nhiêu. Thời điểm thu hồi thể thu
hồi dần hoặc có thể thu hồi toàn bộ một lần khi kết thúc dự án.
- Xác định dòng tiền thuần hàng năm của đầu tư và dòng tiền thuần của dự án
Dòng tiền thuầnng năm của đầu tư: được xác định số chênh lệch của dòng tiền
thu vào và dòng tiền chi ra phát sinh hàng năm do đầu tư đưa lại và có thể xác định theo công
thức sau:
Dòng tiền thuần hàng năm của đầu tư = Dòng tiền thuần hoạt động hàng năm - Khoản
đầu mới tăng thêm (nếu có) + Số tăng thêm (+) hoặc giảm bớt (-) vốn lưu động thường
xuyên + Số tiền thuần thu từ thanh lý tài sản cố định (nếu có)
- Dòng tiền thuần của dự án đầu tư: dòng tiền tăng thêm do DAĐT đưa lại, góp
phần tăng thêm dòng tiền gia tăng giá trị của doanh nghiệp so với trước khi dự án.
Dòng tiền thuần của DAĐT có thể được xác định bằng cách lấy tổng giá trị dòng tiền vào do
dự án tạo ra trừ đi tổng giá trị dòng tiền ra của dự án hoặc thể xác định bằng công thức
sau:
Dòng tiền thuần của dự án đầu tư = Tổng dòng tiền thuần hàng năm của đầu tư - Vốn
đầu tư ban đầu
Để thuận tiện cho việc hoạch định dòng tiền của đầu tư, người ta sử dụng qui ước
sau:
100
+ Số vốn đầu tư ban đầu được qui ước phát sinh ra ở thời điểm t = 0
+ Dòng tiền vào hoặc dòng tiền ra của dự án thể phát sinh ra các thời điểm khác
nhau trong 1 năm đều được qui về thời điểm cuối năm để tính toán.
6.2.2.3. Ảnh hưởng của khấu hao đến dòng tiền của dự án đầu
Về mặt thuyết, doanh nghiệp thể áp dụng các phương pháp tính khấu hao tính
khấu hao như: Phương pháp khấu hao theo đường thẳng, phương pháp khấu hao nhanh,
phương pháp khấu hao theo sản lượng. khấu hao một khoản chi phí được tính vào chi
phí hoạt động hàng năm của doanh nghiệp được khấu trừ vào thu nhập chịu thuế. vậy,
nếu thay đổi phương pháp khấu hao tính thuế sẽ ảnh hưởng rất lớn đến dòng tiền sau thuế của
dự án đầu tư.
CFht = CFkt (1- t%) + KHt .t%
Trong đó:
CFht: Dòng tiền thuần hoạt động của dự án năm t
CFkt: Dòng tiền trước thuế chưa kể khấu hao ở năm t
KHt: Mức khấu hao TSCĐ năm t
t%: Thuế suất thuế thu nhập DN
KHt .t%: Mức tiết kiệm thuế do khấu hao ở năm t
Dòng tiền thuần trước thuế chưa kể khấu hao (CFkt) = Doanh thu thuần – Chi phí hoạt
động bằng tiền (không kể khấu hao)
Từ công thức trên cho thấy, phần chi phí khấu hao càng cao thì dòng tiền thuần hàng
năm của dự án càng cao. Như vậy, nếu doanh nghiệp áp dụng phương pháp khấu hao nhanh
thì trong những năm đầu sử dụng tài sản, do khấu hao càng cao dòng tiền mặt thu về hàng
năm sẽ cao, càng những năm cuối của thời gian sử dụng tài sản cố định nếu các yếu tố
khác không có gì thay đổi thì dòng tiền thuần hàng năm của doanh nghiệp sẽ càng giảm đi.
6.3. Giá trị thời gian của tiền
6.3.1. Yếu tố lãi suất
Lãi suất giá cả người đi vay phải trả cho người cho vay để được sử dụng tiền
trong một thời gian nhất định hay nói cách khác lãi suất là giá cả của vốn
Khi thực hiện cơ chế lãi suất tín dụng thị trường thì giá cả của vốn sẽ do quan hệ cung
cầu quyết định
Hoạt động của doanh nghiệp gắn liền với việc hình thành sử dụng vốn tiền tệ. Do
vậy các doanh nghiệp phải xem xét yếu tố i suất để quyết định cấu tài chính của mình
một cách hợp lý để lựa chọn các nguồn vốn và hình thức huy động vốn
101
Ở mỗi mức lãi suất tiền vay khác nhau sẽ tương ứng với một mức vốn đầu tư của một
dự án cho lợi nhuận
6.3.2. Giá trị theo thời gian của tiền
Thực tiễn của các hoạt động kinh tế đã chỉ rằng giá trị của tiền luôn thay đổi
những thời kỳ khác nhau. Chẳng hạn nếu ta có 1 triệu đồng đem đầu hoặc cho vay với lãi
suất 8%/năm thì sau 1 năm sẽ nhận được số tiền 1,08 triệu đồng. Nói cách khác: 1 triệu
đồng ngày hôm nay giá trị 1,08 triệu đồng sau 1 năm nếu lãi suất 8%/năm. Điều này
hàm ý nói rằng: tiền tệ giá trị theo thời gian, 1 đồng ta nhận được tại thời điểm ngày
hôm nay giá hơn 1 đồng nhận được tại một thời điểm nào đó trong tương lai (nếu lãi suất
đầu tư >0)
Như vậy, giá trị tiền tệ phải được xem xét cả hai khía cạnh: số lượng và thời gian. Giá
trị tiền các thời điểm khác nhau không thể cộng lại đơn giản với nhau được. Đây vấn đề
hết sức quan trọng, chi phối nhiều đến quyết định đầu tư và các quyết định tài chính khác.
Thời giá của tiền phụ thuộc vào lãi suất. thể hiện quan hệ tỷ lệ giữa tiền lãi trong
một đơn vị thời gian với số vốn gốc trong thời gian đó.
Tiền lãi
Lãi suất =
Vốn gốc
Đơn vị thời gian: Có thể là 1 năm, 1 quí, 1 tháng…Yếu tố lãi suất trong các quyết định
tài chính phải bao hàm cùng một lúc cả 3 nhân tố: chính sách lãi suất hiện hành, rủi ro (sự
không chắc chắn) trong tương lai và yếu tố lạm phát.
Để hiểu hơn khái niệm giá trị theo thời gian của tiền, chúng ta xét giá trị tiền tệ
hai thời điểm: Hiện tại và tương lai.
6.3.2.1. Giá trị tương lai của tiền
a. Lãi đơn, lãi kép và giá trị tương lai
* Lãi đơn:
- Là số tiền lãi được xác định dựa trên số vốn gốc (vốn đầu tư ban đầu) với 1 lãi suất
nhất định
- Đặc điểm: Chỉ có vốn sinh lời còn lãi không sinh lời
- Áp dụng trong các nghiệp vụ tài chính ngắn hạn
*. Lãi p:
- Là số tiền lãi được xác định dựa trên cơ sở số tiền lãi của các thời kỳ trước đó được
gộp vào vốn gốc để làm căn cứ tính tiền lãi cho các thời kỳ tiếp theo
102
- Đặc điểm: Chẳng những vốn sinh ra lãi mà lãi cũng sinh ra lãi (lãi mẹ đẻ lãi con)
- Áp dụng trong các nghiệp vụ tài chính dài hạn
* Giá trị tương lai: Là giá trị có thể nhận được tại 1 thời điểm trong tương lai bao gồm số
vốn gốc và toàn bộ số tiền lãi tính đến thời điểm đó
- Trường hợp tính theo lãi đơn:
Giá trị tương lai tính theo lãi đơn hay còn gọi giá trị đơn được xác định theo ng
thức:
thức:
F
n
= V
0
(1 + i.n)
Trong đó: F
n
: Giá trị tương lai (Giá trị đơn) tại thời điểm cuối kỳ thứ
n V
0
: Số vốn gốc (vốn đầu tư ban đầu)
i: Lãi suất/kỳ (kỳ: Tháng, quí, 6 tháng, năm…)
n: Số kỳ tính lãi
+ Lãi đơn tính như sau: I = V
0
.i.n
- Trường hợp tính lãi kép:
Giá trị tương lai tính theo lãi kép hay còn gọi giá trị kép được xác định theo ng
FV
n
= V
0
(1+i)
n
Trong đó: FV
n
: Giá trị kép nhận được tại thời điểm cuối kỳ thứ n
V
0
, i, n như trên
Trong công thức trên (1+i)
n
được gọi thừa số lãi, biểu thị giá trị tương lai của 1
đồng sau n kỳ với lãi suất mỗi kỳ là i tính theo phương pháp lãi kép. Giá trị của nó phụ thuộc
vào lãi suất 1 kỳ (i) và số kỳ tính lãi (n). Có thể sử dụng ký hiệu f(i,n) để biểu thị thừa số lãi:
(1+i)
n
= f(i,n). Từ đó, công thức tính giá trị kép ở trên có thể viết dưới dạng sau:
FV
n
= V
0
. f(i, n)
* Chú ý:
- Để thuận tiện cho việc tính toán khi sử dụng một số phép toán tài chính người ta lập
bảng tính sẵn gọi bảng tài chính. Căn cứ vào bảng tài chính số 1 thể dễ dàng tìm được giá
trị (1+i)
n
với các giá trị tương ứng của i và n
- Nếu đơn vị thời gian của i n không đồng nhất thì trước tiên phải biến đổi công
thức cơ bản để chúng đồng nhất với nhau rồi mới áp dụng công thức (Nếu i tính theo năm)
+ Nếu i tính theo năm còn n tính theo tháng thì: I =
+ Nếu i tính theo năm còn n tính theo ngày thì: I =
103
2D
E
2D
F
2D
G
HHI
2D
dụ: Một người gửi tiền tiết kiệm 100 triệu đồng theo kỳ hạn gửi 1 năm với lãi
suất 10%/năm. Sau 5 năm người đó mới rút tiền gốc lãi. Hỏi sau 5 năm người đó nhận
được số tiền là bao nhiêu?
Giải: 1. Tính theo lãi kép
Số tiền ở cuối năm thứ 5 người đó nhận được là:
FV
5
= 100. (1+10%)
5
= 100.[f(10%,5)] = 100 * 1,611 = 161,6 tr.đồng
2. Tính theo lãi đơn
Nếu kỳ hạn gửi tiền là 5 năm với lãi suất 10%/năm (5 năm tính lãi 1 lần) thì sau 5 năm
người đó chỉ nhận được số tiền (theo cách tính lãi đơn) là:
F
5
= 100 * (1+10%*5) = 150 tr.đồng
So sánh giá trị kép và giá trị đơn chênh lệch là: 161,1 – 150 = 11,1 tr.đồng
b. Giá trị tương lai của một chuỗi tiền tệ
Phần trên chúng ta đã tính giá trị tương lai của một khoản tiền đơn lẻ. Trong thực tế
hiện tượng thường gặp có nhiều khoản tiền phát sinh liên tục theo những khoảng cách thời
gian bằng nhau tạo thành một chuỗi các khoản tiền tệ. Khoảng cách giữa hai khoản tiền phát
sinh liền nhau được tính theo năm, quí, tháng…còn gọi là một kỳ hay một thời kỳ.
Tùy theo thời điểm phát sinh các khoản tiền ở cuối mỗi kỳ hay ở đầu mỗi kỳ mà người
ta có thể phân biệt thành chuỗi tiền tệ trả cuối kỳ và chuỗi tiền tệ trả đầu kỳ
Ta có sơ đồ về chuỗi tiền tệ như sau:
+ Chuỗi tiền tệ trả cuối k
J E F G KE
2D
E
2D
F
2D
G
HIIII 2D
Trong đó: PV
1,
PV
2
, …PV
n
các khoản tiền phát sinh các thời điểm cuối kỳ thứ
nhất, thứ hai,…thứ n.
+ Chuỗi tiền tệ trả đầu kỳ
J E
F
G
K E
104
Trong đó: PV
1,
PV
2
, …PV
n
là các khoản tiền phát sinh ở các thời điểm đầu kỳ thứ
nhất, thứ hai,…thứ n.
Giá trị tương lai của một chuỗi tiền tệ được xác định bằng tổng giá trị tương lai của
tất cả các khoản tiền trong chuỗi tiền tệ đó.
* Giá trị tương lai của một chuỗi tiền tệ cuối k
- Trường hợp các khoản tiền phát sinh ở cuối mỗi kỳ không bằng
nhau: FV = PV
1
(1+i)
n-1
+ PV
2
(1+i)
n-2
+ + PV
n
Hay FV =
Trong đó: FV: Giá trị tương lai của chuỗi tiền tệ trả cuối kỳ
FV
t
: Giá trị khoản tiền phát sinh cuối kỳ t
i: Lãi suất/kỳ
n: Số kỳ
dụ: Anh Tư gửi vào ngân hàng liên tục trong 5 năm số tiền gửi mỗi năm lần lượt
20 triệu, 22 triệu, 22 triệu, 25 triệu, 25 triệu. Ngay sau lần gửi thứ 5, anh rút hết ra. Hỏi
tổng số tiền anh Tư rút ra là bao nhiêu? Biết rằng lãi suất tiền gửi là 8%/năm
Giải: Tổng số tiền rút ra là giá trị cuối của số tiền gửi
FV = 20(1+8%)
4
+22(1+8%)
3
+22(1+8%)
2
+25(1+8%)+25=132,5842 triệu
- Trường hợp các khoản tiền phát sinh ở cuối mỗi kỳ bằng nhau:
Khi các khoản tiền phát sinh ở cuối các thời điểm bằng nhau (PV
1
= PV
2
= …PV
n
= A) thì giá
trị tương lai của chuỗi tiền tệ được xác định như sau:
FV = A x
Trong đó: FV: Giá trị tương lai của chuỗi tiền tệ trả cuối
kỳ A: Giá trị khoản tiền đồng nhất ở cuối các kỳ
i: Lãi suất/kỳ
n: Số kỳ
Giá trị của biểu thức được tính sẵn trong bảng tài chính số 3
Ví dụ: Lấy ví dụ trên nhưng số tiền gửi mỗi năm là 22 triệu đồng
FV = 22*=22* 5,8666 = 129,06522
FV = 10 * = 10 * 15,9374 = 159,374 (trđ)
* Giá trị tương lai của một chuỗi tiền tệ đầu k
- Trường hợp các khoản tiền phát sinh ở đầu mỗi kỳ không bằng nhau:
105
FV = PV
1
(1+i)
n
+PV
2
(1+i)
n-1
+....PV
n
(1+i)
FV
,
=
Trong đó: FV
,
: Giá trị tương lai của chuỗi tiền tệ trả đầu kỳ
PV
t
: Khoản tiền phát sinh ở thời điểm đầu kỳ thứ
t i,n: Như trên
- Trường hợp các khoản tiền phát sinh ở đầu mỗi kỳ bằng
nhau: (PV
1
=PV
2
= …PV
n
= A)
FV
,
= A x
Trong đó: FV
,
: Giá trị tương lai của chuỗi tiền tệ trả đầu k
A: Giá trị khoản tiền đồng nhất phát sinh đầu các
kỳ i,n: Như trên
dụ: Ông A muốn để dành tiền cho con đi học đại học. Ngay từ lúc mới sinh con,
ông dự định sẽ mua bảo hiểm nhân thọ của công ty bảo hiểm AIA với mức đóng phí đều đặn
hàng năm 7 triệu đồng, lãi suất ổn định mức 6%/năm. Hỏi khi con ông tròn 18 tuổi, hợp
đồng bảo hiểm kết thúc thì số số tiền ông A sẽ được thanh toán là bao nhiêu?
Giải: Số tiền ông A được thanh tóan khi hợp đồng kết thúc là: (giả sử ông A gửi tiền
vào đầu các năm)
FV
,
= 7* = 7*30,9057*1,06 = 229,32 triệu
6.3.2.2. Giá trị hiện tại của tiền
a. Giá trị hiện tại của một khoản tiền
Giá trị hiện tại của 1 khoản tiền (còn gọi là hiện giá) là giá trị của khoản tiền phát sinh
trong tương lai được qui về thời điểm hiện tại (thời điểm gốc) theo 1 tỷ lệ chiết khấu nhất
định
Như trên đã nêu, lãi suất được coi giá trị của thời gian rủi ro. thế, để tính đổi
giá trị của một khoản tiền trong tương lai về giá trị hiện tại, người ta phải sử dụng một lãi
suất như một công cụ để chiết khấu giá trị theo thời gian. thể xem t dụ sau: Một
người hiện tại 10 triệu đồng cho vay sẽ được trả với lãi suất 10%/năm, như vậy sau 1
năm người đó số tiền là: 10.(1+10%) = 11 triệu đ. Điều đó nghĩa giá trị hiện tại của
khoản tiền 11 triệu đ là 10 triệu đ. Vậy nếu sau 1 năm sẽ thu được số tiền là 11 triệu đ thì giá
trị hiện tại của sẽ 11/1+10% = 10 triệu đồng. Từ đó giá trị hiện tại của một khoản tiền
phát sinh tại một thời điểm trong tương lai được xác định bằng công thức tổng quát:
PV = FV
n
*
Trong đó:
106
PV: Giá trị hiện tại của khoản tiền phát sinh trong tương lai
FV
n
: Giá trị khoản tiền tại thời điểm cuối kỳ n trong tương lai
i: Tỷ lệ chiết khấu hay tỷ lệ hiện tại hoá
n: Số kỳ chiết khấu
được gọi hệ số chiết khấu hay hệ số hiện tại hoá, biểu thị giá trị hiện tại của 1
đồng phát sinh cuối kỳ thứ n trong tương lai được hiệu p(i,n). Vậy công thức trên
có thể viết như sau:
PV = FV
n
* p(i,n)
thể sử dụng bảng tài chính số 2 để xác định giá trị hiện tại của 1 đồng ( ) với các
giá trị tương ứng i và n.
Như vây, thực chất của cách tính giá trị hiện tại phép tính ngược của cách tính giá
trị tương lai. Phương pháp tính như trên được gọi phương pháp hiện tại hóa giá trị hay
phương pháp chiết khấu giá trị.
Từ công thức tính giá trị hiện tại của một khoản tiền nêu trên có thể rút ra nhận xét:
- Thời điểm phát sinh khoản tiền càng xa thời điểm hiện tại thì giá trị hiện tại của
khoản tiền càng nhỏ
- Tỷ lệ chiết khấu hay tỷ lệ hiện tại hoá càng lớn thì giá trị hiện của khoản tiền ng
nhỏ
b. Giá trị hiện tại của một chuỗi tiền tệ
* Giá trị hiện tại của chuỗi tiền tệ cuối kỳ
- Trường hợp các khoản tiền phát sinh ở cuối mỗi kỳ không bằng nhau
Giả sử có các khoản tiền FV
1,
FV
2
, …FV
n
phát sinh ở cuối các thời kỳ khác nhau trong
tương lai (cuối kỳ thứ nhất, thứ hai,…thứ n), ta có giá trị hiện tại của các khoản tiền được xác
định bằng công thức sau:
PV =
PV = hoặc =
Trong đó: PV: Giá trị hiện tại của chuỗi tiền tệ cuối kỳ
FV
t
: Giá trị của khoản tiền phát sinh ở cuối kỳ thứ t
i: Tỷ lệ chiết khấu
n: Số kỳ
- Trường hợp các khoản tiền phát sinh ở cuối mỗi kỳ bằng nhau:
107
Khi các khoản tiền phát sinh các thời điểm cuối kỳ trong tương lai đều bằng nhau
(FV
1
= FV
2
= …= FV
n
= A) thì giá trị hiện tại của các khoản tiền đó được xác định bằng công
thức:
PV = A *
Trong đó:
PV: Giá trị hiện tại của chuỗi tiền tệ cuối k
A: Giá trị khoản tiền đồng nhất phát sinh cuối các kỳ trong tương
lai i, n: như trên
thể sử dụng bảng tài chính số 4 để xác định giá trị của biểu
thức với các giá trị tương ứng i và n
dụ: Doanh nghiệp A mua một số thiết bị theo phương thức thanh toán trả dần mỗi
năm 1 lần trong thời gian 10 năm, mỗi năm trả số tiền 80 triệu đồng, sao cho năm cuối
cùng vừa hết nợ. Lần trả đầu tiên được thực hiện sau 1 năm kể từ ngày mua ng. Tính số
tiền phải trả qui về thời điểm hiện tại. Biết lãi suất thị trường tính là 12%/năm
Giải: Số tiền phải trả qui về thời điểm hiện tại là:
PV = 80 *= 452 trđ
* Giá trị hiện tại của chuỗi tiền tệ đầu k
- Trường hợp các khoản tiền phát sinh ở đầu mỗi kỳ không bằng nhau:
PV = FV
1
+
PV = *
Hoặc PV =
Trong đó: PV : Giá trị hiện tại của chuỗi tiền tệ đầu k
FV
t
: Giá trị của khoản tiền phát sinh thời điểm đầu kỳ thứ t trong
tương lai
i: Tỷ lệ chiết khấu 1 kỳ
n: Số kỳ
- Trường hợp các khoản tiền phát sinh ở đầu mỗi kỳ bằng nhau (FV
1
= FV
2
= …FV
n
=
A):
PV = A x
Trong đó: PV: Giá trị hiện tại của chuỗi tiền tệ đầu k
A: Giá trị khoản tiền đồng nhất phát sinh đầu các thời kỳ trong tương
lai
108
Trong thực tế để xem xét đưa ra quyết định đầu người ta thường hay tính giá trị
hiện tại của tiền hơn giá trị tương lai. Việc xem xét giá trị hiện tại của tiền ý nghĩa rất
lớn trong kinh tế. Trước hết, với phương pháp xác định giá trị hiện tại cho phép xem xét các
vấn đề tài chính của doanh nghiệp dưới một góc độ mới có tính đến yếu tố thời gian và sự rủi
ro để từ đó đưa ra các quyết định kinh doanh đúng đắn hơn.
6.4. Các phương pháp chủ yếu đánh giá lựa chọn dự án đầu
Để đánh giá và lựa chọn dự án đầu tư trước hết cần phải tiến hành phân loại các dự án.
Căn cứ vào mối quan hệ giữa các dự án, thể phân chia các dự án đầu thành hai loại:
Loại dự án đầu tư độc lập và loại dự án đầu tư loại trừ nhau.
+ Dự án đầu độc lập dự án khi được chấp thuận hay bị loại bỏ không ảnh
hưởng già đến các dự án khác.
+ Dự án loại trừ nhau hay dự án xung khắc loại dự án khi một dự án này được
thực hiện thì những dự án khác còn lại sẽ bị loại bỏ. Chẳng hạn một công ty vận tải cần chở
hàng đang xem xét hai khả năng nên mua hay thuê phương tiện đó. Đây hai dự án loại
trừ nhau. Việc quyết định cuối cùng chọn dự án đầu thuộc trách nhiệm thẩm quyền
của những người lãnh đạo doanh nghiệp. Để giúp cho việc ra quyết định đúng đắn, bộ phận
tài chính doanh nghiệp có nhiệm vụ tham gia ý kiến tham mưu với lãnh đạo doanh nghiệp.
thế, bộ phận tài chính doanh nghiệp cần nắm được nhuwnhx phương pháp nhất định về lựa
chọn dự án đầu tư. nhiều phương pháp lựa chọn dự án đầu tư, trên góc độ tài chính để
xem xét người ta thường sử dụng một số phương pháp chủ yếu sau:
6.4.1. Phương pháp thời gian hoàn vốn đầu (PP)
Phương pháp này chủ yếu dựa vào chỉ tiêu thời gian thu hồi vốn đầu tư để lựa chọn dự
án
Thời gian hoàn vốn đầu tư (Thời gian thu hồi vốn) là khoảng thời gian cần thiết mà dự
án tạo ra dòng tiền thuần bằng chính số vốn đầu tư ban đầu để thực hiện dự án.
Thời gian hoàn vốn càng ngắn, dự án đầu tư càng hấp dẫn.
Để xác định thời gian thu hồi vốn đầu tư của dự án có thể chia làm 2 trường hợp:
Trường hợp 1: Nếu dự án đầu tư tạo ra chuỗi tiền tệ thu nhập đều đặn hàng năm thì
thời gian thu hồi vốn đầu tư được xác định theo công thức:
Vốn đầu tư ban đầu
Thời gian thu hồi vốn đầu tư (năm) =
Dòng tiền thuần hàng năm của đầu tư
Trường hợp 2: Dự án đầu tạo ra chuỗi tiền tệ thu nhập không ổn định các m.
Thời gian thu hồi vốn đầu tư được xác định theo cách sau:
109
+ Xác định số năm thu hồi vốn đầu tư bằng cách tính số vốn đầu tư còn phải thu hồi ở
cuối năm lần lượt theo thứ tự
VĐT còn phải thu hồi =
Số vốn ĐT chưa thu Dòng tiền thuần của đầu tư
ở cuối năm t hồi ở cuối năm (t-1) của đầu tư năm t
+ Khi số vốn đầu còn phải thu hồi cuối năm nào đó nhỏ hơn dòng tiền thuần của
đầu năm kế tiếp thì cần xác định thời gian (số tháng) thu hồi nốt vốn đầu trong năm kế
tiếp
Số tháng thu hồi VĐT Số vốn đầu chưa thu hồi cuối năm (t-1) x
12 trong năm t =
Dòng tiền thuần của năm t
Tổng hợp số năm số tháng thu hồi vốn đầu chính thời gian thu hồi vốn đầu
của dự án
* Đánh giá dự án:
+ Đối với dự án loại trừ nhau: Dự án thời gian thu hồi vốn ngắn nhất sẽ được lựa
chọn
+ Đối với dự án độc lập: Dự án thời gian thu hồi vốn dài hơn thời gian thu hồi vốn
tiêu chuẩn sẽ bị loại bỏ
* dụ: Hai dự án đầu A B số vốn đầu 150 triệu đồng (bỏ vốn 1 lần).
Khoản thu nhập dự kiến (bao gồm khấu hao và lợi nhuận sau thuế) ở các năm trong tương lai
như sau:
Bảng số 6.1 : Dòng tiền thuần của dự án
Đơn vị tính: Triệu đồng
m 1 2 3 4 5
Dự án A 60 50 50 40 40
Dự án B 30 50 70 80 80
Ta có: Thời gian thu hồi của dự án A được tính như sau:
Bảng số 6.2:
Đơn vị tính: Triệu đồng
m ng tiền
của DA
Vốn đầu còn phải
thu hồi cuối năm
Thời
gian
thu
hồi
lũy kế
0 (150) (150)
2
1 60 (90)
2 50 (40)
3 50 40/50 *12 = 9,6
4 40
5 30
110
Thời gian thu hồi vốn đầu của dự án A: T
A
= 2+*12 = 2 năm 9,6
tháng Tương tự thời gian thu hồi vốn đầu tư của dự án B là: 3 năm
- Ưu điểm: Đơn giản, dễ tính toán, phù hợp với những dự án qui mô vừa nhỏ hoặc
với chiến lược thu hồi vốn nhanh, tăng vòng quay vốn
- Hạn chế:
+ Chú trọng lợi ích ngắn hạn hơn lợi ích dài hạn. Những dự án mức sinh lời chậm
như dự án sản xuất sản phẩm mới hay xâm nhập vào thị trường mới thì phương pháp này
không thích hợp
+ Không chú trọng tới yếu tố giá trị thời gian của tiền
6.4.2. Phương pháp thời gian thu hồi vốn chiết khấu (DPP)
Thời gian thu hồi vốn có chiết khấu là khoảng thời gian cần thiết để tổng giá trị hiện
tại tất cả dòng thu nhập trong tương lai của dự án vừa đủ bù đắp số vốn đầu tư bỏ ra ban đầu
Ví dụ: Vẫn ví dụ về 2 dự án A và B ở trên, giả định chi phí sử dụng vốn là
10% Thời gian thu hồi vốn có chiết khấu của dự án A như sau:
Bảng số 6.3:
Đơn vị tính: Triệu đồng
m
ng tiền
của DA
ng tiền
chiết khấu
Vốn đầu
còn
phải
thu
hồi cuối m
Thời gian thu hồi
lũy kế (năm)
0 (150) (150) (150)
3
1 60 54,54 (95,46)
2 50 41,13 (54,33)
3 50 37,55 (16,78)
4 40 27,32 16,78/27,32= 0,61
5 30 18,63
T
A
= 3 năm + 0,61 x 12 = 3 năm và 7,3 tháng
Tương tự thời gian thu hồi vốn có chiết khấu của dự án B là: 3 năm và 6,3 tháng
Phương pháp thời gian thu hồi vốn chiết khấu đã khắc phục được hạn chế của thời
gian hoàn vốn đầu giản đơn xem xét dự án tính đến giá trị thời gian của tiền tệ. Tuy
nhiên, phương pháp này vẫn mang đầy đủ những nhược điểm của phương pháp thời gian thu
hồi vốn đơn giản.
6.4.3. Phương pháp giá trị hiện tại thuần (NPV)
Tiêu chuẩn đánh giá lựa chọn dự án đầu chủ yếu giá trị hiện tại thuần của dự
án.
111
Theo phương pháp này, tất cả các khoản thu nhập đạt được trong tương lai và vốn đầu
tư bỏ ra để thực hiện dự án đều phải qui về giá trị hiện tại theo một tỷ lệ chiết khấu nhất định.
Trên sở đó so sánh giá trị hiện tại của thu nhập giá trị hiện tại của vốn đầu để xác
định giá trị hiện tại thuần của dự án.
Công thức tính như sau:
NPV =
Trong đó:
NPV: Giá trị hiện tại thuần của DAĐT
CF
t
: Dòng tiền thuần của đầu tư ở năm t
CF
0
: Vốn đầu tư ban đầu của DA
n: Vòng đời của DA
r: Tỷ lệ chiết khấu hay tỷ lệ hiện tại hóa
Tỷ lệ chiết khấu được sử dụng trong việc tính giá trị hiện tại thuần của DAĐT thường
là chi phí sử dụng vốn, đó chính là tỷ suất sinh lời mà nhà đầu tư đòi hỏi
Như vậy, giá trị hiện tại thuần thể hiện giá trị tăng thêm do đầu tư đưa lại có tính đến
yếu tố giá trị thời gian của tiền
Việc sử dụng giá trị hiện tại thuần làm tiêu chuẩn đánh giá lựa chọn dự án được
xác định như sau:
- Xác định giá trị hiện tại thuần của mỗi DAĐT
- Đánh giá và lựa chọn dự án: Cần phân biệt 3 trường hợp:
+ Nếu giá trị hiện tại thuần của DA là 1 số âm (NPV<0) thì dự án bị loại b
+ Nếu giá trị hiện tại thuần của DA bằng không (NPV=0) thì tùy thuộc o tình
hình cụ thể sự cần thiết của dự án doanh nghiệpthể quyết định chấp thuận hay loại
bỏ DA
+ Nếu giá trị hiện tại thuần của DA 1 số dương
(NPV>0): Nếu các dự án độc lập thì đều có thể được chấp
thuận
Nếu các dự loại trừ nhau và vòng đời của các dự án bằng nhau thì sẽ chọn dự án có giá
trị hiện tại thuần dương cao nhất (trong điều kiện không bị giới hạn khả năng huy động vốn
đầu tư)
dụ: Hai dự án đầu A B cùng đòi hỏi vốn đầu ban đầu 100 triệu đồng
dự kiến skéo dài trong 3m. Theo tính toán ban đầu, dự án A sẽ mang lại các khoản thu
nhập ròng lần lượt trong các năm từ năm thứ nhất đến năm thứ ba là: 10 trđ, 60trđ 80trđ.
112
Tương tự, dòng tiền của dự án B 70 trđ, 50 trđ và 20 trđ. Chi phí sử dụng vốn bình quân
nhà đầu tư phải chịu khi huy động vốn là 10%. Hãy cho biết:
a. Nếu 2 dự án độc lập với nhau, chọn dự án nào?
b. Nếu 2 dự án loại trừ lẫn nhau, chọn dự án
nào? NPV
A
=
Tương tự NPV
B
= 19,95 t
Kết luận: Nếu 2 dự án độc lập với nhau, chọn cả 2 dự án
Nếu 2 dự án loại trừ nhau, chọn dự án B vì NPV
B
>NPV
A
- Ưu điểm của phương pháp
+ Đã tính đến yếu tố giá trị theo thời gian của tiền
+ Cho phép đo lường trực tiếp giá trị tăng thêm do vốn đầu tư tạo ra từ đó, giúp cho
việc đánh giá và lựa chọn dự án phù hợp với mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận của doanh nghiệp
+ Có thể tính đến giá trị hiện tại thuần của dự án đầu tư bằng cách cộng giá trị hiện tại
thuần của nhiều dự án với nhau. Nghĩa là:
NPV (A + B) + NPV
A
+ NPV
B
Trong khi các phương pháp khác không thể có tính chất này.
- Hạn chế của phương pháp:
+ Không phản ánh mức sinh lời của đồng vốn đầu tư
+ Không cho thấy mối liên hệ giữa mức sinh lời của vốn đầu tư và chi phí sử dụng vốn
+ Không thể đưa ra kết quả lựa chọn khi các dự án không đồng nhất về mặt thời gian
cũng như xếp hạng ưu tiên trong việc lựa chọn các dự án đầu khi nguồn vốn của doanh
nghiệp bị giới hạn
6.4.4. Phương pháp tỷ suất doanh lợi nội bộ (IRR)
Tỷ suất doanh lợi nội bộ hay còn gọi lãi suất hoàn toàn mới vốn nội bộ một lãi
suất chiết khấu với mứci suất đó làm cho giá trị hiện tại của các khoản tiền thuần hàng
năm trong tương lai do đầu mang lại bằng với vốn đầu ban đầu. Hay nói cách khác, tỷ
suất doanh lợi nội bộ là một lãi suất mà chiết khấu với mức lãi suất đó làm cho giá trị hiện tại
thuần (NPV) của khoản đầu tư bằng không (=0).
Ta có:
Hoặc: NPV =
Trong đó: NPV, CF
t
, CFo như đã nêu ở trên
IRR: Tỷ suất doanh lợi nội bộ của DAĐT
113
Tỷ suất doanh lợi nội bộ cũng là một trong những đại lượng phản ánh mức sinh lời của
DAĐT.
Để xác định được tỷ suất doanh lợi nội bộ của dự án, người ta thường sử dụng 2
phương pháp: Phương pháp thử và xử lý sai số và phương pháp nội suy.
* Phương pháp thử xử sai số: Theo phương pháp này trước tiên người ta phải tự
chọn một lãi suất s dụng i suất đó làm tỷ lệ chiết khấu để tìm giá trị hiện tại của các
khoàn thu, giá trị hiện tại của vốn đầu so sánh chúng với nhau để xác định giá trị hiện
tại thuần của dự án.
Nếu giá trị hiện tại thuần của dự án khác không tương đối lớn thì tiếp tục thử lại bằng
cách nâng mức lãi suất lên (nếu NPV>0) hoặc hạ mức lãi suất xuống (nếu NPV<0), cứ làm
như vậy cho đến khi tìm được một mức lãi suất làm cho giá trị hiện thuần của DAĐT bằng
không hoặc xấp xỉ bằng không thì lãi suất đó chính tỷ suất doanh lợi nội bộ (IRR) của dự
án.
* Phương pháp nội suy: Theo phương pháp này, việc xác định tỷ suất doanh lợi nội bộ
của dự án được thực hiện theo các bước sau:
Bước 1: Chọn một mức lãi suất tuỳ ý r
1
sau đó tính giá trị hiện tại thuần của dự án
(NPV
1
) theo lãi suất r
1
.
Bước 2: Chọn tiếp một mức lãi suất r
2
thoả mãn điều kiện:
+ Nếu giá trị hiện tại thuần NPV
1
là một số dương (NPV
1
>0) thì chọn lãi suất r
2
>r
1
sao
cho với r
2
sẽ là cho giá trị hiện tại thuần của dự án là một số âm (NPV
2
<0) và ngược lại.
+ Để đảm bảo mức độ chính xác cao hơn thì chênh lệch giữa r
1
và r
2
trong khoảng 5%.
Bước 3: Tỉm tỷ suất doanh lợi nội bộ của dự án: Tỷ suất doanh lợi nội bộ (IRR) của dự
án sẽ nằm trong khoảng r
1
và r
2
và được xác định theo công thức:
IRR = r
1
+ ( r
2
- r
1
)
dụ: Một dự án đầu tư, dự kiến số vồn đầu bỏ ngay 1 lần 150 triệu đồng, thời
gian hoạt động của dự án kéo dài trong 3 năm. Dự kiến thu nhập do dự án mang lại trong các
năm lần lượt 40 triệu đồng, 60 triệu đồng 90 triệu đồng.y tìm tỷ suất doanh lợi nội
bộ của dự án trên.
thểm tìm IRR gần đúng bằng phương pháp nội suy như
sau: Ta có: NPV =
+ Chọn r
1
= 12% => NPV
1
= -2,38
+ Chọn r
2
= 10% => NPV
2
= 3,51
=> IRR = 12% + (10% - 12%) x
114
IRR còn gọi là tỷ lệ hoàn vốn nội bộ (tỷ lệ hoàn vốn từ những khoản thu nhập của một
dự án). Điều đó có nghĩa là nếu dự án chỉtỷ lệ hoàn vốn (IRR) bằng chi phí sdụng vôố,
thì các khoản thu nhập từ dự án chỉ đủ để hoàn trả phần vốn goóc đã đầu vào dự án trả
i.
Việc đánh giá lựa chọn DAĐT bằng phương pháp tỷ suất daonh lợi nội bộ (IRR)
được thực hiện theo trình tự sau:
+ Xác định tỷ suất doanh lợi nội bộ của DAĐT.
+ Đánh giá lựa chọn dự án: Khi sử dụng tỷ suất doanh lợi nội bộ làm tiêu chuẩn
xem xét chấp nhận hay loại bỏ dự án, thông thường người ta dự trên sở so sánh tỷ suất
doanh lợi nội bộ với chi phí sử dụng vốn cho dự án (r) và cần phân biệt 3 trường hợp sau:
Trường hợp 1: Tỷ suất doanh lợi nội bộ của dự án nhỏ hơn chi phí sử dụng vốn
(IRR<r) thì loại bỏ dự án.
Trường hợp 2: Tỷ suất doanh lợi nội bộ của dự án bằng chi phí dựng vốn (IRR=r) thì
tuỳ theo điều kiện cụ thể sự cần thiết của dự án doanh nghiệp thể chấp nhận hay
loại bỏ dự án.
Trường hợp 3: Tỷ suất doanh lợi nội bộ của dự án lớn hơn chỉ sử dụng vốn (IRR>r):
- Nếu đây là dự án độc lập thì dự án được chấp nhận.
- Nếu dự án thuộc loại loại trừ nhau thì chọn dự án có tỷ suất doanh lợi nôi bộ cao
nhất.
Ưu, nhược điểm của phương pháp tỷ suất doanh lợi nội bộ:
+ Phương pháp này cho phép đánh giá được mức sinh lời của dự án có tính đến yếu tố
giá trị thời gian của tiền.
+ Cho phép dễ dàng so sánh mức sinh lời của dự án với chi phí sử dụng vốn, thấy
được mối liên hệ giữa việc huy động vốn và hiệu quả sử dụng vốn trong việc thực hiện dự án
đầu tư.
+ Cho phép đánh giá khả năng đắp chi phí sử dụng vốn của DAĐT so với tính rủi
ro của (trong khi phương pháp NPV không cung cấp cho ban lãnh đạo doanh nghiệp
những thông tin như vậy). CHẳng hạn, nếu dự án IRR>r, nghĩa thu nhập sau khi đã trừ
chi phí đầu còn lại một khoản lãi, được tích luỹ lại làm tăng tài sản xủa doanh doanh
nghiệp. Do vậy việc chọn các dự án IRR lớn hơn chi phí sử dụng vốn sẽ làmng tài sản
của doanh nghiệp. Mặt khác, nếu chọn dự ánIRR nhỏ hơn chi phí sdụng sẽ dẫn tới tình
trạng thâm hụt vốn làm giảm tài sản của doanh nghiệp.
Tuy nhiên phương pháp này cũng có những hạn chế nhất định:
115
+ Trong phương pháp TSDLNB thu nhập của dự án được giả định i đầu với lãi
suất bằng với TSDLNB của dự án. ĐIều đó khônng thật phù hợp với thực tế nhất đối với
ẹư án có tỷ suất doanh lợi nội bộ ở mức cao.
+ Phương pháp này không chú trọng đến quy mô vốn đầu tư nên có thể dẫn đến trường
hợp kết luận chưa thoả đáng khi đánh giá dự án, vì tỷ suất doanh lợi nội bộ luôn luôn cao đối
với những dự án có quy mô nhỏ.
+ Áp dụng phương pháp tỷ suất doanh lợi nội bộ sẽ rất khó khăn trong đánh giá lựa
chọn dự án có nhiều tỷ suất doanh lợi nội bộ và có thể dẫn đến sai lầm trong việc lựa chọn dự
án.
Một dự án sẽ có nhiều tỷ suất doanh lợi nộ bộ khác nhau khi dòng tiền của dự án đổi
dấu nhiều lần (trường hợp dự án có đầu tư bổ sung và dự án có tái đầu tư…).
Giả sử 2 dự án A và B loại trừ nhau có dòng tiền ở các năm như sau:
Bảng số 6.4: Dòng tiền của dự án
Đơn vị tính: triệu đồng
Năm 0 1 2 3
A -600 320 280 240
B -100 430 -591,25 262,5
Với NPV
A
= O => IRR
A
= 20%
Với NPV
B
= 0 có 3 giá trị IRR khác nhau: 5%, 25% và 100%.
6.4.5. Phương pháp chỉ số sinh lời (PI)
Chỉ số sinh lời cũng một thước đo khả năng sinh lời của một dự án đầu tính
đến yếu tố giá trị thời gian của tiền.
Chỉ số sinh lời được xác định bằng tỷ lệ giữa giá trị hiện tại của các khoản thu nhập từ
dự án và vốn đầu tư ban đầu của dự án.
PI =
Trong đó: PI: Chỉ số sinh lời của dự án
CF
t
, CF
0
như đã nêu ở trên
R: Tỷ lệ chiết khấu, thường sử dụng chi phí sử dụng vốn để thực hiện
dự án.
dụ: Dự án đầu tư A với chi phí sử dụng vốn của dự án 10% dòng tiền của dự
án như sau:
Bảng số 6.5:
Năm NPV (10%) IRR
116
0 1 2
Dòng tiền (Trđ) -1.000 600 600 41 13,06%
PI = = 1,041
Chỉ số PI cho biết thu nhập ròng của dự án sẽ đủ để hoàn trả vốn gốc, trả lãi, còn lại là
phần giá trị tăng thêm tương đương 4,1% của vốn đầu tư ban đầu.
Việc sử dụng chỉ số sinh lời làm tiêu chuẩn để đánh giá lựa chọn dự án đầu được
thực hiện như sau:
+ Xác định cỉ số sinh lời của mỗi dự án đầu tư
+ Đánh giá và lựa chọn dự án: Căn cứ vào chỉ số sinh lời có thể xem xét 3 TH sau:
Trường hợp 1: Chỉ số sinh lời của dự án nhỏ hơn 1 (PI<1) sẽ loại bỏ dự án
Trường hợp 2: Chỉ số sinh lời của dự án bằng 1 (PI = 1), tùy điều kiện thể chấp
thuận hay loại bỏ dự án
Trường hợp 3: Chỉ số sinh lời của dự án lớn hơn 1 (PI>1):
- Nếu đây là dự án độc lập thì dự án được chấp thuận
- Nếu đó là các dự án loại trừ nhau thì thông thường dự án có chỉ số sinh lời (PI) cao
nhất là dự án sẽ được lựa chọn
Ưu điểm của phương pháp:
+ Phương pháp này cho phép đánh giá khả năng sinh lời của dự án đầu tư có tính đến
giá trị thời gian của tiền.
+ Cho thấy mối liên hệ giữa các khoản thu nhập do dự án đưa lại với số vốn đầu tư bỏ
ra để thực hiện dự án.
+ Có thể sử dụng chỉ số sinh lời trong việc so sánh các dự án số vốn đầu khác
nhau để thấy được mức sinh lời của giữa các dự án.
+ Trong trường hợp nguồn vốn bị giới hạn, nếu phải ưu tiên lựa chọn một số dự án
trong nhiều dự án khác nhau thì phương pháp chỉ số sinh lời tỏ ra hữu hiệu hơn.
Giả sử doanh nghiệp có 3 dự án đầu tư với chi phí sử dụng vốn bằng 10% và dòng tiền
của các dự án như sau:
Bảng số 6.6:
Dự án
Dòng tiền các năm (trđ)
NPV 10% PI
0 1 2
A -1.000 600 800 206,6 1,21
B -2.000 1.200 1.500 330,6 1,17
C -1.000 400 1.000 190,6 1,19
Khả năng tài trợ vốn của doanh nghiệp hạn chế ở mức 2.000 t
117
- Dựa vào tiêu chuẩn NPV sẽ chọn dự án B, loại A, C. Vì NPV
B
= 330,6 trđ
- Nếu chọn dự án A C ta sẽ thu được 206,6 + 190,6 = 396,7 trđ với số tiền vốn đầu
tư bằng dự án
Như vậy, nếu dựa theo chỉ số sinh lời sẽ cho phép chọn dự án A và C loại dự án B.
+ Phương pháp này thường cũng giả định tỷ lệ tái đầu tư bằng với mức chi phí sử dụng
vốn, điều này cũng tương tự như trong phương pháp giá trị hiện tại thuần.
Nhược điểm của phương pháp: Phương pháp này không phản ánh trực tiếp giá trị tăng
thêm của dự án đầu tư, thế nếu sử dụng phương pháp chỉ số sinh lời thể dẫn đến quyết
định sai lầm.
CHƯƠNG 7
PHÂN TÍCH DỰ BÁO NHU CẦU TÀI CHÍNH CỦA DOANH NGHIỆP
7.1. Phân tích tài chính doanh nghiệp
Phân tích tài chính vấn đề hết sức quan trọng trong việc đánh giá tình hình doanh
nghiệp. Thông qua việc phân tích tài chính cho phép đánh giá được khái quát và toàn diện các
mặt hoạt động của doanh nghiệp, thấy những điểm mạnh, những điểm yếu những tiềm
năng của doanh nghiệp. Đối với những người quản doanh nghiệp, mục tiêu của việc phân
tích tài chính chủ yếu là:
- Đánh giá tình hình i chính kết quả hoạt động kinh doanh, từ đó đưa ra các dự
báo và kế hoạch tài chính cùng các quyết định tài chính thích hợp.
- Phân tích tài chính nhằm kiểm soát các mặt hoạt động của doanh nghiệp. Trên sở
đó đưa ra các biện pháp quản lý thích ứng để thực hiện các mục tiêu của doanh nghiệp.
Đối với người ngoài doanh nghiệp như những người cho vay và các nhà đầu tư .v.v thì
thông qua việc phân tích tài chính để đánh giá khả năng thanh toán, khả năng sinh lời và hiệu
quả hoạt động kinh doanh của doanh để có quyết định về cho vay, thu hồi nợ hoặc đầu tư vào
doanh nghiệp. Nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp rất phong phú. Phần dưới đây, chỉ
đề cập nội dung phân tích một số vấn để chủ yếu tại sở cho việc dựo, lập kế hoạch tài
chính của doanh nghiệp
7.1.1. Phân tích các hệ số tài chính của doanh nghiệp
7.1.1.1. Nội dung tài liệu phân tích hệ số tài chính
118
Một trong những phương pháp phân tích thường được sử dụng để đánh giá tình hình
tài chính của doanh nghiệp là phân tích các hệ số tài chính.
Thông qua việc phân tích các hệ số tài chính cho phép đánh giá tổng quát tình hình tài
chính của một doanh nghiệp.
Các hệ số tài chính phản ánh đặc trưng tài chính của doanh nghiệp gồm:
- Hệ số về khả năng thanh toán
- Hệ số về cơ cấu tài chính và tình hình đầu tư
- Hệ số về hoạt động
- Hệ số sinh lời
Tài liệu chủ yếu để phân tích các hệ số tài chính là bảng cân đối kế toán và Bản báo
cáo kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Các báo cáo tài chính là cánh cửa quan
trọng để nhận biết tình hình tài chính của doanh nghiệp.
a. Bảng cân đối kế toán
Bảng cân đối kế toán một báo cáo tài chính tổng hợp, phản ảnh tổng quát toàn bộ
tài sản hiện có của doanh nghiệp theo hai cách đánh giá: Tài sản và nguồn vốn hình thành tài
sản tại thời điểm lập báo cáo. Bảng cân đối kế toán là bức ảnh tài chính của doanh nghiệp tại
một thời điểm. Bảng cân đối kế toán được lập theo nguyên tắc cân đối:
TỔNG TÀI SẢN = TỔNG NGUỒN VỐN
Về mặt kinh tế, qua việc xem xét phần “Tài sản”, cho phép đánh giá tổng quát năng
lực và trình độ sử dụng vốn. Về mặt pháp lý, phần “Tài sản” thể hiện số tiềm lực mà doanh
nghiệp có quyền quản lý, sử dụng lâu dài gắn với mục đích thu được các khoản lợi ích trong
tương lai.
Phần “Tài sản” nằm bên trái (với bảng kết cấu theo kiểu hai bên) của bảng cân đối
kế toán, phản ánh qui mô và kết cấu các loại tài sản của doanh nghiệp. Toàn bộ tài sản gồm
hai loại:
A. Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn
Phản ánh tổng giá trị tài sản thuộc quyền sở hữu của công ty có đến thời điểm báo
cáo. Đây là những tài sản mà thời gian sử dụng, luân chuyển thường dưới một năm hoặc một
chu kỳ kinh doanh. Tài sản lưu động bao gồm: Tiền, Các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn;
Các khoản phải thu; Hàng tồn kho; Tài sản lưu động khác; Chi sự nghiệp
B. Tài sản cố định và đầu tư dài hạn
Tài sản cố định và đầu tư dài hạn là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh toàn bộ giá trị còn lại
của tài sản cố định, giá trị thực của các khoản đầu tư tài chính dài hạn, các khoản chi phí xây
119
dựng cơ bản dở dang và các khoản ký cược, ký quĩ dài hạn của doanh nghiệp tại thời điểm
báo cáo.
Kế toán tài sản cố định phải phản ánh ba giá trị của tài sản cố định. Nguyên giá, giá trị
hao mòn và giá trị còn lại. Tài sản cố định bao gồm toàn bộ tài sản cố định hiện có thuộc sở
hữu của doanh nghiệp hình thành từ các nguồn vốn khác nhau. Ngoài ra, còn bao gồm cả tài
sản cố định mà doanh nghiệp thuê dài hạn (thuê tài chính). Tài sản cố định bao gồm: Tài sản
cố định; Các khoản đầu tư tài chính dài hạn; Chi phí xây dựng cơ bản dở dang; Các khoản ký
quĩ, ký cược dài hạn.
Khi xem xét phần “Nguồn vốn”, về mặt kinh tế, người sử dụng thấy được thực trạng
tài chính của doanh nghiệp. Về mặt pháp lý, người sử dụng bảng cân đối kế toán thấy được
trách nhiệm của doanh nghiệp về tổng số vốn đã đăng ký kinh doanh với Nhà nước, về số tài
sản đã hình thành bằng vốn vay ngân hàng và vốn vay đối tượng khác cũng như trách nhiệm
phải thanh toán các khoản nợ với người lao động, với cổ đông, nhà cung cấp, với trái chủ,
với ngân sách…
Phần “Nguồn vốn” nằm bên phải (với bảng kết cấu kiểu hai bên) của bảng CĐKT,
phản ánh cơ cấu nguồn vốn được huy động vào sản xuất kinh doanh. Nó cho biết, tài sản của
doanh nghiệp được hình thành, được tài trợ từ đâu. Toàn bộ nguồn vốn được chia thành hai
mục lớn là nợ phải trả và nguồn vốn chủ sở hữu.
b. Bản báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh
Bản báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh là báo cáo tài chính tổng hợp phản ánh kết
quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong một thời kì nhất định.
Số liệu trên báo cáo này cung cấp những thông tin tổng hợp về phương thức kinh
doanh, về việc sử dụng các tiềm năng vốn, lao động, kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý của doanh
nghiệp và chỉ ra rằng các hoạt động kinh doanh đó đem lại lợi nhuận hay gây ra tình trạng lỗ
vốn.
Đây là một báo cáo tài chính được những nhà quản lý tài chính doanh nghiệp rất quan
tâm, vì nó được cung cấp số liệu về hoạt động kinh doanh mà doanh nghiệp đã thực hiện
trong kỳ. Nó được coi như một bản hướng dẫn để dự tính xem doanh nghiệp đã hoạt động ra
sao trong tương lai.
Nội dung của báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh có thể thay đổi theo từng thời kỳ,
tuỳ theo yêu cầu quản lý, nhưng phải phản ánh được 4 nội dung cơ bản sau: doanh thu, giá
vốn hàng bán, chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp.
Nội dung báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh gồm 2 phần như sau:
Phần I: Lãi, lỗ, phản ánh tình hình và kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
theo từng hoạt động. Về thực chất, phần I phản ánh chi phí kết quả kinh doanh theo 3
hoạt động: Hoạt động sản xuất kinh doanh; Hoạt động tài chính; Hoạt động khác
120
Phần II: Tình hình thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước
c. Chú ý
Khi sử dụng các hệ số tài chính cần chú ý là các hệ số tự nó không có mấy ý nghĩa,
chúng chỉ thực sự có ý nghĩa khi được so sánh:
- So sánh hệ số kỳ này với hệ số kỳ trước của cùng doanh nghiệp, qua đó xem xét
xu hướng thay đổi về tình hình tài chính của doanh nghiệp.
- So sánh với các hệ số trung bình của các doanh nghiệp trong ngành để đánh giá thực
trạng tài chính của doanh nghiệp hoặc so sánh với doanh nghiệp tiên tiến trong ngành để rút
ra những nhận định về tình hình tài chính của doanh nghiệp và đưa ra các quyết định tài
chính phù hợp.
Khi sử dụng các hệ số tài chính, người phân tích phải hiểu được các yếu tố tham gia
vào cấu trúc của hệ số, trên cơ sở đó mới có thể đánh giá được sâu sắc tình hình tài chính
doanh nghiệp.
Dưới đây, sẽ phân tích các hệ số tài chính thông qua số liệu của công ty X:
Biểu: Trích bảng cân đối kế toán của công ty X
Ngày 31 tháng 12 năm N
Đơn vị tính: Triệu đồng
TT Tài sản
S
đầu
k
Số cuối
k
T
T
Nguồn vốn
Số đầu
k
Số cuối
k
A
Tài sản lưu động
đầu ngắn
hạn
380 460 A Nợ phải tr 500 590
I Tiền và các khoản
tương đương tiền
60 80 I Nợ ngắn hạn 110 140
1 Tiền 50 75 1 Vay và nợ ngắn
hạn
15 30
2 Các khoản tương
đương tiền
10 5 2 Phải trả người
bán
30 50
II Các khoản đầu tư
tài chính ngắn hạn
- - 3 Người mua trả
tiền trước
- -
III
Các khoản phải
thu
70 100 4 Thuế và các
khoản phải nộp
nhà nước
17 25
IV Hàng tồn kho 250 280 5 Phải trả công
nhân viên
48 35
V Tài sản ngắn hạn - - II Nợ dài hạn 390 450
121
khác
B Tài sản cố định
đầu dài hạn
420 560 - Vay và nợ dài
hạn
I Các khoản phải
thu dài hạn
- - B Vốn chủ s
hữu
300 430
II Tài sản cố định 380 490 I Vốn chủ sở hữu 300 410
- Nguyên giá 510 665 - Vốn đầu tư của
chủ sở hữu
240 310
- Giá trị hao mòn
luỹ kế
(130) (175) - Thặng dư vốn
cổ phần
15 29
III Bất động sản đầu
- - - Quĩ đầu tư phát
triển
20 28
IV Các khoản đầu tư
tài chính dài hạn
30 50 - Quĩ dự phòng
tài chính
15 17
V Tài sản dài hạn
khác
10 20 - Lợi nhuận chưa
phân phối
10 26
II Nguồn kinh phí
và quĩ khác
- 20
Tổng cộng tài sản 800 1.020 Tổng cộng
nguồn vốn
800 1.020
Biểu: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm N của công ty X
Đơn vị tính: Triệu đồng
Chỉ tiêu Năm trước Năm nay
1 Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch v 1.370 1.700
2 Các khoản giảm tr 150 195
3 Doanh thu thuần về bán hàng và cung cấp dịch vụ 1.220 1.505
4 Giá vốn hàng bán 960 1.175
5 Lợi nhuận gộp về bán hàng và cung cấp dịch vụ 260 330
6 Chi phí bán hàng 55 80
7 Chi phí quản lý doanh nghiệp 85 110
8 Lợi nhuận bán hàng và cung cấp dịch vụ 120 140
9 Doanh thu hoạt động tài chính 30 55
10 Chi phí hoạt động tài chính 60 85
Trong đó: Chi phí lãi vay 60 85
11 Lợi nhuận từ hoạt động tài cnh - 30 - 30
12 Thu nhập khác - -
13 Chi phí khác
14 Lợi nhuận khác - -
15 Tổng lợi nhuận trước thuế 90 110
16 Thuế thu nhập doanh nghiệp 22,5 27,5
17 Lợi nhuận sau thuế 67,5 82,5
7.1.1.2. Phân tích tổng quát tình hình tài chính của doanh nghiệp
122
Dựa trên cơ sở số liệu của Bảng cân đối kế toán và Báo cáo kết quả hoạt động kinh
doanh, phân tích tổng quát tình hình tài chính doanh nghiệp nhằm nhìn nhận bao quát ban đầu
tình hình của doanh nghiệp, thông thường cần xem xét một số biến động chủ yếu sau giữa
cuối năm và đầu năm hoặc của năm nay so với năm trước:
- Sự tăng, giảm tổng tài sản.
- Sự biến động của nợ phải trả.
- Sự tăng trưởng của doanh thu thuần bán hàng, giá vốn của hàng bán, lợi nhuận
bán hàng, lợi nhuận sau thuế.
Qua nghiên cứu công ty X có thể thấy tổng sản lượng cuối kỳ so với đầu kỳ tăng 25%
là số tăng khá lớn, trong khi đó nợ phải trả chỉ tăng 18%. Doanh thu thuần bán hàng năm nay
so với năm trước tăng 22,95%, mặc dù có thấp hơn chút ít so với tốc độ tăng tài sản, nhưng
nhìn chung tình hình tăng trưởng của công ty là khả quan. Giá vốn hàng bán chỉ tăng 22,4%
thấp hơn tốc độ tăng doanh thu, đó là dấu hiệu tốt trong việc quản lý chi phí sản xuất và giá
thành sản xuất. Lợi nhuận bán hàng tăng 20,1% và lợi nhuận sau thuế tăng 16,6% so với năm
trước. Đây cũng là dấu hiệu tốt và sự phát triển của công ty, tuy vậy tốc độ tăng lợi nhuận
chưa thỏa đáng so với sự tăng tài sản và doanh thu.
7.1.1.3. Phân tích hệ số tài chính
a. Hệ số khả năng thanh tn
Để đánh giá khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn khi chúng đến kỳ hạn thanh
toán, người ta thường sử dụng các chi tiêu chủ yếu sau:
- Hệ số khả năng thanh toán hiện thời hay khả năng thanh toán nợ ngắn hạn
Hệ số này được tính bằng cách lấy tổng tài sản lưu động tài sản ngắn hạn chia cho số
nợ ngắn hạn của doanh nghiệp:
Hệ số khả năng
thanh toán hiện
thời
Tổng tài sản ngắn hạn
=
Nợ ngắn hạn
Tổng tài sản lưu động bao hàm cả khoản đầu tư tài chính ngắn hạn. Số nợ ngắn hạn là
những khoản nợ phải trả trong khoảng thời gian dưới 12 tháng bao gồm: Các khoản vay ngắn
hạn, phải trả cho người bán, thuế và các khoản phải trả người lao động, nợ dài hạn đến hạn
phải trả, các khoản phải trả khác có thời hạn dưới 12 tháng.
Hệ số này phản ánh khả năng chuyển đổi tài sản thành tiền để trang trải các khoản nợ
ngắn hạn, thế, hệ số này cũng thể hiện mực độ đảm bảo thanh toán các khoản nợ ngắn
hạn của doanh nghiệp.
123
Để đáng giá hệ số này cần dựa vào hệ số trung bình của các doanh nghiệp trong cùng
ngành. Cần thấy rằng, hệ số này ở các ngành nghề kinh doanh khác nhau có sự khác nhau.
Một căn cứ quan trọng để đánh là so sánh với hệ số thanh toán ở các thời kỳ trước đó của
doanh nghiệp.
Thông thường, khi hệ số này thấp thể hiện khả năng trả nợ của doanh nghiệp là yếu và
cũng là dấu hiệu báo trước những khó khăn tiểm ẩn về tài chính mà doanh nghiệp có thể gặp
phải trong việc trả nợ. Hệ số này cao cho thấy doanh nghiệp có khả năng cao trong việc sẵn
sàng thanh toán các khoản nợ đến hạn.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp hệ số này quá cao chưa chắc đã phản ánh năng
lực thanh toán của doanh nghiệp tốt. Do vậy để đánh giá đúng hơn cần xem xét thêm tình
hình của doanh nghiệp.
Căn cứ vào Bảng cân đối kế toán của công ty X nêu trên có thể xác định:
Hệ số khả năng thanh
toán hiện thời đầu kỳ
Hệ số khả năng thanh
toán cuối kỳ
380
= 3,45
110
460
= 3,28
140
Giả sử hệ số trung bình của ngành là 2,5 thì hệ số thanh toán hiện thời của công ty ở
cuối kỳ so với đầu kỳ là thấp hơn, tuy nhiên so với hệ số trung bình của ngành lại là quá cao.
Điều này chưa chắc đã tốt, có thể công ty có một bộ phận hàng tồn kho bị ứ đọng lại ở khoản
phải thu quá lớn. Để đánh giá được sát hơn cần kết hợp xem xét các chỉ tiêu khác hoặc đi sâu
xem xét chi tiết hơn.
- Hệ số thanh toán nhanh
Là một chỉ tiêu đánh giá chặt chẽ hơn khả năng thanh toán của doanh nghiệp, được xác
định bằng tài sản lưu động trừ đi hàng tồn kho và chia cho số nợ ngắn hạn. Ở đây, hàng tồn
kho bị loại trừ ra, bởi lẽ trong tài sản lưu động, hàng tồn kho được coi là loại tài sản có tính
thanh khoản thấp hơn. Hệ số này được xác định bằng công thức sau:
Hệ số thanh
toán nhanh
Đối với công ty X:
Tổng tài sản ngắn hạn – Hàng tồn kho
=
Nợ ngắn hạn
Hệ số thanh
toán nhanh
đầu kỳ
380 -250
=
110
≈ 1,18
Hệ số thanh toán = 460 – 280 1,28
124
nhanh cuối kỳ 140
Hệ số trung bình của ngành là 1,5. Như vậy, khả năng thanh toán nhanh của công ty
cuối kỳ đã được cải thiện tốt hơn đầu kỳ, tuy nhiên, so với hệ số trung bình của ngành khi còn
thấp. Điều đó cho thấy, công ty cần phải chú ý hơn việc đảm bảo khả năng thanh toán.
Ngoài hai hệ số trên, để đánh giá sát hơn khả năng thanh toán của doanh nghiệp còn có
thể sử dụng chỉ tiêu hệ số vốn bằng tiền hay còn có thế gọi là hệ số thanh toán tức thời, được
xác định bằng công thức sau:
Hệ số thanh
toán tức
thời
Tiền + các khoản tương đương tiền
=
Nợ ngắn hạn
Ở đây, tiền bao gồm tiền mặt, tiền gửi, tiền đang chuyển. Các khoản tương đương tiền
là các khoản đầu tư ngắn hạn về chứng khoán, các khoản đầu tư ngắn hạn khác có thể dễ dàng
chuyển đổi thành tiền trong thời hạn 3 tháng và không gặp rủi ro lớn. Đối với công ty X:
Hệ số thanh toán
tức thời đầu kỳ
Hệ số thanh toán
60 tr
= 0,54
110 tr
80 tr
tức thời cuối kỳ
=
140 tr
≈ 0,57
Hệ số trung bình của ngành là 0,7. Hệ số vốn bằng tiên cuối kỳ so với đầu kỳ đã có sự
tăng lên tương đối khá. Nhưng so với ngành vẫn còn thấp.
- Hệ số thanh toán lãi vay
Đây cũng là một hệ số cần xem xét khi phân tích kết cấu tài chính của doanh nghiệp và
cũng phản ánh mức độ rủi ro có thể gặp phải đối với các chủ nợ.
Lãi tiền vay là khoản chi phí sử dụng vốn vay mà doanh nghiệp có nghĩa vụ phải trả
đúng hạn cho các chủ nợ. Một doanh nghiệp vay nợ nhiều nhưng kinh doanh không tốt, mức
sinh lời của đồng vốn quá thấp hoặc bị thua lỗ thì khó có thể đảm bảo thanh toán tiền lãi vay
đúng hạn.
Hệ số thanh toán lãi vay được xác định theo công thức sau:
Hệ số thanh
toán lãi vay
Lợi nhuận trước lãi vay và thuế
=
Số lãi tiền vay phải trả trong kỳ
Dựa vào số liệu của Bản báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh có thể xác định được
hệ số này.
125
Đối với công ty X, hệ số thanh toán lãi tiền vay:
Kỳ trước =
Kỳ này =
Hệ số trung bình của ngành là 2,2. Như vậy, công ty về cơ bản vẫn có thể đảm bảo khả
năng thanh toán tiền lãi vay.
b. Hệ số cơ cấu nguồn vốn và cơ cấu tài sản
- Hệ số cơ cấu nguồn vốn: Là một hệ số tài chính hết sức quan trọng đối với nhà
quản lý doanh nghiệp, với các chủ nợ cũng như nhà đầu tư.
Đối với các nhà quản lý doanh nghiệp thông qua hệ số nợ cho thấy sự độc lập về tài
chính, mức độ sử dụng đòn bẩy tài chính và rủi ro tài chính có thể gặp phải để từ đó có sự
điều chỉnh về chính sách tài chính phù hợp.
Đối với các chủ nợ qua xem xét hệ số nợ của doanh nghiệp thấy được sự an toàn của
khoản cho vay để đưa ra các quyết định cho vay và thu hồi nợ.
Nhà đầu tư có thể đánh giá mức độ rủi ro tài chính của doanh nghiệp, trên cơ sở đó để
cân nhắc việc đầu tư.
Hệ số cơ cấu nguồn vốn được thể hiện chủ yếu qua hệ số nợ
+ Hệ số nợ: Thể hiện việc sử dụng nợ của doanh nghiệp trong việc tổ chức nguồn vốn
và điều đó cũng cho thấy mức độ sử dụng đòn bẩy tài chính của doanh nghiệp.
Tổng số nợ
Hệ số nợ =
Tổng nguồn vốn của doanh nghiệp
Tổng số nợ của doanh nghiệp bao gồm toàn bộ số nợ ngắn hạn nợ dài hạn.
Tổng nguồn vốn bao gồm tổng các nguồn vốn mà doanh nghiệp sử dụng.
Đối với công ty X, hệ số nợ:
Đầu kỳ = hay 62,5%
Cuối kỳ = hay 58%
Hệ số nợ của ngành 52%. Điều này cho thấy, mặc hệ số nợ cuối năm có
giảm thấp hơn đầu năm, nhưng hệ số nợ của doanh nghiệp còn khá cao, nếu vốn vay không
được sử dụng có hiệu quả làm tăng sẽ tăng rủi ro cho doanh nghiệp.
Cùng với hệ số nợ, có thể xác định hệ số vốn chủ sở hữu:
Hệ số vốn
chủ sở hữu
Vốn chủ sở hữu
=
Tổng nguồn vốn
126
Hoặc = 1 – Hệ số nợ
- Hệ số cơ cấu tài sản: Phản ánh mức độ đầu tư vào các loại tài sản của doanh
nghiệp: Tài sản lưu động và tài sản ngắn hạn khác, tài sản cố định và tài sản dài hạn khác
Tỷ suất đầu tư vào tài sản ngắn hạn
=
hay tài sản lưu động
Tài sản ngắn hạn
Tổng tài sản
Tỷ suất đầu tư
vào tài sản dài
hạn
Tài sản dài hạn
=
Tổng tài sản
Cần căn cứ vào ngành kinh doanh và tình hình kinh doanh cụ thể của doanh nghiệp để
đánh giá mức độ hợp lý trong việc đầu tư vào các loại tài sản của doanh nghiệp.
Đối với công ty X tỷ suất đầu tư vào tài sản ngắn
hạn: Đầu kỳ: = 0,475 hay 47,5%
Cuối kỳ: hay 45%
Tỷ suất đầu tư vào tài sản ngắn hạn của các doanh nghiệp trong ngành trung bình là
42%, như vậy tỷ suất đầu tư vào tài sản của công ty X có xu hướng tiến triển khá hợp lý.
c. Hệ số hiệu suất hoạt động
Các hệ số hiệu suất hoạt động kinh doanh có tác dụng đo lường năng lực quản lý và sử
dụng số vốn hiện có của doanh nghiệp. Thông thường, các hệ số hoạt động sau đây được sử
dụng trong việc đánh giá mức độ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp:
- Số vòng quay hàng tồn kho
Đây là một chỉ tiêu khá quan trọng để đánh giá hiệu suất sử dụng vốn của doanh
nghiệp và được xác định bằng công thức sau:
Số vòng
quay hàng
tồn kho
Giá vốn hàng bán
=
Số hàng tồn kho bình quân trong kỳ
Số hàng tồn kho bình quân có thể tính bằng cách lấy số dư đầu kỳ cộng với số dư cuối
kỳ chia đôi. Số vòng quay hàng tồn kho cao hay thấp phụ thuộc rất lớn vào đặc điểm của
ngành kinh doanh.
Thông thường, số vòng quay hàng tồn kho so với doanh nghiệp trong ngành chỉ ra
rằng: Việc tổ chức quản dự trữ của doanh nghiệp tốt, doanh nghiệp thể rút ngắn
được chu kỳ kinh doanh giảm được lượng vốn bỏ vào hàng tồn kho. Nếu số vòng quay
hàng tồn kho thấp, thượng gọi lên doanh nghiệp thể dự trữ vật quá mức dẫn đến tình
trạng bị đọng hoặc sản phẩm bị tiêu thụ chậm. Từ đó, thể dẫn đến dòng tiền vào của
doanh nghiệp bị giảm đi thể đặt doanh nghiệp vào tình thế khó khăn về tài chính trong
127
tương lai. Tuy nhiên, để đánh giá thỏa đáng cần xem xét cụ thể và sâu hơn tình thế của doanh
nghiệp.
Đối với công ty X vòng quay hàng tồn kho bình quân trong năm N là:
4,4 vòng
Hệ số trung bình của ngành là 8 vòng. Như vậy hệ số vòng quay hàng tồn kho của
công ty X là khá thấp, đòi hỏi công ty phải xem xét thêm hiệu suất sử dụng tài sản của doanh
nghiệp.
- Kỳ thu tiền trung bình
Là một hệ số hiệu suất hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, phản ánh độ dài thời
gian thu tiền bán hàng của doanh nghiệp kể từ lúc xuất giao hàng cho đến khi thu được tiền
bán hàng. Kỳ thu tiền trung bình của doanh nghiệp phụ thuộc vào chính sách bán chịu và
việc tổ chức thanh toán của doanh nghiệp. Do vậy, khi xem xét kỳ thu tiền trung bình cần
xem xét trong mối liên hệ với sự tăng trưởng doanh thu của doanh nghiệp. Khi kỳ thu thu
tiền trung bình quá dài so với các doanh nghiệp trong ngành thì dễ dẫn đến tình trạng nợ khó
đòi. Kỳ thu tiền trung bình có thể các định theo công thức sau:
Kỳ thu tiền
trung bình
(ngày)
Đối với công ty X:
Số dư bình quân các khoản phải thu
=
Doanh thu bình quân 1 ngày trong kỳ
Kỳ thu tiền trung bình = = 18 ngày
Kỳ thu tiền trung bình của doanh nghiệp trong ngành là 20. Như vậy hệ số này của
công ty gần sát với hệ số của ngành.
- Số vòng quay vốn lưu động Doanh thu thuần
Chỉ tiêu này đã được xem xét ở chương III =
Vốn lưu động bình quân
Số vòng quay vốn lưu động của doanh nghiệp X ở trong kỳ:
≈ 3, 71vòng
Hệ số của ngành là 4,5 vòng. Như vậy, số vòng quay vốn của công ty thấp hơn so với
hệ số trung bình của ngành. Cùng với việc xem xét các hệ số ở trên, điều này gợi lên cho thấy
công ty X có khả năng bị ứ động hàng tồn kho.
- Hiệu suất sử dụng vốn cố định và vốn dài hạn khác
Đây là một chỉ tiêu cho phép đánh giá mức độ sử dụng vốn cố định của doanh nghiệp
trong kỳ:
128
Hiệu suất sử dụng vốn cố
định và vốn dài hạn
khác
Đối với công ty X:
Doanh thu thuần trong kỳ
=
Vốn cố định và vốn dài hạn khác
bình quân trong kỳ
Hiệu suất sử dụng vốn cố định và vốn dài hạn khác = = 3,18
Điều này có nghĩa là 1 đồng vốn cố định và vốn dài hạn khác trong kỳ tham gia tạo ra
3,18 đồng doanh thu.
Hệ số trung bình của ngành là 4,8. Như vậy, hiệu suất sử dụng vốn cố định của công ty
X còn rất thấp so với mức của ngành.
- Vòng quay tài sản hay toàn bộ vốn
Chỉ tiêu này phản ánh tổng quát hiệu suất sử dụng tài sản hay toàn bộ số vốn hiện có
của doanh nghiệp và được xác định bằng công thức sau:
Vòng quay tài sản
hay toàn bộ vốn
trong kỳ
Doanh thu thuần trong kỳ
=
Số tài sản hay vốn kinh doanh bình quân
sử dụng trong k
Xem xét công ty X vòng quay toàn bộ vốn trong kỳ:
= 1,71 vòng
Hệ số này chịu sự ảnh hưởng đặc điểm ngành kinh doanh, chiến lược kinh doanh và
trình độ quản lý sử dụng tài sản vốn của doanh nghiệp.
Hệ số trung bình của ngành là 2,2 vòng. Điều này cho thấy hiệu suất sử dụng vốn của
công ty X còn thấp.
d. Hệ số sinh lời
Là thước đo đánh giá hiệu quả của hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nó là kết
quả tổng hợp của hàng loạt biện pháp quyết định quản của doanh nghiệp. Hệ số sinh
lời bao gồm các chỉ tiêu chủ yếu sau:
- Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên doanh thu hay hệ số lãi ròng
Hệ số này phản ánh mối quan hệ giữa lợi nhuận sau thuế và doanh thu thuần trong kỳ
của doanh nghiệp. Nó thể hiện, khi thực hiện 1 đồng doanh thu trong kỳ, doanh nghiệp có thể
thu được bao nhiêu lợi nhuận.
Tỷ suất lợi nhuận = Lợi nhuận sau thuế trong kỳ
129
sau thuế trên doanh
thu (hệ số lãi ròng)
Doanh thu thuần trong kỳ
Với công ty X có thể xác định tỷ suất lợi nhuận doanh thu:
+ Năm trước =
+ Năm nay =
Tỷ suất lợi nhuận doanh thu của ngành là 5,5%. Qua đó cho thấy, tỷ suất lợi nhuận sau
thuế trên doanh thu của công ty có chiều hướng giảm và còn thấp so với doanh nghiệp trong
ngành.
- Tỷ suất lợi nhuận trước lãi vay và thuế trên vốn kinh doanh hay tỷ suất sinh lời
kinh tế của tài sản (ROA
E
)
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của tài sản hay vốn kinh doanh không tính đến
ảnh hưởng của thuế thu nhập doanh nghiệp và nguồn gốc của vốn kinh doanh.
Tỷ suất sinh lời kinh tế của
=
tài sản (ROA
E
)
Lợi nhuận trước lãi vay và thuế
Tài sản hay vốn kinh doanh bình quân
Đối với công ty X hệ số này là: 0,21 hay 21%
Hệ số này của ngành là 22% so với hệ số của ngành thì mức sinh lời của đồng vốn
kinh doanh của công ty X còn thấp.
- Tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên vốn kinh doanh
Chỉ tiêu này thể hiện mỗi đồng vốn kinh doanh trong kỳ có khả năng sinh lời ra bao
nhiêu đồng lợi nhuận sau khi đã trang trải lãi tiền vay.
Tỷ suất lợi nhuận trước thuế
trên vốn kinh doanh
Lợi nhuận trước thuế trong kỳ
=
Vốn kinh doanh bình quân sử dụng trong kỳ
Đối với công ty X, tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên vốn kinh doanh:
= 0,12 hay 12 %
Hệ số này của ngành là 15%. Như vậy, tỷ suất lợi nhuận vốn kinh doanh của công ty là
khá còn thấp.
- Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn kinh doanh hay tỷ suất sinh lời ròng của tài
sản (ROA)
Phản ánh mỗi đồng vốn sử dụng trong kỳ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế.
Tỷ suất lợi nhuận sau thuế = Lợi nhuận sau thuế
130
trên vốn kinh doanh (ROA) Vốn kinh doanh (hay tài sản) bình quân trong kỳ
Chỉ tiêu này của công ty X là: = = 0,09 hay 9%
Hệ số này của ngành là 9,5%. Do vậy tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn kinh doanh
của công ty X là thấp.
- Tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu (ROE)
Đây là một chỉ tiêu mà các nhà đầu tư rất quan tâm. Hệ số này đo lường mức lợi nhuận
thu được trên mỗi đồng vốn của chủ sở hữu trong kỳ.
Tỷ suất lợi nhuận vốn
chủ sở hữu
Lợi nhuận sau thuế
=
Vốn chủ sở hữu bình quân sử dụng trong kỳ
Có thể xác định được tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp X là:
0,226 hay 22,6%
Hệ số của ngành là 20%. Như vậy, tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu của công ty là khá
tốt so với hệ số trung bình của ngành.
- Thu nhập một cổ phần (EPS)
Đây là chỉ tiêu rất quan trọng, nó phản ánh mỗi cổ phần thường (hay cổ phần phổ
thông) trong năm thu được bao nhiêu lợi nhuận sau thuế.
Thu nhập
một cổ phần (EPS)
Lợi nhuận sau thuế - Cổ tức trả cho cổ đông ưu đã i
=
(nếu có)
Tổng số cổ phần thường đang lưu hành
Hệ số EPS cao hơn so với các doanh nghiệp cạnh tranh khác là một trong những mục
tiêu mà các nhà quản lý doanh nghiệp luôn hướng tới.
- Cổ tức một cổ phần (DIV)
Chỉ tiêu này phản ánh mỗi cổ phần thường nhận được bao nhiêu đồng cổ tức trong
năm.
Thu nhập một
cổ phần thường
(DIV)
- Hệ số trả cổ tức
Số lợi nhuận sau thuế dành trả cổ tức cho cổ đông thường
=
Số cổ phần thường đang lưu hành
Chỉ tiêu này phản ánh công ty đã dành ra bao nhiêu phần trăm (%) thu nhập để trả cổ
tức cho cổ đông.
131
Lợi tức một cổ phần thường
Hệ số trả cổ tức =
Thu nhập một cổ phần thường trong năm
e. Hệ số giá trị thị trường
- Hệ số giá trên thu nhập (hệ số P/E)
Đây là một chỉ tiêu quan trọng thường được các nhà đầu tư sử dụng để xem xét lựa
chọn dầu tư vào cổ phiếu của các Công ty. Hệ số này được xác định bằng công thức sau:
Hệ số giá trên thu
=
nhập
Giá thị trường một cổ phần
Thu nhập một cổ phần
Chỉ tiêu này phản ánh nhà đầu tư hay thị trường trả giá bao nhiêu cho 1 đồng thu nhập
của Công ty. Nhìn chung hệ số này cao tốt, thể hiện sự đánh giá cao triển vọng Công ty
của nhà đầu tư. Tuy nhiên, khi xây dựng hệ số này phải xem xét thận trọng.
- Hệ số giá thị trường trên giá trị sổ sách (hệ số
M/B) Hệ số được xác định theo công thức:
Hệ số giá thị trường
trên giá trị sổ sách
Giá thị trường một cổ phần
=
Giá trị sổ sách một cổ phần
Hệ số này phản ánh mối quan hệ giữa giá thị trường và giá trị sổ sách một cổ phần của
Công ty, nó cũng cho thấy sự tách rời giữa giá thị trường và giá trị sổ sách. Hệ số này nếu
nhỏ hơn 1 là dấu hiệu xấu về triển vọng của Công ty, ngược lại nếu hệ số này quá cao đòi hỏi
nhà đầu tư phải xem xét thận trọng trong việc quyết định đầu tư vào Công ty.
- Tỷ suất cổ tức
Chỉ tiêu được xác định theo công thức sau:
Cổ tức một cổ phần
Tỷ suất cổ tức =
Giá thị trường một cổ phần
Chỉ tiêu này phản ánh, nếu nhà đầu tư bỏ ra 1 đồng đầu tư vào cổ phần của Công ty
trên thị trường thì có thể thu được bao nhiêu cổ tức.
Trên đây đã xem xét từng hệ tài chính của doanh nghiệp. Để đánh giá tổng quát, xác
đáng tình hình tài chính doanh nghiệp, cần xem xét tổng thể các hệ số tài chính, nhìn nhận
mối liên hệ giữa các hệ số. Có thể xem Biểu tổng hợp các hệ số tài chính của doanh nghiệp.
Biểu: Các hệ số tài chính
132
T
T
Các chỉ tiêu tài chính Công ty X
Mức trung
bình của
ngành
Đánh giá
Năm N-1 Năm N
I Hệ số thanh toán
1 Hệ số thanh toán hiện thời 3,45 lần 3,28 lần 2,5 lần Quá cao
2 Hệ số thanh toán nhanh 1,18 lần 1,28 lần 1,5 lần Thấp
3 Hệ số thanh toán tức thời 0,54 0,57 0,7 Thấp
4 Hệ số thanh toán lãi vay 2,5 2,29 2,2 Được
II Hệ số cấu nguồn vốn
1 Hệ số n 62,5% 58% 52% Cao
2 Hệ số nợ dài hạn 50% Cao
III Hệ số hoạt động kinh doanh
1 Số vòng quay hàng tồn kho 4,4 vòng 8 vòng Thấp
2 Kỳ thu tiền trung bình 18 ngày 20 ngày Được
3 Số vòng quay vốn lưu động 3,71 vòng 4,5 vòng Thấp
4 Hiệu suất sử dụng vốn cố định 3,18 4,8 Thấp
5 Số vòng quay toàn bộ vốn 1,71 vòng 2,2 Thấp
IV Hệ số sinh lời
1 Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên
doanh thu
5,28% 5,5% Thấp
2 Tỷ suất sinh lời kinh tế của tài
sản (ROA
E
)
21% 22% Thấp
3 Tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên
vốn kinh doanh
12% 15% Khá thấp
4 Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên
vốn kinh doanh (ROA)
9% 9,5% Thấp
5 Tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu
(ROE)
22,6% 20% Khá tốt
Qua biểu trên, có thể đánh giá khái quát:
- Tuy khả năng thanh toán lãi vay ở mức bình thường, nhưng nhìn chung khả năng
thanh toán của công ty X là thấp. Trong khi đó, hệ số thanh toán hiện thời lại quá cao so với
mức trung bình của ngành, vòng quay hàng tồn kho lại rất thấp, kỳ thu tiền trung bình ở
mức bình thường. Điều đó, gợi lên công ty có thể dự trữ vật tư quá lớn, có bộ phận vật tư bị
ứ đọng.
- Hệ số nợ của doanh nghiệp khá cao so mức trung bình của ngành. Khả năng vay
vốn của công ty trong thời kỳ tới là có thể bị hạn chế.
133
- Các chỉ số về hoạt động kinh doanh cho thấy: Hiệu suất sử dụng vốn cố định
các loại vật hàng hóa còn thấp so với mức trung bình của ngành. Điều này, tất yếu ảnh
hưởng tới mức sinh lời của vốn kinh doanh.
- Mức sinh lời vốn kinh doanh của doanh nghiệp nhìn chung còn thấp. Mặc tỷ
suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp cao hơn so với mức trung bình của ngành,
đó là điểm tốt, tuy nhiên hệ số nợ của doanh nghiệp khá cao so với ngành, từ đỏ cho thấy ẩn
chứa rủi ro tài chính là khá lớn.
7.1.2. Phân tích diễn biến nguồn vốn sử dụng vốn
Việc phân tích này cho phép nắm được tổng quát diễn biến thay đổi của nguồn vốn và
sử dụng vốn trong mối quan hệ với vốn bằng tiền của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất
định giữa hai thời điểm lập Bảng cân đối kế toán, từ đó có thể định hướng cho việc huy động
vốn và sử dụng vốn của thời kỳ tiếp theo.
Việc phân tích có thể được thực hiện như sau:
+ Xác định diễn biến thay đổi nguồn vốn và sử dụng vốn
Việc xác định này được thực hiện bằng cách: Trước hết, chuyển toàn bộ các khoản
mục trên Bảng cân đối kế toán thành cột dọc. Tiếp đó, so sánh số liệu cuối kỳ với đầu kỳ để
tìm ra sự thay đổi của mỗi khoản mục trên Bảng cân đối kế toán. Mỗi sự thay đổi của từng
khoản mục sẽ được xem xét và phản ánh vào một trong hai cột sử dụng vốn hoặc diễn biến
nguồn vốn theo cách thức sau:
- Sử dụng vốn sẽ tương ứng với tăng tài sản hoặc giảm nguồn vốn.
- Diễn biến nguồn vốn sẽ tương ứng với tăng nguồn vốn hoặc giảm tài sản.
Ở đây, xem xét diễn biến thay đổi nguồn vốn và sử dụng vốn trong mối liên hệ với vốn
bằng tiền.
+ Lập bảng phân tích
Sắp xếp các khoản liên quan đến việc sử dụng vốn và liên quan đến việc thay đổi
nguồn vốn hình thức một bản cân đối. Qua bảng này có thể xem xét và đánh giá tổng quát: Số
vốn tăng hay giảm của doanh nghiệp ở trong kỳ đã được sử dụng vào những việc gì và các
nguồn phát sinh dẫn đến việc tăng hay giảm vốn.
Trên cơ sở phân tích, có thể định hướng huy động vốn cho kỳ tiếp theo.
Ví dụ: Dựa vào số liệu của Bảng cân đối kế toán của công ty X có thể phân tích tình
hình diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn như sau:
Biểu: Bảng diễn biến nguồn vốn sử dụng vốn
Đơn vị: Triệu đồng
TT Khoản thu 31/12/N-1 31/12/N Sử dụng Ngu
134
vốn n vốn
A Tài sản
1 Tiền 60 80 20
2 Các khoản phải thu 70 100 30
3 Hàng tồn kho 250 280 30
4 Tài sản cố định
- Nguyên giá 510 665 155
- Hao mòn luỹ kế (130) (175) 45
5 Các khoản đầu tư tài chính dài
hạn
30 50 20
6 Tài sản dài hạn khác 10 20 10
B Nguồn vốn
1 Vay ngắn hạn 15 30 15
2 Phải trả người bán 30 50 20
3 Thuế và các khoản phải nộp
nhà nước
17 25 8
4 Phải trả công nhân viên 48 35 13
5 Nợ dài hạn 390 450 60
6 Vốn đầu tư của chủ sở hữu 240 310 70
7 Thặng dư vốn cổ phần 15 29 14
8 Quỹ đầu tư phát triển 20 28 8
9 Quỹ dự phòng tài chính 15 17 2
10 Lợi nhuận chưa phân phối 10 26 16
11 Nguồn kinh phí và quỹ khác 20 20
Tổng cộng 278 278
Biểu: Bảng phân tích diễn biến nguồn vốn sử dụng vốn
Đơn vị: Triệu đồng
Sử dụng vốn
S
tiền
Tỷ trọng
(%)
Diễn biến nguồn vốn
S
tiền
T
trọng
(%)
1. Tăng đầu tư vào
TS
155 55,7 1. Tăng vốn đầu tư
của chủ sở hữu
70 25,2
2. Tăng hàng tồn kho 30 10,8 2. Tăng vay dài hạn 60 21,6
3. Tăng tín dụng cho
khách hàng
30 10,8 3. Tăng khấu hao
TS
45 16,2
4. Tăng đầu tư tài
chính dài hạn
20 7,2 4. Tăng tín dụng n
cung cấp
20 7,2
5. Trả bớt nợ công
nhân viên
13 4,6 5. Tăng vay ngắn hạn 15 5,4
6. Tăng tài sản dài
hạn khác
10 3,6 6. Tăng thặng dư vn
cổ phần
14 5
7. Tăng vốn bằng tiền 20 7,2 7. Tăng lợi nhuận 16 5,7
135
chưa phân phối
8. Tăng nợ thuế và
các khoản phải nộp
NN
8 2,9
9. Tăng quĩ đầu tư
phát triển
8 2,9
10. Tăng quĩ d
phòng tài chính
2 0,7
11. Tăng nguồn kinh
p
20 7,2
Tổng cộng 278 100 Tổng cộng 278 100
Qua bảng trên cho thấy quy mô sử dụng vốn của Công ty X trong năm N đã tăng 278
triệu đồng so với đầu năm. Trong đó, chủ yếu là chỉ tiêu đầu tư tăng thêm TSCĐ là 155 triệu
chiếm 55,7%, đồng thời đầu tư tăng thêm hàng tồn kho chiếm 10,8% và tăng thêm tín dụng
cho khách hàng chiếm 10,8% tổng quy mô số vốn sử dụng tăng thêm. Điều này là hợp lý khi
Công ty tăng quy mô kinh doanh. Công ty cũng mở rộng đầu tư tài chính dài hạn, chiếm
7,2%. Trong điều kiện tăng thêm đầu tư, công ty thanh toán trả bớt nợ công nhân viên là sự
cố gắng đáng kể.
Về nguồn vốn, một phần chủ yếu là huy động tăng thêm vốn chủ sở hữu và vay dài
hạn. Nguồn vốn huy động này là phù hợp vì một phần lớn vốn của công ty cũng tăng thêm
tài sản cố định. Công ty cũng tăng thêm việc sử dụng tín dụng của nhà cung cấp và vay ngắn
hạn.
Từ sự phân tích trên cho thấy trong thời kỳ tiếp theo Công ty cần xem xét khả năng
tăng thêm tín dụng nhà cung cấp và vay vốn ngắn hạn đồng thời chú ý đảm bảo khả năng
thanh toán.
7.2. Dự báo nhu cầu tài chính
7.2.1. Phương pháp tỷ lệ phần trăm trên doanh thu
Đây là một phương pháp dự báo nhu cầu tài chính ngắn hạn và đơn giản. Khi áp dụng
phương pháp này đòi hỏi người thực hiện phải hiểu đặc thù sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp (quy trình sản xuất, tính chất của sản phẩm, tính thời vụ...) phải hiểu tính quy luật
của mối quan hệ giữa doanh thu với tài sản, tiền vốn, phân phối lợi nhuận của doanh nghiệp.
Tài liệu dùng để dự báo bao gồm: các báo cáo tài chính kỳ trước và dự kiến doanh thu của kỳ
kế hoạch.
Phương pháp này được tiến hành qua 4 bước sau đây.
Bước 1: Tính số bình quân của các khoản mục trong bng cân đối kế
toán kỳ thực hiện
136
Bước 2: Chọn các khoản mục trong bảng cân đối kế toán chịu sự tác động trực tiếp
quan hệ chặt chẽ với doanh thu bán hàng, sau đó tính tỷ lệ phần
trăm của các khoản đó so với doanh thu bán hàng thực hiện trong kỳ.
Chú ý rằng chỉ chọn các khoản mục nào đồng thời thoả mãn cả hai điều
kiện quan hệ chặt chẽ trực tiếp với doanh thu bán hàng. Trong thực tế cho
thấy toàn bộ các khoản mục tài sản ngắn hạn bên phần tài sản (Tiền, nợ phải thu,
vốn tồn kho... sau khi đã loại trừ các yếu tố bất hợp như: nợ không khả
năng
thu
hồi,
hàng
hoá,
vật
mất,
kém
phẩm
chất,
chậm
luân
chuyển,
không
cần
dùng...),
các
khoản
mục
vốn
chiếm
dụng
bên
phần
nguồn
vốn
(phải
trả
nhà
cung
cấp,
phải
thanh
toán
cán
bộ
công
nhân
viên,
phải
nộp
ngân
sách
sau
khi đã loại trừ các yếu tố bất hợp lý như nợ vô chủ...) thoả mãn điều kiện này.
Bước 3: Dùng tỷ lệ phần trăm đó để ước tính nhu cầu vốn lưu động cho
năm kế hoạch trên sở doanh thu bán hàng dự kiến năm kế hoạch.
Tổng
tỷ
lệ
phần
trăm
của
phần
tài
sản
lưu
động
cho
biết:
Muốn
tạo
ra
một
đồng doanh thu bán hàng thì phải bao nhiêu đồng vốn đầu vào tài sản lưu
động.
Tổng tỷ lệ phần trăm bên phần vốn chiếm dụng cho biết: khi tạo ra một
đồng doanh thu bán hàng thì chiếm dụng đương nhiên được bao nhiêu đồng vốn
(nguồn vốn phát sinh tự động).
Chênh lệch của hai tỷ lệ này cho biết: Vậy thực chất khi tăng một đồng
doanh thu bán hàng thì doanh nghiệp chỉ cần tài trợ bao nhiêu đồng vốn đầu
vào tài sản lưu động
Tích của phần doanh thu bán hàng tăng thêm với chênh lệch của hai tỷ lệ
này chính là nhu cầu vốn lưu động tăng thêm cần phải bổ sung cho kỳ kế hoạch.
Bước
4:
Định
hướng
nguồn
trang
trải
nhu
cầu
vốn
lưu
động
tăng
thêm
trên cơ sở kết quả kinh doanh kỳ kế hoạch.
Nguồn
trang
trải
nhu
cầu
vốn
tăng
thêm
gồm
2
phần:
trước
hết
nguồn
lợi nhuận để lại của năm kế hoạch, sau nữa là nguồn huy động từ bên ngoài.
7.2.2. Phương pháp lập bảng cân đối kế toán mẫu
Khi
đánh
giá
tình
hình
tài
chính
của
doanh
nghiệp,
người
ta
thường
dùng
hệ thống các chỉ tiêu i chính luôn mong muốn hệ thống chỉ tiêu tài chính
này được hoàn thiện. Do vậy, để dự báo nhu cầu vốn tài sản cho kỳ kế hoạch,
người ta xây dựng hoặc dựa vào một hệ thống chỉ tiêu tài chính được coi
chuẩn dùng để ước lượng nhu cầu vốn cần phải tương ứng với một mức
doanh thu nhất định. Phương pháp này được áp dụng rộng rãi trong thực tế, đặc
biệt
doanh
nghiệp
mới
được
thành
lập.
Các
chỉ
tiêu
tài
chính
đặc
trưng
được
137
sử dụng đây thể các tỷ s trung bình của ngành hoặc của doanh nghiệp
cùng
loại
(doanh
nghiệp
này
cùng
tuổi,
cùng
quy
mô,
trong
cùng
một
vùng
địa
lý, thị trường thể so sánh được), hoặc tự xây dựng từ thông tin quá khứ của
doanh nghiệp.
- Nội dung của phương pháp: Căn cứ vào các chỉ tiêu tài chính trung bình
của
ngành,
hoặc
của
doanh
nghiệp
điển
hình
trong
cùng
ngành,
căn
cứ
vào
kết
quả dự báo về doanh thu dự kiến, nhà quản trị tài chính s tính toán xác định
được
các
khoản
mục
trên
Bảng
cân
đối
kế
toán
như:
Tổng
tài
sản,
TSNH,
TSDH, Nợ phải thu, Hàng tồn kho, Vốn bằng tiền, Tổng nguồn vốn, Nợ phải trả,
Nợ ngắn hạn, Nợ dài hạn, Vốn chủ s hữu…Như vậy, kết quả của việc dự báo
xây dựng được một bảng cân đối kế toán mẫu với số liệu dự kiến cho một doanh
nghiệp phù hợp với quy mô kinh doanh của doanh nghiệp đó.
Bảng cân đối kế toán mẫu cho biết doanh nghiệp muốn đạt doanh thu dự
kiến các tỷ số i chính đặc trưng thì cần phải lượng vốn bao nhiêu, được
hình thành từ các nguồn nào đầu vào các loại tài sản gì.
Cần chú ý rằng, cùng một hệ số tài chính nhưng doanh thu khác nhau sẽ
dẫn đến bảng cân đối kế toán mẫu khác nhau. Do đó thể lập ra nhiều bảng
cân đối kế
toán mẫu để
dự báo nhu cầu tài chính theo những
mức
doanh thu
khác nhau.
- Điều kiện để áp dụng phương pháp này: phải biết ngành nghề hoạt
động của doanh nghiệp sau đó quy sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp (được đo
lường bằng mức doanh thu dự kiến hàng năm). Kết quả dự báo
theo phương pháp này được thể hiện trên bảng cân đối kế toán mẫu.
dụ: Công ty D dự kiến năm N quy mô doanh thu sẽ đạt 10 tỷ đồng. Dựa trên các hệ
số tài chính của các doanh nghệp trong ngành, doanh nghiệp xây dựng các hệ số tài chính
năm N +1 như sau:
- Hệ số nợ: 50%
- Vòng quay toàn bộ vốn 2,5 lần
- Nợ ngắn hạn chiếm 20% trong tổng số n
- Hệ số thanh toán ngắn hạn 4,5 lần
- Hệ số thanh toán nhanh 1,5 lần
- Kỳ thu tiền bình quân: 18 ngày.
Với tài liệu trên, dựa trên các mối quan hệ cân đối tài chính, thể xác định được các
khoản chủ yếu của một Bảng cân đối tài sản như sau:
1. Vòng quay toàn bộ vốn = Doanh thu = 2,5
138
Vốn kinh doanh bình quân
Như vậy, vốn kinh doanh = 4 tỷ
2. Hệ số n
=
Nợ phải tr
Tổng nguồn vốn kinh doanh
= 0,5
Vậy nợ phải trả = 4 x 0,5 = 2 tỷ.
3. Nợ ngắn hạn = Tổng nợ phải trả x 20% = 2 tỷ x 20% = 0,4 t
4. Nợ phải trả = Nợ ngắn hạn + Nợ dài hạn
Vậy nợ dài hạn = Nợ phải trả - Nợ ngắn hạn = 2 tỷ - 0,4 tỷ = 1,6 t
5. Tổng nguồn vốn = Nợ phải trả + Vốn chủ sở hữu
Từ đó, có thể xác định vốn chủ sở hữu = Tổng nguồn vốn – Nợ phải trả = 4 tỷ – 2tỷ = 2 tỷ.
6. Hệ số thanh toán ngắn hạn
=
Tài sản lưu
động Nợ ngắn
hạn
= 4,5
Do vậy, tài sản lưu động = Nợ ngắn hạn x 4,5 = 0,4 x 4,5 = 1,8 tỷ
7. Tổng tài sản = Tài sản lưu động + Tài sản cố định
Từ đó, tài sản cố định = Tổng tài sản – Tài sản lưu động = 4 – 1,8 = 2,2 t
Tiền
8. Hệ số thanh toán nhanh =
Nợ ngắn hạn
= 1,5
Vậy vốn bằng tiền = 0,4 x1,5 tỷ = 0,6 tỷ
Các khoản phải thu bình quân x 360
9. Kỳ thu tiền trung bình =
Doanh thu
Do vậy, các khoản phải thu bình quân = t
= 18 ngày
10. Tài sản
=
lưu động
Vốn bằng
+
tiền
Khoản phải
thu
+
Hàng tồn
kho
Vì thế, hàng tồn kho = Tài sản lưu động – Vốn băng tiền – Các khoản phải thu
= 1,8 – 0,6 – 0,5 = 0,7 tỷ.
Dựa vào kết quả có thể lập Bảng cân đối tài sản mẫu cho công ty D năm N+1 như sau
139
Biểu 7.1. Bảng cân đối tài sản dự kiến cuối năm N của công ty Y
Đơn vị tính: Triệu đồng
Tài sản Số tiền Nguồn vốn Số tiền
A. Tài sản lưu động 1.800 A. Nợ phải tr 2.000
1. Vốn bằng tiền 600 1. Nợ ngắn hạn 400
2. Các khoản phải thu 500 2. Nợ dài hạn 1.600
3. Hàng tồn kho 700
B. Tài sản cố định (giá
trị còn lại)
2.200 B. Vốn chủ sở hữu 2.000
Tổng cộng tài sản 4.000 4.000
Trên đây một dụ đơn giản về lập Bảng cân đối tài sản theo dự kiến với doanh thu
mức 10 tỷ đồng. Với mức doanh thu khác nhau sẽ dẫn đến Bảng cân đối tài sản dự kiến
khác.
Người quản doanh nghiệp thể lập ra một số bảng cân đối tài sản dự kiến theo
những mức doanh thu khác nhau để tham gia phục vụ cho việc chỉ đạo hoạt động của doanh
nghiệp./.
7.2.3. Phương pháp dự báo dựa vào chu kỳ vận động của vốn
Đối với nhu cầu vốn lưu động, doanh nghiệp thể dựa vào chu kỳ vận
động của vốn lưu động để xác định nhu cầu tài trợ vốn lưu động. Thời gian vận
động
của
vốn
lưu
động
càng
dài
thì
lượng
vốn
lưu
động
doanh
nghiệp
phải
tài trợ càng nhiều để đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra thường
xuyên. Nhu cầu vốn lưu động có thể được xác định bằng 2 cách sau đây:
Cách 1: Xác định gián tiếp thông qua vòng quay của vốn lưu động của kỳ
trước hoặc của trung bình ngành.
Công thức xác định như sau:
Cách
2:
Xác định
trực tiếp thông
qua
thời
gian
luân
chuyển
của vốn u
động
Phương pháp xác định như sau:
+ Bước 1: Xác định số ngày luân chuyển của vốn lưu động
140
Trong đó:
A = Hàng tồn kho bình quân/ Giá vốn hàng bán bình quân một ngày
B = Nợ phải thu bình quân/ Doanh thu bán chịu bình quân mỗi ngày
C = Nợ phải trả nhà cung cấp bình quân/ Tín dụng mua chịu bình quân mỗi ngày
+ Bước 2: Xác định nhu cầu vốn lưu động của doanh nghiệp
Nhu cầu
=
VLĐ
Giá trị nguyên vật
liệu và lao động bình x
quân cho 1 sản phẩm
Số lượng sản phẩm
sản xuất bình quân x
mỗi ngày
Số ngày luân
chuyển của vốn
lưu động
7.2.4. Dự báo nhu cầu vốn tiền mặt
Trong nền kinh tế thị trường, vốn bằng tiền một loại tài sản linh động
nhất, dễ dàng dùng để thoả mãn mọi nhu cầu trong quá trình sản xuất kinh
doanh. Vốn bằng tiền còn tiền đề để các yều tố khác nhau của quá trình sản
xuất
(nhân
công,
thiết
bị,
nguyên
vật
liệu).
Nếu
vốn
bằng
tiền
giảm
đi
nghĩa
tính chủ động về tài chính trong việc mở rộng quy mô, chớp lấy hội đầu
bị giảm sút, khả năng đáp ứng nghĩa vụ thanh toán bị hạn chế. Nhưng do thời
điểm thu tiền thời điểm chi tiêu bằng tiền không phải lúc nào cũng phù hợp
với nhau, cho nên trong thực tế thường xẩy ra thời điểm này thừa vốn bằng tiền
còn thời điểm khác lại thiếu vốn bằng tiền. vậy phải xác định nhu cầu vốn
bằng tiền và chỉ rõ thời gian vốn bằng tiền cần được tài trợ.
Dự báo nhu cầu vốn bằng tiền loại kế hoạch tác nghiệp. Người ta thể
lập kế hoạch tác nghiệp cho tuần, kỳ, tháng, quý hoặc cho năm.
- Nội dung dự báo nhu cầu vốn bằng tiền: Để đảm bảo thuận tiện trong
điều
hành
nhận
biết
nguồn
gốc
của
dòng
tiền,
người
ta
thường
chia
thành
3
bộ phận cấu thành dòng tiền vào, dòng tiền ra của một doanh nghiệp, đó là:
Dòng tiền từ hoạt động kinh doanh, Dòng tiền từ hoạt động đầu tư, Dòng tiền từ
hoạt động tài chính. Sau đó, người ta dự báo nhu cầu qua các bước sau:
Bước 1: Xác định dòng tiền vào của doanh nghiệp. Dựa trên sở các dự
báo về doanh thu bán hàng, dự kiến huy động vốn bằng tiền (đi vay nợ, phát
hành cổ phiếu, trái phiếu…), căn cứ vào quy luật phát sinh dòng tiền trong quá
khứ các chính sách bán chịu của doanh nghiệp để dự kiến dòng tiền vào của
doanh nghiệp. Cần chú ý đến sự khác nhau của doanh thu và thu tiền.
141
Bước 2: Xác định dòng tiền ra của doanh nghiệp. Căn cứ vào kế hoạch
SXKD, kế hoạch chi phí, các chính sách tín dụng thương mại của nhà cung cấp
đối
với
DN,
các
chính
sách
của
nhà
nước
như
chính
sách
thuế…để
xác
định
dòng tiền chi phát sinh trong kỳ. Chú ý đến sự khác nhau của chi phí và chi tiền.
Bước 3: Xác định dòng tiền thuần trong kỳ: Đó chênh lệch giữa dòng
tiền vào và dòng tiền ra của doanh nghiệp phát sinh trong cùng một kỳ.
Bước 4: Xác định số tiền cuối kỳ: Lấy số đầu kỳ cộng với dòng tiền
thuần trong kỳ.
Bước 5: Xác định số tiền thừa (thiếu): Căn cứ vào số tiền mặt tối thiểu cần
thiết, có thể xác định được số tiền thừa hoặc thiếu ở trong kỳ.
Căn cứ o số tiền thừa thiếu, nhà quản sẽ đưa ra biện pháp sử dụng số
tiền thừa để tránh lãng phí. Hoặc tìm cách huy động để đảm bảo lượng tiền đáp
ứng đầy đủ cho hoạt động của doanh nghiệp.
142
| 1/153

Preview text:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ NỘI

KHOA KINH TẾ ĐÔ THỊ

BÀI GIẢNG

QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH

1

Tháng 8 năm 2023

CHƯƠNG 1

TỔNG QUAN VỀ QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH

Quản trị tài chính có vai trò rất quan trọng, ảnh hưởng đến tất cả mọi hoạt động của doanh nghiệp. Thực tế hoạt động quản trị ở các doanh nghiệp cho thấy hầu hết các quyết định quản trị đều được đưa ra dựa trên kết quả khảo sát nghiên cứu, phân tích và dự báo về tình hình sản xuất – kinh doanh, tình hình tài chính hiện tại và tương lai, trong đó những đánh giá về mặt tài chính là hết sức cần thiết. Nội dung của chương 1 sẽ giới thiệu những vấn đề cơ bản về doanh nghiệp và quản trị tài chính doanh nghiệp và quản trị tài chính doanh nghiệp như:

  • Các hình thức tổ chức doanh nghiệp và hoạt động tài chính doanh nghiệp.
  • Khái niệm, mục tiêu và chức năng của quản trị tài chính doanh nghiệp.
  • Vị trí và mối quan hệ giữa quản trị tài chính với các hoạt động quản trị khác trong doanh nghiệp.
  • Tổ chức bộ máy quản trị tài chính doanh nghiệp.

Doanh nghiệp và hoạt động tài chính doanh nghiệp

Các hình thức tổ chức doanh nghiệp và mục tiêu của doanh nghiệp

        • Khái niệm về doanh nghiệp

Có nhiều quan điểm khác nhau về doanh nghiệp. Theo Luật Doanh nghiệp năm 2005 thì “doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản và trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh”.

*Các hình thức tổ chức doanh nghiệp

Doanh nghiệp được tổ chức theo nhiều hình thức pháp lý khác nhau, song nhìn chung có một số hình thức cơ bản sau:

  • Doanh nghiệp tư nhân: Là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp.

Có thể nói rằng doanh nghiệp tư nhân là hình thức tổ chức kinh doanh lâu đời nhất và đơn giản nhất của một thực thể kinh doanh. Đặc điểm nổi bật của doanh nghiệp tư nhân là người chủ phải chịu trách nhiệm vô hạn đối với các nghĩa vụ tài chính của nó. Điều này có nghĩa là người chủ phải chịu trách nhiệm đối với doanh nghiệp về mặt tài chính không chỉ

2

trên phần vốn đầu tư ban đầu mà khi cần còn phải đem cả tài sản cá nhân để trang trải cho các khoản nợ của doanh nghiệp.

Thuận lợi lớn nhất của doanh nghiệp tư nhân là việc thành lập rất đơn giản, dễ dàng. Chủ doanh nghiệp là người có toàn quyền quyết định hoạt động kinh doanh, được nhận tất cả thu nhập từ kinh doanh sau khi đã thanh toán các khoản nợ. Nhưng loại hình doanh nghiệp này cũng có một số hạn chế như chủ doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm vô hạn đối với tất cả các khoản nợ trong kinh doanh. So với các loại hình doanh nghiệp khác, các hình thức huy động vốn của doanh nghiệp tư nhân cũng có giới hạn nhất định. Doanh nghiệp không có quyền huy động vốn dưới bất kỳ hình thức phát hành chứng khoán nào. Vì thế quy mô của doanh nghiệp phụ thuộc vào tiềm lực tài chính của người chủ cũng như khả năng vay mượn của ông ta. Do đó, không có gì đáng ngạc nhiên khi thấy đa số các doanh nghiệp tư nhân đều là doanh nghiệp nhỏ.

  • Công ty hợp danh: Là doanh nghiệp trong đó:

+ Phải có ít nhất 2 thành viên là đồng sở hữu chung của công ty, cùng nhau kinh doanh dưới một tên chung (gọi là thành viên hợp danh), ngoài các thành viên hợp danh có thể có thành viên góp vốn.

+ Thành viên hợp danh phải là cá nhân có trình độ chuyên môn và uy tín nghề nghiệp và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty.

+ Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty.

Loại hình công ty hợp danh có lợi thế hơn doanh nghiệp tư nhân về khả năng huy động vốn do có thế có nhiều thanh viên tham gia góp vốn kinh doanh.

  • Công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH): Là loại công ty do các thành viên góp vốn để thành lập và họ chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trên phần vốn đã góp vào công ty.

Ở Việt Nam, theo Luật Doanh nghiệp năm 2005, công ty TNHH (hai thành viên trở lên) là doanh nghiệp trong đó:

+ Các thành viên chịu trách nhiệm hữu hạn về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào doanh nghiệp.

+ Thành viên có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng thành viên không vượt quá 50.

Ngoài ra còn có công ty TNHH 1 thành viên. Đây là doanh nghiệp do một tổ chức hoặc một cá nhân làm chủ sở hữu, chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài chính khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn điều lệ của doanh nghiệp.

So với 2 loại hình doanh nghiệp nêu trên, công ty TNHH có thuận lợi hơn là các thành viên của nó chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trên phần vốn mà họ đã góp.

3

  • Công ty cổ phần: Là công ty trong đó các thành viên cùng góp vốn dưới hình thức cổ phần để hoạt động.

Ở Việt Nam, theo Luật Doanh nghiệp năm 2005, công ty cổ phần (CTCP) là doanh nghiệp trong đó:

+ Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần.

+ Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân, số lượng cổ đông tối thiểu là 3 và không hạn chế số lượng tối đa.

+ Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp.

Căn cư vào hình thức phát hành cổ phiếu, công ty cổ phần có hai loại: CTCP nội bộ và CTCP đại chúng. CTCP nội bộ là loại công ty chỉ phát hành cổ phiếu trong các cổ đông sáng lập, công nhân và những người quen thuộc với công ty. CTCP đại chúng là loại công ty có phát hành cổ phiếu rộng rãi ra công chúng. Mức độ rộng rãi như thế nào tùy thuộc vào luật pháp của từng quốc gia.

So với loại hình doanh nghiệp khác, CTCP có lợi thế về các hình thức huy động vốn. Ngoài các hình thức huy động vốn như các doanh nghiệp khác, CTCP là loại doanh nghiệp duy nhất được phép huy động vốn thông qua phát hành cổ phiếu.

  • Doanh nghiệp nhà nước (DNNN): Là loại hình doanh nghiệp do nhà nước nắm quyền sở hữu, quản lý nhằm phục vụ cho những mục tiêu chung của nền kinh tế và xã hội. Ở Việt Nam, theo luật DNNN năm 2003 thì DNNN là tổ chức kinh tế do nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ, hoặc có cổ phần vốn góp chi phối, được tổ chức dưới hình thức công ty nhà nước, công ty cổ phần, công ty TNHH.

Trong nền kinh tế thị trường, Chính phủ thường đầu tư thành lập các DNNN trong những ngành chậm thu hồi vốn, khó thu hút vốn từ khu vực tư nhân, hoặc đầu tư vào những ngành kinh tế mũi nhọn nhằm thúc đẩy sự phát triển của các ngành kinh tế khác phát triển…

  • Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam: Là doanh nghiệp được thành lập ở Việt Nam do các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư một phần, hoặc toàn bộ vốn nhằm thực hiện các mục tiêu chung là tìm kiếm lợi nhuận, có tư cách pháp nhân, mang quốc tịch Việt Nam, tổ chức và hoạt động theo quy chế của công ty TNHH, CTCP và tuân theo quy định của pháp luật Việt Nam.
        • Muc tiêu của doanh nghiệp:

Hầu hết các doanh nghiệp trong kinh doanh đều có mục tiêu càng làm ra nhiều lợi nhuận và nâng cao giá trị thị trường của doanh nghiệp càng tốt. Tuy nhiên, mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận không phải lúc nào cũng có thể dễ dàng xác định, bởi mục tiêu này chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố như thời gian, rủi ro… và có mối quan hệ tác động đến nhiều vấn đề

4

khác trong doanh nghiệp cũng như nền kinh tế - xã hội. Do đó không thể coi tối đa hóa lợi nhuận là yếu tố duy nhất tác động đến các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nói cách khác, ở một mức độ nào đó, tối đa hóa lợi nhuận không phải là mục tiêu hành động trong nhiều tình huống thực tế.

Tối đa hóa giá trị thị trường của doanh nghiệp chính là tối đa hóa giá trị tài sản của các chủ sở hữu hiện tại của doanh nghiệp. Điều này dẫn tới kết quả là thị giá cổ phần của doanh nghiệp ngày càng cao hơn. Vì thế, đây là mục tiêu được các cổ đông dễ chấp nhận. Nhưng, các nhà quản trị cũng rất khó có thể đánh giá chính xác mức độ ảnh hưởng của một quyết định đối với giá trị của doanh nghiệp, bởi nó chịu tác động của rất nhiều yếu tố. Hơn thế nữa, thị trường đồng nghĩa với những biến đổi khôn lường. Tuy nhiên, nhà quản trị giỏi phải là người đưa ra được nhiều quyết định đúng hơn là những quyết định sai lầm và tối đa hóa giá trị của doanh nghiệp phải luôn là mục tiêu của mọi hoạt động.

Hoạt động tài chính của doanh nghiệp

Mặc dù có nhiều loại hình doanh nghiệp, với những hình thức pháp lý và bộ máy tổ chức khác nhau, có những đặc điểm riêng về sản xuất, kinh doanh, tài chính… nhưng nội dung các hoạt động tài chính, mục tiêu và chức năng của quản trị tài chính doanh nghiệp thì giống nhau.

Hoạt động tài chính của doanh nghiệp khá phức tạp và thể hiện thông qua nhiều quan hệ kinh tế giữa doanh nghiệp với các chủ thể khác trong nền kinh tế. Tuy nhiên, có thể xếp chúng thành 3 nhóm cơ bản: quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với nhà nước, quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với thị trường và quan hệ tài chính trong nội bộ doanh nghiệp.

  • Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với nhà nước được thể hiện qua việc doanh nghiệp thực hiện các nghĩa vụ tài chính của mình đối với nhà nước như nộp các khoản thuế và lệ phí (thuế xuất khẩu, nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế môn bài, lệ phí trước bạ, lệ phí chứng thư v.v…) Ngoài ra, riêng đối với DNNN, doanh nghiệp được nhà nước cấp vốn để hoạt động theo chức năng và nhiệm vụ được giao.
  • Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với các chủ thể kinh tế khác trên thị trường như: quan hệ thanh toán trong mua bán tài sản, vật tư, hàng hóa, dịch vụ; quan hệ với ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác trong huy động vốn và cho vay, đầu tư vốn, tài sản; quan hệ với cá tổ chức bảo hiểm trong tham gia bảo hiểm và nhận tiền bồi thường bảo hiểm v.v…
  • Quan hệ tài chính trong nội bộ doanh nghiệp được thể hiện thông qua các hoạt động thanh toán tiền lương, tiền công và thực hiện các khoản tiền thưởng, phạt với công nhân viên của doanh nghiệp; hoạt động phân chia điều hòa vốn giữa các bộ phận của doanh nghiệp; hoạt động phân phối lợi nhuận sau thuế, phân phối và sử dụng cá quỹ của doanh nghiệp, hoạt động chị trả cổ tức cho các cổ đông,…

5

Quản trị tài chính doanh nghiệp

Khái niệm và mục tiêu quản trị tài chính doanh nghiệp

        • Khái niệm về quản trị tài chính

Quản trị nói chung và quản trị tài chính nói riêng là một hiện tượng xã hội xuất hiện cùng với quá trình tồn tại, hoàn thiện và phát triển của loài người. Ngay từ khi bắt đầu hình thành những nhóm người để thực hiện các mục tiêu mà mỗi người không thể thực hiện được với tư cách cá nhân riêng lẻ thì quản trị đã trở thành một yếu tố quan trọng, cần thiết, đảm bảo sự phối hợp hành động dựa trên một nỗ lực chung. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế - xã hội, các mối quan hệ ngày càng đa dạng và phức tạp hơn nên những nội dung quản trị cũng phong phú hơn, các yêu cầu quản trị cũng đòi hởi chặt chẽ, chuẩn hóa hơn và con người cũng nhận thức rõ hơn tầm quan trọng đặc biệt của hoạt động quản trị.

Lúc đầu, quản trị được hiểu là những thủ thuật, thủ pháp và cao hơn là một nghệ thuật. Dần dần cùng với sự phát triển của khoa học và công nghệ, quản trị trở thành một môn khoa học độc lập và vị trí ngày càng quant rọng trong hệ thống các môn khoa học về quản lý kinh tế.

Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được tiến hành trong mối quan hệ giữa nhiều bộ phận như: sản xuất, marketing, nhân sự, tài chính nên nhu cầu về quản trị cũng đòi hỏi phải được tổ chức triển khai ở tất cả các bộ phận nêu trên. Vì vậy, đối tượng nghiên cứu quản trị tài chính là các hoạt động tài chính của doanh nghiệp được đặt trong mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau giữa các bộ phận, các lĩnh vực hoạt động cùa doanh nghiệp và quan hệ của doanh nghiệp với môi trường bên ngoài.

Quản trị tài chính doanh nghiệp bao gồm tổng thể các hoạt động của nhà quản trị trong quá trình nghiên cứu, dự báo, phân tích, ra các quyết định tài chính và tổ chức thực hiện các quyết định đó nhằm thực hiện các mục tiêu đã được xác định.

Cấn nhấn mạnh rằng: không phải chỉ có quản trị tài chính nghiên cứu về các hoạt động tài chính doanh nghiệp. Các môn khoa học khác như: Tài chính doanh nghiệp cũng hướng các nghiên cứu về hoạt động tài chính. Tuy nhiên 2 môn khoa học này có những điểm khác nhau căn bản. Tài chính doanh nghiệp tập trung nghiên cứu các nghiệp vụ tài chính doanh nghiệp. “Quản trị tài chính”, trên cơ sở các phương pháp và kỹ năng phân tích các hoạt động tài chính trong mối quan hệ với các hoạt động khác của doanh nghiệp và môi trường bên ngoài để ra các quyết định tài chính căn bản như: kế hoạch tài trợ, kế hoạch đầu tư, quản trị cơ cấu vốn của doanh nghiệp.

*Mục tiêu của quản trị tài chính doanh nghiệp

Mỗi hoạt động quản trị đều nhằm thực hiện những mục tiêu nhất định. Quản trị tài chính nhằm thực hiện các mục tiêu cơ bản sau:

6

+ Mục tiêu dài hạn: Hoạch định các giải pháp tối ưu trong từng giai đoạn để thực hiện mục tiêu của doanh nghiệp, cụ thể là:

  • Đưa ra các quyết định đầu tư đúng, hiệu quả cao.
  • Đưa ra các quyết định tài trợ hợp lý với chi phí sử dụng vốn thấp.

+ Mục tiêu ngắn hạn: Đảm bảo năng lực thanh toán của doanh nghiệp với nguồn tài chính tối ưu – thỏa mãn điều kiện đủ về số lượng, đúng về thời gian.

Chức năng của quản trị tài chính doanh nghiệp

Quản trị tài chính doanh nghiệp có các chức năng cơ bản sau:

  1. Hoạch định chiến lược chính sách tài chính của doanh nghiệp

Rủi ro của một doanh nghiệp có thể được phân thành rủi ro kinh doanh và rủi ro tài chính. Rủi ro kinh doanh thường gắn liền với các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Lãnh đạo doanh nghiệp giữ vai trò kiểm soát đối với mức độ rủi ro kinh doanh thông qua sự lựa chọn những dự án đầu tư, công nghệ và các chiến lược đầu tư cụ thể. Rủi ro tài chính xuất phát từ sử dụng nợ vay. Mỗi doanh nghiệp khác nhau thì có thể có đòn cân nợ khác nhau. Vì vậy, để hạn chế rủi ro tài chính, nhà quản trị tài chính doanh nghiệp cần căn cứ vào đặc điểm ngành nghề kinh doanh, môi trường kinh doanh... của doanh nghiệp để hoạch định cơ cấu vốn mục tiêu và nguồn tài trợ cho các quỹ của doanh nghiệp. Cơ cấu vốn mục tiêu thể hiện sự phối kết hợp giữa vốn chủ sở hữu và nợ trong tổng vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Nhìn chung doanh nghiệp có rủi ro kinh doanh cao thường có khuynh hướng sử dụng ít nợ hơn những doanh nghiệp khác.

Chính sách tài chính là một bộ phận quan trọng trong các chính sách của doanh nghiệp, nó được cấu thành bới 3 chính sách thành phần: chính sách đầu tư, chính sách tài trợ và chính sách phân phối thu nhập. Mỗi chính sách thành phần có mục tiêu riêng. Song sự tương thích giữa chúng là điều kiện cần thiết để chu trình tài chính vận hành trôi chayrm hay nói cách khác là tạo nên một chính sách tài chính có tính khả thi.

    • Chính sách đầu

Chính sách đầu tư là tiền đề cho việc triển khai hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nhìn vào chính sách đầu tư của một doanh nghiệp cho chúng ta biết được xu hướng phát triển trong tương lai của doanh nghiệp như thế nào. Chính sách đầu tư chỉ ra các hình thức đầu tư, hoặc một danh mục đầu tư và quy mô đầu tư của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định, ấn định thời hạn đầu tư, tỷ suất lợi nhuận mà dự án đầu tư đòi hỏi.

Chính sách đầu tư của doanh nghiệp chịu tác động bởi một số yếu tố như: Mối quan hệ giữa người điều hành và người sở hữu doanh nghiệp, môi trường kinh doanh, khả năng tài chính của doanh nghiệp, chính sách quản lý kinh tế của nhà nước, nhu cầu thị trường tiềm năng…

7

  • Chính sách tài trợ

Chính sách tài trợ là cơ sở của việc tạo vốn, trong đó chỉ ra các định hướng cơ bản trong việc xác định nguồn, số lượng, thời hạn và thời điểm huy động vốn của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định. Các định hướng đề ra phải đạt được mục tiêu tối thiểu hóa chi phí sử dụng vốn, trên cơ sở tôn trọng ràng buộc chiến lược về cấu trúc vốn để hạn chế chi phí điều hành, cũng như ràng buộc về quy mô phát triển và quan hệ với môi trường của doanh nghiệp. Căn cứ để xây dựng chính sách tài trợ là chính sách đầu tư của doanh nghiệp.

Chính sách tài trợ của doanh nghiệp chịu tác động bởi nhiều yếu tố như: Hình thức pháp lý của doanh nghiệp, cơ cấu vốn mục tiêu của doanh nghiệp, sự phát triển của thị trường vốn…

  • Chính sách phân phối thu nhập

Chính sách phân phối thu nhập thể hiện quan điểm về việc phân chia lợi nhuận doanh nghiệp, đặc biệt là vấn đề có trích lập các quỹ doanh nghiệp không? Trích lập những quỹ gì và với tỷ lệ như thế nào? Chia lãi cho các cổ đông với tỷ lệ cổ tức là bao nhiêu, theo hình thức nào? Chia lợi tức cổ phần bằng tiền (chia cổ tức cổ phần thường kỳ, lợi tức cổ phần chia thêm, lợi tức cổ phần đặc biệt) hay chia lợi tức bằng cổ phần…?

Chính sách phân phối thu nhập chịu tác động bởi một số yếu tố như: Tính chất sở hữu và hình thức pháp lý của doanh nghiệp, chính sách quản lý phân phối thu nhập doanh nghiệp của Nhà nước, chính sách thuế, cấu trúc và tâm lý cổ đông…

Mối quan hệ giữa các chính sách tài chính

Chính sách phân phối TN

Chính sách đầu tư

Chính sách tài trợ

Chính sách đầu tư và chinh sách tài trợ liên quan đến nhau trong mối quan hệ cân đối giữa nhu cầu vốn hình thành bởi chính sách đầu tư và khả năng cung cấp vốn hình thành từ chính sách tài trợ. Quan hệ cân đối này phải được xem xét trên cả 2 phương diện số lượng và thời gian khi xét đến lịch trình tài trợ và hoàn trả.

Chính sách phân phối thu nhập xác định tỷ lệ thu nhập để tích lũy, nhằm bổ sung vốn chủ sở hữu cho mở rộng kinh doanh và hiện đại hóa công nghê, do đó nó là cơ sở để hoạch

8

định phương thức huy động nguồn vốn từ bên ngoài, một mảng quan trọng trong chính sách tài trợ. Điều này sẽ tác động đến cầu trúc nguồn vốn và ảnh hưởng đến chi phí sử dụng vốn của doanh nghiệp và do vậy nó tác động ngược trở lại đến chính sách phân phối thu nhập.

Chính sách đầu tư tác động đến chính sách phân phối thu nhập trong tương lai. Bởi vì quy mô của lợi nhuận kỳ vọng sẽ thu được từ các dự án đầu tư có thể dẫn tới sự điều chỉnh trong chính sách phân phối thu nhập và chia lãi cổ phần của doanh nghiệp. Ngoài ra, việc theo đuổi một cấu trúc vốn tối ưu cùng với một chính sách chia lãi cổ phần ổn định có thể dẫn đến sự thặng dư ngân quỹ dài hạn của doanh nghiệp. Điều này làm xuất hiện các quyết định đầu tư tài chính do đặc điểm linh hoạt của loại hình đầu tư này so với đầu tư trực tiếp.

  1. Tổ chức thực hiện các chiến lược chính sách tài chính doanh nghiệp

Đây là quá trình xác lập mô hình, phân công và giao nhiệm vụ cho mỗi cấp và mỗi nhân viên trong doanh nghiệp để thực hiện các chiến lược, kế hoạch, chính sách tài chính của doanh nghiệp. Thực hiện chức năng này nhà quản trị tài chính cần quan tâm đến một số vấn đề cụ thể như sau:

    • Tổ chức huy động nguồn vốn cho đầu tư, kinh doanh với chi phí thấp

Mọi hoạt động của doanh nghiệp đòi hỏi phải có vốn. Vì thế căn cứ vào các dự án đầu tư, các kế hoạch sản xuất kinh doanh đã được phê duyệt, nhà quản trị tài chính phải xác định được nhu cầu vốn cần thiết của doanh nghiệp trong từng thời kỳ. Đồng thời để thực hiện được các mục tiêu trong dài hạn cũng như ngắn hạn, nhà quản trị tài chính cần xem xét, cân nhắc trên nhiều mặt như: lợi ích, bất lợi của mỗi hình thức huy động vốn, chi phí sử dụng mỗi loại nguồn như thế nảo…? Cụ thể, đẻ thực hiện tốt các chức năng này, nhà quản trị phải trả lời được các câu hỏi: Cần bao nhiêu vốn? Vào thời điểm nào? Thời gian bao lâu (dài hạn hay ngắn hạn)? Huy động nguồn vốn nào (vốn chủ sở hữu hay nợ), huy động nội tệ hay ngoại tệ?...

    • Tổ chức sử dụng vốn tiết kiệm, hiệu quả

Thực hiện chức năng này, nhà quản trị tài chính doanh nghiệp phải tìm ra các biện pháp nhằm góp phần huy động tối đa số vốn hiện có vào hoạt động kinh doanh, giải phóng các khoản vốn còn bị ứ đọng. Theo dõi chặt chẽ và thực hiện tốt các hoạt động thanh toán các khoản phải thu, phải trả. Tìm kiếm các giải pháp thích hợp để đảm bảo sự cân bằng thu chi tiền tệ, ổn định tình hình tài chính, đảm bảo doanh nghiệp luôn có đủ khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn.

    • Tổ chức thực hiện tốt quá trình phân phối thu nhập

Thu nhập của doanh nghiệp được tạo ra từ nhiều nguồn khác nhau. Theo nguồn hình thành, thu nhập của doanh nghiệp bao gồm: thu nhập sản xuất kinh doanh, thu nhập tài chính và thu nhập bất thường, trong đó thu nhập tạo ra từ hoạt động sản xuất kinh doanh thường chiếm tỷ trọng lớn. Trên cơ sở xác định tính chính xác tổng thu nhập của doanh nghiệp, nhà

9

quản trị phải xây dựng được chính sách phân phối thu nhập hợp lý, giải quyết hài hòa mối quan hệ về lợi ích giữa nhà nước, chủ sở hữu doanh nghiệp và người lao động; đảm bảo yêu cầu tích lũy của doanh nghiệp để đầu tư phát triển, tăng trưởng doanh nghiệp, chú trọng lợi ích của cổ đông và người lao động trong doanh nghiệp… chính sách phân chia lợi tức cổ phần có ảnh hưởng trực tiếp đến giá trị doanh nghiệp. Vì vậy, trước khi ra quyết định và tổ chức quá trình phân phối này, nhà quản trị cần xem xét kỹ các nhân tố tác động như những quy định pháp lý về phân phối thu nhập doanh nghiệp, những cơ hội đầu tư, tâm lý cổ đông, thuế và tính hấp dẫn đối với các nhà đầu tư tiềm năng của doanh nghiệp.

  1. Kiểm soát tình hình tài chính doanh nghiệp

Kiểm soát bao gồm việc thiết lập các tiêu chuẩn và lượng hóa các kết quả đạt được, tiến hành các hoạt động điều chỉnh nếu kết quả không đúng với mục tiêu ấn định. Kiểm soát tài chính có thể thực hiện kết hợp theo nhiều hình thức: Kiểm soát định kỳ, kiểm soát liên tục, kiểm soát bằng mục tiêu và kết quả; kiểm soát toàn bộ kiểm soát bộ phận, kiểm soát cá nhân và tiến hành cả trước và sau khi triển khai thực hiện các hoạt động tài chính.

Phân tích tài chính là nội dung quan trọng trong hoạt động kiểm soát. Phân tích tài chính doanh nghiệp được thực hiện thông qua các chỉ tiêu tài chính và thường tiến hành theo những định kỳ nhất định nhằm đánh giá tình hình hoạt động của doanh nghiệp, những điểm mạnh, điểm yếu trong hoạt động tài chính cũng như thực trạng tình hình tài chính của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó có thể đưa ra những quyết định đúng về kinh doanh, tài chính, đảm bảo mọi tài sản, tiền vốn và các nguồn tài chính của doanh nghiệp được sử dụng một cách có hiệu quả nhất.

Các chức năng của quản trị tài chính có mối quan hệ mật thiết và tác động tương hỗ lẫn nhau. Việc hoạch định chiến lược tài chính cho phép định ra một phương hướng chung cho mọi suy nghĩ và hành động, một kim chỉ nam hướng dẫn các quyết định đối với mọi thành viên của doanh nghiệp. Việc tổ chức thực hiện cá chiến lược tài chính góp phần giúp doanh nghiệp biến các chiến lược, kế hoạch kinh doanh, dự án đầu tư thành hiện thực. Tuy nhiên, việc hoạch định cũng có hạn chế nhất định, đó là kết quả dự báo có thể sai lầm làm giảm tác động tích cực của hoạch định. Vì vậy, thực hiện chức năng kiểm soát không chỉ đảm bảo cho quá trình tổ chức triển khai công tác quản trị tài chính đi theo đúng định hướng chiến lược đã vạch định ra, góp phần nâng cao hiệu quả của quá trình tổ chức thực hiện các chiến lược, kế hoạch và chính sách tài chính mà còn có thể kịp thời đưa ra những quyết sách, các hành vi ứng xử khi thực tế phát sinh những tình huống ngoài dự kiến, hoặc phát hiện những hiện tượng vi phạm quy trình, chính sách tài chính trong quá trình tổ chức thực hiện.

* Một số vấn đề cần lưu ý trong quản trị tài chính doanh nghiệp

Để thực hiện các mục tiêu của doanh nghiệp, hoạt động quản trị tài chính doanh nghiệp cần tuân thủ một số vấn đề mang tính nguyên tắc sau:

10

  • Tiền có giá trị theo thời gian: một đồng tiền ở thời điểm hiện tại luôn có giá trị lớn hơn một đồng tiền ở thời điểm trong tương lai.
  • Số lượng và thời gian phải được xem xét đồng thời: cân đối thu-chi, cung-cầu về tiền của doanh nghiệp phải bao gồm cả hai yếu tố: số lượng và thời gian.
  • Khó có thể tìm được các dự án hoàn hảo: thị trường là cạnh tranh nên điều kiện để đánh giá và lựa chọn các dự án đầu tư cần biến hóa, không cố định theo các khuôn mẫu có sẵn.

ro.

  • Mọi rủi ro đều phải được đền bù thỏa đáng: rủi ro luôn tồn tại trong mối quan hệ rủi
  • Chi phí sử dụng vốn luôn là tham số cơ bản: chi phí sử dụng vốn có ảnh hưởng trực

tiếp đến kết quả và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy, cần lựa chọn nguồn vốn trên cơ sở xem xét giá vốn trên thị trường và khả năng linh hoạt trong điều chỉnh cơ cấu sử dụng vốn.

    • Chính sách hợp lý với người điều hành doanh nghiệp: Khi có sự phân biệt giữa quyền sở hữu với quyền điều hành thì lợi ích của người điều hành sẽ là gánh nặng với người sở hữu và ảnh hưởng tới các lựa chọn tài chính dài hạn thể hiện bởi cấu trúc vốn và chi phí điều hành. Vì thế cần có chính sách kích thích hợp lý với người điều hành và doanh nghiệp.
    • Chính sách thuế có ảnh hưởng đến quyết định kinh doanh: các vấn đề thuế có ảnh hưởng đến các lựa chọn tài chính dài hạn, các quyết định về quản trị nguồn tài trợ và tài sản của doanh nghiệp… Vì vậy, cần căn cứ vào môi trường thuế nơi doanh nghiệp hoạt động để xây dựng chính sách quản lý tài chính thích hợp, đảm bảo yêu cầu tuân thủ đúng pháp luật và có lợi cho doanh nghiệp.
      1. Vị trí tổ chức bộ máy quản trị tài chính doanh nghiệp
        • Vị trí của quản trị tài chính trong bộ máy tổ chức doanh nghiệp

Các doanh nghiệp khác nhau có mô hình quản lý khác nhau. Để thực hiện các mục tiêu đã được xác định, mỗi doanh nghiệp đều thực hiện nhiều chức năng và nhiệm vụ quản lý như quản lý sản xuất, quản lý nhân lực, quản lý tiêu thụ, quản lý tài chính. Các chức năng quản lý này thường do những bộ phận riêng chuyên trách đảm nhiệm nhưng giữa chúng lại có mối quan hệ mật thiết để tạo nên kết quả và hiệu quả kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Quản trị sản xuất kinh doanh ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh và sức cạnh tranh của doanh nghiệp thông qua năng suất lao động, chất lượng và giá thành sản phẩm. Quản trị nhân lực thông qua việc tuyển dụng và tổ chức lao động hợp lý, đúng người, đúng việc góp phần tạo nên sự nhịp nhàng và hiệu quả trong mỗi khâu công việc. Quản trị tài chính có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo các nguồn lực tài chính, một điều kiện không thể thiếu để thực hiện các hoạt động sản xuất, kinh doanh. Vì vậy, quản lý tài chính có vai trò, vị trí then chốt trong bộ máy quản trị của doanh nghiệp.

11

Trong sơ đồ tổ chức doanh ngiệp, bộ phận quản lý tài chính luôn được xem là một bộ phận quan trọng bên cạnh người lãnh đạo cao cao cấp nhất của doanh nghiệp và luôn có ảnh hưởng rất lớn đến việc đưa ra những quyết định quan trọng đối với doanh nghiệp. Tính chất quan trọng này là do vấn đề tài chính bao trùm mọi hoạt động của doanh nghiệp và thông tin tài chính của doanh nghiệp luôn được quan tâm bởi mọi chủ thể liên quan đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.

Hội đồng quản trị

Tổng Giám đốc (CEO)

Giám đốc sản xuất

Giám đốc tài chính (CFO)

Giám đốc kinh doanh

Kế toán trưởng

Kế toán quản trị

Lập Báo cáo tài chính

Kiểm soát nội bộ

Phân tích và lập kế hoạch tài chính

Kế toán tài chính

Phân phối lợi nhuận

Huy động vốn

Trưởng phòng tài chính

Đầu tư vốn và quản lý sử dụng vốn

        • Nhà quản trị tài chính là ai?

+ Giám đốc tài chính: ở các công ty lớn thường có các giám đốc tài chính, giúp tổng giám đốc kiểm soát mọi công việc liên quan đến tài chính và kế toán. Giám đốc tài chính là người trực tiếp quản lý toàn bộ tình hình tài chính của công ty, tham mưu cho tổng giám đốc trong việc ra các quyết định tài chính.

+ Trưởng phòng tài chính: Giúp giám đốc tài chính tổ chức và quản lý các hoạt động

sau:

12

doanh.

  • Quan hệ với ngân hàng và các tổ chức tín dụng để tìm kiếm nguồn tài trợ vốn kinh
  • Quản lý quá trình sử dụng và huy động vốn
  • Quản trị tín dụng thương mại (bán chịu)
  • Quản trị phân phối kết quả kinh doanh (KQKD)
  • Phân tích và lập kế hoạch tài chính,…

+ Kế toán trưởng: thực hiện một số chức năng nhiệm vụ sau:

  • Tổ chức soạn thảo các báo cáo tài chính (BCTC)
  • Kiểm toán nội bộ (KTNB)
  • Kế toán tài chính
  • Kế toán quản trị

+ Ngoài các nhà quản trị tài chính cấp cao, mỗi cán bộ quản trị tài chính có trách

nhiệm quản lý tài chính ở mỗi bộ phận mà mình được phân công phụ trách.

13

CHƯƠNG 2

QUẢN TRỊ TÀI SẢN CỐ ĐỊNH

Bất cứ một doanh nghiệp nào, dù có quy mô lớn hay nhỏ, dù thuộc lĩnh vực sản xuất chế biến, hay kinh doanh hàng hóa dịch vụ, để thực hiện các hoạt động kinh doanh đều cần phải có các yếu tố cần thiết như kho tàng, cửa hàng, văn phòng, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, vật tư, tiền, vốn… Theo thời gian luân chuyển giá trị, toàn bộ tài sản của doanh nghiệp bao gồm: các tài sản có thời gian sử dụng (hay thu hồi, luân chuyển giá trị) mang tính ngắn hạn gọi là tài sản lưu động (TSLĐ) và những tài sản có thời gian sử dụng (hay thu hồi, luân chuyển giá trị) mang tính dài hạn. Căn cứ vào hình thái tồn tại, tài sản luân chuyển giá trị mang tính dài hạn của doanh nghiệp bao gồm 3 loại: Tài sản cố định (TSCĐ), đầu tư tài chính dài hạn và các tài sản dài hạn khác. Nội dung chương này chỉ tập trung nghiên cứu về TSCĐ và quản trị TSCĐ.

Phân loại tài sản cố định

Khái niệm

Bất cứ quá trình kinh doanh nào cũng cần có sự hiện của 3 yếu tố cơ bản, đó là: đối tượng lao động, tư liệu lao động và sức lao động. Bộ phận tư liệu lao động có giá trị lớn và thời gian sử dung, thu hồi, luân chuyển giá trị mang tính dài hạn (như nhà xương, văn phòng, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, giá trị quyền sử dụng đất…) được gọi là TSCĐ. Nói cách khác, TSCĐ là những tư liệu lao động có giá trị lớn, thời gian sử dụng (thu hồi, luân chuyển giá trị) dài.

Dấu hiệu nhận biết TSCĐ: thông thường một tài sản được coi là TSCĐ nếu thỏa mãn đồng thời 3 điều kiện:

  • Tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp với tư cách là tư liệu lao động.
  • Có thời gian sử dụng dài, thường từ 1 năm trở lên.
  • Có giá trị lớn, đạt đến một mức độ nhất định. Tiêu chuẩn này phụ thuộc vào quy định của từng quốc gia trong từng thời kỳ.

Những tài sản không hội tụ đủ các tiêu chuẩn kể trên được coi là TSLĐ của doanh nghiệp. Việc nhận biết và phân biệt TSCĐ với TSLĐ có ý nghĩa không chỉ trong công tác nghiên cứu mà còn giúp cho doanh nghiệp có thể quán lý, sử dụng tài sản một cách tốt nhất.

Thực tế ở Việt Nam hiện nay: Theo thông tư 45/2013/TT-BTC. Một tài sản của doanh nghiệp nếu thỏa mãn đồng thời 4 điều kiện sau thì được coi là TSCĐ:

+ Chắc chắn thu được lợi ích kinh tế trong tương lai từ việc sử dụng tài sản đó.

+ Nguyên giá phải được xác định một cách đáng tin cậy.

14

+ Có thời gian sử dụng từ 1 năm trở lên

+ Có giá trị từ 30.000.000 đồng trở lên.

Đặc điểm

Có nhiều loại TSCĐ khác nhau và được sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau, song chúng đều có các đặc điểm chung sau đây:

+ TSCĐ tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp với vai trò là các tư liệu lao động chủ yếu

+ Trong quá trình tồn tại, hình thái vật chất và đặc tính sử dụng ban đầu của TSCĐ hầu như không thay đổi, song giá trị và giá trị sử dụng giảm dần.

Trong quá trình TSCĐ tồn tại và được sử dụng, giá trị và giá trị sử dụng của nó bị giảm đi do tác động của nhiều yếu tố. Hiện tượng này được gọi là sự hao mòn TSCĐ. Nói cách khác, hao mòn TSCĐ là sự giảm sút về giá trị và giá trị sử dụng cảu TSCĐ. Trong thực tế có 2 loại hao mòn TSCĐ: hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình.

- Hao mòn hữu hình của TSCĐ

Đây là sự hao mòn về hiện vật và giá trị của TSCĐ trong quá trình chúng tồn tại và sử dụng. Hình thức hao mòn này được biểu hiện dưới hai khía cạnh:

Về mặt hiện vật: giá trị sử dụng của TSCĐ giảm đi thể hiện ở sự thay đổi trạng thái vật lý, sự giảm sút về chất lượng và tính năng công dụng ban đầu. Nếu quá trình này cứ tiếp diện thì đến một lúc nào đó TSCĐ sẽ không còn sử dụng được nữa. Muốn khôi phục lại giá trị sử dụng của nó thì phải sửa chữa, hoặc thay thế.

Về mặt giá trị: hao mòn hữu hình là sự giảm dần giả trị của TSCĐ và phần giá trị hao mòn này thường được các nhà quản lý tính toán và hạch toán vào chi phí kinh doanh hay giá thành sản phẩm, dịch vụ.

Nguyên nhân của hao mòn hữu hình là do tác động cơ hóa học xảy ra với TSCĐ khi chúng tham gia và quá trình kinh doanh của doanh nghiệp và do tác động của điều kiện tự nhiên như nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng của môi trường sử dụng TSCĐ. Mức độ hao mòn hữu hình phụ thuộc vào cường độ sử dụng TSCĐ, việc chấp hành các quy trình kỹ thuật và chất lượng chế tạo TSCĐ

Đối với TSCĐ hữu hình, hao mòn hữu hình được thể hiện cả về mặt hiện vật và giá trị.

Tuy nhiên, đối với TSCĐ vô hình, hao mòn hữu hình chỉ thể hiện về mặt giá trị mà thôi.

- Hao mòn vô hình của TSCĐ:

Hao mòn vô hình là sự giảm đi thuần túy về mặt giá trị (hay giá trị trao đổi) của TSCĐ do tác động của tiến bộ khoa học kỹ thuật. Có một số nguyên nhân cơ bản sau dẫn đến hao mòn vô hình TSCĐ:

15

Một là, TSCĐ bị giảm giá trị trao đổi do sự xuất hiện của TSCĐ như cũ nhưng với giá rẻ hơn. Nguyên nhân cơ bản của hình thức hao mòn này là do tiến bộ khoa học được áp dụng vào sản xuất, làm cho năng suất lao động tăng lên, kết quả là giá thành sản xuất TSCĐ giảm xuống, từ đó doanh nghiệp sản xuất ra TSCĐ có điều kiện để hạ giá bán.

Hai là TSCĐ bị giảm giá trị trao đổi do xuất hiện những TSCĐ mới, hoàn thiện và hiện đại hơn về tính năng kỹ thuật. Nguyên nhân cơ bản của hiện tượng này là do tiến bộ khoa học kỹ thuật được áp dụng vào sản xuất đã chế tạo ra những TSCĐ hoàn thiện và hiện đại hơn và có thể thay thế TSCĐ cũ, từ đó làm cho giá trị trao đổi của TSCĐ cũ bị giảm.

Ba là TSCĐ bị mất hoàn toàn giá trị trao đổi do sự kết thúc chu kỳ sống của sản phẩm, dẫn đến những TSCĐ sử đụng dể sản xuất ra những sản phẩm đó cũng bị lạc hậu, mất tác dụng. Kể cả trường hợp các máy móc thiết bị, quy trình công nghệ… còn nằm trên các dự án thiết kế song đã trở lên lạc hậu tại thời điểm đó. Do vậy, hao mòn vô hình xảy ra đối với cả TSCĐ hữu hình và vô hình,

Nguyên nhân của hiện tượng kể trên trước hết là do sự phát triển của khoa học công nghệ dẫn tới sự xuất hiện những sản phẩm mới thay thế và làm kết thúc chu kỳ sống của sản phẩm cũ, hậu quả là những TSCĐ dùng để sản xuát ra những sản phẩm cũ bị lạc hậu, giảm hoặc mất tác dụng. Ngoài ra, trong nhiều trường hợp, sự kết thúc chu kỳ sống của sản phẩm không phải do tiến bộ khoa học kỹ thuật mà do các nguyên nhân khác như thay đổi thị hiếu, tập quán… của người tiêu dùng. Tuy vậy, nguyên nhân cơ bản và bao trùm hiện tượng hao mòn vô hình TSCĐ là do sự phát triển của tiến bộ khoa học kỹ thuật.

Việc nghiên cứu các loại hao mòn TSCĐ và nguyên nhân gây ra chúng là căn cứ quan trọng để đề ra các biện pháp hạn chế và khắc phục hao mòn. Đồng thời, đây cũng là một trong những cơ sở để doanh nghiệp đưa ra các quyết định đầu tư, khai thác sử dụng, quản lý, trích khấu hao và đổi mới TSCĐ phù hợp với tình hình của doanh nghiệp.

Phân loại TSCĐ

Phân loại TSCD được hiểu là việc phân chia, sắp xếp TSCĐ đang thuộc quyền quản lý, sử dụng của doanh nghiệp thành từng nhóm, từng loại theo những tiêu thức cụ thể nhằm phục vụ cho mục đích nghiên cứu và quản lý của doanh nghiệp. Sau đây là một số cách phân loại thông dụng.

  • Căn cứ vào hình thái vật chất của TSCĐ

Theo tiêu thức này, tổng TSCĐ thuộc quyền quản lý và sử dụng của doanh nghiệp được chia thành hai loại: TSCĐ hữu hình và TSCĐ vô hình.

+ TSCĐ hữu hình: là những TSCĐ có hình thái vật chất cụ thể. TSCĐ hữu hình bao

gồm:

16

  • Nhà cửa, vật kiến trúc: đây là các TSCĐ được hình thành qua quá trình thi công, xây dựng như nhà xưởng, văn phòng, nhà kho, hàng rào, tháp nước, sân bãi, các công trình trang trí cho nhà cửa, đường sá, cầu cống,…
  • Máy móc, thiết bị: là toàn bộ các máy móc, thiết bị dùng cho hoạt động kinh doanh và công tác quản lý kinh doanh của doanh nghiệp như máy móc thiết bị động lực, máy công tác, thiết bị chuyên dùng, dây chuyền công nghệ, máy tính, phần mềm máy tính, thiết bị điện tử phục vụ quản lý, thiết bị dụng cụ đo lường, kiểm tra chất lượng, máy hút ẩm, hút bụi…
  • Phương tiện vận tải và thiết bị truyền dẫn: là các loại phương tiện vận tải như vận tải đường sắt, đường thủy, đường bộ, đường hàng không, đường ống và các thiết bị truyền dẫn như hệ thống điện, hệ thống nước, hệ thống thông tin, đường khí đốt, băng tải hàng hóa.
  • Vườn cây lâu năm, súc vật làm việc và (hoặc) cho sản phẩm: là cá vườn cây kinh doanh lâu năm như vườn chè, vườn cà phê, vườn cây cao su, vườn cây ăn quả, thảm cỏ, thảm cây xanh, súc vật làm việc và (hoặc) cho sản phẩm như đàn voi, đàn bò, đàn trâu, đàn ngựa…
  • Các loại TSCĐ khác: là toàn bộ những TSCĐ chưa liệt kê vào các loại kể trên như tranh ảnh, tác phẩm nghệ thuật,…

+ TSCĐ vô hình: là nhứng TSCĐ không có hình thái vật chất cụ thể nó được thể hiện bằng một lượng giá trị mà doanh nghiệp đã đầu tư có liên quan, hay phát huy tác dụng trong nhiều kỳ kinh doanh của doanh nghiệp như quyền sử dụng đất, thương hiệu, quyền phát hành, bằng phát minh sáng chế, nhãn hiệu thương mại, bản quyền tác giả,…

Việc phân loại TSCĐ theo tiêu thức kể trên giúp doanh nghiệp thấy được cơ cấu vốn đầu tư vào TSCĐtheo hình thái biểu hiện, từ đó có thể đưa ra các quyết định đầu tư, khai thác sử duingj TSCĐ, hay điều chỉnh cơ cấu này sao cho phù hợp và có hiệu quả nhất.

  • Căn cư vào mục đích sử dụng

Theo tiêu thức này,toàn bộ TSCĐ của doanh nghiệp được chia thành ba loại:

  • TSCĐ sử dụng cho mục đích kinh doanh: đây là những tài sản doanh nghiệp sử dụng trong các hoạt động cụ thể khác nhau nhưng cùng nhằm mục đích phục vụ trực tiếp, hoặc gián tiếp cho kinh doanh.

dụ: kho tàng, cửa hàng, nhà xưởng, máy móc thiết bị, giá trị quyền sử dụng đất… dùng cho các hoạt động sản xuất kinh doanh.

  • TSCĐ sử dụng cho mục đích phúc lợi, sự nghiệp, an ninh quốc phòng. Đây là những TSCĐ do doanh nghiệp quản lý và sử dụng cho hoạt động phúc lợi, sự nghiệp an ninh quốc phòng trong doanh nghiệp. Chẳng hạn như nhà ăn, nhà ở tập thể, câu lạc bộ, trạm y tế, phòng đọc…

17

  • TSCĐ bảo quản, giữ hộ: là những TSCĐ không thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp nhưng doanh nghiệp có trách nhiệm bảo quản, giữ hộ cho nhà nước, hay cho doanh nghiệp khác.

Việc phân loại như trên giúp doanh nghiệp biết được kết cầu TSCĐ theo mục đích sử dụng, từ đó có biện pháp quản lý, khai thác sử dụng, trích khấu hao thích hợp và hiệu quả nhất.

  • Căn cứ vào tình hình sử dụng

Theo tiêu thức này, tổng TSCĐ của doanh nghiệp được chia thành các loại sau:

  • TSCĐ đang sử dụng tại doanh nghiệp: đây là những TSCĐ của doanh nghiệp sử dụng cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, phúc lợi, sự nghiệp an ninh, quốc phòng của doanh nghiệp.
  • TSCĐ cho thuê: là những TSCĐ do doanh nghiệp đầu tư song hiện tại doanh nghiệp không trực tiếp khai thác sử dụng mà cho các đơn vị khác thuê theo những điều kiện ràng buộc nhất định.
  • TSCĐ chưa cần dùng: là những TSCĐ của doanh nghiệp cần thiết cho các hoạt động của doanh nghiệp song hiện tại chưa được đưa ra sử dụng, đang trong quá trình dự trữ, cất giữ để sử dụng sau này.
  • TSCĐ không cần dùng chờ nhượng bán, thanh lý: là những TSCĐ không cần thiết hay không phù hợp với hoạt động của doanh nghiệp, hoặc đã hư hỏng cần được nhượng bán, thanh lý để giải phóng mặt bàng, thu hồi vốn đầu tư.

Cách phân loại này cho thấy thực trạng tình hình đầu tư, khai thác sử dụng TSCĐ của doanh nghiệp, từ đó có thể đề ra các biện pháp quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ.

  • Căn cứ vào quyền sở hữu.

Theo tiêu thức này, TSCĐ của doanh nghiệp được chia thành 2 loại:

+ TSCĐ thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp: bao gồm các loại TSCĐ được đầu tư bằng nguồn vốn của doanh nghiệp, hoặc bằng nguồn vốn vay, doanh nghiệp có quyền sở hữu và sử dụng chúng. Các TSCĐ này được đăng ký đứng tên doanh nghiệp.

+ TSCĐ không thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp: là những TSCĐ của đơn vị khác nhưng doanh nghiệp có quyền quản lý, sử dụng theo những điều kiện ràng buộc nhất định. Thuộc nhóm TSCĐnày bao gồm 3 loại: TSCĐ nhận của đối tác liên doanh, TSCĐ thuê ngoài và TSCĐ nhận giữ hộ, quản lý hộ.

  • TSCĐ nhận của đối tác liên doanh là các tài sản do đối tác liên doanh góp theo các hợp đồng hợp tác kinh doanh. Doanh nghiệp có quyền quản lý và sử dụng theo các điều khoản hợp đồng đã ký. Khi kết thúc hợp đòng, việc xử lý tài sản này cũng sẽ được tiến hành theo hợp đồng hay theo thỏa thuận giữa các bên.

18

động.

  • TSCĐ thuê ngoài được hình thành theo 2 phương thức: Thuê tài chính và thuê hoạt

TSCĐ thuê tài chính: là những TSCĐ được hình thành theo phương thức thuê tài

chính. Ở Việt Nam hiện nay, tài sản thuê tài chính là những tài sản thuê từ các tổ chức kinh doanh có chức năng cho thuê tài chính (công ty cho thuê tài chính) và hợp đồng thuê phải thỏa mãn 2 điều kiện sau:

    1. Khi kết thúc thời hạn thuê, bên đi thuê được quyền lựa chọn mua lại tài sản thuê, hoặc tiếp tục thuê theo các điều kiện đã thỏa thuận trong hợp đồng thuê tài chính.
    2. Tổng số tiền thuê tài sản quy đinh trong hợp đồng thuê tài chính, ít nhất phải tương đương với giá trị của tài sản đó trên thị trường vào thời điểm ký kết hợp đồng.

Nếu các hợp đồng thuê tài sản không thỏa mãn bất kì điều kiện nào trong các điều kiện nêu trên thì hình thức thuê đó được gọi là thuê hoạt động.

Cách phân loại trên sẽ giúp doanh nghiệp nắm bắt được tình hình và cơ cấu TSCĐ theo nguồn hình thành và quyền sở hữu đối với TSCĐ, từ đó có thể đưa ra các biện pháp quản lý, sử dụng và trích khấu hao thích hợp.

Tình hình TSCĐ của doanh nghiệp trong mỗi thời kỳ được phản ánh tổng quát ở bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp trong thời kỳ đó.

Các phương pháp tính khấu hao TSCĐ

Khái niệm và mục đích khấu hao TSCĐ

Qua các nội dung nghiên cứu ở trên cho thấy TSCĐ bị giảm dần giá trong quá trình dự trữ và tham gia vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, và đến một lúc nào đó, TSCĐ sẽ không sử dụng được nữa cần phải đổi mới và thay thế. Để có nguồn tài chính đầu tư TSCĐ khi cần thiết, doanh nghiệp phải tính toán xác định phần giá trị hao mòn TSCĐ và dịch chuyển nó vào chi phí sản xuất kinh doanh, hay giá trị sản phẩm, dịch vụ tạo ra. Phần giá trị này cần được thu hồi thông qua hoạt động khấu hao TSCĐ. Như vậy, khấu hao TSCĐ là quá trình tính toán, xác định và thu hồi phần giá trị TSCĐ hao mòn đã dịch chuyển vào chi phí sản xuất kinh doanh, hay giá thành sản phẩm của doanh nghiệp.

Trong thực tế, việc xác định chính xác giá trị TSCĐ hao mòn là không thể thực hiện được. Hơn nữa, mục đích chủ yếu của khấu hao là xác định phần giá trị TSCĐ cần được thu hồi và tích lũy lại nhằm đảm bảo nguồn vốn cho tái đầu tư TSCĐ. Cho nên việc xác định chính xác giá trị hao mòn TSCĐ không quan trọng bằng việc đạt được mục đích của khấu hao. Vì vậy, việc tính khấu hao theo phương pháp nào còn tùy thuộc vào mục đích thu hồi vốn. thực tế sử dụng tài sản ở mỗi doanh nghiệp và cơ chế quản lý khấu hao TSCĐ của Nhà nước trong từng thời kỳ. Đó cũng là lý do giải thích tại sao, trong công tác kế toán, việc khấu hao được thực hiện bằng cách phân bổ giá trị TSCĐ vào chi phí sản xuất kinh doanh. Hay,

19

khấu hao là việc tính toán và phân bổ một cách có hệ thống nguyên giá TSCĐ vào chi phí sản xuất kinh doanh trong thời gian sử dụng của TSCĐ.

Phần giá trị hao mòn (hay phần giá trị TSCĐ phân bổ) được dịch chuyên vào chi phí sản xuât kinh doanh, hay giá trị sản phẩm, dịch vụ tạo ra được coi là một yếu tố chi phí và được gọi là chi phí khấu hao TSCĐ. Bộ phận chi phí này thể hiện dưới hình thái tiền tệ được gọi là tiền khấu hao. Sau khi sản phẩm, hàng hoa, dịch vụ được tiêu thụ số tiền khấu hao được tích lũy lại và trở thành nguôn tài chính quan trọng đê đảm bảo tái đầu tư TSCĐ của doanh nghiệp. Trên thực tế, khi chưa có nhu câu đâu tư TSCĐ mới, nguồn vốn thu hồi được từ việc khấu hao tồn tại dưới hình thức là một bộ phận tài sản lưu động của doanh nghiệp và doanh nghiệp được sử dụng linh hoạt bộ phận này.

Căn cứ tính khấu hao TSCĐ

Để tính khấu hao TSCĐ người ta thường dựa vào một số yếu tố như nguyên giá, thời gian sử dụng TSCĐ, sản lượng theo công suất thiết kế và sản lượng thực tế của TSCĐ….

        1. Nguyên giá TSCĐ

Nguyên giá TSCĐ là toàn bộ các chi phí thực tế doanh nghiệp bỏ ra để có được TSCĐ tính đến thời điểm đưa TSCĐ đó vào trạng thái sẵn sàng sử dụng. Nói cách khác, nguyên giá TSCĐ là toàn bộ giá trị đầu tư ban đầu vào TSCĐ.

Ở Việt Nam hiện nay, nguyên giá TSCĐ được xác định như sau:

          • Đối với TSCĐ hữu hình

- TSCĐ hữu hình được hình thành theo phương thức mua sắm (kể cả mua mới và cũ), nguyên giá TSCĐ bao gồm: giá mua thực tế phải trả các khoản thuế (không bao gồm các khoản thuế được khấu trừ, được hoàn lại) và các chi phí khác tính đến thời điểm đưa TSCĐ vào trạng thái sẵn sàng sử dụng như: lãi tiền vay đầu tư TSCĐ, lệ phí trước bạ…

Trường hợp mua TSCĐ hữu hình theo phương thức trả chậm, trả góp thì nguyên giá tài sản này bao gồm: giá mua trả tiền ngay tại thời điểm mua, các khoản thuế (không bao gồm các khoản thuế được khấu trừ, hoàn lại) và các chi phí khác tính đến thời điểm đưa TSCĐ vào trạng thái sẵn sàng sử dụng như: chi phí vận chuyên, bốc dơ, chi phí nâng cấp, lắp đặt, chạy thử, lệ phí trước bạ… Khoản chênh lệch giữa giá mua trả chậm và giá mua trả tiền ngay được hạch toán vào chi phí hoạt động tài chính theo kỳ hạn thanh toán.

TSCĐ hữu hình được mua dưới hình thức trao đổi. Khi doanh nghiệp tài sản mình để trao đổi lấy một TSCĐ hữu hình không tương tự, hoặc lấy một tài sản khác thì nguyên giá TSCĐ nhận về được xác định là giá trị hợp lý của TSCĐ hữu hình nhận vê hoặc giá trị hợp lý của tài sản đem trao đổi (sau khi cộng them các khoản phải trả thêm, hoặc trừ đi các khoản thu về) cộng (+) các khoản thuế không bao gồm các khoản thuế được khấu trừ, được hoàn lại cộng (+) các chi phí khác tính đến thời điện đưa TSCĐ vào trạng thái sẵn sàng sử dụng như: chi phí vận chuyên, bốc dơ, chi phí nâng cấp, lắp đặt, chạy thử, lệ phí trước bạ…

20

  • TSCĐ hữu hình được hình thành theo phương thức doanh nghiệp tự xây dựng hoặc tự sản xuất. Nguyên giá TSCĐ loại này được cấu thành bởi các bộ phận như: giá thành thực tế của TSCĐ, chi phí lắp đặt chạy thử, các chi phí trực tiếp khác tính đến thời điểm đưa TSCĐ vào trạng thái sẵn sàng sử dụng (trừ các khoản lãi nội bộ, các chi phí không hợp lý như vật liệu lãng phí, lao động hoặc các khoản chi phí vượt định mức trong xây dựng, hoặc sản xuất).
  • TSCĐ hữu hình do đầu tư xây dựng cơ bản hình thành theo phương thức giao thầu , nguyên giá tài sản này là giá quyết toán công trình xây dựng theo quy định tại Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng cộng (+) lệ phí trước bạ và các chi phí liên quan trực tiếp khác .

-TSCĐ hữu hình được cấp , được điều chuyển đến .Nguyên giá TSCĐ loại này được xác định theo giá trị còn lại trên sổ kế toán TSCĐ ở các đơn vị cấp , đơn vị điều chuyển, hoặc giá trị theo đánh giá thực tế của Hội đồng giao nhận cộng (+) các chi phí mà bên nhận tài sản phải chi ra tính đến thời điểm đưa TSCĐ vào trạng thái sẵn sàng sử dụng như : chi phí vận chuyển , bốc dỡ, chi phí nâng cấp, lắp đặt,chạy thử ,lệ phí trước bạ ( nếu có),…

-TSCĐ hữu hình được cho , được biếu , được tặng , nhận vốn góp liên doanh , nhận lại vốn góp,.. Nguyên giá TSCĐ hữu hình loại này là giá trị theo đánh giá thực tế của Hội đồng giao nhận cộng (+) các chi phí mà bên nhận phải chi ra tính đến thời điểm đưa TSCĐ vào trạng thái sẵn sàng sử dụng như: chi phí vận chuyên, bốc dơ, chi phí nâng cấp, lắp đặt, chạy thử, lệ phí trước bạ…

          • Đối với TSCĐ vô hình: Cách xác định nguyên giá của TSCĐ vô hình phụ thuộc vào từng loại tài sản theo phương thức hình thành.
  • TSCĐ vô hình mua sắm: việc xác định nguyên giá của TSCĐ này tương tự như cách xác định nguyên giá TSCĐ hữu hình loại mua sắm.

TSCĐ vô hình được tạo ra từ nội bộ doanh nghiệp: Trong trường hợp này, nguyên giá TSCĐ là các chi phí liên quan trực tiếp đến khâu thiết kế, xây dựng, sản xuất thử nghiệm phải chi ra tính đến thời điểm đưa TSCĐ đó vào sử dụng theo dự tính.

Riêng các chi phát sinh tring nội bộ để doanh nghiệp có nhãn hiệu hàng hóa, quyền phát hành, danh sách khách hàng, chi phí phát sinh trong giai đoạn nghiên cứu và các khoản mục tương tự không được coi là bộ phận cấu thành nguyên giá TSCĐ vô hình mà hạch toán vào chi phí kinh doanh trong kỳ.

  • TSCĐ vô hình được cấp, được biếu, được tặng: Nguyên giá tài sản này là giá trị theo đánh giá thực tế của Hội đồng giao nhận cộng (+) các chi phí liên quan trực tiếp phải chi ra tính đến thời điểm đưa TSCĐ đó vào sử dụng theo dự tính.

Đối với một số TSCĐ vô hình đặc thù, cách thức xác định nguyên giá như sau:

+ Quyền sử dụng đất: Nguyên giá của TSCĐ là quyền sử dụng đất bao gồm quyền sử đụng đất có thời hạn và quyền sử dụng đất lâu dài: là tiền chi ra để có quyền sử dụng đất hợp

21

pháp cộng (+) chi phí cho đền bù giải phóng mặt bằng, san lấp mặt bằng, lệ phí trước bạ… (không bao gồm các chi phí chi ra để xây dựng các công trình trên đất), hoặc là giá trị quyền sử dụng đất nhận góp vốn.

Riêng đối với trường hợp doanh nghiệp thuê đất thì tiền thuê đất được phân bổ dần vào chi phí kinh doanh, không ghi nhận là TSCĐ vô hình.

+ Quyền phát hành, bản quyền, bằng sáng chế. Nguyên giá của tài sản này là toàn bộ các chi phí thực tế doanh nghiệp đã chi ra để có quyền phát hành, bản quyền, bằng sáng chế.

+ Nhãn hiệu hàng hóa. Nguyên giá của tài sản này được xác định là các chi phí thực tế liên quan trực tiếp đến việc mua nhãn hiệu hàng hóa.

+ Phần mềm máy vi tính. Nguyên giá của TSCĐ phần mềm máy vi tính (trong trường hợp phần mềm là một bộ phận có thể tách rời với phần cứng có liên quan) là toàn bộ các chi phí thực tế doanh nghiệp đã chi ra để có phần mềm máy vi tính.

          • Đối với TSCĐ thuê tài chính: Nguyên giá TSCĐ thuê tài chính phản ánh ở đơn vị thuê giá trị hợp lý của tài sản thuê tại thời điểm bắt đầu thuê tài sản. Nếu giá trị hợp lý của tài sản thuê cao hơn giá trị hiện tại của khoản thanh toán tiền thuê tài sản tối thiểu, thì nguyên giá được ghi theo giá trị hiện tại của khoản thanh toán tiền thuê tối thiểu. Chi phí phát sinh ban đầu liên quan trực tiếp đến hoạt động thuê tài chính cũng được tính vào nguyên giá của TSCĐ đi thuê.

Trong quá trình sử dụng TSCĐ, nguyên giá TSCĐ có thể thay đổi và cần xác định lại khi có các nghiệp vụ nâng cấp, tháo dỡ bộ phận, hay đánh giá lại giá trị TSCĐ. Khi đó, doanh nghiệp phải lập biên bản ghi rõ các căn cứ thay đổi và nguyên giá TSCĐ được xác đinh như sau:

Nguyên giá mới

= Nguyên giá cũ

+ Chi phí nâng cấp (nếu có)

- Giá trị tháo dỡ bộ phận (nếu có)

        1. Thời gian sử dụng TSCĐ

Thời gian sử dụng TSCĐ là thời gian doanh nghiệp dự kiến sử dụng TSCĐ vào hoạt động kinh doanh phù hợp với các thông số kinh tế- kỹ thuật của TSCĐ và các yếu tố khác có liên quan đến sự hoạt động của TSCĐ.

Thời gian sử dụng của TSCĐ được xác định dựa vào một số yếu tố cơ bản sau:

  1. Tuổi thọ kỹ thuật của TSCĐ theo thiết kế
  2. Hiện trạng TSCĐ khi đầu tư (mới hay cũ, thời gian TSCĐ đã sử dụng, thế hệ TSCĐ, tình trạng thực tế của tài sản…)
  3. Tuổi thọ kinh tế của TSCĐ: phụ thuộc vào điều kiến ử dụng TSCĐ thực tế (thời gian, cường độ và trình độ sử dụng…) tại mỗi doanh nghiệp.

Ở Việt Nam hiện nay, thời gian sử dụng các loại TSCĐ được xác dịnh như sau:

22

* Thời gian sử dụng TSCĐ hữu hình

  • Đối với TSCĐ mới (chưa qua sử dụng), doanh nghiệp phải căn cứ vào quy định hiện hành của Nhà nước về khung thời gian sử dụng TSCĐ để xác địnhthời gian sử dụng của từng TSCĐ.
  • Đối với TSCĐ đã qua sử dụng (TSCĐ cũ),thời gian sử dụng của tài sản này được xác định như sau:

Thời gian sử

Giá trị hợp lý của TSCĐ cũ

Thời gian sử dụng của TSCĐ

dụng của

mới cùng loại (xác đinh theo

TSCĐ cũ (đã qua sử dụng)

= Giá bán của TSCĐ mới cùng x loại (hoặc của TSCĐ tương

đương trên thị trường

quy định hiện hành của nhà nước về khung thời gian sử dụng TSCĐ)

Trong dó:

Giá trị hợp lý của TSCĐ cũ là giá mua hoặc trao đổi thực tế (trong trường hợp mua bán, trao đổi), hoặc giá trị còn lại của TSCĐ (trong trường hợp được cho, biếu tặng. nhận vốn góp)…

Trường hợp doanh nghiệp muốn xác định thời gian sử dụng của TSCĐ khác với khung thời gian sử dụng do Nhà nước quy định, doanh nghiệp phải giải trình rõ các căn cứ để xác định thời gian sử dụng của TSCĐ đó đê bộ tài chính xem xét, quyết định.

Nếu phát sinh các hoạt động (như nâng cấp, hay tháo dỡ một hay một số bộ phận của TSCĐ…) nhằm kéo dài hoặc rút ngắn thời gian sử dụng đã xác định trước đó của TSCĐ, doanh nghiệp phải tiến hành xác định lại thời gian sử dụng của TSCĐ theo ba yếu tố trên tại thời điểm hoàn thành nghiệp vụ phát sinh, đồng thời phải lập biên bản nêu rõ các căn cứ làm thay đổi thời gian sử dụng.

  • Thời gian sử dụng TSCĐ vô hình: Doanh nghiệp tự xác định thời gian sử dụng của từng TSCĐ vô hình nhưng tối đa không quá 20 năm. Riêng đối với TSCĐ vô hình là quyền sử dụng đất có thời hạn thì thời gian sử dụng của tài sản này là thời hạn được phép sử dụng đất theo quy định.
  • Thời gian sử dụng thuê tài chính: Nếu trong hợp đồng thuê tài sản, doanh nghiệp đi thuê cam kết không mua tài sản thuê trong hợp đồng thuê tài chính, thì doanh nghiệp đi thuê xác định thời gian sử dụng TSCĐ thuê tài chính theo thời hạn thuê trong hợp đồng làm căn cứ để tính khấu hao tài sản này. Ngược lại, doanh nghiệp xác định thời gian sử dụng TSCĐ thuê tài chính theo cách thức xác định thời gian sử dụng TSCĐ thuê tài chính theo cách thức xác định thời gian sử dụng TSCĐ hữu hình nêu trên,
        1. Các căn cứ khác

23

Ngoài nguyên giá và thời gian sử dụng TSCĐ, để tính khấu hao TSCĐ một cách linh hoạt và phù hợp với tình hình khai thác sử dụng TSCĐ, tùy theo phương pháp khấu hao người ta còn có thể dựa vào một số yếu tố khác như giá trị còn lại của TSCĐ, số lượng, khối lượng sản phẩm được sản xuất trong kỳ, sản lượng theo công suất thiết kế, diện tích canh tác…

Các phương pháp khấu hao TSCĐ

        1. Phương pháp khấu hao đường thẳng Straight line depreciation method

Phương pháp khấu hao đường thẳng (còn được gọi là phương pháp khấu hao tuyến tính cố định, khấu hao bình quân theo thời gian): là phương pháp khấu hao mà tỷ lệ khấu hao và mức khấu hao hàng năm được xác định theo một mức cố định trong suốt thời gian sử dụng TSCĐ. Công thức xác định mức khấu hao hàng năm như sau:

Trong đó:

+ NG: nguyên giá của TSCĐ

+ N: thời gian sử dụng của TSCĐ (tính theo năm)

+ M: mức khấu hao trung bình hàng năm Hoặc

Đặt T=1/NG, T được gọi là tỷ lệ khấu hao bình quân hàng năm, ta có:

M = NG x T

Nếu doanh nghiệp thực hiện việc trích khấu hao theo quý, hoặc theo tháng thì lấy mức khấu hao trung bình năm chia cho số quý, hoặc số tháng trong năm.

Trường hợp thời gian sử dụng, hay nguyên giá của TSCĐ thay đổi, doanh nghiệp phải xác định lại mức trích khấu hao trung bình của TSCĐ bằng cách lấy giá trị còn lại trên sổ kế toán chia cho thời gian sử dụng xác định lại (được xác định là chênh lệch giữa thời gian sử dụng đã đăng ký trừ thời gian đã sử dụng) của TSCĐ.

dụ: Công ty ABC mua một TSCĐ dùng cho hoạt động kinh doanh với nguyên giá được xác định là 60 triệu đồng. Theo quy định của Nhà nước, khung thời gian sử dụng của TSCD này tử 4 đến 8 năm, doanh nghiệp xác định thời gian sử dụng 5 năm. Các kết quả tính toán như sau:

Tỷ lệ khấu hao của TSCĐ là: 1/5= 0,2 (20%) Mức khấu hao trung bình năm: 60 trđ/5 =12trđ Mức khấu hao trung bình tháng: 12trđ/12 = 1trđ

24

Có thể minh họa mức khấu hao TSCĐ trên bằng đồ thị như sau:

12

M (triệu đồng)

1 2 3 4 5 N (năm)

* Ưu, nhược điểm của phương pháp:

Phương pháp khấu hao theo đường thẳng có ưu điểm là cách tính toán đơn giản, mức khấu hao được phân bổ đều qua các năm tạo điều kiện để doanh nghiệp ổn định chi phí kinh doanh và giá thành sản phẩm. Tuy nhiên, phương pháp này có nhược điểm là mức khấu hao không phản ánh chính xác mức độ hao mòn, cũng như năng lực phục vụ thực tế của TSCĐ trong các thời kỳ sử dụng khác nhau.

Ở Việt Nam, theo Thông tư số 45/2013/TT-BTC, phương pháp khấu hao đường thẳng có thể được áp dụng đối với mọi TSCĐ tham gia vào hoạt động kinh doanh. Riêng đối với các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh có hiệu quả cao, được tính khấu hao nhanh nhưng tối đa không quá 2 lần mức khấu hao xác định theo phương pháp đường thẳng để nhanh chóng đổi mới công nghệ. TSCĐ tham gia vào hoạt động kinh doanh được trích khấu hao nhanh phải là máy móc, thiết bị, dụng cụ làm việc đo lường, thí nghiệm, thiết bị và phương tiện vận tải, dụng cụ làm việc đo lường, thí nghiệm, thiết bị và phương tiện vận tải, dụng cụ quản lý, súc vật, vườn cây lâu năm. Khi thực hiện trích khấu hao nhanh, doanh nghiệp phải đảm bảo kinh doanh có lãi.

        1. Phương pháp khấu hao theo số giảm dần điều chỉnh Declining balance depreciation method.

Khấu hao theo số dư giảm dần có điều chỉnh là phương pháp khấu hao trong đó mức khấu hao trong những năm đầu của thời gian sử dụng TSCĐ được xác định bằng cách lấy giá trị còn lại của TSCĐ nhân với một tỷ lệ khấu hao điều chỉnh. Còn trong những năm cuối của thời gian sử dụng TSCĐ thì mức khấu hao được xác định theo phương pháp được thằng dựa trên giá trị còn lại và thời gian sử dụng còn lại của TSCĐ. Tỷ lệ khấu hao điều chỉnh và mức khấu hao hàng năm được xác định theo các công thức sau:

M(i) = G(i) x Tdc Tdc = T x H

Trong đó:

M(i): Mức khấu hao năm thứ i

G(i): Giá trị còn lại của TSCĐ ở đầu năm thứ i

25

i: là số nguyên và nằm trong đoạn [từ 1 đến N] Tdc: Tỷ lệ khấu hao điều chỉnh

T: là tỷ lệ khấu hao xác định theo phương pháp đường thẳng H: Hệ số điều chỉnh, được xác định như sau:

H=1,5 nếu N ≤ 4 năm

H = 2,0 nếu 4 năm < N ≤ 6 năm H= 2,5 nếu N> 6 năm

Riêng những năm cuối khi mức khấu hao năm xác định theo phương pháp số dư giảm dần nói trên bằng hoặc thấp hơn giá trị trung bình (tính bằng cách lấy giá trị còn lại chia cho số năm sử dụng còn lại của TSCĐ), thì kể từ năm đó mức khấu hao được tính bằng giá trị trung bình kể trên.

Trong phương pháp khấu hao này, nếu doanh nghiệp muốn thực hiện việc trích khấu hao hàng quý, hoặc hàng tháng thì lấy mức khấu hao năm chia cho số quý, hoặc số tháng trong năm.

dụ: Một doanh nghiệp đầu tư một TSCĐ là thiết bị sản xuất có nguyên giá là 100 triệu đồng và có thời gian sử dụng dược xác định là 5 năm. Nếu khấu hao theo phương pháp này thì kết quả khấu hao như sau:

N = 5 => H =2; T = 1/N = 1/5 = 0,2 và Tdc = TxH = 0.2x2 = 0,4 (40%)

TT

G (i)

Tdc

Cách tính số khấu hao hàng

năm

M(i)

(trđ)

Khấu hao lũy kế (trđ)

Giá trị còn lại

1

100,0

40%

100 x 40%

40,0

40,0

60,0

2

60,0

40%

60 x 40%

24,0

64,0

36,0

3

36,0

40%

36 x 40%

14,4

78,4

21,6

4

21,6

21,6 : 2

10,8

89,2

10,8

5

10,8

21,6 : 2

10,8

100,0

0

* Ưu nhược điểm của phương pháp

Phương pháp khấu hao theo số dư giảm dần có điều chỉnh có ưu điểm là cho phép doanh nghiệp có thể thu hồi phần lớn vốn đầu tư TSCĐ ngay từ những năm đầu (do mức khấu hao của TSCD trong những năm đầu là rất cao). Từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp có thể sử dụng nguồn tài chính này để nhanh chóng đổi mới TSCĐ, giảm hao mòn vô hình. Tuy vậy, phương pháp này cũng có một số nhược điểm là: mức khấu hao chưa phản ánh chính xác mức độ hao mòn thực tế của TSCĐ, làm cho chi phí và giá thành không ổn định, cách tính tương đối phức tạp, không thống nhất trong suốt thời gian sử dụng TSCĐ.

26

Có thể minh họa mức khấu hao hàng năm của TSCĐ trên bằng đồ thị sau:

Ở Việt Nam, theo Thoongtuw 45/2013/TT-BTC, phương pháp khấu hao theo số dư giảm dần có điều chỉnh chỉ được áp dụng đối với những TSCĐ là các loại máy móc, thiết bị, dụng cụ làm việc, đo lường, thí nghiệm đầu tư mới (chưa qua sử dụng) tham gia vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.

        1. Phương pháp khấu hao theo tỷ kệ khấu hao giảm dần Declining rate depreciation method.

Phương pháp khấu hao theo tỷ lệ khấu hao giảm dần (còn gọi là phương pháp khấu hao lũy thoái) là phương pháp khấu hao theo đó mức khấu hao hàng năm được xác định bằng cách lấy nguyên giá TSCĐ nhân với tỷ lệ khấu hao giảm dần qua các năm. Tỷ lệ khấu hao và mức khấu hao hàng năm được xác định như sau:

M(i) = T(i) x NG

Trong đó:

M(i): Mức khấu hao của TSCĐ năm thứ i T(i): Tỷ lệ khấu hao năm thứ i

NG: Nguyên giá TSCĐ

N: Thời gián sử dụng của TSCĐ (năm) i: Số thứ tự năm sử dụng

1 ≤ i ≤ N, i là số nguyên.

dụ: Một TSCĐ nguyên giá 100 triệu đồng, thời gian sử dụng dự kiến là 4 năm. Tỷ lệ khấu hao và mức khấu hao theo phương pháp này được tính như sau:

i= 1 -> T(1) = 2(4-1+1)/4(4+1) = 8/20 = 0,4 hay 40%

và M(1) = T(1) x NG = 40% x 100 = 40 triệu đồng

Tính tương tự như thế ở các năm tiếp theo ta có bảng kết quả sau:

i

T(i)

M(i)

Khấu hao lũy kế

Giá trị còn lại

1

40%

40

40

60

2

30%

30

70

30

3

20%

20

90

10

4

10%

10

100

0

* Ưu nhược điểm của phương pháp

Phương pháp khấu hao theo tỷ lệ khấu hao giảm dần có ưu điểm là mức khấu hao ở những năm đầu sử dụng TSCĐ lớn, giúp doanh nghiệp có thể thu hồi phần lớn vốn đầu tư

27

ngay từ những năm đầu. Từ đó, tạo điều kiện cho doanh nghiệp nhanh chóng tái đầu tư đổi mới TSCĐ, ngăn ngừa hạn chế được hao mòn vô hình, So với phương pháp khấu hao theo số dư giảm dần có điều chỉnh thì phương pháp này còn có ưu điểm là cách tính toán mức khấu hao hàng năm được thống nhất trong suốt thời gian sử dụng TSCĐ. Tuy nhiên, phương pháp này còn có nhược điểm là mức khấu hao không phản ánh đúng mức hao mòn thực tế của TSCĐ, mức khấu hao giảm dần qua các năm cho nên đã làm cho chi phí kinh doanh và giá thành sản phẩm không ổn định, thêm vào đó việc tính khấu hao theo phương pháp này cũng phức tạp.

        1. Phương pháp khấu hao theo sản lượng

Đây là phương pháp theo đó tỷ lệ khấu hao và mức khấu hao được xác định trên cơ sở số lượng, khối lượng sản phẩm (gọi tắt là sản lượng) mà TSCĐ thực tế sản xuất được trong kỳ và sản lượng biểu hiện thời gian sử dụng hữu ích (sản lượng theo thiết kế) của TSCĐ. Công thức tính như sau:

Mi = NG x (Si/So)

Trong đó:

Mi: Mức trích khấu hao TSCĐ trong kỳ i NG: Nguyên giá TSCĐ

Si: Sản lượng thực tế mà TSCĐ sản xuất được trong kỳ i So: Tổng sản lượng theo công suất thiết kế của TSCĐ.

Ở đây, So biểu hiện thời gián sử dụng hữu ích của TSCĐ , còn Si phản hánh mức độ thực tế khai thác, sử dụng TSCĐ:

Trường hợp công suất thiết kế, hoặc nguyên giá của TSCĐ thay đổi, doanh nghiệp phải xác định lại mức trích khấu hao của TSCĐ theo công suất mới hoặc nguyên giá mới.

dụ: Công ty ABC mua máy trộn bê tông với nguyên giá 400 triệu đồng. Công suất thiết kế của máy trộn bê tông này là 2m3/giờ. Tổng sản lượng theo công suất thiết kế của TSCĐ này là 20.000 m3. Khối lượng sản phẩm đạt được trong năm thứ nhất của máy trôn bê tông này là:

Tháng

Khối lượng sản phẩm hoàn

thành (m3)

Tháng

Khối lượng sản phẩm hoàn

thành (m3)

1

400

7

400

2

450

8

500

3

480

9

560

4

460

10

540

5

500

11

560

6

550

12

550

28

Mức trích khấu hao của máy trộn bê tông theo phương pháp khấu hao theo sản lượng được xác định như sau:

Tháng

Sản lượng thực tế (m3)

Mức trích khấu hao (trđ)

1

400

400 x (400/20.000) = 8,0

2

450

400 x (450/20.000) = 9,0

3

480

400 x (480/20.000) = 9,6

4

460

400 x (460/20.000) = 9,2

5

500

400 x (500/20.000) = 10,0

6

550

400 x (550/20.000) = 11,0

7

400

400x (400/20.000) = 8,0

8

500

400x (500/20.000) = 1,0

9

560

400x (560/20.000) = 11,2

10

540

400x (540/20.000) = 10,8

11

560

400x (560/20.000) = 11,2

12

550

400x (550/20.000) = 11,0

Cả năm

119,0

* Ưu nhược điểm của phương pháp:

Phương pháp khấu hao theo sản lượng có ưu điểm là mức khấu hao gắn liền với mức độ khai thác sử dụng TSCD. Do đó, nó phản ánh tương đối chính xác mức độ hao mòn TSCĐ do khai thác sử dụng. Bên cạnh đó, việc khấu hao không lệ thuộc vào thời gian sử dụng TSCĐ nên đã tạo điều kiện cho doanh nghiệp chủ động tận dụng khai thác triệt để công suất, công dụng TSCĐ nhằm nhanh chóng thu hồi vốn để đổi mới TSCĐ.

Tuy vậy, phương pháp này cũng có một số nhược điểm sau:

  • Phạm vi áp dụng phương pháp này bị giới hạn bởi vì không phải TSCĐ nào cũng có thông số biểu hiện đời sống kinh tế hữu ích của nó. Thêm vào đó, việc xác định các thông số trong nhiều trường hợp gặp khó khăn do sự không ổn định của môi trường khai thác, sử dụng TSCĐ. Chẳng hạn, cùng một máy móc thiết bị nếu sử dụng trong môi trường có nhiệt độ không cao, độ ẩm thấp và chấp hành tốt các quy định sử dụng và bảo quản thì đời sống kinh tế hữu ích sẽ cao hơn so với trường hợp sử dụng ở môi trường có nhiệt độ và độ ẩm cao và bảo quản không tốt, hay một phương tiện vận tải nếu sử dụng trên được loại 1 và bảo đảm tải trọng theo quy định thì đời sống kinh tế sẽ dài hơn so với phương tiện vận tải trên đường loại 2,3 … và quả tải trọng.
  • Trong trường hợp mức độ khai thác, sử dụng TSCĐ thấp thì mức khấu hao sẽ không thể phản ánh mức độ hao mòn do tiến bộ khoa học kỹ thuật và điều kiện tự nhiên gây ra dẫn đến kéo dài thời gian khấu hao. Do đó, để tránh xảy ra trường hợp này, người ta chỉ áp dụng phương pháp khấu hao theo sản phảm khi công suất khai thác TSCĐ phải đạt ở mức tối thiểu nhất định.

29

Trong thực tế phương pháp khấu hao kể trên được vận dụng trông nhiều ngành như xây dựng cơ bản, giao thông vận tải, sản xuất công nghiệp… Tuy nhiên, thông số để tính khấu hao lúc đó không phải là sản lượng mà là số km vận chuyển, số ca máy hoạt động, diện tích canh tác…

Ở Việt Nam, theo Thông tư 45/2013/TT-BTC, phương pháp khấu hao theo sản phẩm chỉ được áp dụng đối với những TSCĐ thỏa mãn các điều kiện:

  • TSCĐ là các loại máy móc, thiết bị tham gia vào hoạt động kinh doanh và trực tiếp liên quan đến việc sản xuất sản phẩm;
  • Xác định được tổng số lượng, khối lượng sản phẩm sản xuất theo công suất thiết kế của TSCĐ;

Công suất sử dụng thực tế bình quân tháng trong năm tài chính không thấp hơn 50% công suiaats thiết kế.

Quản trị TSCĐ

TSCĐ là bộ phận tài sản quan trọng và không thể thiếu được đối với mọi doanh nghiệp. Mặt khác, quá trình đầu tư, sử dụng những tài sản này có thể bị thất thoát, lãng phí do bị hư hỏng trước thời hạn, ứ đọng không sử dụng, doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ nên không thể thu hồi được vốn, giá trị tài sản bị giảm sút do tác động của lạm phát tiền tệ, tỷ giá.. Do đó, doanh nghiệp cần phải quản lý TSCĐ nhằm bảo toàn, phát triển giá trị của chúng và góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng tổng tài sản của doanh nghiệp.

Để đánh giá chất lượng, hiệu quả quản lý, sử dụng TSCĐ của doanh nghiệp trong mỗi thời kỳ tốt hay chưa tốt, người ta thường sử dụng các chỉ tiêu cơ bản sau:

  1. Hiệu suất sử dụng TSCĐ (H1)

H1 = Công suất khai thác thực tế trong kỳ/ Công suất thiết kế của TSCĐ

  1. Tỷ lệ sử dụng TSCĐ (H2)

H2 = Giá trị TSCĐ được sử dụng trong kỳ/ Giá trị TSCĐ hiện có trong kỳ

  1. Hàm lượng TSCĐ (H3)

H3 = Nguyên giá TSCĐ/ Doanh thu

  1. Hệ số sinh lợi của TSCĐ (H4) H4= Lợi nhuận/ Nguyên giá TSCĐ

Để nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ, trong quản lý TSCĐ doanh nghiệp cần quan tâm giải quyết một số vấn đề sau:

Nguồn vốn hình thành TSCĐ

30

Khai thác và tạo lập nguồn vốn để hình thành và duy trì quy mô TSCĐ thích hợp là hoạt động đầu tiên trong công tác quản trị TSCĐ. Việc khai thác và tạo nguồn hình thành TSCĐ sẽ quyết định đến quy mô và ảnh hưởng đến sự tồn tại của các TSCĐ. Do đó, để tạo lập nguồn vốn thích hợp, trước hết các doanh nghiệp, cần phải xác định cơ cấu tài sản và nhu cầu vốn đầu tư TSCĐ.

Việc hình thành một cơ cấu tài sản thích hợp có tác động trực tiếp đến tình hình sử dụng tài sản và hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. TSCĐ của doanh nghiệp đầu tư đồng bộ, phù hợp với nhu cầu và khả năng tài chính của doanh nghiệp là điều kiện tiên quyết góp phần nâng cao hiệu suất sử dụng tài sản. Ngược lại, nếu doanh nghiệp đầu tư TSCĐ không đồng bộ, đầu tư quá sớm, không phù hợp với nhu cầu sử dụng… sẽ làm tăng tỷ trọng TSCĐ chưa dùng hoặc không cần dùng, làm láng phí vốn của doanh nghiệp. Hơn thế nữa, vốn và tài sản của doanh nghiệp và điều kiện bảo quản không đảm bảo.

Để có được cơ cấu nguồn tài trợ thích hợp, đáp ứng các yêu cầu của cơ cấu vốn mục tiêu, giảm thiểu chi phí sử dụng vốn và mang tính khả thi, doanh nghiệp cần xác định rõ đặc điểm và thời gian luân chuyển của từng loại tài sản. Trên thực tế, tùy theo khả năng tài chính; điều kiện; đặc điểm kinh doanh của doanh nghiệp; tình hình phát triển của thị trường vốn… doanh nghiệp có thể khai thác lựa chọn, hoặc sử dụng kết hợp một số nguồn vốn sau:

+ Quỹ khấu hao, quỹ đầu tư phát triển, lợi nhuận để lại của doanh nghiệp

+ Vốn ngân sách Nhà nước (đối với doanh nghiệp Nhà nước)

+ Vốn vay, vốn huy động qua phát hành chứng khoán (cổ phiếu, trái phiếu)

+ Vốn liên doanh, liên kết

+ Các nguồn khác: Thuê tài chính, thuê hoạt động…

Mỗi nguồn đều có ưu, nhược điểm riêng với điều kiện khai thác và chi phí sử dụng khác nhau. Vấn đề này sẽ được nghiên cứu kỹ hơn ở chương 4. Doanh nghiệp cân nhắc, lựa chọn để xác lập một cơ cầu nguồn vốn thích hợp.

Quản lý quá trình sử dụng TSCĐ

* Về mặt hiện vật, công tác quản trị TSCĐ của doanh nghiệp phải quan tâm tới các nội dung sau:

+ Thực hiện đúng quy chế về quản lý đầu tư và xây dựng. Tất cả các dự án đầu tư hình thanh TSCĐ của doanh nghiệp đều phải được lập, thẩm định, tổ chức thực hiện và quản lý đúng theo các quy định của Nhà nước. Công tác này sẽ giúp cho doanh nghiệp có được các dự án đầu tư TSCĐ mang tính khả thi và có hiệu quả nhất.

+ Xây dựng và tổ chức thực hiện đúng các quy trình sử dụng, bảo quản, bảo dưỡng và sửa chữa TSCĐ nhằm duy trì năng lực phục vụ của tài sản và ngăn ngừa, hạn chế tình trạng

31

TSCĐ bị hư hỏng trước thời hạn sử dụng. Nếu phải sửa chữa lớn TSCĐ cần phải cân nhắc hiệu quả kinh tế của nghiệp này.

+Khai thác tối đa công suất, công dụng của tài sản, tránh tình trạng TSCĐ không sử dụng, bị ứ đọng, bị mất mát.

+ Nhượng bán và thanh lý nhanh chóng những TSCĐ không cần dùng và bị hư hỏng để giải phóng mặt bằng, đảm bảo an toàn lao động và thu hồi phần giá trị TSCĐ bị ứ đọng.

* Về mặt giá trị, để bảo toàn và phát triển bộ phận giá trị đã đầu tư vào TSCĐ, doanh nghiệp cần thực hiện tốt các công tác sau:

-Xác định và phản ánh đúng nguyên giá và thời gian sử dụng dự kiến của TSCĐ. Đây là cơ sở để xác định đúng quy mô vốn đầu tư ban đầu và là căn cứ để tính chiết khấu hao chính xác.

  • Đánh giá đúng giá trị còn lại của TSCĐ để xác định đúng quy mô hiện có còn lại của TSCĐ để xác định đúng quy mô vốn hiện có, quy mô phải bảo toàn, đồng thời điều chỉnh kịp thời giá trị TSCĐ, tạo điều kiện tính đúng, tính đủ chi phí khấu hao.
  • Quản lí chặt chẽ quá trính luân chuyển của bộ phận giá trị đã đầu tư vào TSCĐ. Do đặc điểm của TSCĐ là tham gia vào nhiều tru kì kinh doanh của doanh nghiệp, trong quá trình ấy hình thái vật chất ban đầu của TSCĐ đầu như không đổi, song giá trị của TSCĐ bị giảm dần và dịch chuyển vào chi phi sản xuất kinh doanh, nên giá TSCĐ dễ bị thấm thoát. Chính vì thế, nhà quản trị tài chính cần phải quản lí và theo dõi chặt chẽ quá trình luân chuyển của bộ phận giá trị này. Đó là:

Xác định đúng phạm vi khấu hao TSCĐ

Về nguyên tắc, mọi TSCĐ của doanh nghiệp có liên quan và phục vụ cho các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ thì đều phải trính khấu hao. Mức trích khấu hao được hạch toán vào chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ. Những TSCĐ không liên quan và không tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nhiệp thì không trích khấu hao.

Ở Việt Nam hiện nay, các TSCĐ sau được trích khấu hao:

+ TSCĐ của doanh nghiệp đang được sử dụng vào các hoạt động sản xuất kinh doanh tại doanh nghiệp nhưng chưa khấu hao hết.

+TSCĐ của doanh nghiệp dùng cho kinh doanh nhưng ngừng sử dụng vì lí do thời vụ.

+ TSCĐ của doanh nghiệp cho thuê hoạt động.

+ TSCĐ của doanh nghiệp nhận các đối tác góp vốn theo hinh thức liên doanh, liên

kết.

+TSCĐ của doanh nghiệp đem thế chấp, cầm cố để vay vốn.

32

+TSCĐ thuê tài chính. Mặc dù đây không phải là TSCĐ của doanh nghiệp nhưng doanh nghiệp có trách nhiệm quản lý, sử dụng và triết khấu hao như là TSCĐ thuộc quyền sở hữu của mình.

Cũng theo quy định hiện hành của Nhà nước, những trường hợp TSCĐ không được trích khấu hao gồm:

+ TSCĐ đi thuê hoạt động, bảo quản hộ cho đơn vị khác.

+TSCĐ thuộc dự trữ Nhà nước giao cho doanh nghiệp quản lí hộ, giữ hộ.

+TSCĐ phục vụ cho hoạt động phúc lợi trong doanh nghiệp như: nhà trẻ, câu lạc bộ, nhà truyền thống, nhà ăn,... Các tài sản thuộc các đơn vị sự nghiệp, an ninh quốc phòng trong doanh nghiệp.

+TSCĐ phục vụ cho nhu cầu chung của toàn xã hội, không phục vụ cho hoạt động kinh doanh của riêng doanh nghiệp như đê đập, cầu cống, đường sá,.. mà Nhà nước giao cho doanh nghiêp quản lý.

+TSCĐ của doanh nghiệp đã khấu hao hết nguyên giá song vẫn còn sử dụng vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.

+TSCĐ của doanh nghiệp chưa khấu hao hết nguyên giá nhưng đã hư hỏng chờ xử lý (doanh nghiệp phải xác định nguyên nhân, quy đổi trách nhiệm đền bù, đòi bồi thường thiệt hại, tiến hành thanh lý,..).

+TSCD của doanh nghiệp tỏng thời gian ngừng sử dụng để tiến hành nâng cấp hoặc sửa chữa, tháo dỡ theo kế hoạch.

+ TSCĐ vô hình là quyền sử dụng đất dai lâu dài của doanh nghiệp. Đây là TSCĐ đặc biệt. không có hao mòn nên doanh nghiệp chỉ ghi nhận nguyên giá và không tính khấu hao.

+ TSCĐ khác không tham gia vào hoạt dộng kinh doanh của doanh nghiệp.

Riêng đối với các TSCĐ của doanh nghiệp phục vụ cho các hoạt động phúc lợi, sự nghiệp… doanh nghiệp không trích khấu hao nhưng phải quản lý, theo dõi các TSCĐ này như đối với các TSCĐ dùng trong hoạt động kinh doanh và tính mức hao mòn của TSCĐ này (nếu có); mức hao mòn hàng năm được xác định bằng cách lấy nguyên giá chia cho thời gian sử dụng của TSCĐ xác định theo quy định hiện hành. Nếu các TSCĐ này có tham gia vào hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp thực hiện tính và trích khấu hao vào chi phí kinh doanh của doanh nghiệp theo mức hao mòn tính ở trên.

Nguyên tắc phản ánh, nguyên giá và tính khấu hao TSCĐ; theo quy định hiện hành, việc phản ánh tăng (giảm) nguyên giá TSCĐ trên sổ sách kế toán được thực hiện tại thời điểm phát sinh nghiệp vụ tăng (giảm) TSCĐ để đảm bảo tính kịp thời tỏng công tác hạch toná kế toán. Việc trích khấu hao, hoặc thôi trích khấu hao đối với TSCĐ được thực hiện bắt đầu từ

33

ngày (theo số ngày của tháng) mà TSCĐ tăng, giảm, hoặc ngừng tham gia vào hoạt động kinh doanh.

Lựa chọn phương pháp khấu hao và xác định mức khấu hao thích hợp.

Mục đích của khấu hao là nhằm thu hồi bộ phận giá trị đã đầu tư vào TSCĐ. Do đó, về nguyên tắc mức khấu hao phản ánh đúng mức đọ hao mòn và năng lực phục vụ thực tế của TSCĐ. Nếu mức khấu hao thấp hơn giá trị hao mòn thực tế của TSCĐ thì sẽ không đảm bảo việc thu hồi vốn đầy đủ, kịp thời, làm cho số vốn thực tế còn lại ở TSCĐ nhỏ hơn giá trị sổ sách và kết quả kinh doanh bị thổi phồng lên một cách giả tao. Ngược lại, nếu mức khấu hao cao hơn giá trị hao mòn thực tế của TSCĐ thì sẽ làm tăng chi phí và giá thành một cách giả tạo, làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp. Do đó, doanh nghiệp cần xem xét mục tiêu, yêu cầu trong đầu tư và thu hồi vốn, đặc điểm của từng loại TSCĐ cũng như các mối quan hệ giữa chi phí, giá thành với giá bán sản phẩm để có phương pháp khấu hao thích hợp, vừa đảm bảo thu hồi vốn, vừa không gây ra những đột biến trong giá cả.

Quản lý, sử dụng tiền khấu hao theo đúng nguồn hình thành TSCĐ.

TSCĐ được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, do đó phải theo dõi và quản lí chặt chẽ tiền khấu hao theo từng nguồn hình thành. Về nguyên tắc, TSCĐ được hình thành bằng nguồn vốn vay thì tiền khấu hao phải dùng để trả nợ vay, TSCĐ được hình thành từ nguồn liên doanh, liên kết thì tiền khấu hao được tích lũy lại để hoàn trả vốn góp cho đối tác khi kết thúc hợp đồng liên doạn, còn TSCĐ được hình thành từ nguồn vốn chủ sở hữu thì tiền khấu hao được tích lũy lại để tái đầu tư TSCĐ khi cần thiết hoặc tạm thời bổ sung vốn lưu động của doanh nghiệp.

CHƯƠNG 3

QUẢN TRỊ TÀI SẢN LƯU ĐỘNG

34

Trong các doanh nghiệp, giá trị TSLĐ thường chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng giá trị tài sản. Vì vậy, quản lý và sử dụng một các hợp lý các loại TSLĐ có ảnh hưởng rất lớn đến việc thực hiện mục tiêu của doanh nghiệp. Thực tế cho thấ, mặc dù hầu hết các vụ phá sản, làm ăn thua lỗ trong kinh doanh là hệ quả của nhiều yếu tố chứ không phải chỉ do việc quản lí TSLĐ yếu kém, nhưng có thể khẳng định rằng sự bất lực trong việc hoạch định, kiểm soát TSLĐ và các khoản nợ là một nguyên nhân quan trọng dẫn đến sự thất bại của nhiều công ty. Nội dung của chương 3 tập trung giải quyết các vấn đề sau:

  • Giới thiệu các loại TSLĐ theo một số tiêu thức nghiên cứu.
  • Luận giải những yêu cầu và nội dung cơ bản của hoạt động quản trị 3 bộ phận chính của TSLĐ, đó là: quản trị tiền, quản trị khoản phải thu và quản trị hàng tồn kho.

Phân loại TSLĐ của doanh nghiệp

Khái niệm

Như đã đề cập trong chương 2, để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh với bất kỳ quy mô nào, người kinh doanh cần phải có một số tài sản nhất định. Nếu căn cứ vào vai trò của tài sản đối với quá trình tái sản xuất, tài sản của doanh nghiệp bao gồm: tư liệu lao động và đối tượng lao động. Tư liệu lao động thường được cấu thành bới 2 bộ phận là TSCĐ và công cụ lao động. Các công cụ lao động này cùng với đối tượng lao động hợp thành TSCĐ của doanh nghiệp.

Ở Việt Nam hiện nay, theo hệ thống chuẩn mực kế toán, chuẩn mực số 21 về “trình bày báo cáo tài chính, tài sản ngắn hạn (hay TSLĐ) là những tài sản thỏa mãn một trong các điều kiện sau:

        • Được dự tính để bán hoặc sử dụng trong khuôn khổ của chu kỳ kinh doanh bình thường của doanh nghiệp.
        • Được nắm giữ chủ yếu cho mục đích thương mại, hoặc cho mục đích ngắn hạn và dự kiến thu hồi hoặc thanh toán trong vòng 1 tháng kể từ ngày kết thúc niên độ kế toán.
        • Là tiền hoặc tài sản tương đương tiền và việc sử dụng không gặp một hạn chế nào.

Như vậy, TSLĐ của doanh nghiệp là toàn bộ những tài sản thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp có thời gian sử dụng, thu hồi, hoặc luân chuyển giá trị trong vòng 1 năm, hoặc một chu kỳ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

Đặc điểm của TSLĐ

TSLĐ bao gồm nhiều loại khác nhau, nhưng nhìn chung chúng có một số đặc điểm

sau:

        • Trong quá trình sản xuất kinh doanh TSLĐ luôn vận động, thay thế và chuyển hóa

lẫn nhau, đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được tiến hành liên tục.

35

        • Mỗi bộ phận TSLĐ có đặc điểm luân chuyển giá trị khác nhau. Bộ phận TSLĐ là hàng hóa, hoặc nguyên vật liệu thì luân chuyển giá trị toàn bộ một lần trong một chu kỳ kinh doanh. Bộ phận TSLĐ là công cụ lao động thì luân chuyển dần dần từng bộ phận giá trị của chúng.
        • TSLĐ luân chuyển giá trị nhanh hơn TSCĐ.
        • TSLĐ trong các doanh nghiệp có lĩnh vực, ngành nghề, nghiệp vụ sản xuất kinh doanh khác nhau thì đặc điểm luân chuyển giá trị cũng khác nhau.

Phân loại TSLĐ

Phân loại TSLĐ là việc phân chia, sắp xếp TSLĐ của doanh nghiệp ra thành từng nhóm nhằm đáp ứng yêu cầu của công tác quản lý TSLĐ. Tùy theo ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh mà TSLĐ của doanh nghiệp được cấu thành bởi các bộ phận khác nhau. Sau đây là một số tiêu thức phân loại thường được sử dụng.

* Dựa vào các khâu trong quá trình sản xuất kinh doanh TSLĐ được chia thành TSLĐ trong khâu dự trữ, TSLĐ khâu sản xuất và TSLĐ tròn khâu lưu thông.

+ TSLĐ trong khâu dự trữ bao gồm nguyên vật liệu, nhiên liệu, phụ tùng thay thế, công cụ lao động... dự trữ để đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có thể tiến hành được thường xuyên, liên tục.

+ TSLĐ trong khâu sản xuất bao gồm sản phẩm dở dang, bán thành phẩm. Trong doanh nghiệp thương mại thuần túy thì không có bộ phận TSLĐ ở khâu này.

+ TSLĐ trong khâu lưu thông bao gồm thành phẩm, tiền, các khoản thế chấp, ký quỹ, ký cược ngắn hạn, các khoản phải thu...

  • Dựa vào hình thái biểu hiện của tài sản thì TSLĐ của doanh nghiệp được chia thành: vật tư, hàng hóa và tiền.

+ Vật tư, hàng hóa bao gồm nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ, bao bì, vật đong gói, sản phẩm dở dang, bán thành phẩm, thành phẩm và hàng hóa đang được dự trữ ở các khâu và địa điểm của quá trình kinh doanh như: hàng mua và hàng bán đang đi trên đường, hàng đợi kiểm nghiệm, hàng gửi bán, hàng tại kho và các điểm bán hàng.

+ Tiền: bao gồm tiền mặt tại quỹ, tiền gửi ngân hàng, tiền đang chuyển, các khoản vốn trong thanh toán.

  • Ở Việt Nam, theo cơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp hiện hành, TSLĐ của các doanh nghiệp bao gồm:

+ Tiền bao gồm: Tiền mặt tồn quỹ, tiền gửi ngân hàng, tiền đang chuyển.

+ Các khoản phải thu bao gồm: phải thu từ khách hàng (người mua), phải thu từ nhà cung cấp (người bán) trong trường hợp trả trước tiền hàng, phải thu từ nhà nước về thuế giá

36

trị gia tăng được hoàn thuế, phải thu nội bộ, các khoản phải thu khác và dự phòng phải thu khó đòi.

+ Vật tư, hàng tồn kho bao gồm: Hàng mua đang đi trên đường; nguyên liệu, vật liệu, công cụ, dụng cụ, thành phẩm, hàng hóa tồn kho; hàng gửi bán, dự phòng giảm giá hàng tồn kho.

+ TSLĐ khác gồm: tạm ứng, chi phí trả trước, tài sản thiếu chờ xử lý, các khoản cầm cố, ký cược, lý quỹ ngắn hạn.

Việc phân loại TSLĐ có ý nghĩa quan trọng trong công tác quản trị tài chính doanh nghiệp. Qua nghiên cứu giúp nhà quản trị thấy được tính hợp lý hoặc không hợp lý của các bộ phận tài sản cũng như cơ cấu vốn đầu tư của doanh nghiệp, từ đó có biện pháp điều chỉnh cho phù hợp.

Tình hình TSLĐ của doanh nghiệp trong mỗi thời kỳ được phản ánh tổng quát ở bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp trong thời kỳ đó.

Quản trị tiền

Động cơ của việc giữ tiền

Tiền là một bộ phận TSLĐ không sinh lời hoặc tỷ lệ sinh lời rất thấp. Hơn nữa, do sức mua của tiền tệ luôn có xu hướng giảm đi do ảnh hưởng của lạm phát, nên có thể nói tỷ lệ sinh lời thực của tiền là một số âm. Bởi vậy việc duy trì mức tiền hợp lý nhằm thỏa mãn các nhu cầu chi tiêu tiền là một vấn đề quan trọng liên quan đến hiệu quả kinh doanh chung của doanh nghiệp.

Bất cứ doanh nghiệp nào cũng cần giữ một lượng tiền nhất định bởi các lý do sau đây:

        • Một là, để thực hiện các giao dịch: Động cơ chủ yếu của nắm giữ tiền trong doanh nghiệp là để làm thông suốt các giao dịch kinh doanh. Tiền là tài sản có tỉnh lỏng cao nhất. Từ tiền doanh nghiệp có thể chuyển ngay sang các hàng hóa khác. Nếu doanh nghiệp không giữ tiền mà chỉ giữ các tài sản khác thì cá chi phí giáo dịch có thể rất cao, hơn nữa lại mất nhiều thời gian cho một giao dịch kinh doanh thông thường vì các tài sản khác có tính thanh khoản thấp hơn. Từ tài sản đang nắm giữ doanh nghiệp phải chuyển nó thành tiền, sau đó mới dùng tiền để mua hàng hóa mà doanh nghiệp cần. Động cơ này gọi là động cơ kinh doanh.
        • Hai là, để đáp ứng nhu cầu chi trả và thanh toán: Ngoài nhu cầu sử dụng tiền để mua tài sản, hàng ngày hàng giờ ở doanh nghiệp còn phải dùng tiền để thanh toán các món nợ, các khoản phải trả, phải nộp khác như: trả lương công nhân, nộp thuế nhà nước... Nếu không có tiền để thanh toán các khoản phải trả, phải nộp tất yếu cũng gây nên những khó khăn và bất lợi nhất định đối với doanh nghiệp.
        • Ba là, để dự phòng và đầu cơ: Dòng tiền vào và ra của doanh nghiệp đôi khi không thể dự đoán trước được. Do vậy, doanh nghiệp cần phải giữ một lượng tiền nhất định để phục

37

vụ cho các nhu cầu ngầu nhiên, không xác định được trước, điều đó giúp doanh nghiệp duy trì được khả năng thanh toán ổn định tình hình tài chính của doanh nghiệp ở mọi thời điểm. Ngoài ra, tiền còn được dùng để thỏa mãn lợi thế mua sắm của doanh nghiệp khi có cơ hội kinh doanh. Nguồn tiền này được gọi là ngân quỹ đầu cơ.

  • Ưu điểm của việc nắm giữ tiền:

Thanh toán nhanh các nghĩa vụ với chủ nợ Có nhiều cơ hội kinh doanh

Có cơ hội nhận được chiết khấu

Đáp ứng được nhu cầu vốn lưu động thay đổi theo mùa.

  • Nhược điểm của việc nắm giữ tiền Phát sinh chi phí quản lý

Bị ảnh hưởng của lạm phát và thay đổi tỷ giá Mất chi phí cơ hội của vốn tiền mặt.

Nội dung quản trị tiền

Quản trị tiền đề cập đến việc quản lý tiền mặt, tiền đang chuyển và tiền gửi ngân hàng. Đối với doanh nghiệp, nội dung của quản lý tiền bao gồm: Tăng tốc độ thu hồi tiền, giảm tốc độ chi tiêu và lập ngân sách thu chi tiền tệ. Tuy nhiên cần lưu ý rằng, việc thực hiện mục tiêu đẩy nhanh tốc độ thu tiền và giảm tốc độ chi tiêu có mối quan hệ đẩy nhanh tốc độ thu tiền và giảm tốc độ chỉ tiêu có mối quan hệ trực tiếp với chính sách quản lý hàng tồn kho, chính sách tín dụng thương mại của doanh nghiệp và mục tiêu trên không phải lúc nào cũng thực hiện được. Trên thực tế vẫn có những thời điểm hoặc thời kỳ doanh nghiệp phải tăng chi và giảm tốc độ thu tiền.

  • Tăng tốc độ thu hồi tiền

Một nguyên tắc đơn giản trong quản lý tiền là tăng tốc độ thu hồi tiền. Nguyên tắc này giúp công ty ổn định tình hình tài chính, tình hình thanh toán và khả năng sinh lời trên khối lượng tiền thu hồi sớm và do đó có thể tăng vốn cho đầu tư.

Có nhiều biện pháp để tăng tốc độ thu hồi tiền:

  • Áp dụng cá biện pháp khuyến khích khách hàng thanh toán sớm bằng cách đưa lại cho khách hàng các mối lợi như áp dụng chính sách chiết khấu đối với các khoản nợ được thanh toán trước hay đúng hạn.
  • Áp dụng các phương thức thanh toán phù hợp với từng đối tượng khách hàng.
  • Lựa chọn các phương tiện chuyển tiền và địa điểm thanh toán thích hợp.
  • Tổ chức công tác theo dõi và đôn đốc thu hồi công nợ.

38

  • Giảm tốc độ chi tiêu

Cùng với việc tăng tốc độ thu hồi tiền, doanh nghiệp còn có thể thu lợi bằng cách giảm tốc độ chi tiêu để có thêm tiền đầu tư sinh lợi. Có một số chiến thuật mà doanh nghiệp có thể sử dụng để chậm thanh toán các hóa đơn mua hàng như:

  • Tận dụng tối đa thời gian chậm thanh toán trong giới hạn cho phép/
  • Lựa chọn phương thức, phương tiện và địa điểm thanh toán thích hợp.
  • Thay vì dùng tiền thanh toán sớm các hóa đơn mua hàng người quản lý tài chính có thể trì hoãn việc thanh toán trong phạm vi thời gian mà các chi phí tài chính, tiền phạt, hay sự suy giảm vị thế tín dụng của doanh nghiệp thấp hơn những lợi ích từ việc thanh toán chậm mang lại...
  • Lập ngân sách thu chi tiền tệ

Việc tăng tốc độ thu hồi tiền và giảm tốc độc chi tiêu trong những phạm vi những giới hạn và vị thế tín dụng của doanh nghiệp là những nội dung quan trọng của quản lý tiền. Tuy nhiên, điều đó không đủ hỗ trợ cho các nhà quản lý tài chính trong việc thả mãn các nhu cầu chi tiêu và đầu tư sinh lợi bằng tiền của doanh nghiệp. Bởi vậy, một nội dung quan trọng khác của quản lý tiền là việc hoạch định ngân sách (kế hoạch) thu chi tiền. Để lập được kế hoạch này doanh nghiệp phải dự báo được tổng thu và nhu cầu chi tiền trong kỳ.

Tổng lượng tiền thu được trong kỳ thường bao gồm:

  • Bán hàng kỳ trước thu tiền trong kỳ này (tiền hàng bán chịu kỳ trước).
  • Bán hàng kỳ này thu tiền trong kỳ này (tiền bán hàng trả ngay).
  • Bán hàng kỳ sau thu tiền trong kỳ này (tiền hàng người mua trả trước).
  • Các khoản thu khác

Tổng lượng tiền chi trong kỳ thường bao gồm:

  • Mua hàng kỳ trước trả tiền trong kỳ này (tiền hàng mua chịu kỳ trước)
  • Mua hàng kỳ này trả tiền trong kỳ này (tiền hàng mua trả ngay)
  • Mua hàng kỳ sau trả tiền trong kỳ này (tiền hàng trả trước người bán)
  • Trả lương cán bộ công nhân trong kỳ
  • Tiền thuế phải nộp trong kỳ
  • Lãi vay phải trả trong kỳ
  • Các khoản chi khác

39

Kế hoạch thu chi tiền tệ thường được xây dựng theo quý, tháng và tuần. Yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến tính xác thực của ngân sách thu chi tiền là những dự báo về doanh số bán hàng, mua hàng và tình hình thanh toán.

Kết quả dự báo về tình hình thu chi tiền là cơ sở quan trọng giúp nhà quản trị tài chính có thể đưa ra các giải pháp thích hợp nhằm đảm bảo sự ổn định tài chính và nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp. Ví dụ: khi dự báo thấy tiền dư thừa, doanh nghiệp có thể sử dụng số tiền nayd để đầu tư chứng khoán có khả năng thanh khoản cao, ngược lại khi thiếu hụt cần tổ chức huy động nguồn thích hợp để bảo đảm khả năng thanh toán.

Bảng 3.1 dưới đây cho thấy một mẫu về hoạch định ngân sách thu chi tiền của doanh nghiệp.

Bảng 3.1: Dự báo thu chi tiền tệ của doanh nghiệp.

Khoản mục

Tháng

12

1

2

3

4

5

6

Phần thu

1. Doanh số bán hàng

2. Bán chịu

3. Thu sau 1 tháng

4. Thu sau 2 tháng

5. Thu tiền bán hàng trả ngay trong tháng

Tổng thu trong tháng

Phần chi

1.Trị giá nguyên vật liệu mua trong tháng

2.Trả tiền nguyên vật liệu mua trong tháng

3. Trả tiền nguyên vật liệu mua chịu kỳ

trước

4.Trả tiền mua nguyên vật liệu sau 1 tháng

5.Tiền lương CBCNV

6. Các khoản chi khác

7.Thuế

8.Lãi vay

9. Đầu tư vào TSCĐ

10. Chia lợi tức cổ phần

Tổng chi trong tháng

Chênh lệch thu chi trong tháng

Tồn quỹ đầu tháng

Mức dự trữ tiền dự phòng trong tháng

Số (thiếu hụt) tiền so với mục tiêu

  • Mức dự trữ tiền hợp lý

Mức tồn quỹ tiền mặt tối ưu

= Mức chi tiêu vốn tiền mặt bình quân 1 ngày trong kỳ

x Số ngày dự trữ tiền

mặt hợp lý

40

* Các biện pháp quản lý

  • Mọi khoản thu chi vốn tiền mặt đều phải thực hiện qua quỹ;
  • Phân định trách nhiệm rõ ràng trong quản lý vốn tiền mặt;
  • Xây dựng quy chế thu chí quỹ tiền mặt;
  • Quản lý chặt chẽ các khoản tạm ứng tiền mặt, cần quy định đối tượng, thời gian và mức tạm ứng,.. để quản lý chặt chẽ, tránh việc lợi dụng quỹ tiền mặt của doanh nghiệp vào mục đích cá nhân.

Quản trị khoản phải thu

Trong thực tiễn kinh doanh, các doanh nghiệp thường phải bán chịu hàng hóa của mình trong một thời gian nhất định. Trong khi chờ thu các khoản tiền này, doanh nghiệp vẫn tiếp tục bán hàng và do đó sẽ lại xuất hiện các khoản bán chịu mới. Đồng thời doanh nghiệp cũng có các khoản mua chịu hàng hóa từ các doanh nghiệp khác. Như vậy, việc mua chịu, bán chịu là công việc thường xuyên phát sinh trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp.

Độ lớn khoán phải thu của doanh nghiệp phụ thuộc vào nhiều yếu tố như tốc độ thu hồi nợ cũ, tốc độ tạo ra nợ mới và sự tác động của các yếu tố nằm ngoài sự kiểm soát của doanh nghiệp như chu kỳ suy thoái của nên kinh tế, khùng hoảng tiền tệ. Doanh nghiệp cần đặc biệt chú ý tới các yếu tố mà mình có thể kiểm soát được nhằm tác động tới tốc độ lớn và chất lượng của các khoản phải thu, trong đó đáng lưu ý là chính sách tín dụng.

      1. Chính sách tín dụng các nhân tố ảnh hưởng đến chính sách tín dụng
  • Chính sách tín dụng

Bán chịu hàng hóa là một hình thức doanh nghiệp cấp tín dụng cho các khách hàng của mình (tín dụng thương mại) và là nguyên nhân phát sinh các khoản phải thu. Độ lớn và rủi ro của các khoản phải thu phụ thuộc vào nhiểu yếu tố, trong đó chính sách tín dụng là một nhân tố quan trọng. Chính sách tín dụng của doanh nghiệp được thực hiện thông qua việc kiểm soát các biến số sau:

  • Tiêu chuẩn tín dụng. Nguyên tắc chỉ đạo là phải xác định được tiêu chuẩn tín dụng tức là sức mạnh tài chính tối thiểu và uy tín hay được vị thế tín dụng tức là sức mạnh tài chính tối thiểu và uy tín hay vị thế tín dụng có thể chấp nhận được của các khách hàng mua chịu. Nếu khách hàng có sức mạnh tài chính hay vị thế tín dụng thấp hơn tiêu chuẩn đó thì sẽ bị từ chối cấp tín dụng theo hình thức bán chịu hàng hóa. Tiêu chuẩn tín dụng phụ thuộc vào nhiều yếu tố như chính sách của doanh nghiệp trong mỗi thời kì, giá trị sản phẩm cao hay thấp ...
  • Chiết khấu thanh toán: là biện pháp khuyến khích khách hàng trả tiền sớm bằng cách thực hiện việc giảm giá đối với các trường hợp mua hàng trả tiền trước thời hạn.

41

  • Thời hạn bán chịu (thời hạn tín dụng): là quy định về độ dài thời gian của các khoản tín dụng.

Chiết khấu thanh toán và thời gian bán chịu chỉ rõ hình thức các khoản tín dụng. Chẳng hạn , một thương vụ mua bán có quy định “2/10 net 30”, Điều đó có nghĩa là doanh nghiệp áp dụng tỉ lệ chiết khấu 2% nếu hóa đơn bán hàng được thanh toán trong vòng 10 ngày kể từ ngày giao hàng. Mặt khác, số tiền hàng phải được thanh toán trong vòng 30 ngày, nếu không đúng hạn sẽ phải chịu lãi suất phạt (lãi suất quá hạn).

  • Chính sách thu tiền: bao gồm các quy định về cách thức thu tiền như thu tiền 1 lần hay nhiều lần, hay trả góp và biện pháp xử lý đối với các khoản tín dụng quá hạn.
  • Các yếu tố tác dụng đến chính sách tín dụng

Có nhiều yếu tố tác động đến chính sách tín dụng của doanh nghiệp. Sau đây là một số yếu tố cơ bản:

+ Điều kiện của doanh nghiệp

Đặc điểm về sản phẩm, nghành nghề kinh doanh và tiềm lực tài chính là những yếu tố tác động trực tiếp đến chính sách tín dụng của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có quy mô lớn, có tiềm lực tài chính mạnh, sản phẩm có thời gian sử dụng lâu bền thường cho phép mở rộng chính sách tín dụng lâu hơn các doanh nghiệp ít vốn, sản phẩm dễ hư hỏng, mất phẩm chất, khó bảo quản. Đối với thời kì sản phẩm của doanh nghiệp có nhu cầu tiêu thụ lớn cần khuyến khích tiêu thụ để thu hồi vốn.

+ Điều kiện của khách hàng

Điều kiện của khách hàng được đánh giá dựa vào các phán đoán sau:

  1. Vốn hay sức mạnh tài chính (Captial ): là thước đo về tình hình tài chính của doanh nghiệp, nó ảnh hưởng đến rủi ro thanh toán. Yếu tố này được xác định dựa vào quy mô vốn chủ sở hữu, tổng giá trị tài sản của doanh nghiệp, khả năng sinh lợi từ hoạt động kinh doanh.
  2. khả năng thanh toán (Capacity ): được đánh giá qua các hệ số thanh toán chung, hệ số thanh toán nhanh, hệ số thanh toán lãi vay ... của khách hàng.
  3. Tư cách tín dụng (Charater): là thái độ với việc thanh toán nợ khách hàng . Yếu tố này được coi là rất quan trọng vì mỗi một giao dịch tín dụng được ngầm hiểu là một hứa hẹn thanh toán.
  4. Vật thế chấp (Collateral): là tài sản khách hàng dùng đảm bảo cho món nợ mình.
  5. Điều kiện kinh tế (Condition ): là sự phát triển của nền kinh tế nói chung và mức độ phát triển của từng vùng địa lý nói riêng có ảnh hưởng đến việc thanh toán của khách hàng đối với món nợ.

42

Thông tin khách hàng có thể thu thập được thông qua việc điều tra trực tiếp như phân tích báo cáo tài chính của khách hàng, phỏng vấn trực tiếp, phân tích thông tin thu thập từ các nhà cung cấp trước đó, đến thăm khách hàng ... Đồng thời, có thể thu thập thông tin từ các trung tâm xử lí dữ liệu về vị thế tín dụng của doanh nghiệp.

Kết quả điều tra là căn cứ quan trong để xác định chính sách tín dụng đối với khách hàng. Nếu khách hàng có tiềm lực tài chính hạn chế, uy tín (hay tư cách tín dụng) thấp không thể thực hiện một chính sách tín dụng (hay tư cách tín dụng) thấp không thể thực hiện một chính sách tín dụng nới lỏng như những khách hàng có tiềm lực tài chính mạnh, luôn giữ chữ tín trong quan hệ thanh toán.

+ Lợi ích kinh tế đạt được khi thực hiện chính sách tín dụng.

Để đánh giá lợi ích kinh tế đạt được khi thực hiện chính sách tín dụng, doanh nghiệp cần dự báo, tính toán các thông số sau.

  • Số lượng và giá bán sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ dự kiến tiêu thụ. Thông thường, doanh thu sẽ có xu hướng tăng lên khi các tiêu chuẩn tín dụng được nới lỏng, tỷ lệ chiết khấu tăng, thời gian bán chịu dài và phương thức thu tiền bớt gắt gao.
  • Các chi phí phát sinh do tăng các khoản nợ: chi phí quản lý nợ phải thu, chi phí thu hồi nợ, chi phí rủi ro.
  • So sánh lợi nhuận gộp do doanh số bán tăng lên với những chi phí tăng thêm do sự thay đổi của chính sách tín dụng gây ra.

Việc thiết lập chính sách tín dụng có ảnh hưởng rất lớn tới tình hình kinh doanh của doanh nghiệp. Bởi vì, nếu các tiêu chuẩn tín dụng quá cao có thể loại bỏ nhiều khách hàng tiềm năng, do đó làm giảm lợi nhuận. Ngược lại, nếu tiêu chuẩn tín dụng quá thấp có thể làm tăng doanh số bán nhưng đồng thời cũng làm cho rủi ro tín dụng tăng, gia tăng các khoản nợ khó đòi, chi phí thu tiền cũng tăng lên.

Phân tích, đánh giá các khoản phải thu

Người làm công tác quản lý tài chính phải mở sổ theo dõi chi tiết các khoản phải thu, đồng thời thường xuyên đôn đốc khách nợ để thu hồi đúng hạn. Theo định kỳ nhất định, doanh nghiệp phải tiến hành phân loại tổng nợ phải thu và chi tiết theo từng khách nợ. Tổng nợ phải thu có thể phân loại theo các tiêu thức sau:

        • Nhóm 1, nợ loại A (nợ có độ tin cậy cao hay nợ đủ tiêu chuẩn): thường bao gồm các khoản nợ trong hạn mà doanh nghiệp đánh giá có đủ khả năng thu hồi đúng hạn. Các khách nợ này thường là những doannh nghiệp vững chắc về tài chính, về tổ chức, uy tín và thương hiệu.

43

        • Nhóm 2, nợ loại B (nợ có rủi ro thấp hay nợ cần chú ý): thường bao gồm các khoản nợ quá hạn dưới 90 ngày và các khoản nợ đã cơ cấu lại thời hạn nợ. Các khách này thường là những doanh nghiệp có tình hình tài chính khá tốt, khách nợ truyền thống có độ tin cậy.
        • Nhóm 3, nợ loại C (nợ quá hạn có thể thu hồi được hay nợ dưới tiêu chuẩn): thường bao gồm các khoản nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày và các khoản nợ đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn cơ cấu lại. Các khách nợ này thường là những doanh nghiệp có tình hình tài chính không ổn định, hiện tại có khó khăn nhưng có triển vọng phát triển hoặc cải thiện.
        • Nhóm 4, nợ loại D (nợ ít có khả năng thu hồi và nợ quá hạn khó đòi hay nợ nghi ngờ): thường bao gồm các khoản nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày và các khoản nợ đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn từ 90 đến 180 ngày theo thời hạn cơ cấu lại. Các khách nợ này thường là những doanh nghiệp có tình hình tài chính xấu, không có triển vọng rõ ràng hoặc khách nợ cố ý không thanh toán nợ.
        • Nhóm 5, nợ loại E (nợ không thể thu hồi được hay nợ có khả năng mất vốn): thường bao gồm các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày và các khoản nợ đã cơ cấu lại thời hạn trợ nợ quá hạn trên 180 ngày theo thời hạn cơ cấu lại. Các khách nợ này thường là những doanh nghiệp phá sản hoặc chuẩn bị phá sản không có khả năng trả nợ hoặc không tồn tại.

Kết quả phân loại nợ là cơ sở quan trọng giúp nhà quản trị xác định đúng thực trạng và tính hữu hiệu của các chính sách thu tiền của doanh nghiệp. Nếu tỷ lệ nợ xấu (bao gồm các khoản nợ thuộc nhóm 3, 4, 5) cao, chứng tỏ chất lượng quản trị khoản phải thu của doanh nghiệp còn yếu kém. Doanh nghiệp cần nhanh chóng triển khai các biện pháp giải quyết thích hợp. Đồng thời, đây cũng là căn cứ để xây dựng chính sách tín dụng trong các kỳ tiếp theo.

Bảng 3.2. Bảng xếp hạng nợ của doanh nghiệp

STT

Nhóm nợ

Xếp

hạng

Các dấu hiệu đặc trưng

Các biện pháp kiểm

soát nợ

1

Nợ có độ tin cậy cao

A

Khách nợ là những doanh nghiệp vững chắc về tài chính, về tổ chức,

uy tín và thương hiệu

Sử dụng các biện pháp kiểm soát nợ thông thường, duy trì mối

quan hệ tốt với khách nợ

2

Nợ có rủi ro thấp

B

Khách nợ là những doanh nghiệp có tình hình tài chính khá tốt, khách nợ truyền thống,

có độ tin cậy

Sử dụng tốt các biện pháp kiểm soát nợ thông thường

3

Nợ quá hạn

nhưng có thể thu hồi

C

Khách nợ là những

doanh nghiệp có tình hình tài chính không ổn

Theo dõi chặt chẽ để thu

nợ, có giải pháp đặc biệt phù hợp với từng món

44

định, hiện tại có khó khăn nhưng có triển vọng phát triển hoặc cải

thiện

nợ.

4

Nợ ít có khả năng thu hồi và nợ quá hạn khó đòi

D

Khách nợ là những doanh nghiệp có tình hình tài chính xấu, không có triển vọng phát triển

hoặc cải thiện

Áp dụng các biện pháp đặc biệt, theo dõi chặt chẽ, tận dụng cơ hội thu nợ

5

Nợ không thể thu hồi được

E

Khách nợ là những doanh nghiệp phá sản hoặc chuẩn bị phá sản không có khả năng trả nợ

hoặc không tồn tại

Nợ thuộc nhóm phải xóa sổ, không làm phát sinh thêm chi phí kiểm soát nợ. Xác định chi phí tổn

thất trong kinh doanh

Ngoài ra, để theo dõi các khoản phải thu có thể sử dụng các công cụ sau:

Kỳ thu tiền bình quân (The Average Collection Period ACP)

Kỳ thu tiền bình quân (còn gọi là số ngày của một vòng quay các khoản phải thu) phản ánh số ngày cần thiết bình quân để thu được các khoản phải thu. Nó được tính bằng các lấy số dư bình quân khoản phải thu nhân (x) với 360 ngày rồi chia cho tổng doanh thu trong kỳ.

dụ: Số dư khoản phải thu của công ty ABC ngày 01/01/N là 500 triệu đồng, ngày 31/12/N là 650 triệu đồng. Doanh thu năm N của công ty là 5.950 triệu đồng. Kỳ thu tiền bình quân năm N của công ty được xác định như sau:

Kỳ thu tiền bình quân ngắn, chứng tỏ doanh nghiệp không bị đọng vốn trong khâu thanh toán. Ngược lại, nếu kỳ thu tiền dài chứng tỏ thời gian thu hồi khoản thu chậm. Tuy nhiên, để đánh giá thực trạng này tốt hay xấu còn phụ thuộc vào chính sách tín dụng thương mại và thực tế thanh toán nợ của từng khoản phải thu. Trong nhiều trường hợp do công ty muốn chiếm lĩnh thị trường thông qua bán hàng trả chậm, hay tài trợ cho các chi nhánh đại lý nên dẫn tớ kỳ thu tiền bình quân tăng lên.

      1. Phòng ngừa rủi ro xử đối với khoản phải thu khó đòi

* Phòng ngừa rủi ro.

Khi doanh nghiệp nới lỏng chính sách tín dụng thường góp phần làm mở rộng thị trường tiêu thụ, tăng doanh thu nhưng cũng chứa đựng nhiều rủi ro tiềm ẩn. Vì vậy, phòng ngừa rủi ro đối với khoản phải thu là nhu cầu cần thiết đối với mọi doanh nghiệp để ổn định

45

tình hình tài chính, tăng hiệu quả của chính sách tín dụng. Rủi ro đối với khoản phải thu thường bao gồm:

  • Rủi ro do không thu hồi được nợ (rủi ro tín dụng).
  • Rủi ro do tác động của sự thay đổi tỷ giá, lãi suất...

Để phòng ngừa thực tế phát sinh khoản phải thu khó đòi, ngoài việc phải tìm hiểu kỹ khách hàng để xác định giới hạn tín dụng như đã nêu trên, căn cứ vào kết quả phân loại nợ phải thu doanh nghiệp cần phải lập dự phòng có thể xác định theo những tỷ lệ % nhất định trên từng loại khoản phải thu, hoặc theo khách nợ đáng ngờ. Cách thức này giúp doanh nghiệp có thể chủ động đối phó khi rủi ro xảy ra.

Ở Việt Nam hiện nay, theo quy định quản lý tài chính doanh nghiệp hiện hành, căn cứ để ghi nhận khoản nợ phải thu khó đòi phải là những khoản nợ đã quá hạn từ 2 năm trở lên, doanh nghiệp đã đòi nhiều lần nhưng vẫn chưa thu được nợ, hoặc những khoản nợ chưa quá hạn 2 năm nhưng con nợ đang trong thời gian xem xét giải thể, phá sản. Mức lập dự phòng không được vượt quá 20% tổng số nợ phải thu của doanh nghiệp tại thời điểm 31 tháng 12 hàng năm và đảm bảo doanh nghiệp không bị lỗ.

Đối với các rủi ro do tác động của tỷ giá, lãi suất có thể lựa chọn các nghiệp vụ kinh doanh trên thị trường ngoại hối và thị trường tiền tệ như: nghiệp vụ kỳ hạn, quyền chọn, hoán đổi tiền tệ và lãi suất, lựa chọn loại tiền vay...

* Xử lý đối với khoản phải thu khó đòi

Trên cơ sở phân loại các khoản nợ quá hạn, tìm nguyên nhân của từng khoản nợ (khách quan và chủ quan), doanh nghiệp phải có các giải pháp thích hợp để nhanh chóng thu hồi tiền vốn trong thanh toán theo nguyên tắc hiệu quả, linh hoạt và kiên quyết. Tùy từng trường hợp cụ thể, doanh nghiệp có thể lựa chọn hoặc sử dụng kết hợp một số giải pháp sau:

  • Cơ cấu lại thời hạn nợ: doanh nghiệp có thể điều chỉnh kỳ hạn nợ hoặc gia hạn nợ cho khách hàng nếu doanh nghiệp đánh giá khách hàng suy giảm khả năng trả nowjnhuwng có thể trả nợ đầy đủ theo thời hạn nợ cơ cấu lại.
  • Xóa một phần nợ cho khách hàng
  • Thông qua các bạn hàng của khách nợ để giữ hàng
  • Bán nợ
  • Tranh thủ sự giúp đỡ của các ngân hàng, các tổ chức tín dụng để phong tỏa tài sản, tiền vốn của khách nợ.
  • Khởi kiện trước pháp luật...

Quản trị tồn kho

      1. Các nhân tố ảnh hưởng đến tồn kho dự trữ

46

Tồn kho dự trữ của doanh nghiệp là những tài sản doanh nghiệp lưu giữ để sản xuất hoặc bán ra sau này. Trong các doanh nghiệp, tồn kho thường bao gồm nguyên liệu, nhiên liệu dự trữ sản xuất, sản phẩm dở dang, thành phẩm hàng hóa chờ tiêu thụ. Tùy theo ngành nghề kinh doanh mà tỷ trọng các loại tài sản trên có khác nhau. Trong các doanh nghiệp sản xuất, nguyên liệu, nhiên liệu dự trữ thường chiếm tỉ trọng lớn. Trong các doanh nghiệp thương mại, tồn kho chủ yếu là hàng hóa chờ tiêu thụ.

Việc quản trị hàng tồn kho trong các doanh nghiệp là rất quan trọng, không phải chỉ vì trong doanh nghiệp tồn kho dự trữ chiếm một tỉ trọng đáng kể trong tổng tài sản của doanh nghiệp. Điều quan trọng hơn là nhờ có dự trữ đúng mức, hợp lý sẽ giúp cho doanh nghiệp không bị gián đoạn trong kinh doanh, không bị thiếu sản phẩm hàng hóa để bán đồng thời giúp doanh nghiệp sử dụng tiết kiệm, giảm chi phí tồn kho...

Mức tồn kho dự trữ của doanh nghiệp nhiều hay ít thường phụ thuộc vào một số yếu tố cơ bản sau:

  • Quy mô sản xuất và nhu cầu dự trữ nguyên vật liệu cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nhu cầu dự trữ nguyên vật liệu hàng hóa của doanh nghiệp thường bao gồm: dự trữ thường xuyên, dự trữ bảo hiểm, dự trữ thời vụ.
  • Khả năng sẵn sàng cung ứng của thị trường
  • Thời gian vận chuyển hàng từ nhà cung cấp đến doanh nghiệp
  • Xu hướng biến động giá cả hàng hóa, nguyên vật liệu
  • Độ dài thời gian chu kỳ sản xuất sản phẩm
  • Trình độ tổ chức sản xuất và khả năng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp
  • Khả năng xâm nhập và mở rộng thị trương tiêu thụ sản phẩm...

Quản trị tồn kho bao gồm việc lập kế hoạch, tổ chức và quản lý các hoạt động nhằm vào nguồn nguyên liệu và hàng hóa đi vào, đi ra khỏi doanh nghiệp. Quản trị tồn kho phải trả lời các câu hỏi:

  • Lượng hàng đặt là bao nhiêu để chi phí tồn kho là nhỏ nhất?
  • Vào thời điểm nào thì bắt đầu đặt hàng?

Chi phí tồn kho

Chi phí tồn kho có liên quan trực tiếp đến giá vốn của hàng bán. Bởi vậy các quyết định tốt liên quan đến khối lượng hàng hóa mua vào và quản lý hàng tồn kho dự trữ cho phép doanh nghiệp tiết kiệm chi phí, tăng thu nhập.

Các chi phí gắn liên với hàng hóa tồn kho (gọi là chi phí tồn kho) bao gồm:

        • Chi phí đặt hàng: bao gồm các chi phí liên quan đến việc chuẩn bị và phát hành đơn đặt hàng như chi phí giao dịch, quản lý, kiểm tra và thanh toán. Chi phí đặt hàng cho mỗi lần

47

đặt hàng thường tương đối ổn định không phụ thuộc vào số lượng hàng được mua. Trong mỗi kỳ kinh doanh chi phí đặt hàng thường tỷ lệ với số lần đặt hàng trong kỳ. Khi khối lượng hàng của mỗi lần đặt hàng nhỏ thì số lần đặt hàng tăng lên và chi phí đặt hàng do vậy cũng tăng lên và ngược lại.

        • Chi phí lưu kho (hay chi phí bảo quản): Chi phí này xuất hiện khi doanh nghiệp phải lưu giữ hàng để bán, bao gồm chi phí đóng gói hàng, chi phí bốc xếp hàng vào kho, chi phí thuê kho, bảo hiểm, khấu hao kho và thiết bị kho, chi phí hao hụt, hư hỏng hàng hóa, lãi vay... Các yếu tổ chi phí này phụ thuộc vào khối lượng hàng hóa mua vào. Nếu khối lượng hàng đặt mua mỗi lần lớn, thì chi phí lưu kho tăng và ngược lại:
        • Các chi phí khác:

+ Chi phí giảm doanh thu do hết hàng: Có thể xemđây là một loại chi phí cơ hội do doanh nghiệp hết một loại hàng nào đó mà khách hàng có nhu cầu. Doanh nghiệp có thể xử lý tình trạng hết hàng bằng cách hối thúc một đơn đặt hàng từ người cung cấp loại hàng đó. Chi phí hối thúc cho lần đặt hàng sẽ bao gồm chi phí đặt hàng bổ sung cộng với chi phí vận chuyển (nếu có). Nếu không doanh nghiệp sẽ mật một khoản doanh thu do hết hàng.

+ Chi phí mất uy tín với khách hàng: đây cũng được xem là một loại chi phí cơ hội và được xác định căn cứ vào khoản thu nhập dự báo sẽ thu được từ việc bán hàng trong tương lai bị mất đi do việc mất uy tín với khách hàng vì việc hết hàng gây ra.

+ Chi phí gián đoạn sản xuất...

Cần lưu ý rằng một số yếu tố chi phí liên quan đến việc ra quyết định về hàng tồn kho và quản lý hàng bán khồn tồn tại trong hệ thống kế toán hiện hành. Chẳng hạn chi phí cơ hội là một yếu tố chi phí quan trọng nhưng không được ghi chép trong hệ thống kế toán.

Mô hình đặt hàng hiệu quả (Economic Ordering Quantity – EOQ)

Mô hình EOQ là một mô hình quản trị tồn kho mang tính định lượng, có thế sử dụng nó để tìm mức tồn kho tối ưu cho doanh nghiệp.

Yếu tố quyết định trong quản trị hàng tồn kho là dự báo chính xác khối lượng các loại hàng hóa cần dự trữ trong kỳ nghiên cứu – thường là một năm. Những doanh nghiệp có nhu cầu dự trữ hàng hóa mang tính thời vụ có thể chọn kỳ dự báo phù hợp với đặc điểm kinh doanh của mình.

Sau khi đã có số liệu dự báo chính xác về mức dự trữ hàng năm, doanh nghiệp có thể xác định số lần đặt hàng trong năm và khối lượng hàng hóa trong mỗi lần đặt hàng. Mục đích của những tính toán này là tìm được cơ cấu tồn kho có tổng chi phí năm ở mức tối thiểu.

Giữa chi phí đặt hàng và chi phí bảo quản hàng tồn khi có mối quan hệ tương quan tỷ lệ nghịch. Khi số lần đặt hàng nhiều, khối lượng hàng hóa tồn kho bình quân thấp, dẫn tới chi phí tồn kho thấp song chi phí đặt hàng cao. Ngược lại, khi số lần đặt hàng giảm đi thì khối

48

lượng hàng trong mỗi lần đặt hàng cao, lượng tồn kho lớn hơn, do đó chi phí tồn trữ hàng hóa cao và chi phí đặt hàng giảm.

Như vậy, vấn đề quan trọng đầu tiên của việc quản lý hàng tồn kho là quyết định cần đặt mua bao nhiều đối với một loại hàng nhất định. Mô hình đặt hàng hiệu quả (EOQ) xác định số lượng hàng mua tối ưu trong mỗi lần đặt hàng để dự trữ. Mô hình này giả thiết rằng:

  • Lượng hàng mua trong mỗi lần đặt hàng là như nhau.
  • Nhu cầu, chi phí đặt hàng và chi phí bảo quản là xác định. Thời gian mua hàng (Purchase order lead time) – thời gian từ khi đặt một đơn hàng tới khi nhận được hàng cũng là xác định.
  • Chi phí mua của mỗi đơn vị không bị ảnh hưởng bởi số lượng hàng được đặt. Giả thiết này làm cho chi phí mua hàng sẽ không ảnh hưởng đến mô hình EOQ bởi vì chi phí mua hàng của tất cả các hàng hóa mua vào sẽ như nhau bất kể quy mô đơn hàng với số lượng đặt là bao nhiêu.
  • Không xảy ra hiện tượng hết hàng: một lý do biện hộ cho giả thiết này là ở chỗ chi phí cho một lần hết hàng là quá đắt. Chúng ta phải luôn duy trì một lượng tồn kho thích hợp để đảm bảo hiện tượng hết hàng không xảy ra.

Với những giả thiết này, phân tích EOQ bỏ qua các chi phí cơ hội như chi phí giảm doanh thu do hết hàng, chi phí mất uy tín với khách hàng, chi phí gián đoạn sản xuất... Để xác định EOQ, chúng ta phải tối thiểu hóa chi phí đặt hàng và chi phí bảo quản.

Tổng chi phí tồn kho = Tổng chi phí đặt hàng + Tổng chi phí bảo quản Như vậy theo lý thuyết về mô hình số lượng đặt hàng có hiệu quả thì

Trong đó:

EOQ: Số lượng đặt hàng có hiệu quả

D: Tổng nhu cầu số lượng 1 loại sản phẩm cho một khoảng thời gian nhất định P: Chi phí cho mỗi lần đặt hàng

C: Chi phí bảo quản trên một đơn vị hàng tồn kho

Công thức cho thấy EOQ tỷ lệ thuận với nhu cầu và chi phí đặt hàng, tỷ lệ nghịch với chi phí bảo quản.

dụ: Cửa hàng Huy Hoàng kinh doanh các hộp băng video trắng, đồng thời cho thuê các băng phim và các sự kiện thể thao. Cửa hàng này mua các hộp băng video từ hãng Sontek với giá 140.000 đồng/hộp. Hãng Sontek chịu toàn bộ chi phí vận chuyển. Chi phí kiểm tra là không cần thiết vì hãng Sontek có uy tín cao trong việc giao hàng có chất lượng. Nhu cầu mỗi năm là 13.000 hộp với mức tiêu thụ mỗi tuần 250 hộp. Cửa hàng Huy Hoàng đòi hỏi lợi

49

nhuận 15% hàng năm cho các khoản đầu tư. Thời gian mua hàng là 2 tuần; đồng thời biết thêm các thông tin sau:

  • Chi phí đặt hàng mỗi lần là: 2.000.000 đồng
  • Chi phí bảo quản mỗi hộp một năm là:

+ Lãi yêu cầu hàng năm của khoản đầu tư: 15% x 140.000 = 21.000 đồng

+ Chi phí bảo hiểm, bảo quản, hao hụt... hàng năm là: 31.000 đồng EOQ của cửa hàng Huy Hoàng là:

= 1.000

Như vậy, cửa hàng nên đặt 1.000 cuộn băng mỗi lần để tối thiểu tổng chi phí đặt hàng và chi phí bảo quản.

Số lần đặt hàng mỗi năm là: 13.000 : 1.000 = 13 lần Tổng chi phí đặt hàng trong năm là:

13 x 2.000.000 = 26.000.000 đ

Tổng chi phí bảo quản hàng tồn kho là:

(1.000 : 2) x 52.000 = 26.000.000 đ

Tổng chi phí tồn kho mỗi năm là:

26.000.000 + 26.000.000 = 52.000.000 đ

Bây giờ chúng ta sẽ xem xét tiếp vấn đề khi nào đặt hàng thì sẽ hợp lý nhất và cần phải dự trữ hàng như thế nào để tránh tình trạng hết hàng xảy ra:

* Xác định thời điểm đặt hàng lại

Quyết định quan trọng thứ hai liên quan đến quản trị hàng tồn kho là vấn đề khi nào thì đặt hàng. Điểm tái đặt hàng (Reorder point) là chỉ tiêu phản ánh mức hàng tối thiếu còn lại trong kho để khởi phát một yêu cầu đặt hàng mới. Điểm tái đặt hàng được tính toán đơn giản nhất khi cả nhua cầu và thời gian mua hàng là xác định.

Điểm tái đặt hàng

= Số lượng hàng bán trong một

đơn vị thời gian

x Thời gian mua hàng

Trong ví dụ trên, khi chọn đơn vị thời gian là một tuần, ta có:

+ Số lượng hàng đặt có hiệu qủa: 1.000 hộp

+ Số lượng hàng bán mỗi tuần: 250 hộp

+ Thời gian mua hàng: 2 tuần

Do đó, điểm tái đặt hàng là 250 x 2 = 500 hộp

50

Như vậy, cửa hàng Huy Hoàng sẽ đặt hàng với mức là 1.000 hộp mỗi lần khi mức dự trữ trong kho giảm xuống còn 500 hộp.

* Lượng dự trữ an toàn

Giả thiết rằng nhu cầu và thời gian đặt hàng là xác định. Khi cửa hàng bán lẻ không có sự ổn định về nhu cầu và thời gian mua hàng hoặc số lượng hàng mà người cung cấp có thể đáp ứng, họ thường phải duy trì một mức dự trữ an toàn (Safety Stock). Dự trữ an toàn là mức dự trữ ở mọi thời điểm ngay cả khi lượng tồn kho đã được xác định theo mô hình EOQ. Nó được sử dụng như là một lớp đệm chống lại sự tăng bất thường của nhu cầu hay thời gian mua hàng, hoặc tình trạng không sẵn sàng cung cấp của nhà cung cấp. Trong ví dụ trên, nhu cầu kỳ vọng là 250 hộp mỗi tuần nhưng người quản lý hàng có thể thấy xuất hiện nhu cầu tối đa là 400 hộp 1 tuần. Nếu người quản lý cửa hàng cho rằng cần phải loại trừ hoàn toàn chi phí hết hàng, họ có thể quyết định duy trì 1 mức dự trữ an toàn là 300 hộp, Trong điều kiện thời gian mua hàng là 3 tuần, số lượng này cho phép thảo mãn mức vượt nhu cầu tối đa là 150 hộp mỗi tuần. Việc xác định mức dự trữ an toàn phụ thuộc vào dự báo nhu cầu. Người quản lý thường dựa vào nhu cầu theo kinh nghiệm để thiết lập dãy số về nhu cầu mỗi tuần. Việc theo dõi các số liệu hàng ngày, hoặc hàng tuần trước đó sẽ giúp cho việc xác định được các chi phí đi kèm với việc duy trì sự an toàn.

51

Chương 4

QUẢN TRỊ NGUỒN TÀI TRỢ CỦA DOANH NGHIỆP

Phân loại nguồn tài trợ

      1. Căn cứ vào quyền sở hữu
  • Nguồn vốn chủ sở hữu: là số vốn thuộc sở hữu của chủ doanh nghiệp, doanh nghiệp có đầy đủ các quyền chiếm hữu, chi phối và định đoạt.

Xét theo quá trình hình thành và phát triển của doanh nghiệp, vốn chủ sở hữu bao

gồm:

  • Vốn góp ban đầu: Khi doanh nghiệp mới được thành lập thì vốn chủ sở hữu do các

thành viên đóng góp và hình thành vốn điều lệ. Đối với doanh nghiệp Nhà nước thì vốn góp ban đầu chính là vốn đầu tư của Nhà nước, đối với doanh nghiệp cổ phần thì vốn góp ban đầu là do chủ doanh nghiệp hoặc những người góp vốn. Chẳng hạn, đối với công ty cổ phần vốn do cổ đông đóng góp là yếu tố quyết định sự hình thành công ty.

  • Vốn bổ sung từ quá trình kinh doanh (Nguồn vốn từ lợi nhuận không chia): đây là nguồn vốn tích lũy từ lợi nhuận không chia, được sử dụng để tái đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

Ưu điểm cơ bản của nguồn vốn này là chi phí huy động vốn thấp, vốn thuộc sở hữu của doanh nghiệp nên chủ đầu tư có toàn quyền chủ động quyết định sử dụng chúng mà không găp phải bất cứ một sự cản trở nào. Mặt khác, nguồn vốn huy động từ nội bộ thường có chi phí cơ hội thấp do đó an toàn hơn cho chủ đầu tư trong quá trình đầu tư.

Tuy nhiên nếu gia tăng quá lớn tỷ lệ tài trợ từ nguồn nội bộ thì có thể dẫn đến một số bất lợi cơ bản sau đây:

  • Làm suy giảm khả năng tài chính hiện tại của công ty do đó có thể sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ các hoạt động của công ty.
  • Làm giảm tỷ suất sinh lợi vốn có của doanh nghiệp, điều này trực tiếp ảnh hưởng đến tỷ suất lợi nhuận trên cổ phần của cổ đông.

52

  • Các khoản nợ: Là khoản vốn được hình thành từ vốn vay các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng khác, vốn vay thông qua phát hành trái phiếu, vay người lao động trong doanh nghiệp, các khoản nợ phát sinh từ mua bán chịu, đi thuê tài sản dưới hình thức thuê hoạt động hay thuê tài chính.
  • Các nguồn vốn khác: Ngoài các nguồn vốn nêu trên, vốn kinh doanh của doanh nghiệp còn có thể được tài trợ bằng các nguồn khác như: các khoản nợ có tính chu kỳ (nợ tích lũy), nguồn vốn liên doanh, liên kết,…
      1. Căn cứ vào thời gian sử dụng vốn
  • Tài trợ ngắn hạn bao gồm các nguồn tài trợ có thời gian hoàn trả trong vòng 1 năm. Tài trợ ngắn hạn được thể hiện chủ yếu dưới các hình thức như nợ tích lũy, mua bán chịu hàng hóa, vay ngắn hạn, thuê hoạt động,…
  • Tài trợ dài hạn bao gồm các nguồn tài trợ có thời gian đáo hạn dài hơn 1 năm. Tài trợ dài hạn được thể hiện chủ yếu dưới các hình thức huy động vốn cổ phần qua phát hành cổ phiếu, phát hành trái phiếu, thuê tài chính.

Nguồn tài trợ ngắn hạn của doanh nghiệp

      1. Nợ phải trả tính chất chu kỳ

Các khoản phải trả cho người lao động và các khoản phải nộp khác, các khoản này có tên gọi là nợ tích luỹ, những khoản này phát sinh thường xuyên trong hoạt động kinh doanh, tuy nhiên chúng chưa đến kỳ thanh toán.

Những khoản này bao gồm:

  • Tiền lương, tiền công trả cho người lao động, nhưng chưa đến kỳ trả. Thông thường, tiền lương hoặc tiền công của người lao động chi trả hàng tháng bao gồm 2 kỳ: kỳ tạm ứng thường vào giữa tháng và kỳ thanh toán vào đầu tháng sau. Giữa 2 kỳ trả lương sẽ phát sinh những khoản nợ lương trong kỳ.
  • Các khoản thuế, BHXH phải nộp nhưng chưa đến kỳ nộp, các khoản thuế phải nộp hàng tháng như thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp năm trước nộp vào đầu năm sau, khi mà quyết toán được duyệt.v.v…

Ngoài những khoản nợ có tính chất thường xuyên trên đây, còn có những khoản phát sinh cũng mang tính chất như một nguồn tài trợ mà doanh nghiệp tận dụng trước nhưng không phải trả chi phí, là những khoản tiền tạm ứng trước của khách hàng, số tiền này nhiều hay ít tuỳ thuộc vào tính chất quan trọng của sản phẩm hàng hoá đó, tình hình cung cầu trên thị trường, khả năng mở rộng hay thu hẹp qui mô sản xuất, yêu cầu và điều kiện thanh toán của đôi bên.

Tín dụng thương mại (Khoản nợ nhà cung cấp)

53

Việc mua chịu, bán chịu giữa doanh nghiệp với các nhà cung ứng vật tư, hàng hoá, dịch vụ đã xuất hiện từ lâu, hình thức tín dụng này chiếm vị trí quan trọng trong nguồn tài trợ ngắn hạn đối với doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp mới hình thành hoặc vốn hoạt động còn bị hạn chết. Được nhận vật tư, tài sản, dịch vụ để hoạt động sản xuất – kinh doanh nhưng chưa phải thanh toán, trả tiền ngay, điều rất có lợi cho doanh nghiệp. Lợi ích của TDTM nhà cung cấp rất lớn, đó là:

+ Cung cấp tín dụng cho doanh nghiệp hoạt động.

+ Đàm phán, tự nguyện giữa doanh nghiệp và nhà cung cấp.

+ Kết quả đưa đến nhanh, khi nhà cung cấp biết rõ khách hàng, có thể đánh giá được khả năng thu hồi, mức độ tín nhiệm, cũng như những rủi ro có thể gánh chịu.

- Về phía doanh nghiệp, tuy được hưởng tín dụng của nhà cung cấp nhưng cũng không nên cho đó là loại hình tín dụng không mất chi phí mà cần kiểm tra, xem xét giá mua chịu hàng hoá có cao quá mức bình thường không.

Việc sử dụng tín dụng thương mại của doanh nghiệp cũng phải tính đến chi phí của khoản tín dụng đó, cho nên trong nhiều trường hợp, việc doanh nghiệp có nên sử dụng tín dụng thương mại hay không cần xác định chi phí của các khoản tín dụng thương mại đó.

dụ: Một giao dịch giữa nhà cung cấp với doanh nghiệp, nhà cung cấp đồng ý bán chịu cho doanh nghiệp một lô hàng với qui định hình thức thanh toán là “2/10 net 30”. Điều đó có nghĩa là nhà cung cấp sẽ chiết khấu 2% trên giá trị hóa đơn mua hàng nếu người mua đồng ý trả tiền trong thời gian 10 ngày kể từ ngày giao hàng. Ngoài thời hạn 10 ngày, tức là từ ngày thứ 11 đến ngày thứ 30 thì doanh nghiệp phải đủ 100% giá trị hóa đơn mà không được hưởng chiết khấu nữa.

Có thể tính chi phí của tín dụng thương mại theo công thức sau:

Chi phí của tín dụng thương mại

% tỷ lệ chiết khấu

=

100 - % chiết khấu

360

x

Thời hạn tín dụng - Thời gian hưởng chiết khấu

Với ví dụ trên, thì:

CPTDTM =

Cần so sánh với lãi suất vay ngân hàng để xem chi phí của khoản TDTM cao hay thấp.

Tín dụng ngân hàng

Nguồn vốn của ngân hàng thương mại là một nguồn tài trợ đặc biệt cho doanh nghiệp, đó là nguồn tài trợ ngắn hạn, như nhu cầu VLĐ của doanh nghiệp gia tăng trong hoạt động kinh doanh. Các tổ chức tín dụng có thể cho các doanh nghiệp vay ngắn hạn với thời gian tối đa là 12 tháng (…1 năm). Thời hạn cho vay cụ thể của từng doanh nghiệp được xác định phù hợp với chu kỳ sản xuất, kinh doanh và khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Lãi suất cho vay là

54

lãi suất thoả thuận theo cơ chế thị trường và phù hợp với các qui định của ngân hàng Nhà nước, qui định của Luật về các tổ chức tín dụng về lãi suất cho vay khi ký kết hợp đồng tín dung.

Để vay được nguồn vốn ngắn hạn từ Ngân hàng và các tổ chức tín dụng, các doanh nghiệp cần chấp hành đầy đủ các nguyên tắc qui định hiện hàng về tín dụng ngắn hạn.

Chiết khấu thương phiếu

Thương phiếu là chứng chỉ có giá trị nhận lệnh yêu cầu thanh toán hoặc cam kết thanh toán không điều kiện một số tiền xác định trong một thời gian nhất định.

Các doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu, thông thường muốn vay ngắn hạn cần thế chấp bằng khoản phải thu, nhưng thay vì việc dùng hình thức này để thế chấp, có thể sử dụng thương phiếu để chiết khấu trên thị trường tiền tệ.

Doanh nghiệp có thể đem chiết khấu các hối phiếu xuất khẩu trả tiền trước và hối phiếu xuất khẩu có thời hạn tại bộ phận tái chuyển khoản thuộc Ngân hàng để nhận được những khoản tiền vay ngắn hạn. Nguồn vốn vay ngắn hạn này có mức chi phí thấp hơn hình thức vay ngắn hạn khác, vì mức lãi suất chiết khấu thường thấp hơn lãi suất cho vay cảu các Ngân hàng thương mại.

Số tiền thu được khi đem các thương phiếu đi chiết khấu có thể được tính theo công thức sau:

M = V -

Trong đó:

M: Số tiền thu được khi đem thương phiếu đi chiết khấu. V: Giá trị ghi trên thương phiếu (mệnh giá).

i: Lãi suất chiết khấu (tính theo năm). n: Số ngày chiết khấu.

Các nguồn tài trợ ngắn hạn khác

Ngoài các nguồn vốn để tài trợ ngắn hạn trên, doanh nghiệp còn có thể sử dụng các nguồn khác để tài trợ nhu cầu tăng vốn lưu động tạm thời, như các khoản tiền đặt cọc, tiền ứng trước của khác hàng, các nguồn tài trợ không có bảo đảm khác như tín dụng thư, các khoản cho vay theo từng hợp đồng cụ thể v.v…

      1. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động
        1. Tốc độ luân chuyển vốn lưu động

55

Việc sử dụng hợp lý vốn lưu động biểu hiện ở tăng tốc độ luân chuyển vốn lưu động. Tốc độ luân chuyển vốn lưu động nhanh hay chậm nói lên hiệu suất sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp cao hay thấp.

Tốc độ luân chuyển vốn lưu động được biểu hiện bằng 2 chỉ tiêu:

  1. Số lần luân chuyển vốn lưu động (L)

Nói lên số lần quay (vòng quay) của vốn lưu động trong một thời kỳ nhất định (thường là 1 năm).

Công thức xác định:

L =

Trong đó:

L: Số lần luân chuyển (số vòng quay) của vốn lưu động trong kỳ kế hoạch.

M: Tổng mức luân chuyển vốn lưu động kỳ kế hoạch. Thông thường tổng mức luân chuyển vốn lưu động được xác định bằng doanh thu thuần của doanh nghiệp trong kỳ kế hoạch.

Vbq: Vốn lưu động bình quân sử dụng kỳ kế hoạch, được xác định theo phương pháp bình quân số học, tuỳ theo số liệu để có cách tính thích hợp

Vbq =

Hay: Vbq = Hoặc: Vbq =

Trong đó:

Vql, Vq2, Vq3, Vq4: Vốn lưu động bình quân các quý 1, 2, 3, 4 Vđql: Vốn lưu động đầu quý 1

Vcql, Vcq2, Vcq3, Vcq4: Vốn lưu động cuối quý 1, 2, 3, 4 VLĐđn, VLĐcn: Số vốn lưu động đầu năm và cuối năm.

  1. Số ngày luân chuyển vốn lưu động (K)

Nói lên độ dài bình quân của một lần luân chuyển của vốn lưu động hay số ngày bình quân cần thiết để vốn lưu động thực hiện một vòng quay trong kỳ:

Công thức xác định như sau:

K = hay K =

Trong đó:

M, Vbq: như chú thích trên

56

K: Số ngày luân chuyển vốn lưu động (Kỳ luân chuyển vốn lưu động)

N: Số ngày trong kỳ (một năm là 360 ngày, một quý là 90 ngày, một tháng là 30 ngày).

Vòng quay vốn lưu động càng nhanh thì kỳ luân chuyển vốn lưu động càng được rút ngắn và chứng tỏ vốn lưu động càng được sử dụng có hiệu quả.

dụ: Trong năm N, doanh thu thuần của doanh nghiệp A đạt được là 360 triệu. Theo tài liệu báo cáo, số vốn lưu động đầu năm là 110 triệu; cuối quý 1 là 115 triệu; cuối quý 2 là 120 triệu; cuối quý 3 là 125 triệu và cuối quý 4 là 130 triệu.

Từ tài liệu trên có thể xác định.

Số vốn lưu động bình quân sử dụng trong năm N:

110 + 115 + 120 + 125 + 130

Vbq =

2 2

= 120 triệu

4

Số lần luân chuyển vốn lưu động trong năm N:

K = 360 = 180 ngày

2

        1. Mức tiết kiệm vốn lưu động

Mức tiết kiệm vốn lưu động do tăng tốc độ luân chuyển vốn lưu động phản ánh số vốn lưu động có thể tiết kiệm được do tăng tốc độ luân chuyển vốn lưu động ở kỳ này so với kỳ trước:

Công thức tính như sau:

Vtktgđ() = M1 x (K1 – K0)

360

Vtktgđ (): Số vốn lưu động có thể tiết kiệm (-) hay phải tăng thêm (+) do sự thay đổi của tốc độ luân chuyển vốn lưu động của năm kế hoạch so với năm báo cáo.

M1: Tổng mức luân chuyển vốn lưu động (doanh thu thuần) năm kế hoạch. K1: Kỳ luân chuyển vốn lưu động năm kế hoạch.

K0: Kỳ luân chuyển vốn lưu động năm báo cáo.

        1. Hàm lượng vốn lưu động (Mức đảm nhiệm vốn lưu động)

Chỉ tiêu này phản ánh số vốn lưu động cần có để đạt được một đồng doanh thu thuần. Đây là chỉ tiêu nghịch đảo của chỉ tiêu hiệu quả một đồng vốn lưu động và được tính bằng cách lấy vốn lưu động bình quân trong năm kế hoạch chia cho tổng doanh thu thuần thựchiện trong năm kế hoạch.

Công thức: Hàm lượng vốn lưu động =

57

Trong đó: VLĐbq : Vốn lưu động bình quân năm kế hoạch M: Doanh thu thuần bán hàng trong kỳ

dụ: theo ví dụ trên ta có:

Mức đảm nhiệm vốn lưu động = 120 triệu = 0,333

360 triệu

Cũng có thể nói để đạt được một đồng doanh thu thuần cần có 0,333 đồng vốn lưu

động.

Nguồn tài trợ dài hạn của doanh nghiệp

Phát hành cổ phiếu thường

Cổ phiếu là chứng chỉ thể hiện quyền sở hữu của cổ đông trong công ty cổ phần và cho phép cổ đông được hưởng những quyền lợi của công ty. Đối với công ty cổ phần, cổ phiếu là phương tiện để hình thành vốn chủ sở hữu ban đầu và cùng là phương tiện để huy động tăng thêm vốn chủ sở hữu.

Trên các góc độ khác nhau, có thể phân biệt các loại cổ phiếu của công ty cổ phần:

  • Dựa vào tình hình phát hành và lưu hành, cổ phiếu của công ty cổ phần có thể phân biệt: Cổ phiếu được phép phát hành, cổ phiếu phát hành, cổ phiếu đang lưu hành và cổ phiếu quĩ
  • Dựa vào hình thức cổ phiếu có thể phân biệt: Cổ phiếu hữu danh (ghi tên) và cổ phiếu ghi danh (Không ghi tên)
  • Dựa vào quyền lợi mà cổ phiếu mang lại cho người nắm giữ có thể phân biệt cổ phiếu thường (cổ phiếu phổ thông) và cổ phiếu ưu đãi

Cổ đông nắm giữ cổ phiếu thường là một trong những người chủ doanh nghiệp nên là người trực tiếp thụ hưởng kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như lãnh chịu mọi rủi ro trong kinh doanh, do đó: cổ phiếu thường có những đặc điểm:

+ Rủi ro nhiều

+ Lợi nhuận cao

+ Giá cả biến động

Cổ phiếu thường là chứng chỉ xác nhận quyền sở hữu trong công ty và cho phép người sở hữu nó được hưởng các quyền lợi thông thường trong công ty cổ phần. Cổ đông thường - Người sở hữu cổ phiếu thường của công ty cổ phần được hưởng các quyền chủ yếu sau:

  • Quyền trong quản lý và kiểm soát công ty: Cổ đông thường được quyền tham gia bỏ phiếu và ứng cử vào hội đồng quản trị; được tham gia quyết định các vấn đề quan trọng đối với hoạt động công ty.

58

  • Quyền đối với tài sản của công ty: Cổ đông thường được quyền nhận phần lợi nhuận của công ty chia cho cổ đông hàng năm dưới hình thức lợi tức cổ phần. Khi công ty bị giải thể hoặc phá sản cổ đông thường được quyền nhận một phần giá trị còn lại của công ty sau khi đã thanh toán các khoản nợ, các khoản chi phí và thanh toán cho các cổ đông ưu đãi.
  • Quyền chuyển nhượng quyền sở hữu cổ phần: Cổ đông thường không được quyền rút vốn trực tiếp ra khỏi công ty, nhưng được quyền chuyển nhượng quyền sở hữu cổ phần cho người khác dưới hình thức bán lại cổ phiếu hoặc để lại cho người thừa kế.
  • Ngoài các quyền chủ yếu kể trên, cổ đông thường có thể được hưởng các quyền khác như quyền được ưu tiên mua trước các cổ phần mới do Công ty phát hành, quyền được xem xét, tra cứu, trích lục hoặc sao chụp điều lệ công ty, sổ biên bản họp Đại hội cổ đông, các nghị quyết của Đại hội cổ đông, kiểm tra sổ sách kế toán v…v theo qui định cụ thể trong điều lệ của công ty.

Để đáp ứng nhu cầu tăng vốn mở rộng kinh doanh, Công ty cổ phần có thể lựa chọn phương pháp huy động vốn bằng cách phát hành thêm cổ phiếu thường bán ra thu thêm tiền vốn theo các hình thức sau:

  • Phát hành cổ phiếu mới với việc dành quyền ưu tiên mua cho các cổ đông hiện hành

Đây là hình thức phổ biến được các Công ty cổ phần ở nhiều nước áp dụng khi quyết định tăng thêm vốn chủ sở hữu để mở rộng hoạt động kinh doanh. Việc áp dụng quyền ưu tiên mua cho cổ đông là nhằm bảo vệ quyền lợi của các cổ đông hiện hành.

  • Phát hành cổ phiếu mới ra công chúng

Để huy động tăng thêm vốn đầu tư, Công ty cổ phần có thể lựa chọn con đường phát hành cổ phiếu mới ra công chúng với việc chào bán công khai. Việc thực hiện chào bán công khai cổ phiếu mới có thể thực hiện theo các phương pháp: Phát hành trực tiếp, chào bán qua người bảo lãnh (hay ủy thác phát hành) và chào bán qua đấu thầu; trong đó, hai phương pháp chủ yếu thường được thực hiện là phát hành qua người bảo lãnh và phương pháp đấu thầu.

  • Phát hành cổ phiếu mới bằng việc chào bán cho người thứ ba

Luật pháp của nhiều nước hoặc trong điều lệ của nhiều công ty cổ phần cho phép, nếu được sự tán thành của Đại hội cổ đông, Công ty có thể phát hành thêm cổ phiếu mới với việc dành quyền mua cổ phiếu cho người thứ ba là những người có quan hệ mật thiết với công ty như người lao động trong Công ty, các đối tác kinh doanh, các định chế tài chính…Việc phát hành cổ phiếu theo phương pháp này vừa giúp công ty tăng được vốn kinh doanh, vừa tạo ra sự gắn bó chặt chẽ hơn giữa công ty và những người thường xuyên có quan hệ với công ty.

Khi quyết định tăng thêm vốn kinh doanh bằng việc phát hành cổ phiếu mới và dành quyền ưu tiên mua cho cổ đông hiện hàn, Công ty ấn định rõ số lượng vốn cần huy động và giá phát hành một cổ phiếu mới (còn gọi là giá ghi bán). Trên cơ sở đó, Công ty xác định số

59

cổ phiếu cần phát hành và số quyền mua cần thiết để mua một cổ phiếu mới. Số lượng cổ phiếu mới cần phát hành xác định theo công thức:

Số vốn cần huy động

Số lượng cổ phiếu mới cần phát hành =

Giá ghi bán một cổ phiếu

Các cổ đông hiện hành được quyền ưu tiên mua số cổ phiếu mới phát hành theo tỷ lệ với số quyền mua cần thiết để mua một cổ phiếu mới:

Số quyền mua cần thiết để được mua Số cổ phiếu đang lưu hành một cổ phiếu mới =

Số cổ phiếu mới dự kiến phát hành

Ưu điểm đối với việc phát hành cổ phiếu mới và dành quyền ưu tiên mua cho cổ đông hiện hành có những điểm lợi sau:

Thứ nhất: Công ty có thể mở rộng được hoạt động kinh doanh nhưng vẫn bảo vệ cho các cổ đông hiện hành, giúp các cổ đông giữ được quyền kiểm soát đối với công ty và bảo vệ được các quyền lợi kinh tế của cổ đông. Đây là vấn đề hết sức quan trọng đối với các công ty nhỏ và công ty mới thành lập.

Thứ hai: Việc huy động tăng vốn kinh doanh được thực hiện khá dễ dàng. Nếu công ty đang tiến hành có triển vọng, các cổ đông hiện hành dễ dàng chấp nhận bỏ tiền mua thêm cổ phần mới, tăng vốn đầu tư vào công ty.

Thứ ba: Tiết kiệm chi phí phát hành cổ phiếu thường so với trường hợp phát hành rộng rãi ra công chúng. Theo phương pháp này công ty không cần bỏ ra chi phí quảng cáo. Theo phương pháp này phần lớn các công ty đều thực hiện tự phát hành, hoặc phát hành thông qua đại lý với chi phí hoa hồng ở mức thấp.

Thứ tư: Giúp công ty tránh được áp lực của cổ đông do sự sụt giảm thị giá cổ phiếu khi phát hành cổ phiếu mới. Thông thường mỗi khi công ty phát hành cổ phiếu mới, thị giá cổ phiếu thường có sự sụt giảm. Tuy nhiên nhờ được hưởng giá trị quyền ưu tiên mua nên các cổ đông hiện hành không bị thiệt hại do việc sụt giảm thị giá cổ phiếu gây ra.

Bên cạnh những điểm lợi kể trên, phương pháp huy động tăng vốn này cũng bộc lộ những hạn chế nhất định. Do cổ phiếu mới phát hành chủ yếu được phân phối trong phạm vi các cổ đông hiện hành của công ty, vì vậy việc phát hành thêm cổ phiếu mới để tăng vốn này ít làm tăng tính hoán tệ của cổ phiếu Công ty. Mặt khác với việc bán cổ phần mới cho cổ đông hiện hành với giá thấp hơn giá thị trường đã làm cho qui mô nguồn vốn có thể huy động được là thấp hơn so với hình thức chào bán công khai trên thị trường.

Phát hành cổ phiếu ưu đãi

60

- Cổ phiếu ưu đãi là chứng chỉ xác nhận quyền sở hữu trong công ty cổ phần đồng thời cho phép người nắm giữ cổ phiếu này được hưởng một số quyền lợi ưu đãi hơn so với cổ đông thường.

Cùng với sự phát triển của thị trường chứng khoán, ngày nay ở nhiều nước các Công ty cổ phần phát hành nhiều cổ phiếu ưu đãi khác nhau. Tuy nhiên loại cổ phiếu ưu đãi thường được các Công ty cổ phần ở nhiều nước sử dụng là loại cổ phiếu ưu đãi cổ tức, loại cổ phiếu này có các đặc trưng chủ yếu sau:

Quyền ưu tiên về cổ tức thanh toán khi thanh công ty

Khác với cổ phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi mang lại cho người nắm giữ nó được hưởng một khoản lợi tức cổ phần cố định và đã được xác định trước, không phụ thuộc vào kết quả hoạt động của Công ty. Mặt khác cổ phiếu ưu đãi còn nhận được các cổ tức trước các cổ đông thường. Ngoài ra khi công ty bị thanh lý hoặc giải thể thì cổ đông ưu đãi còn được thanh toán giá trị cổ phiếu của họ trước các cổ đông thường.

Sự tích lũy cổ tức

Phần lớn các cổ phiếu ưu đãi của Công ty phát hành đều là cổ phiếu ưu đãi tích lũy. Điều đó có nghĩa là, nếu trong một năm nào đó công ty gặp khó khăn trong kinh doanh thì có thể tuyên bố hoãn trả nợ lợi tức cổ phần ưu đãi. Số cổ tức đó được tích lũy lại tức là được cộng dồn lại và được chuyển sang kỳ kế tiếp. Số cổ tức này phải được trả cho cổ đông ưu đãi trước khi công ty tuyên bố trả cổ tức cho các cổ đông thường. Quy định này nhằm bảo vệ lợi ích cho các cổ đông ưu đãi.

Không được hưởng quyền bỏ phiếu

Khác với cổ đông thường, các cổ đông ưu đãi thường không được hưởng quyền bỏ phiếu để bầu ra Hội đồng quản trị, cũng như khi thông qua các vấn đề quan trọng trong quản lý công ty.

Quỹ thanh toán

Một số công ty phát hành cổ phiếu ưu đãi có điều khoản lập quĩ thanh toán nhằm mỗi năm mua lại và giải phóng một số lượng cổ phiếu ưu đãi theo một tỷ lệ nhất định.

Thời hạn

Cổ phiếu ưu đãi nói chung không có thời hạn thanh toán vốn gốc. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, một số Công ty cổ phần ở các nước phát hành cổ phiếu ưu đãi với việc lập quỹ thanh toán, do vậy với loại cổ phiếu ưu đãi này có thời hạn thanh toán.

Như vậy có thể thấy rằng cổ phiếu ưu đãi ngày càng phát triển phong phú đa dạng. Tuy nhiên, nhìn nhận trên số lớn thì cổ phiếu ưu đãi thường được sử dụng là loại có lợi tức cố định, được ưu tiên nhận cổ tức và thanh toán khi giải thể công ty và không có quyền biểu quyết. Với các đặc trưng như vậy, cổ phiếu ưu đãi được coi là một loại chứng khoán lai ghép

61

giữa cổ phiếu thường và trái phiếu. Nói cách khác, cổ phiếu ưu đãi là một loại chứng khoán lưỡng tính, nó vừa mang một số đặc điểm của cổ phiếu thường, vừa có đặc trưng của trái phiếu.

Những đặc trưng của cổ phiếu ưu đãi giống cổ phiếu thường là:

  • Cùng thể hiện quyền sở hữu đối với công ty
  • Không có thời hạn thanh toán vốn gốc
  • Lợi tức cổ phần ưu đãi không được giảm trừ khi tính thuế thu nhập DN
  • Khi công ty gặp khó khăn trong kinh doanh, chỉ thu được ít lợi nhuận hoặc không thu được lợi nhuận thì có thể hoãn trả lợi tức cổ phần ưu đãi mà không bị đe dọa bởi nguy cơ phá sản

Những đặc trưng của cổ phiếu ưu đãi giống trái phiếu:

  • Lợi tức cổ phần ưu đãi được trả theo 1 mức cố định
  • Khi Công ty thu được lợi nhuận cao thì cổ đông ưu đãi không được tham dự vào việc phân chia lợi nhuận cao đó. Ngược lại nếu công ty kinh doanh sút kém thì công ty vẫn phải có trách nhiệm thanh toán lợi tức cho cổ đông ưu đãi, tuy nhiên Công ty có thể hoãn trả vào kỳ tiếp theo.
  • Về cơ bản cổ đông ưu đãi không có quyền biểu quyết.

Những điểm lợi

Thứ nhất, không bắt buộc phải trả tức cố định đúng hạn

Một lợi thế quan trọng của cổ phần ưu đãi đối với Công ty phát hành là ở chỗ mặc dù phải trả lợi tức cố định nhưng khác với trái phiếu , Công ty phát hành không nhất thiết phải trả đúng hạn hàng năm mà có thể hoãn trả sang kỳ sau. Điều này giúp cho công ty tránh khỏi nguy cơ phá sản khi hoạt động kinh doanh đang gặp khó khăn, công ty không có khả năng trả cổ tức đúng hạn.

Thứ hai, có khả năng làm tăng lợi tức cổ phần thường

Việc phát hành cổ phiếu ưu đãi có khả năng giúp cho các cổ đông thường thu được lợi tức cổ phần cao hơn khi Công ty có triển vọng thu được lợi nhuận cao trong hoạt động kinh doanh do cổ đông thường không phải chia sẻ lợi nhuận cao cho các cổ đông ưu đãi, đồng thời Công ty chỉ phải trả cho cổ đông ưu đãi một khoản cổ tức không thay đổi.

Thứ ba, giúp công ty tránh được việc chia sẻ quyền quản lý và quyền kiểm soát cho các cổ đông mới

Việc phát hành cổ phiếu ưu đãi mặc dù dẫn tới việc tăng thêm các cổ đông; tuy nhiên do các cổ đông ưu đãi không có quyền biểu quyết, vì vậy các cổ đông thường hiện tại của

62

công ty không bị chia sẻ quyền kiểm soát các hoạt động kinh doanh của công ty cho các cổ đông mới.

Thứ tư, không phải cầm cố, thế chấp tài sản cũng như lập quĩ thanh toán vốn gốc

Việc phát hành cổ phiếu ưu đãi không bắt buộc công ty phải thế chấp, cầm cố tài sản. Mặt khác, do cổ phiếu ưu đãi không có thời hạn hoàn trả và không bắt buộc phải lập quĩ thanh toán; do vậy việc sử dụng cổ phiếu ưu đãi có tính chất mềm dẻo và linh hoạt hơn trái phiếu.

Những điểm bất lợi

Lợi tức cổ phiếu ưu đãi cao hơn lợi tức trái phiếu

So với trái phiếu, lợi tức của cổ phiếu ưu đãi thường cao hơn, do mức độ rủi ro đối với người đầu tư vào cổ phiếu ưu đãi cao hơn so với người đầu tư trái phiếu.

Lợi tức cổ phiếu đãi không được trừ vào thu nhập chịu thuế của công ty

Giống như đối với cổ phiếu thường, lợi tức cổ phiếu ưu đãi cũng không được trừ vào thu nhập chịu thuế của công ty. Điều này làm cho chi phí sử dụng cổ phiếu ưu đãi cao hơn so với chi phí sử dụng trái phiếu. Chính vì thế, các công ty rất hạn chế sử dụng cổ phiếu ưu đãi trong việc tài trợ nhu cầu tăng vốn.

Trên đay là những điểm lợi và bất lợi khi sử dụng cổ phiếu ưu đãi để đáp ứng nhu cầu tăng vốn. Những điểm này đòi hỏi các công ty cần phải cân nhắc kỹ khi đi đến quyết định sử dụng cổ phiếu ưu đãi. Do tính chất lưỡng tính của cổ phiếu ưu đãi nên nhìn chunng việc sử dụng cổ phiếu ưu đãi để tăng vốn tỏ ra thích hợp hơn trong tình thế của công ty cho thấy sử dụng cổ phiếu thường hoặc sử dụng trái phiếu đều đưa lại những điểm bất lợi đối với công ty. Tình thế đó thường là khi công ty có khả năng mở rộng hoạt động kinh doanh đạt được tỷ suất lợi nhuận vốn ở mức cao nhưng công ty đã có hệ số nợ quá cao, đồng thời công ty rất coi trọng việc giữ nguyên quyền kiểm soát công ty.

      1. Vay ngân hàng thương mại các tổ chức tài chính tín dụng khác

Để thực hiện các dự án đầu tư trường hợp đã huy động hết các nguồn vốn bên trong doanh nghiệp mà vẫn không đủ đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư thì các doanh nghiệp buộc phải tìm kiếm các nguồn tài trợ từ bên ngoài. Trong điều kiện kinh tế thị trường, các doanh nghiệp có thể xem xét việc huy động các nguồn vốn bên ngoài như phát hành thêm cổ phiếu để huy động thêm vốn góp cổ phần (đối với công ty cổ phần), hoặc kết nạp thêm thành viên mới để tăng vốn chủ sở hữu (đối với công ty trách nhiệm hữu hạn), hoặc huy động góp vốn liên doanh v..v. Tuy vậy, việc phát hành thêm cổ phiếu, kết nạp thêm thành viên góp vốn và huy động góp vốn liên doanh đều dẫn tới sự chia sẻ quyền quản lý và kiểm soát doanh nghiệp của các chủ sở hữu hiện tại. Trường hợp các chủ sở hữu doanh nghiệp không chấp nhận việc chia sẻ quyền quản lý và kiểm soát doanh nghiệp cho các thành viên mới, họ có thể sử dụng một kênh huy động khác thông qua vay dài hạn.

63

Vay dài hạn là một thỏa ước tín dụng dưới dạng giữa người vay và người cho vay (thường là các ngân hàng thương mại, công ty tài chính...) theo đó người vay có nghĩa vụ hoàn trả tiền vay theo lịch trình đã định. Thông thường người ta qui định các khoản vay có kỳ hạn từ một năm trở lên được tính là vay dài hạn. Lợi thế của vay dài hạn so với các hình thức tài trợ dài hạn khác là chi phí tài trợ thấp và tính linh hoạt cao hơn. Khi vay tiền người vay thường thương lượng trực tiếp với nhà tài trợ do đó chỉ phải chịu một khoản chi phí nhỏ cho các thủ tục tài trợ.

Vay dài hạn thường được trả vào những thời hạn định kỳ với những khoản tiền bằng nhau. Đó là sự hoàn trả dần khoản tiền vay bao gồm cả vốn gốc và lãi trong suốt thời gian diễn ra giao dịch. Tuy nhiên, giao dịch vay mượn này cũng rất linh hoạt người cho vay có thể thiết lập lịch trả nợ phù hợp với dòng tiền thu nhập của người vay.

Lãi suất của những khoản vay dài hạn có thể là lãi suất cố định hoặc lãi suất thả nổi tùy theo sự thương lượng giữa hai bên. Lãi suất cố định được áp dụng dựa trên cơ sở mức độ rủi ro và và thời lượng thời gian đáo hạn và chúng được đặt ở mức cao hơn so với lãi suất của những trái phiếu công ty có mức độ rủi ro và thời gian đáo hạn tương tự. Lãi suất thả nổi được thiết lập dựa trên phần lãi suất cơ bản ổn định cộng với một tỷ lệ phần trăm nào đó tùy thuộc vào mức độ rủi ro có liên quan của giao dịch đó tại thời điểm trả lãi.

Có nhiều hình thức vay dài hạn như: vay dài hạn của ngân hàng và các tổ chức tài chính – tín dụng, vay thông qua phát hành trái phiếu, thuê tài chính v..v. Trong đó vay ngân hàng là một trong những nguồn vốn quan trọng nhất, không những đối với sự phát triển của các doanh nghiệp mà còn đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Không một doanh nghiệp hay một công ty nào có thể hoạt động mà không vay vốn của ngân hàng. Đối với Việt Nam, trước năm 2000 do chưa có thị trường vốn nên các doanh nghiệp chủ yếu dựa vào ngân hàng thương mại để huy động vốn vay dài hạn. Trong quá trình hoạt động các doanh nghiệp thường vay dài hạn ngân hàng để đảm bảo nguồn tài chính cho các dự án đầu tư mới, mở rộng hoặc đầu tư chiều sâu của doanh nghiệp. Thông thường các khoản vay từ 3 năm trở lên (có nơi tính từ 5 năm) được coi là vay dài hạn; còn các khoản vay từ 1 đên 3 năm được coi là vay trung hạn. Tuy nhiên, tiêu chuẩn về mặt thời gian để phân biệt vay trung và dài hạn có sự khác nhau giữa các nước và các ngân hàng. Theo tính chất và mục đích sử dụng tiền vay, có thể phân chia vay dài hạn ngân hàng thành các loại: vay đầu tư tài sản cố định. vay hình thành vốn lưu động thường xuyên.

Nguồn vốn tín dụng ngân hàng có nhiều ưu điểm nhưng nguồn vốn này cũng có những hạn chế nhất định. Đó là, các hạn chế về điều kiện tín dụng, sự kiểm soát của ngân hàng đối với việc huy động và sử dụng tiền vay và chi phí sử dụng vốn (lãi suất). Ngoài ra các ngân hàng thương mại thường đặt trọng tâm vào thị trường tín dụng ngắn hạn, vì vậy việc huy động nguồn vốn vay dài hạn của doanh nghiệp từ các ngân hàng thương mại chỉ có giới hạn nhất định.

64

Bên cạnh việc huy động vốn tín dụng dài hạn từ các ngân hàng thương mại, trong những trường hợp nhất định, các doanh nghiệp có thể huy động vốn vay trung và dài hạn từ các tổ chức tài chính, công ty bảo hiểm, quỹ hỗ trợ phát triển,v..v. Tuy nhiên do sự hạn chế về vốn điều lệ hoặc sự giới hạn của luật pháp về phạm vi huy động vốn; vì vậy, quy mô nguồn vốn tín dụng có thể huy động từ các tổ chức tín tài chính dụng này có nhiều hạn chế. Trong điều kiện đó, các doanh nghiệp có thể tính tới khả năng huy động vốn vay dài hạn khác trên thị trường thông qua phát hành trái phiếu doanh nghiệp (hay trái phiếu công ty) hoặc sử dụng thuê tài chính.

Phát hành trái phiếu doanh nghiệp

Trái phiếu doanh nghiệp là chứng chỉ vay vốn do doanh nghiệp phát hành thể hiện nghĩa vụ và sự cam kết của doanh nghiệp thanh toán số lợi tức và tiền vay vào những thời hạn xác định cho người nắm giữ trái phiếu. Doanh nghiệp là người phát hành với tư cách là người đi vay. Người mua trái phiếu là người cho vay còn gọi là trái chủ

Xét trên góc độ của doanh nghiệp có thể thấy rằng cổ phiếu và trái phiếu đều là chứng khoán có giá và đều là công cụ mà doanh nghiệp có thể sử dụng để huy động vốn qua thị trường. Tuy vậy, cổ phiếu và trái phiếu có những điểm khác nhau cơ bản sau:

Cổ phiếu là loại chứng khoán vốn, việc phát hành cổ phiếu làm tăng vốn chủ sở hữu; còn trái phiếu là chứng khoán nợ, việc phát hành trái phiếu để huy động vốn trung và dài hạn.

Cổ phiếu không có kỳ hạn thanh toán, người mua cổ phiếu không được trực tiếp rút vốn ra khỏi công ty mà chỉ có thể rút vốn một cách gián tiếp thông qua việc chuyển nhượng cổ phiếu cho người khác. Trái phiếu luôn có kỳ hạn thanh toán và được xác định trước.

Lợi tức trái phiếu được xác định trước không phụ thuộc vào kết quả hoạt động của công ty. Trong khi đó, lợi tức cổ phần thường phụ thuộc vào kết quả hoạt động của công ty. Khi công ty bị thanh lý giải thể, người mua trái phiếu được ưu tiên thanh toán trước người nắm giữ cổ phiếu.

Người mua cổ phiếu là cổ đông của công ty, tức là người chủ sở hữu của công ty, có quyền quản lý công ty và phải gánh chịu những rủi ro của công ty. Còn người mua trái phiếu là người cho công ty vay, họ không có quyền tham gia vào việc quản lý công ty và nói chung không phải chịu rủi ro của công ty.

Ở Việt Nam theo qui định hiện hành chỉ có các loại hình doanh nghiệp như công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn mới có quyền phát hành trái phiếu doanh nghiệp để huy động vốn vay. Các doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh không được phép phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào để huy động vốn qua thị trường.

Các loại trái phiếu

Dựa vào hình thức trái phiếu có thể phân biệt trái phiếu ghi danh và trái phiếu hữu

danh

65

Dựa vào lợi tức trái phiếu có thể phân biệt trái phiếu có lãi suất cố định và trái phiếu có lãi suất biến đổi

Dựa vào mức độ đảm bảo thanh toán có thể phân biệt trái phiếu bảo đảm và trái phiếu không bảo đảm

Dựa vào tính chất của trái phiếu có thể phân biệt trái phiếu thông thường, trái phiếu có thể chuyển đổi và trái phiếu có quyền mua cổ phiếu

Dựa vào mức độ rủi ro tín dụng của trái phiếu có thể chia trái phiếu của doanh nghiệp thành các loại khác nhau thông qua việc đánh giá hệ số tín nhiệm

Dựa vào thời hạn của trái phiếu có thể chia ra trái phiếu dài hạn và trái phiếu ngắn hạn

Giá cả của trái phiếu

Trái tức là số tiền lãi nhận được trong kỳ đầu tư

Tổng vốn cần huy động đợt phát hành

Mệnh giá 1 trái phiếu =

Tổng số trái phiếu cần phát hành

Lãi suất của trái phiếu là tỷ lệ % giữa trái tức và số vốn bỏ ra mua trái phiếu đó

+ Lãi suất danh nghĩa là tỷ lệ % giữa trái tức với mệnh giá trái phiếu

+ Lãi suất hiện hành là tỷ lệ % giữa trái tức so với thị giá trái phiếu

+ Lãi suất đáo hạn là lãi suất được tính từ khi mua theo giá thị trường hôm nay và được giữ tới ngày đáo hạn (hết hạn thanh toán)

Thị giá = mệnh giá: ngang giá (trả lãi sau)

Nếu mua với giá chiết khấu: (giá < mệnh giá)Trả lãi trước

(MG x i) +

Lãi suất đáo hạn = x 100

Nếu mua với giá tăng trưởng:(giá >mệnh giá) Lãi suất khi bán cao

(MG x i) –

Lãi suất đáo hạn = x 100

Trong đó: TG: thị giá; MG: Mệnh giá; N: Số năm; i: Lãi suất

Trong nền kinh tế thị trường trái phiếu là công cụ rất quan trọng cho phép doanh nghiệp chủ động huy động vốn vay qua thị trường. Xét trên góc độ của doanh nghiệp, việc phát hành trái phiếu để đáp ứng nhu cầu tăng vốn đầu tư dài hạn có những điểm lợi cơ bản sau

Những điểm lợi cơ bản khi phát hành trái phiếu:

66

Một là, lợi tức trái phiếu được trừ vào thu nhập chịu thuế khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp

Ở hầu hết các nước , lợi tức trái phiếu được xem như một khoản chi phí được trừ vào thu nhập chịu thuế khi xác định thuế thu nhập doanh nghiệp, điều này có lợi cho doanh nghiệp do giảm bớt số thuế phải nộp vào Nhà nước (tiết kiệm tiền thuế), tăng thu nhập của các chủ sở hữu.

Hai là, lợi tức trái phiếu được giới hạn mức độ nhất định

Lợi tức trái phiếu thường được xác định trước và thường thấp hơn lợi tức cổ phiếu ưu đãi. Nếu doanh nghiệp có triển vọng tốt trong kinh doanh, có khả năng thu lợi nhuận thì việc sử dụng trái phiếu để huy động thêm vốn vay sẽ nâng cao tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu mà không phải chia sẻ quyền phân chia thu nhập cao cho các trái chủ

Ba là, chi phí phát hành trái phiếu thấp hơn so cổ phiếu thường cổ phiếu ưu đãi

Trái phiếu hấp dẫn công chúng ở mức rủi ro thấp hơn cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi; vì vậy, chi phí cho việc tuyên truyền quảng cáo, phát hành và bán trái phiếu là thấp hơn.

Bốn là, chủ sở hữu doanh nghiệp không bị chia sẻ quyền quản kiểm soát doanh nghiệp cho các trái chủ

Trái chủ là chủ nợ của doanh nghiệp, trái chủ không có quyền biểu quyết. Do vậy, việc phát hành trái phiếu để huy động tăng vốn không ảnh hưởng gì tới quyền quản lý và kiểm soát doanh nghiệp của các chủ sở hữu doanh nghiệp hiện hành.

Năm là, giúp doanh nghiệp chủ động điều chỉnh cấu vốn một cách linh hoạt

Khi doanh nghiệp làm ăn thành đạt, khả năng thu lợi nhuận là chắc chắn có thể tăng huy động vốn vay nhằm mở rộng thị trường và tăng tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu. Ngược lại, khi thị trường biến động theo hướng bất lợi, để thu hẹp quy mô kinh doanh, doanh nghiệp có thể chủ động giảm vốn bằng cách mua lại trái phiếu trước thời hạn (nếu doanh nghiệp phát hành loại trái phiếu có thể mua lại). Vì vậy, trái phiếu được doanh nghiệp sử dụng một cách linh hoạt trong việc điều chỉnh cơ cấu vốn kinh doanh đảm bảo sử dụng vốn tiết kiệm và hiệu quả

Những điểm bất lợi khi phát hành trái phiếu

Thứ nhất, buộc phải trả lợi tức cố định đúng hạn

Sử dụng trái phiếu buộc doanh nghiệp phải có nghĩa vụ trả lợi tức cố định và đúng kỳ hạn cho các trái chủ. Điều này có thể gây căng thẳng về mặt tài chính và dễ dẫn tới nguy cơ rủi ro trong trường hợp doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp không ổn định, doanh nghiệp không có đủ nguồn tài chính để trang trải lợi tức trái phiếu.

Làm tăng hệ số nợ của DN

67

Thứ hai, làm tăng hệ số nợ của doanh nghiệp

Phát hành trái phiếu chính là huy động thêm vốn vay qua thị trường. Do vậy việc tăng vốn bằng cách phát hành trái phiếu sẽ làm tăng hệ số nợ và mức độ sử dụng đòn bẩy tài chính của doanh nghiệp. Điều này một mặt có thể nâng cao thu nhập của chủ sở hữu khi doanh nghiệp làm ăn có lãi; mặt khác, cũng làm tăng nguy cơ rủi ro, đe dọa sự tồn tại của doanh nghiệp trong trường hợp doanh nghiệp không đảm bảo khả năng thanh toán các khoản nợ đúng hạn.

Thứ ba, phải trả nợ gốc đúng kỳ hạn

Phát hành trái phiếu là sử dụng nợ vay có kỳ hạn hoàn trả, do vậy doanh nghiệp buộc phải lo việc hoàn trả tiền vay đúng kỳ hạn. Nếu một doanh nghiệp có doanh thu và lợi nhuận dao động thất thường, việc sử dụng trái phiếu để tài trợ tăng vốn dài hạn dễ đưa doanh nghiệp tới nguy cơ mất khả năng thanh toán, tăng nguy cơ bị phá sản.

Thứ tư, sử dụng trái phiếu dài hạn việc sử dụng nợ trong thời gian dài

Tác động của việc sử dụng nợ dưới hình thức trái phiếu tới doanh nghiệp mang tính hai mặt: Một mặt, nó đóng vai trò đòn bẩy thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp; mặt khác, nó lại trở thành nguy cơ đe dọa sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Việc sử dụng trái phiếu có thể giúp doanh nghiệp tăng vốn thực hiện các dự án đầu tư mở rộng kinh doanh, nhưng nếu việc đầu tư của doanh nghiệp không đúng hướng hoặc trong bối cảnh của thị trường có sự biến động theo hướng bất lợi cho doanh nghiệp như: Giá trị tiền tệ tăng lên, sự phát triển của khoa học kỹ thuật... thì việc phải hoàn trả lợi tức và một số nợ lớn trở thành gánh nặng đối với doanh nghiệp.

Thứ năm, việc sử dụng trái phiếu để tài trợ nhu cầu tăng vốn của doanh nghiệp cũng giới hạn nhất định

Các doanh nghiệp không thể để hệ số nợ vượt quá xa mức thông thường của doanh nghiệp trong cùng ngành kinh doanh (hệ số nợ trung bình của ngành) – đó là giới hạn an toàn về mặt tài chính mà các doanh nghiệp cần phải quan tâm trong tổ chức nguồn vốn của mình. Do đó, hệ số chính là yếu tố đặt giới hạn cho khả năng vay nợ nói chung, cũng như việc sử dụng trái phiếu nói riêng của doanh nghiệp.

Vì vậy, để đi đến quyết định phát hành trái phiếu đáp ứng nhu cầu tăng vốn cần cân nhắc nhiều nhân tố, trong đó cần chú ý các nhân tố chủ yếu sau:

Một là, mức độ ổn định của doanh thu lợi nhuận trong tương lai

Nếu doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp tương đối ổn định hoặc mức tăng lên trong tương lai được đánh giá là tương đối chắc chắn thì việc sử dụng trái phiếu trong kinh doanh là hợp lý và có cơ sở. Trong điều kiện đó, doanh nghiệp nên phát hành trái phiếu; bởi vì mặc dù doanh nghiệp phải trả lợi tức tiền vay cố định nhưng doanh nghiệp có thể mở rộng

68

kinh doanh, tăng doanh thu và vừa tăng được tổng lợi nhuận, vừa tăng được tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu.

Hai là, hệ số nợ hiện tại của doanh nghiệp

Nếu hệ số nợ hiện tại của doanh nghiệp còn ở mức thấp thì việc sử dụng trái phiếu là phù hợp. Nếu hệ số nợ của doanh nghiệp đã ở mức khá cao thì cần phân tích, đánh giá một cách thận trọng tác động của việc sử dụng nợ trái phiếu đến hiệu quả kinh doanh và giá trị của doanh nghiệp trước khi đi đến quyết định sử dụng trái phiếu để tăng vốn kinh doanh.

Ba là, sự biến động của lãi suất thị trường trong tương lai

Nếu lãi suất thị trường có xu hướng gia tăng trong tương lai thì việc sử dụng trái phiếu để tăng vốn sẽ có lợi cho doanh nghiệp do giá trị thực của số lợi tức và tiền vay doanh nghiệp phải hoàn trả sẽ thấp hơn so với dự tính tại thời điểm phát hành.

Bốn là, yêu cầu giữ nguyên quyền kiểm soát doanh nghiệp của các chủ sở hữu hiện tại

Nếu các chủ sở hữu doanh nghiệp hiện tại đặt ra yêu cầu trong tương lai cần giữu nguyên quyền kiểm soát doanh nghiệp thì việc sử dụng trái phiếu là cần thiết.

Trên đây là các nhân tố chủ yếu cần được cân nhắc, xem xét kỹ lưỡng từng nhân tố đồng thời phải xem xét tổng quan đến bối cảnh thị trường và bối cảnh của doanh nghiệp. Việc đưa ra quyết định đúng đắn hay sai lầm tùy thuộc vào năng lực phân tích, đánh giá và dự đoán của người quản lý doanh nghiệp.

Thuê tài chính

Thuê tài chính còn gọi là thuê vốn là phương thức tài trợ tín dụng trung và dài hạn không thể hủy ngang. Theo phương thức này, người cho thuê thường mua tài sản, thiết bị theo yêu cầu của người thuê và nắm giữ quyền sở hữu đôi với tài sản cho thuê. Người thuê sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn đã thỏa thuận và không được hủy bỏ hợp đồng trước thời hạn. Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được chuyển quyền sở hữu, mua lại hoặc tiếp tục thuê tài sản đó tùy theo các điều kiện đã thỏa thuận trong hợp đồng thuê.

Trên góc độ doanh nghiệp, người quản lý cần nhận biết các phuuwong thức thuê tài sản để tận dụng các ưu thế của phương thức thuê phù hợp với tình hình của doanh nghiệp cũng như để có biện pháp quản lý phù hợp, thích ứng với đặc điểm và qui định của Nhà nước đối với mỗi hình thức thuê.

Ủy ban tiêu chuẩn quốc tế (IASC) đã đưa ra 4 tiêu chuẩn để phân loại và nhận biết các hợp đồng thuê tài sản:

+ Quyền sở hữu tài sản thuê có được chuyển giao cho người thuê khi kết thúc hợp đồng không? nếu có thì đó là giao dịch thuê tài chính

\69

+ Hợp đồng có qui định quyền chọn mua tài sản khi kết thúc hợp đồng với giá thấp hơn giá trị tài sản thuê tại thời điểm vào lúc kết thúc hợp đồng không? nếu có là giao dịch thuê tài chính

+ Thời gian của hợp đồng thuê có chiếm phần lớn thời gian hữu dụng của tài sản? Nếu thỏa mãn thì giao dịch thuộc về thuê tài chính

+ Giá trị hiện tại của toàn bộ tiền thuê tối thiểu do người thuê trả nếu có bằng hoặc lớn hơn giá trị thị trường của tài sản ở thời điểm ký kết hợp đồng? Nếu có là giao dịch thuê tài chính

Tất cả các giao dịch thuê tài sản nếu thỏa mãn 1 trong 4 tiêu chuẩn này đều thuộc phương thức thuê tài chính

Trên cơ sở các tiêu chuẩn phân loại của IASC, mỗi quốc gia đều có qui định cụ thể về tiêu chuẩn nhận biết thuê tài chính phù hợp với điều kiện cụ thể của nước mình. Ở Việt Nam ngày 9/10/1995 Chính Phủ ban hành nghị định 64/1995 NĐ – CP về qui chế tạm thời về tổ chức hoạt động của công ty cho thuê tài chính. Ngày 2/5/2001 Chính Phủ ban hành nghị định 16/2001/NĐ-CP về tổ chức hoạt động của công ty cho thuê tài chính thay thế nghị định 64.

Ngày 19/5/2005 Chính Phủ tiếp tục ban hành nghị định 65 về sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định 16. Theo các qui định hiện hành, một giao dịch cho thuê tài chính phải thỏa mãn một trong các điều kiện sau:

  • Khi kết thúc thời hạn cho thuê hợp đồng, bên thuê được chuyển quyền sở hữu tài sản thuê hoặc được tiếp tục thuê theo sự thỏa thuận của hai bên.
  • Nội dung hợp đồng thuế có qui định: Khi kết thúc thời hạn thuê bên thuê được quyền lựa chọn mua tài sản thuê theo giá danh nghĩa thấp hơn giá trị thực tế của tài sản thuê tại thời điểm mua lại
  • Thời hạn cho thuê tài sản tối thiểu phải chiếm phần lớn thời gian sử dụng kinh tế của tài sản đó cho dù không có sự chuyển giao quyền sở hữu
  • Tại thời điểm khởi đầu thuê tài sản, giá trị hiện tại của khoản thanh toán tiền thuê tối thiểu chiếm phần lớn (tương đương) giá trị hợp lý của tài sản thuê.

Sự khác biệt giữa thuê tài chính thuê vận hành

Thứ nhất, thời hạn thuê dài. Tùy theo qui định cụ thể của mỗi nước mà mức thời gian thuê tài sản tài chính là khác nhau; nhưng nói chung thời gian thuê thường chiếm phần lớn thời gian sử dụng kinh tế của tài sản. Ví dụ: Ở Mỹ qui định thời hạn thuê tối thiểu là 75% vòng đời của tài sản. Nhật Bản qui định đối với tài sản có thời gian sử dụng dưới 10 năm thì thời gian thuê tối thiểu là 70%, với tài sản có thời gian sử dụng trên 10 năm thì thời gian thuê thừ 60% thời gian hữu dụng của tài sản trở lên.

70

Ở Việt Nam theo nghị định 64/CP thì thời thuê qui định từ 60% trở lên, hiện nay theo nghị định 65/CP qui định thời gian thuê tài sản tối thiểu phải chiếm phần lớn thời gian sử dụng kinh tế của tài sản.

Thứ hai, người thuê chịu trách nhiệm bảo dưỡng, sửa chữa, bảo hành tài sản thuê trong thời gian thuê. Trong suốt thời gian diễn ra hoạt động thuê tài sản, quyền sở hữu tài sản vẫn thuộc về người cho thuê. Tuy nhiên, các chi phí bảo trì, vận hành, phí bảo hiểm, thuế tài sản và mọi rủi ro thường do người thuê chịu.

Thứ ba, người thuê không được hủy bỏ hợp đồng trước thời hạn (trừ trường hợp do lỗi của bên cho thuê)

Thứ tư, khi kết thúc thời hạn hợp đồng thuê, bên thuê được chuyển giao quyền sở hữu, mua lại hoặc tiếp tục thuê tài sản đó theo các thỏa thuận trong hợp đồng thuê

Thứ năm, tổng số tiền thuê người đi thuê phải trả cho thuê thường đủ đắp giá gốc của tài sản. Luật của Mỹ, Anh, Nhật Bản qui định: giá trị hiện tại của số tiền thuê tối thiểu bằng 90% giá trị ban đầu của tài sản thuê. Việt Nam qui định tại thời điểm khởi đầu thuê tài sản, giá trị hiện tại của khoản thanh toán tiền thuê tối thiểu chiếm phần lớn (tương đương) giá trị hợp lý của tài sản thuê. Giá trị hợp lý hoặc giá trị hiện tại của khoản thanh toán tiền thuê tối thiểu là giá chưa có thuế giá trị tăng (Kể cả trường hợp tài sản cố định thuê tài chính dùng vào hoạt động động sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng tính theo phương pháp khấu trừ thuế và trường hợp tài sản cố định thuê tài chính dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thuộc đối tượng không chịu thuế giá trị gia tăng hoặc chịu thuế giá trị gia tăng theo phương pháp trực tiếp).

Thông thường trong khoản tiền thuê mà người thuê trả cho người cho thuê theo định kỳ bao gồm tiền vốn gốc, tiền lãi tín dụng, chi phí quản lý và phần lợi nhuận hợp lý. Do vậy, nếu xét theo góc độ người thuê thì thuê tài chính là một hình thức vay trung hạn hoặc dài hạn; còn theo góc độ người cho thuê, thì đây là hình thức tài trợ tín dụng.

Những điểm lợi của thuê tài chính

Thứ nhất, thuê tài chính công cụ tài chính giúp doanh nghiệp tăng thêm vốn trung dài hạn để mở rộng hoạt động kinh doanh.

Sử dụng hình thức thuê tài chính giúp cho doanh nghiệp không phải huy động tập trung tức thời một lượng vốn lớn để mua tài sản; do vậy với số vốn hạn chế doanh nghiệp vẫn có khả năng mở rộng hoạt động kinh doanh. Mặt khác, việc sử dụng hình thức bán và tái thuê có thể giúp cho doanh nghiệp tăng thêm vốn lưu động.

Thứ hai, sử dụng phương thức thuê tài chính giúp doanh nghiệp (nhất các doanh nghiệp vừa nhỏ) dễ dàng trong việc huy động vốn sử dụng vốn vay.

Do đặc thù của thuê tài chính là người cho thuê không đòi hỏi người đi thuê là phải thế chấp tài sản (mặc dù có thể trả trước một tỷ lệ tiền thuê ban đầu). Đây là ưu thế rất lớn của

71

thuê tài chính so với tín dụng thông thường. Điều này có ý nghĩa rất lớn đối với các doanh nghiệp mới thành lập chưa có nhiều uy tín với ngân hàng trong việc huy động các nguồn vốn tín dụng đáp ứng nhu cầu mở rộng kinh doanh.

Thứ ba, giúp doanh nghiệp thực hiện nhanh chóng dự án đầu nắm bắt các thời trong kinh doanh

Trong phương thức thuê tài chính, người thuê có quyền chọn tài sản thiết bị và thỏa thuận trước hợp đồng thiết bị với nhà sản xuất hay người cung ứng, sau đó mới yêu cầu bên cho thuê (công ty cho thuê tài chính) tài trợ, vì vậy sẽ rút ngắn thời gian tiến hành đầu tư vào tài sản thiết bị. Mặt khác, các công ty cho thuê tài chính thường có mạng lưới tiếp thị, đại lý rộng rãi và có đội ngũ chuyên gia có trình độ chuyên sâu về thiết bị, công nghệ nên có thể tư vấn hữu ích cho bên đi thuê về kĩ thuật, công nghệ mà người thuê cần sử dụng, đảm bảo các tài sản thuê phát huy tác dụng cao nhất trong hoạt động kinh doanh.

Thứ tư, giúp doanh nghiệp đi thuê nhanh chóng đổi mới thiết bị công nghệ

Thông thường các tài sản cố định thuê tài chính có thời gian thu hồi vốn trong khoảng thời gian từ 60-70% thời gian sử dụng hữu ích của tài sản. Điều này tạo điều kiện để các doanh nghiệp đi thuê có thể thu hồi vốn nhanh, phục vụ kịp thời nhu cầu đổi mới máy móc thiết bị, nâng cao không ngừng hiệu quả và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp.

Thứ năm, giúp doanh nghiệp thể hoãn thuế thu nhập

Với việc doanh nghiệp được phép khấu hao nhanh đồng thời chi phí khấu hao được tính thẳng vào chi phí hoạt động kinh doanh làm giảm lợi nhuận trước thuế của doanh nghiệp, đồng thời thuế thu nhập trong thời hạn thuê sẽ giảm đi. Sau khi kết thúc thời gian thuê, bên cho thuê chuyển giao máy móc thiết bị với giá tượng trưng rất nhỏ, bên thuê vẫn tiếp tục sử dụng được tài sản trong một thời gian nữa trong khi không phải khấu hao hoặc khấu hao với tỷ lệ rất thấp, lúc này lợi nhuận doanh nghiệp tăng lên, thuế thu nhập nộp ngân sách nhà nước cũng tăng lên. Như vậy doanh nghiệp đã được lợi nhiều bởi được hoãn thuế thu nhập doanh nghiệp.

Thứ sáu, thuê tài chính khả năng thu hút nguồn vốn lớn từ bên ngoài thông qua việc vay vốn nhập khẩu máy móc thiết bị

Các doanh nghiệp khi muốn mua máy móc thiết bị của nước ngoài theo phương thức trả chậm thường phải đáp ững nhu cầu của nhà cung cấp là phải có một Ngân hàng uy tín đứng ra bảo lãnh. Đây là điều kiện không dễ thực hiện đối với doanh nghiệp. Tuy nhiên, nếu thông qua công ty cho thuê tài chính thì việc này được giải quyết một cách dễ dàng hơn. Ngoài ra việc thu hút nguồn vốn từ bên ngoài dưới hình thức mua máy móc thiết bị thông qua công ty cho thuê tài chính sẽ hạn chế được việc nhập các thiết bị lạc hậu, do có sự thẩm định của các chuyên gia trong công ty cho thuê tài chính.

72

Ngoài ra với việc xác định thời hạn thanh toán linh hoạt hơn so với các ngân hàng: Có thể trả theo từng tháng, hoặc theo mùa vụ phù hợp với chu chuyển tiền tệ của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp đỡ căng thẳng về mặt tài chính, yên tâm hơn trong việc tiến hành sản xuất kinh doanh.

Những điểm hạn chế của thuê tài chính

Thuê tài chính là một phương thức tài trợ tín dụng trung và dài hạn, vì vậy nó cũng bộc lộ hạn chế đó là doanh nghiệp đi thuê phải chịu chi phí sử dụng vốn ở mức tương đối cao so với tín dụng thông thường. Ngoài ra, do thời hạn thuê dài và không được phép hủy ngang hợp đồng, vì vậy bên thuê có thể gánh chịu nhiều rủi ro về tài chính (sự biến động của tỷ giá hối đoái, về lạm phát, về lãi suất...); bên cạnh đó là các rủi ro về tài sản (sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, sự kết thúc chu kỳ sống của sản phẩm), sự biến động của cơ chế chính sách của Nhà nước.

Lựa chọn mô hình nguồn tài trợ

  • hình 1: Toàn bộ tài sản cố định, tài sản lưu động thường xuyên và một phần tài sản lưu động tạm thời được hình thành bởi nguồn vốn thường xuyên, phần tài sản lưu động tạm thời còn lại được đảm bảo bằng nguồn vốn tạm thời.

Ưu điểm của việc tổ chức nguồn vốn theo mô hình này là đưa lại cho các doanh nghiệp khả năng thanh toán và độ an toàn ở mức cao. Nguồn vốn thường xuyên đảm bảo phần lớn nhu cầu vốn, tạo ra sự ổn định cho doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh, tạo điều kiện cho doanh nghiệp thực hiện tốt nguyên tắc giữ chữ tín trong các quan hệ thanh toán.

Tuy nhiên nhược điểm của việc sử dụng mô hình này là ngoài nguồn vốn chủ sở hữu, doanh nghiệp phải huy động thêm nhiều vốn vay dài hạn và ngay cả khi không có nhu cầu về tài sản lưu động tạm thời cũng phải hoàn thành một lượng nguồn vốn thường xuyên nên chi phí sử dụng vốn sẽ cao.

  • hình 2: Toàn bộ tài sản cố định và tài sản lưu động thường xuyên được đảm bảo bằng nguồn vốn thường xuyên, toàn bộ tài sản lưu động tạm thời được đảm bảo bằng nguồn vốn tạm thời.

Ưu điểm của cách tổ chức nguồn vốn này làm giảm bớt được chi phí sử dụng vốn và hạn chế được rủi ro trong thanh toán. Nhưng nhược điểm lớn của việc sử dụng mô hình này là không tạo ra sự linh hoạt trong việc tổ chức cơ cấu nguồn vốn của doanh nghiệp. Trong thực tế kinh doanh, doanh thu tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp thường xuyên biến động, khi gặp những khó khăn nhất định doanh nghiệp tạm thời pphải giảm bớt quy mô kinh doanh, trong đó vẫn phải duy trì một lượng vốn thường xuyên khá lớn, do vậy mô hình này ít được sử dụng. Mô hình này chỉ nên áp dụng khi doanh nghiệp có quy mô kinh doanh tương đối ổn định.

73

  • hình 3: Toàn bộ tài sản cố định và một phần tài sản lưu động thường xuyên được đảm bảo bằng nguồn vốn thường xuyên, phần còn lại của tài sản lưu động thường xuyên và toàn bộ tài sản lưu động tạm thời được đảm bảo bằng nguồn vốn tạm thời.

Ưu điểm lớn của mô hình này là chi phí sử dụng vốn thấp hơn cả so với hai mô hình trên và việc tổ chức cơ cấu nguồn vốn cũng khá linh hoạt. Song nếu sử dụng mô hình doanh nghiệp dễ gặp rủi ro hơn so với việc sử dụng hai mô hình trên.

Thông thường, các doanh nghiệp không chỉ theo một mô hình mà tuỳ tình hình cụ thể bên trong và bên ngoài doanh nghiệp trong thời kỳ để có thể điều chỉnh một cách thích hợp.

Trong cả ba mô hình tài trợ vốn nêu trên, doanh nghiệp đều phải sử dụng nguồn vốn tạm thời để đáp ứng một phần hoặc toàn bộ nhu cầu về vốn lưu động.

Nguồn vốn này bao gồm các khoản vay ngắn hạn ngân hàng và các tổ chức tín dụng, các khoản nợ người cung cấp, nợ tiền lương và bảo hiểm xã hội người lao động, các khoản nợ thuế, lệ phí đối với ngân sách nhà nước và các khoản nợ phải trả khác có tính chất ngắn hạn…

Việc sử dụng các khoản tín dụng ngắn hạn trong nguồn vốn tạm thời để đảm bảo nhu cầu về vốn lưu động có những điểm lợi và bất lợi sau đây:

  • Điểm lợi của việc sử dụng tín dụng ngắn hạn:

+ Chi phí sử dụng tín dụng ngắn hạn thấp hơn so với việc sử dụng tín dụng dài hạn.

+ Việc sử dụng tín dụng ngắn hạn có thể giúp doanh nghiệp linh hoạt hơn trong việc tổ chức nguồn vốn và thôgn thường được thực hiện dễ dàng, thuận lợi so với sử dụng tín dụng dài hạn.

  • Điểm bất lợi của việc sử dụng tín dụng ngắn hạn:

+ Lãi suất ngắn hạn thay đổi nhiều hơn lãi xuất dài hạn nên doanh nghiệp thường phải chịu rủi ro về lãi suất cao hơn.

+ Nếu sử dụng tín dụng ngắn hạn đòi hỏi doanh nghiệp phải trả nợ trong thời igan ngắn, hoặc nếu dùng nợ ngắn hạn để đảm bảo hco nhu cầu đầu tư dài hạn sẽ tạo thêm rủi ro cho doanh nghiệp, dễ làm cho doanh nghiệp rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán khi tình hình kinh doanh gặp khó khăn.

74

Chương 5 : CHI PHÍ SỬ DỤNG VỐN HỆ THỐNG ĐÒN BẨY

Chi phí sử dụng vốn của doanh nghiệp

      1. Khái niệm, đặc điểm của chi phí sử dụng vốn
        1. Khái niệm

Để đáp ứng nhu cầu vốn cho đầu tư và hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp có thể huy động sử dụng nhiều nguồn vốn hay nói khác đi là nhiều nguồn tài trợ khác nhau như vay vốn, phát hành cổ phiếu ưu đãi, cổ phiếu thường (đối với công ty cổ phần)... Đối với nhà đầu tư, khi cho doanh nghiệp sử dụng vốn người ta sẽ mất cơ hội sử dụng số vốn này vào các cơ hội đầu tư khác, điều đó cũng đồng nghĩa là mất đi một khoản thu nhập mà nhà đầu tư có thể nhận được từ cơ hội khác đó. Khi đó, Nhà đầu tư sẽ đòi hỏi một mức sinh lời khi đầu tư vốn cho doanh nghiệp. Nhìn từ góc độ doanh nghiệp là người sử dụng vốn, tỷ suất sinh lời đòi hỏi của nhà đầu tư chính là chi phí sử dụng vốn.

Chi phí sử dụng vốn là tỷ suất sinh lời đòi hỏi của nhà đầu tư đối với số vốn mà doanh nghiệp huy động cho một dự án đầu tư hay một kế hoạch kinh doanh nhất định.

Về bản chất, chi phí sử dụng vốn chính là chi phí cơ hội của nhà đầu tư vốn.

        1. Đặc điểm của chi phí sử dụng vốn
          • Thứ nhất: Chi phí sử dụng vốn dựa trên các quy luật của thị trường. Trong nền kinh tế thị trường, vốn là một loại hàng hóa và được mua bán trên thị trường. Nếu như doanh nghiệp sử dụng vốn mà không tạo ra được mức sinh lời như đòi hỏi của thị trường, thì các nhà đầu tư sẽ không đầu tư vốn vào doanh nghiệp. Nói cách khác, chi phí sử dụng vốn không phải do chủ quan của doanh nghiệp quyết định mà nó được hình thành trên cơ sở các quy luật của thị trường.
          • Thứ hai: Chi phí sử dụng vốn được xem xét trên cở sở mức độ rủi ro của một dự án đầu tư cụ thể. Thông thường, khi dự án đầu tư có rủi ro cao, thì tỷ suất sinh lời đòi hỏi của nhà đầu tư càng cao do đó chi phí sử dụng vố sẽ cao và ngược lại.
          • Thứ ba: Chi phí sử dụng vốn thường được phản ánh bằng tỷ lệ %. Điều này để đảm bảo tính so sánh được của chi phí sử dụng vốn giữa các dự án, giữa các doanh nghiệp, giữa chi phí và mức sinh lời của dự án để ra quyết định tài chính.
          • Thứ tư: Chi phí sử dụng vốn phản ánh mức lãi suất danh nghĩa mà nhà đầu tư đòi hỏi đối với số vốn khi họ đầu tư vào doanh nghiệp dưới dạng cho doanh nghiệp vay vốn hay góp

75

vốn. Điều này có nghĩa là chi phí sử dụng vốn đã bao hàm cả mức bù lạm phát và mức lãi suất thực mà nhà đầu tư đòi hỏi.

          • Thứ năm: Chi phí sử dụng vốn phản ánh mức sinh lời đòi hỏi của nhà đầu tư ở hiện tại chứ không phải dựa trên đòi hỏi của nhà đầu tư trong quá khứ. Vì việc ước tính chi phí sử dụng vốn để đưa ra các quyết định tài chính trong tương lai, do đó không cần ước lượng chi phí sử dụng vốn cho những đồng vốn đã huy động trong quá khứ.
        1. Tác dụng của việc xác định chi phí sử dụng vốn

Việc xem xét và ước lượng chi phí sử dụng vốn là vấn đề rất quan trọng đối với các nhà quản trị tài chính doanh nghiệp. Chi phí sử dụng vốn được sử dụng chủ yếu để ra quyết định liên quan đến việc huy động thêm vốn mới cho dự án đầu tư. Vì vậy, chúng ta phải nghiên cứu chi phí cận biên cho số vốn mới (thực chất là chi phí sử dụng vốn bình quân cho một đồng vốn mới tăng thêm) để lựa chọn quy mô vốn huy động tối ưu. Ngoài ra, xem xét chi phí sử dụng vốn tạo ra tầm nhìn cho nhà quản lý khi cân nhắc lựa chọn chiến lược huy động vốn dài hạn của doanh nghiệp. Do đó, khi ước lượng chi phí sử dụng vốn, người ta thường chỉ xem xét đến những nguồn tài trợ dài hạn.

Lý luận và thực tiễn đã chứng minh các khó khăn trong ước lượng chi phí sử dụng vốn, bởi lẽ nó phụ thuộc vào khá nhiều yếu tố: tính mạo hiểm của việc sử dụng vốn, lãi suất của các khoản nợ phải trả, cấu trúc tài chính của doanh nghiệp, chính sách phân phối lợi nhuận... Vì vậy, khi ước lượng chi phí sử dụng vốn cần có một tầm nhìn và phải lượng hoá chi phí bình quân của tất cả các nguồn tài trợ.

      1. Các nhân tố ảnh hưởng đến chi phí sử dụng vốn

Có nhiều nhân tố khác nhau ảnh hưởng đến chi phí sử dụng vốn của doanh nghiệp.

  • Nhóm nhân tố khách quan:
  • Lãi suất thị trường: Khi lãi suất thị trường ở mức cao thì tỷ suất sinh lời đòi hỏi của các nhà đầu tư cũng cao, do đó chi phí sử dụng vốn của doanh nghiệp cũng cao và ngược lại.
  • Chính sách thuế thu nhập: Do lãi vay được tính vào chi phí làm giảm trừ khoản thu nhập chịu thuế, dẫn đến giảm số thuế thu nhập mà doanh nghiệp phải nộp. Vì vậy, lãi vay đưa lại khoản lợi về thuế, nếu thuế suất cao khoản lợi về thuế lớn làm giảm chi phí sử dụng vốn vay và ngược lại.
  • Nhóm nhân tố chủ quan
  • Chính sách đầu tư: Nếu công ty thực hiện chính sách đầu tư vào những tài sản có mức độ rủi ro cao thì tỷ suất sinh lời đòi hỏi của các nhà đầu tư cũng cao và ngược lại. Do đó, cũng làm cho chi phí sử dụng vốn thay đổi.
  • Chính sách tài trợ: Khi doanh nghiệp huy động vốn vay nhiều sẽ làm tăng rủi ro tài chính đối với khoản vốn của các nhà đầu tư, điều đó kéo theo sự gia tăng chi phí sử dụng vốn của doanh nghiệp.

76

  • Chính sách cổ tức: Chính sách cổ tức của công ty quyết định quy mô lợi nhuận tái đầu tư nhiều hay ít. Nếu tái đầu tư nhiều, doanh nghiệp hạn chế phải huy động vốn từ bên ngoài có chi phí sử dụng vốn cao hơn.
      1. Chi phí sử dụng vốn của từng nguồn vốn

Mỗi nguồn vốn mà doanh nghiệp sử dụng có đặc điểm khác nhau và chi phí khác nhau. Sau đây sẽ xem xét chi phí sử dụng vốn của từng nguồn vốn riêng biệt.

        1. Chi phí sử dụng vốn vay

Một trong ưu thế của việc sử dung vốn vay so với các nguồn tài trợ bên ngoài khác là tiền lãi vay phải trả được trừ ra trước khi tính thuế thu nhập. Do đó, khi xác định chi phí sử dụng vốn vay phải chia ra 2 trường hợp là chi phí sử dụng vốn vay trước thuế và chi phí sử dụng vốn vay sau thuế.

  • Chi phí sử dụng vốn vay trước thuế

Chi phí sử dụng vốn vay trước thuế là tỷ suất sinh lời đòi hỏi của nhà đầu tư cho vay (Chủ nợ) mà chưa tính đến ảnh hưởng của thuế thu nhập mà doanh nghiệp phải nộp. Lãi suất vay vốn chính là chi phí sử dụng vốn vay trước thuế.

Gọi D là vốn vay

  • rd là chi phí sử dụng vốn vay trước thuế thu nhập doanh nghiệp.
  • Ci là tiền (gốc và lãi) trả cho chủ nợ (i = 1 ⟶ n) Thì:

Bằng phương pháp nội suy, chúng ta có thể xác định được rd

  • Chi phí sử dụng vốn vay sau thuế

Theo Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, lãi vay được coi là một khoản chi phí và làm giảm trừ thu nhập chịu thuế, trong khi cổ tức phải trả cho cổ phiếu ưu đãi, cổ tức trả cho cổ đông thường không được hưởng "đặc ân" này. Do đó để có cơ sở đồng nhất nhằm so sánh chi phí sử dụng các nguồn vốn khác nhau, người ta thường đưa chúng về cùng một mặt bằng chung. Mặt bằng thường được lựa chọn là đưa về sau thuế.

Vì vậy có thể tính lại chi phí sử dụng vốn vay theo công thức sau:

Chi phí sử dụng vốn vay sau thuế

= rd

x {1 – Thuế suất thuế TNDN}

Như vậy, thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp làm giảm đáng kể chi phí sử dụng vốn vay và chi phí sử dụng nợ vay tỷ lệ thuận với thuế suất thuế thu nhập.

        1. Chi phí sử dụng vốn từ cổ phiếu ưu đãi

77

Như phần trên đã nêu, cổ phiếu ưu đãi có nhíều loại, tuy nhiên loại cổ phiếu ưu đãi thường được các công ty ở nhiều nước sử dụng là loại cổ phiếu ưu đãi cổ tức. Loại cổ phiếu ưu đãi này là một loại chứng khoán lai ghép giữa cổ phiếu thường và trái phiếu. Chủ sở hữu cổ phiếu ưu đãi được nhận cổ tức cố định và không có quyền biểu quyết. Những đặc điểm đó làm cho cổ phiếu ưu đãi gần giống với trái phiếu. Nhưng cổ tức của cổ phiếu ưu đãi không được tính trừ vào thu nhập chịu thuế của công ty lại làm cho nó giống như cổ phiếu thường. Nhưng điểm đặc biệt lưu ý là cổ phiếu ưu đãi chỉ nhận được tiền lãi cố định hàng năm, không được hưởng suất tăng trưởng của lợi nhuận. Do đó:

Nếu ta gọi P0 là giá thị trường hiện hành của cổ phiếu ưu đãi. e là tỷ lệ chi phí phát hành

d là cổ tức một cổ phiếu ưu đãi.

Thì chi phí sử dụng cổ phiếu ưu đãi rp được xác định như sau:

        1. Chi phí sử dụng lợi nhuận để lại

Công ty cổ phần cũng như các doanh nghiệp khác có thể sử dụng một phần lợi nhuận sau thuế để lại tái đầu tư. Đây là nguồn vốn chủ sở hữu nội sinh của công ty.

Xét về mặt kế toán, khi doanh nghiệp giữ lại lợi nhuận để tái đầu tư thì doanh nghiệp không phải trả một khoản chi phí nào cho việc sử dụng nguồn vốn này. Tuy nhiên, trên góc độ tài chính phải tính đến chi phí cơ hội của số lợi nhuận giữ lại cho nhà đầu tư (là chủ sở hữu).

Lợi nhuận sau thuế của công ty sau khi trả cổ tức cho cổ đông ưu đãi (nếu có) thuộc quyền sở hữu của cổ đông thường. Cổ đông có thể nhận toàn bộ số lợi nhuận đó dưới hình thức cổ tức và sau đó có thể sử dụng số tiền cổ tức nhận được để đầu tư vào nơi khác hoặc theo một cách khác, cổ đông nhận một phần lợi nhuận sau thuế dưới hình thức cổ tức, còn một phần để lại công ty để tái đầu tư. Vậy, vấn đề đặt ra khi nào cổ đông có thể chấp nhận để lại lợi nhuận để tái đầu tư?

Nếu công ty quyết định sử dụng lợi nhuận để lại tái đầu tư thì công ty cần phải đảm bảo đạt được tỷ suất sinh lời tối thiểu bằng tỷ suất sinh lời mà cổ đông có thể thu được khi sử dụng số tiền đó đầu tư vào nơi khác với mức độ rủi ro tương đương với mức rủi ro hiện tại của công ty.

78

Từ đó có thể rút ra, chi phí sử dụng lợi nhuận để lại tái đầu tư là tỷ suất sinh lời đòi hỏi của cổ đông đối với cổ phần thường của công ty.

- Ước lượng chi phí sử dụng lợi nhuận để lại tái đầu tư.

Có ba phương pháp chủ yếu ước lượng chi phí sử dụng lợi nhuận để lại tái đầu tư:

+ Phương pháp theo mô hình tăng trưởng cổ tức.

Đây là một phương pháp thường được sử dụng. Theo mô hình tăng trưởng cổ tức, giá cổ phiếu thường là giá trị hiện tại của dòng cổ tức mà nhà đầu tư kỳ vọng thu được ở tương lai và được xác định theo công thức sau:

Trong đó:

  • Po: Giá thị trường hiện hành của cổ phiếu thường.
  • dt: Cổ tức dự tính nhận được trong năm thứ t.
  • re: Tỷ suất sinh lời đòi hỏi của cổ đông đối với cổ phần thường.

Trường hợp giả định cổ tức tăng đều đặn hàng năm với tốc độ tăng trưởng là g thì giá cổ phiếu được xác định bằng công thức:

Trong đó: + d1 là cổ tức dự tính nhận được ở năm thứ 1

+ g là tốc độ tăng trưởng cổ tức đều đặn hàng năm dự tính.

Từ công thức trên, có thể suy ra tỷ suất sinh lời đòi hỏi của cổ đông và cũng chính là chi phí sử dụng lợi nhuận để lại được xác định theo công thức sau:

79

Cách xác định chi phí sử dụng lợi nhuận để lại như trên đã nêu được gọi là phương pháp theo mô hình tăng trưởng cổ tøc hay phương pháp chiết khấu dòng tiền (DCF). Trong phương pháp này, việc xác định tốc độ tăng trưởng cổ tức đều đặn hàng năm (g) trong tương lai là vấn đề không đơn giản. Thông thường, đối với các công ty mà việc trả cổ tức không có sự tăng, giảm đột biến các nhà đầu tư dựa vào tình hình và số liệu trả cổ tức trong những năm đã qua để xác định tốc độ tăng trưởng cổ tức bình quân từ đó dự kiến cho tương lai. Đối với các công ty có cổ tức trả không ổn định phải xem xét kỹ đồng thời tham khảo ý kiến dự báo của các nhà phân tích chứng khoán để dự tính.

dụ: về xác định chi phí sử dụng lơị nhuận để lại: Giá hiện hành 1 cổ phiếu thường trên thị trường của công ty A là 23.000đ, cổ tức kỳ vọng trong năm tới là 1.240đ/cổ phần và tốc độ tăng cổ tức trong những năm sắp tới 8%/năm, Công ty dự định trong năm tới dành 40% lợi nhuận sau thuế để lại tái đầu tư. Vậy, chi phí sử dụng lợi nhuận để lại là:

13,4% là tỷ suất sinh lời mà cổ đông đòi hỏi và cũng là tỷ suất sinh lời tối thiểu cần phải đạt được khi công ty quyết định giữ lại một phần lợi nhuận để tái đầu tư.

Sử dụng phương pháp theo mô hình tăng trưởng cổ tức để xác định chi phí sử dụng lợi nhuận để lại tái đầu tư có những ưu điểm, hạn chế chủ yếu sau:

Ưu điểm: Phương pháp này dễ hiểu và dễ sử dụng.

Hạn chế: Phương pháp này chỉ có thể áp dụng cho những công ty cổ phần có trả cổ tức và cổ tức không có sự tăng, giảm đột biến; Chi phí sử dụng lợi nhuận để lại xác định theo phương pháp này rất nhạy cảm với tốc độ tăng trưởng cổ tức ước định (g); Phương pháp này cũng không cho thấy một cách rõ dàng tác động của yếu tố rủi ro đến chi phí sử dụng vốn của công ty.

+ Phương pháp mô hình định giá tài sản vốn (phương pháp CAPM).

80

Mô hình định giá tài sản vốn cho thấy mối quan hệ giữa tỷ suất sinh lời mà nhà đầu tư đòi hỏi và mức bù rủi ro, do vậy có thể sử dụng phương pháp CAPM để xác định chi phí sử dụng lợi nhuận để lại và có thể xác định theo công thức sau:

re : Tỷ suất sinh lời đòi hỏi của nhà đầu tư đối với lợi nhuận giữ lại.

Rf: Tỷ suất sinh lời (hay lãi suất) phi rủi ro, thường được tính bằng lãi suất trái phiếu của Chính phủ.

Rm: Tỷ suất sinh lời kỳ vọng thị trường. βi: Hệ số rủi ro của cổ phần công ty i

dụ: lãi suất phi rủi ro (Rf)là 8%, tỷ suất sinh lời thị trường (Rm) là 13%, hệ số rủi ro đối với cổ phiếu của công ty X được xác định là 1,2. Vậy, tỷ suất sinh lời đòi hỏi của nhà đầu tư hay cổ đông đối với cổ phần của công ty X là :

re = 8% + 1,2.(13% - 8% ) = 14%

14% cũng là chi phí sử dụng lợi nhuận để lại tái đầu tư của công ty X.

Áp dụng phương pháp CAPM để xác định chi phí sử dụng lợi nhuận để lại tái đầu tư có ưu điểm chủ yếu sau: phương pháp này cho thấy tác động của rủi ro đến chi phí sử dụng vốn một cách rõ ràng, mặt khác phương pháp này có thể áp dụng cho cả các công ty trả cổ tức ổn định hay không ổn định cũng có nghĩa là nó có thể sử dụng cho nhiều tình huống hơn. Tuy vậy, phương pháp này cũng có một số hạn chế: việc sử dụng phương pháp nay đòi hỏi phải ước định mức bù rủi ro thị trường và hệ số rủi ro cổ phiếu của công ty. Đây là vấn đề không đơn giản, hơn nữa các yếu tố này thường thay đổi theo thời gian. Mặt khác, cũng giống như phương pháp theo mô hình tăng trưởng cổ tức, khi sử dụng phương pháp CAPM là dựa vào quá khứ để dự đoán tương lai. Hiện nay, các điều kiện của nền kinh tế thay đổi rất nhanh, vì thế quá khứ không phải luôn luôn là sự chỉ dẫn tốt cho tương lai.

+ Phương pháp theo lãi suất trái phiếu cộng thêm mức bù rủi ro.

Cơ sở chủ yếu của phương pháp này thể hiện ở chỗ: Người đầu tư vào trái phiếu công ty sẽ chịu rủi ro ít hơn so với cổ đông là người đầu tư vào cổ phiếu của công ty, do vậy tỷ suất sinh lời đòi hỏi của cổ đông có thể xác định bằng cách lấy lãi suất trái phiếu của công ty cộng thêm một mức bù rủi ro. Như vậy,

81

công ty có rủi ro cao thì lãi suất trái phiếu của công ty cũng ở mức cao và hiển nhiên mức bù rủi ro đòi hỏi của cổ đông cũng cao hơn, từ đó có thể rút ra:

Chi phí sử dụng LN để lại = Lãi suất trái phiếu + Mức bù rủi ro tăng thêm Lãi suất trái phiếu được xác định là lãi suất đáo hạn của trái phiếu (YTM).

Ở Mỹ, mức bù rủi ro tăng thêm theo các nhà kinh tế là khoảng từ 3% - 5%.

dụ: công ty cổ phần X vừa phát hành 1 loại trái phiếu có lãi suất cố định 9%/năm, mỗi năm trả lãi 1 lần ở cuối mỗi năm, thời hạn là 5 năm. Mức bù rủi ro tăng thêm được xác định là 4%. Vậy, chi phí sử dụng lợi nhuận để lại sẽ là: re = 9% +4% = 13%

Nhìn chung, phương pháp này có ưu điểm là dễ hiểu, nó cũng cho thấy mối líên hệ giữa rủi ro và chi phí sử dụng vốn, tuy nhiên hạn chế chủ yếu ở chỗ, phương pháp này mang tính chủ quan khá cao trong việc xác định mức bù rủi ro tăng thêm.

Trên đây là 3 phương pháp chủ yếu xác định chi phí sử dụng lợi nhuận để lại tái đầu tư. Xem xét rộng hơn cũng có thể thấy rằng, trong trường hợp muốn xác định chi phí sử dụng cổ phần thường hiện hành của công ty thì chi phí sử dụng cổ phần thường hiện hành cũng chính là tỷ suất sinh lời đòi hỏi của cổ đông đối với cổ phần thường hiện hành mà công ty đang sử dụng.

        1. Chi phí sử dụng vốn từ cổ phiếu thường mới

Nếu như mua trái phiếu, nhà đầu tư xác định ngay tiền lãi sẽ nhận được, còn đầu tư vào việc mua cổ phiếu thường thì tiền lãi (cổ tức) lại phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của công ty. Mặt khác khi công ty giải thể (hoặc phá sản) tiền mua trái phiếu sẽ được thanh toán trước tiền mua cổ phiếu thường. Vì vậy đầu tư vào cổ phiếu thường sẽ có mức độ mạo hiểm cao hơn đầu tư vào trái phiếu.

Khi phát hành cổ phiếu thường mới sẽ phát sinh chi phí phát hành. Chi phí phát hành bao gồm: chi phí in ấn, quảng cáo, chi phí bảo lãnh phát hành, chi phí hoa hồng, môi giới...

Vì vậy số vốn doanh nghiệp được sử dụng cho đầu tư bằng giá thị trường hiện hành của cổ phiếu thường trừ đi chi phí phát hành.

Gọi P0 là giá thị trường hiện hành của cổ phiếu thường

e là tỷ lệ chi phí phát hành, khi đó giá ròng = P0(1-e) d1: là cổ tức một cổ phiếu thường dự kiến năm thứ nhất

g là tốc độ tăng trưởng cổ tức kỳ vọng (giả thiết tăng trưởng đều).

82

rs là chi phí sử dụng vốn cổ phần thường mới

Chú ý: Xác định tốc độ tăng trưởng cổ tức kỳ vọng (g).k là tỷ lệ lợi nhuận tái đầu tư.

ROE0: Tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu kỳ trước

g = ROE0 x k

      1. Chi phí sử dụng vốn bình quân

Mỗi nguồn vốn có chi phí sử dụng khác nhau, thông thường doanh nghiệp phải phối hợp huy động vốn cho đầu tư từ nhiều nguồn vốn khác nhau. Do vậy cần thiết phải tính chi phí sử dụng vốn bình quân. Chi phí sử dụng vốn bình quân được xác định theo phương pháp bình quân gia quyền mà quyền số là tỷ trọng các nguồn vốn trong tổng vốn mà doanh nghiệp huy động. Chi phí sử dụng vốn bình quân trong doanh nghiệp phụ thuộc vào 2 yếu tố: Chi phí sử dụng của từng nguồn vốn và tỷ trọng của từng nguồn vốn.

Gọi WACC là chi phí sử dụng vốn bình quân Wk tỷ trọng nguồn vốn k (k = 1÷n)

      1. Chi phí cận biên về sử dụng vốn

Khi doanh nghiệp huy động tăng thêm vốn sẽ làm gia tăng rủi ro cho nhà đầu tư, nên nhà quản trị phải xác định chi phí cho mỗi đồng vốn tăng thêm, qua đó, để lựa chọn quy mô vốn tối ưu cho viêc thực hiện dự án đầu tư. Vì chỉ những đồng vốn nào có chi phí sử dụng vốn cận biên thấp hơn tỷ suất sinh lời của dự án đầu tư thì sẽ được chấp thuận.

+ Khái niệm: Chi phí cận biên sử dụng vốn là chi phí của đồng vốn mới huy động tăng thêm cho hoạt động đầu tư của doanh nghiệp.

Thực chất chi phí cận biên là chi phí bình sử dụng vốn bình quân cho mỗi đồng vốn mới tăng thêm trong cùng thời kỳ.

+ Xác định điểm gãy của đường chi phí cận biên

Mỗi doanh nghiệp đều lựa chọn một cơ cấu vốn phù hợp với đặc điểm sản xuất, sản phẩm, mức độ mạo hiểm... Một kết cấu vốn như vậy gọi là kết cấu vốn tối ưu. Kết

83

cấu vốn tối ưu là một kết cấu an toàn về mặt tài chính và có chi phí sử dụng vốn thấp nhất. Nhưng trong thực tế khi có nhu cầu đầu tư mới, do nhu cầu vốn đầu tư tăng lên chi phí sử dụng các nguồn vốn cũng có thể thay đổi, do đó chi phí sử dụng vốn bình quân cũng thay đổi. Thông thường bắt đầu doanh nghiệp sẽ tìm kiếm những nguồn vốn có chi phí sử dụng thấp nhất, sau đó mới tới những nguồn vốn chi phí sử dụng cao hơn. Chính vì vậy, khi doanh nghiệp huy động thêm những đồng vốn mới, chi phí của mỗi đồng vốn tại một thời điểm nào đó sẽ tăng lên.

Tại thời điểm giới hạn mà từ đó chi phí sử dụng vốn mới bắt đầu tăng lên được gọi là điểm gãy của chi phí sử dụng vốn. Điểm gãy (BP) được xác định theo công thức:

Đối với một doanh nghiệp khi liên tục huy động thêm những đồng vốn mới với chi phí sử dụng khác nhau có thể có nhiều điểm gãy. Có thể minh hoạ chi phí sử dụng vốn bình quân và các điểm gãy trên đồ thị.

Việc nghiên cứu chi phí sử dụng vốn bình quân nói chung, chi phí sử dụng vốn nói riêng có ý nghĩa rất lớn đối với doanh nghiệp. Bởi vì nói giúp cho các nhà tài chính có thêm các căn cứ xác đáng để ra quyết định lựa chọn dự án đầu tư. Còn việc nghiên cứu chi phí cận biên sẽ là căn cứ để lựa chọn quy mô vốn tối ưu để thực hiện đầu tư.

84

    1. Hệ thống đòn bẩy rủi ro của doanh nghiệp

Trong tài chính, đòn bẩy được coi là công cụ mà doanh nghiệp có thể sử dụng để gia tăng lợi nhuận. Các đòn bẩy mà các nhà quản trị tài chính thường sử dụng là đòn bẩy kinh doanh và đòn bẩy tài chính. Tuy nhiên, việc sử dụng đòn bẩy cũng làm gia tăng rủi ro cho doanh nghiệp.

      1. Đòn bẩy kinh doanh phân tích hòa vốn
        1. Đòn bẩy kinh doanh

Đòn bẩy kinh doanh là việc sử dụng các tài sản có chi phí cố định kinh doanh nhằm hy vọng gia tăng lợi nhuận trước lãi vay và thuế hay tỷ suất sinh lời kinh tế của tài sản. Nói cách khác, đòn bẩy kinh doanh thể hiện mức độ sử dụng chi phí cố định kinh doanh của doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm hy vọng gia tăng lợi nhuận trước lãi vay và thuế (hay tỷ suất lợi nhuận kinh tế của tài sản).

Mức độ sử dụng đòn bẩy kinh doanh của doanh nghiệp được thể hiện ở tỷ trọng chi phí cố định kinh doanh trong tổng chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có tỷ trọng chi phí cố định kinh doanh ở mức cao thể hiện doanh nghiệp có đòn bẩy kinh doanh lớn và ngược lại.

Một doanh nghiệp có đòn bẩy kinh doanh cao thì chỉ cần một sự thay đổi nhỏ của doanh thu (hoặc sản lượng hàng hoá tiêu thụ), có thể dẫn đến sự thay đổi lớn hơn về lợi nhuận trước lãi vay và thuế của doanh nghiệp. Điều đó có nghĩa là lợi nhuận trước lãi vay và thuế của doanh nghiệp rất nhạy cảm với mức độ sử dụng chi phí cố định kinh doanh trong mối quan hệ với chi phí biến đổi và quy mô kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, sử dụng đòn bẩy kinh doanh như sử dụng con dao hai lưỡi. Doanh nghiệp có đòn bẩy kinh doanh lớn có khả năng gia tăng nhanh lợi nhuận trước lãi vay và thuế, nhưng cũng ẩn chứa rủi ro kinh doanh lớn.

        1. Mức độ ảnh hưởng của đòn bẩy kinh doanh

Mức độ ảnh hưởng của đòn bẩy kinh doanh đến lợi nhuận trước lãi vay và thuế của doanh nghiệp được xác định theo công thức sau:

85

Như vậy mức độ ảnh hưởng của đòn bẩy kinh doanh phản ánh mức độ thay đổi và lợi nhuận trước lãi vay và thuế do kết quả từ sự thay đổi của doanh thu tiêu thụ (hoặc sản lượng hàng hoá tiêu thụ). Nói một cách khác nó cho thấy khi doanh thu (hoặc sản lượng) tiêu thụ thay đổi 1% thì lợi nhuận trước lãi vay và thuế sẽ thay đổi bao nhiêu %.

Gọi: F: là tổng chi phí cố định kinh doanh(không bao gồm lãi vay) v: Chi phí biến đổi tính cho 1 sản phẩm

g: Giá bán một sản phẩm

Q: Số lượng sản phẩm tiêu thụ

Xem xét mức độ ảnh hưởng của đòn bẩy kinh doanh có thể nhận thấy:

+ Ở mỗi mức sản lượng sản phẩm sản xuất tiêu thụ hay doanh thu bán hàng khác nhau thì mức độ ảnh hưởng của đòn bẩy kinh doanh cũng có sự khác nhau.

+ Mức độ ảnh hưởng của đòn bẩy kinh doanh cũng là một trong những thước đo rủi ro kinh doanh của doanh nghiệp hay của một dự án. Từ công thức trên chúng ta có công thức đo lường sự tác động của đòn bẩy kinh doanh đến sự thay đổi lợi nhuận trước lãi vay và thuế như sau:

        1. Điểm cân bằng EBIT điểm hòa vốn

Điểm cân bằng EBIT

Khi nghiên cứu về sử dụng đòn bẩy kinh doanh giữa các phương án đầu tư khác nhau, người ta thường xem xét và xác định với lượng sản phẩm cần sản xuất bao nhiêu thì sẽ đưa đến sự cân bằng về EBIT giữa hai phương án đầu tư. Khi đó, người ta gọi đó là điểm cân bằng EBIT (hay còn gọi là điểm bàng quan).

Ý nghĩa của kết quả tính ra là để so sánh với sản lượng kỳ vọng mà phương án đầu tư có thể đạt được để quyết định lựa chọn phương án đầu tư có sử dụng đòn bẩy kinh doanh phù hợp.

Điểm hòa vốn

86

Mục đích của phân tích điểm hòa vốn là để xác định lợi nhuận hoạt động sẽ thay đổi như thế nào so với mức sản xuất mà tại đó sản xuất từ thua lỗ chuyển sang có lợi nhuận. Chúng ta có mối quan hệ sau:

EBIT = Doanh số bán - tổng chi phí (1)

Tổng chi phí = Chi phí biến đổi + chi phí cố định (2) Thay (2) vào (1), ta có:

EBIT = Doanh số bán – (Chi phí biến đổi + chi phí cố đinh) (3) Nếu sử dụng các ký hiệu như sau:

TC : Tổng chi phí F

S : Doanh thuQhhàvn=g bán

Chúng ta có: S = P.Q Tổng chi phí biến đổi = Q.V

TC = QV + F

P – V

EBIT = PQ – (QV + F) EBIT = Q (P - V) – F

Trong phương trình trên, (P – V) là số dư đảm phí, là phần tăng thêm trong EBIT do việc bán thêm một đơn vị sản phẩm. Q (P - V) là lợi nhuận hoạt động.

Bảng 5.1. Doanh thu, chi phí lợi nhuận biến đổi theo số lượng hàng bán

Số lượng đơn vị hàng bán

Doanh thu

Tổng chi phí biến đổi

Tổng chi phí cố định

Tổng chi phí

EBIT

Q

Q.P

Q.V

F

TC=Q.V+F

Q(P-V)-F

15.000

3.000.000

1.800.000

2.000.000

3.800.000

(800.000)

20.000

4.000.000

2.400.000

2.000.000

4.400.000

(400.000)

25.000(*)

5.000.000

3.000.000

2.000.000

5.000.000

0

30.000

6.000.000

3.600.000

2.000.000

5.600.000

400.000

35.000

7.000.000

4.200.000

2.000.000

6.200.000

800.000

40.000

8.000.000

4.800.000

2.000.000

6.800.000

1.200.000

(*) Điểm hòa vốn

Bảng 5.1 trình bày những tính toán EBIT tại các mức sản lượng hàng bán khác nhau. Chúng ta thấy, số lượng hàng bán càng thấp hơn mức 25.000 đơn vị, thì mức thua lỗ càng cao, bởi số dư đảm phí của mỗi đơn vị (200-120=80USD) nhân với số lượng hàng bán không đủ bù đắp chi phí cố định và EBIT < 0. Ở mức 25.000 đơn vị, tổng số dư đảm phí là 2.000.000USD (80 x 25.000), vừa đủ trang trải chi phí cố định và EBIT = 0. Chỉ khi số lượng hàng bán nhiều hơn 25.000 đơn vị, thì doanh nghiệp bắt đầu có lợi nhuận.

87

Bởi vậy, điểm hoà vốn là mức doanh thu tạo ra thu nhập bằng 0. Trong thí dụ trên, sản lượng hòa vốn là 25.000 đơn vị hàng bán và doanh thu hoà vốn là 5tr.USD. Từ khái niệm về điểm hòa vốn có thể rút ra các công thức sau:

EBIT = QB (P V) F = 0

Với QB là sản lượng tương ứng với điểm hòa vốn.

Thay các giá trị vào công thức ta có: đơn vị

        1. Rủi ro kinh doanh

Rủi ro kinh doanh nảy sinh bắt nguồn từ chính ngay các yếu tố trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Rủi ro kinh doanh là sự dao động hay sự không chắc chắn về lợi nhuận trước lãi vay và thuế hoặc tỷ suất sinh lời kinh tế của tài sản.

Thước đo chủ yếu thường được sử dụng để đánh giá rủi ro kinh doanh của doanh nghiệp là độ lệch chuẩn và hệ số biến thiên của lợi nhuận trước lãi vay và thuế (EBIT).

Rủi ro kinh doanh có thể biến động từ ngành này sang ngành kia và thay đổi theo thời gian. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng tới rủi ro kinh doanh của một doanh nghiệp, trong đó bao hàm các yếu tố chủ yếu: Sự biến động của cầu về loại sản phẩm doanh nghiệp sản xuất; biến động giá của sản phẩm đầu ra; biến động giá các yếu tố đầu vào; khả năng điều chỉnh giá bán sản phẩm của doanh nghiệp khi giá của yếu tố đầu vào có sự thay đổi; mức độ đa dạng hóa sản phẩm; tốc độ tăng trưởng; cơ cấu chi phí sản xuất kinh doanh hay mức độ sử dụng đòn bẩy kinh doanh của doanh nghiệp.

Trong việc quản trị tài chính doanh nghiệp cần phải nhận biết, phân tích đánh giá để hạn chế, phòng ngừa và quản lý rủi ro kinh doanh của doanh nghiệp.

      1. Đòn bẩy tài chính rủi ro tài chính
        1. Đòn bẩy tài chính

Đòn bẩy tài chính là thể hiện mức độ sử dụng vốn vay trong nguồn vốn của doanh nghiệp nhằm hy vọng gia tăng tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu (hay thu nhập trên một cổ phần của công ty).

Mức độ sử dụng đòn bẩy tài chính doanh nghiệp được thể hiện ở hệ số nợ. Doanh nghiệp có hệ số nợ cao thể hiện doanh nghiệp có đòn bẩy tài chính ở mức độ cao và ngược lại.

Doanh nghiệp có đòn bẩy tài chính càng cao thì mức độ rủi ro trong hoạt động tài chính càng cao, nhưng cơ hội gia tăng tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu (ROE) càng lớn.

Gọi: ROE là tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu

88

D là vốn vay

E là vốn chủ sở hữu

BEP là Tỷ suất sinh lời kinh tế của tài sản

BEP =

EBIT

----------

A

EBIT: Lợi nhuận trước lãi vay và thuế

A: Giá trị tài sản bình quân (hay vốn kinh doanh bình quân) rd là lãi suất vay

t là thuế suất thuế TNDN

Vậy:

  • Khi BEP >rd: Doanh nghiệp tăng vay nợ => ROE càng được khuyếch đại, đồng thời gia tăng rủi ro tài chính.
  • Khi BEP = rd: Doanh nghiệp tăng vay nợ nhưng ROE không thay đổi, đồng thời gia tăng rủi ro tài chính.
  • Khi BEP < rd: Doanh nghiệp tăng vay nợ => làm suy giảm ROE, đồng thời gia tăng rủi ro tài chính.

Đây chính là giới hạn của hệ số nợ trong trong tổng vốn của doanh nghiệp, và điều này cần được lưu ý khi ra quyết định huy động vốn.

Cần lưu ý rằng, cũng như sử dụng đòn bẩy kinh doanh, việc sử dụng đòn bẩy tài chính như sử dụng "con dao hai lưỡi". Nếu tổng tài sản không có khả năng sinh ra một tỷ suất sinh lời đủ lớn để bù đắp chi phí lãi vay nợ thì tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu (vốn cổ phần thường) bị giảm sút, bởi lẽ phần lợi nhuận do vốn chủ sở hữu (vốn cổ phần thường) làm ra phải dùng để bù đắp sự thiếu hụt của khoản lãi vay phải trả.

Khả năng gia tăng lợi nhuận cao là điều mong ước của các chủ sở hữu, trong đó đòn bẩy tài chính là một công cụ được các nhà quản lý thường dùng. Đòn bẩy tài chính là công cụ hữu ích để khuyếch đại tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu hay gia tăng thu nhập một cổ phần, đồng thời cũng tiềm ẩn sự gia tăng rủi ro cho chủ sở hữu. Sự thành công hay thất bại này tuỳ thuộc vào chiến lược của chủ sở hữu khi lựa chọn cơ cấu tài chính.

        1. Mức độ ảnh hưởng của đòn bẩy tài chính (DFL)

89

Đòn bẩy tài chính là sự đánh giá chính sách vay nợ được sử dụng trong việc điều hành doanh nghiệp. Vì lãi vay phải trả không đổi khi sản lượng thay đổi, do đó đòn bẩy tài chính sẽ rất lớn trong các doanh nghiệp có hệ số nợ cao, và ngược lại đòn bẩy tài chính sẽ rất nhỏ trong các doanh nghiệp có hệ số nợ thấp. Những doanh nghiệp có hệ số nợ bằng không sẽ không có đòn bẩy tài chính. Như vậy, đòn bẩy tài chính đặt trọng tâm vào hệ số nợ. Khi đòn bẩy tài chính cao, thì chỉ cần một sự thay đổi nhỏ về lợi nhuận trước lãi vay và thuế cũng có thể làm thay đổi với một tỷ lệ cao hơn về tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu (vốn cổ phần thường) nghĩa là tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu (vốn cổ phần thường) rất nhạy cảm khi lợi nhuận trước lãi vay và thuế biến đổi. Như vậy, mức độ ảnh hưởng của đòn bẩy tài chính phản ánh nếu lợi nhuận trước lãi vay và thuế thay đổi 1% thì tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu (hay thu nhập một cổ phần thường) sẽ thay đổi bao nhiêu %.

Nếu ta gọi I là lãi vay phải trả

Xem xét đòn bẩy tài chính có thể rút ra:

+ Ở mỗi mức lợi nhuận trước lãi vay và thuế khác nhau thì mức ảnh hưởng của đòn bẩy tài chính cũng có sự khác nhau.

+ Mức độ ảnh hưởng của đòn bẩy tài chính cũng là một trong những thước đo mức độ rủi ro tài chính của doanh nghiệp.

Từ công thức trên chúng ta có công thức đo lường sự tác động của đòn bẩy tài chính đến sự thay đổi tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) như sau:

Như vậy đòn bẩy tài chính thể hiện cách thức sử dụng nguồn vốn của doanh nghiệp.

        1. Điểm cân bằng ROE (EPS)

90

Trong trường hợp có nhiều phương án huy động vốn khác nhau với hệ số nợ khác nhau, người ta thường xác định điểm cân bằng ROE (hay EPS), có nghĩa là đi xác định EBIT để cân bằng ROE (hay EPS) giữa hai phương án huy động vốn. Kết quả tính ra có ý nghĩa trong việc so sánh với EBIT kỳ vọng để quyết định lựa chọn phương án huy động vốn có sử dụng đòn bẩy tài chính phù hợp.

        1. Rủi ro tài chính

Trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp sử dụng vốn vay một mặt nhằm bù đắp sự thiếu hụt vốn, mặt khác nhằm hy vọng gia tăng tỷ suất lợi nhuận chủ sở hữu (hoặc thu nhập trên một cổ phần) nhưng đồng thời cũng làm tăng thêm rủi ro cho doanh nghiệp, đó là rủi ro tài chính.

Rủi ro tài chính là sự dao động hay sự biến thiên của tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu (hoặc thu nhập trên một cổ phần) và làm tăng thêm xác suất mất khả năng thanh toán khi doanh nghiệp sử dụng vốn vay và các nguồn tài trợ khác có chi phí cố định tài chính.

Việc sử dụng vốn vay tạo ra khả năng cho doanh nghiệp tăng được tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu nhưng cũng làm cho tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu có thể có mức độ dao động lớn hơn. Khi tỷ suất sinh lời kinh tế của tài sản (BEP) mà doanh nghiệp tạo ra lớn hơn chi phí sử dụng vốn vay sẽ làm gia tăng tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu, nhưng nếu tỷ suất sinh lời của tài sản thấp hơn chi phí sử dụng vốn vay thì càng làm giảm sút nhanh hơn tỷ suất sinh lời vốn chủ sở hữu. Mặt khác, doanh nghiệp sử dụng vốn vay làm nảy sinh nghĩa vụ tài chính phải thanh toán lãi vay cho các chủ nợ bất kể doanh nghiệp đạt được mức độ lợi nhuận trước lãi vay và thuế là bao nhiêu, đồng thời doanh nghiệp phải có nghĩa vụ hoàn trả vốn gốc cho các chủ nợ đúng hạn. Doanh nghiệp càng sử dụng nhiều vốn vay thì nguy cơ mất khả năng thanh toán càng lớn. Như vậy, việc sử dụng vốn vay đã ẩn chứa rủi ro tài chính mà doanh nghiệp có thể gặp phải trong quá trình kinh doanh.

5.1.3. Phối hợp đòn bẩy tài chính và đòn bẩy kinh doanh

Đòn bẩy kinh doanh phản ánh mức độ sử dụng chi phí cố định kinh doanh trong tổng chi phí sản xuất kinh doanh. Mức độ ảnh hưởng của đòn bẩy kinh doanh sẽ rất lớn ở những doanh nghiệp có chi phí cố định kinh doanh cao hơn chi phí biến đổi. Nhưng đòn bẩy kinh doanh chỉ tác động tới lợi nhuận trước lãi vay và thuế, bởi lẽ hệ số nợ không ảnh hưởng tới độ lớn của đòn bẩy kinh doanh.

Còn mức độ ảnh hưởng của đòn bẩy tài chính chỉ phụ thuộc vào hệ số nợ, không phụ thuộc vào kết cấu chi phí cố định và chi phí biến đổi của doanh nghiệp. Do đó, đòn bẩy tài chính tác động tới tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu.

91

Vì vậy, khi ảnh hưởng của đòn bẩy kinh doanh chấm dứt thì ảnh hưởng của đòn bẩy tài chính sẽ thay thế để khuyếch đại tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu (thu nhập một cổ phần thường). Vì lẽ đó người ta gọi đòn bẩy kinh doanh là đòn bẩy cấp một, đòn bẩy tài chính là đòn bẩy cấp hai, và có thể kết hợp đòn bẩy kinh doanh và đòn bẩy tài chính thành một đòn bẩy tổng hợp. Mức độ ảnh hưởng của đòn bẩy tổng hợp (DTL) được xác định như sau:

Mức độ ảnh hưởng của đòn bẩy tổng hợp phản ánh mức độ nhạy cảm của tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu (vốn cổ phần thường) trước sự thay đổi của doanh thu hay sản lượng sản phẩm tiêu thụ. Nói cách khác nếu doanh thu thay đổi 1% thì tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu thay đổi bao nhiêu %. Có thể nhận thấy: ở mỗi mức doanh thu hay sản lượng tiêu thụ khác nhau thì mức độ tác động của đòn bẩy tổng hợp cũng có sự khác nhau. Mức độ tác động của đòn bẩy tổng hợp cũng là một thước đo cho phép đánh giá mức độ rủi ro tổng thể của doanh nghiệp bao hàm rủi ro kinh doanh và rủi ro tài chính. Vấn đề quan trọng khi xem xét đòn bẩy tổng hợp đối với nhà quản trị tài chính doanh nghiệp là cần phải sử dụng phối hợp hai loại đòn bẩy kinh doanh và đòn bẩy tài chính để sao cho gia tăng được tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu (hay EPS) đồng thời phải đảm bảo sự an toàn tài chính cho doanh nghiệp.

Chương 6

QUYẾT ĐỊNH ĐẦU TƯ DÀI HẠN CỦA DOANH NGHIỆP

92

    1. Tổng quan về đầu dài hạn của doanh nghiệp
      1. Khái niệm đầu dài hạn

Đầu tư dài hạn là một trong những nhân tố chủ yếu quyết định đến sự phát triển của một doanh nghiệp. Đầu tư là việc sử dụng các nguồn lực hiện tại nhằm biến các lợi ích dự kiến thành hiện thực trong tương lai.

Xét về mặt kinh tế: Đầu tư là hy sinh tiêu dùng hiện tại để hy vọng trong tương lai có thu nhập cao hơn.

Trên góc độ của doanh nghiệp kinh doanh, có thể thấy rằng một trong những mục tiêu hàng đầu của doanh nghiệp là thu được lợi nhuận. Để thực hiện được mục tiêu này đòi hỏi doanh nghiệp phải có lượng vốn nhất định và với số vốn đó doanh nghiệp thực hiện được các hoạt động mua sắm máy móc thiết bị, xây dựng nhà xưởng, mua bằng phát minh sáng chế, bản quyền, đào tạo công nhân, hình thành một lượng tài sản lưu động thường xuyên cần thiết. Trong quá trình phát triển doanh nghiệp tiếp tục bổ sung vốn để tăng thêm tài sản kinh doanh tương ứng với sự tăng trưởng của qui mô kinh doanh. Các hoạt động của quá trình trên chính là quá trình đầu tư dài hạn của một doanh nghiệp. Ngoài hoạt động đầu tư có tính chất điển hình như trên, doanh nghiệp còn có thể thực hiện các hoạt động như bỏ vốn mua cổ phiếu, trái phiếu của các chủ thể khác nhằm thu lợi nhuận trong một thời gian dài. Các cổ phiếu, trái phiếu mà doanh nghiệp bỏ vốn ra mua hình thành nên một loại tài sản của doanh nghiệp được gọi là tài sản tài chính dài hạn.

Từ đó, có thể thấy rằng đầu tư dài hạn là quá trình hoạt động sử dụng vốn để hình thành nên những tài sản cần thiết nhằm phục vụ mục đích thu lợi nhuận trong khoảng thời gian dài trong tương lai.

Theo khái niệm ở trên, đầu tư dài hạn của doanh nghiệp chính là hoạt động bỏ vốn để mua sắm, xây dựng hình thành các tài sản cố định hữu hình và tài sản cố định vô hình, hình thành lượng tài sản lưu động thường xuyên cần thiết phù hợp với một qui mô kinh doanh nhất định hoặc để góp vốn liên doanh dài hạn hoặc để mua cổ phiếu, trái phiếu của đơn vị khác nhằm thu lợi nhuận

Như vậy, đầu tư dài hạn của một doanh nghiệp không phải chỉ là đầu tư vào tài sản cố định mà nó còn bao hàm cả việc đầu tư cho nhu cầu tương đối ổn định về vốn lưu động thường xuyên cần thiết tương ứng với với một qui mô kinh doanh nhất định của doanh nghiệp, đầu tư có tính chất dài hạn vào các hoạt động khác để thu lợi nhuận.

Đầu tư dài hạn của doanh nghiệp có đặc điểm là phải ứng ra một lượng vốn tiền tệ ban đầu tương đối lớn và được sử dụng có tính chất dài hạn trong tương lai, do đó đầu tư dài hạn luôn gắn liền với rủi ro. Các quyết định đầu tư của doanh nghiệp mặc dù đều dựa trên cơ sở dự tính về thu nhập trong tương lai do đầu tư đưa lại, tuy nhiên khả năng nhận được thu nhập

93

trong tương lai thường không chắc chắn nên rủi ro trong đầu tư là rất lớn. Thời gian đầu tư càng dài thì rủi ro càng cao và ngược lại.

Các loại đầu tư dài hạn của doanh nghiệp

        1. Theo cấu vốn đầu
  1. Đầu tư xây dựng cơ bản:

Là khoản đầu tư nhằm tạo ra tài sản cố định cho doanh nghiệp và thông thường doanh nghiệp phải sử dụng một khoản vốn lớn để thực hiện đầu tư về TSCĐ thông qua việc xây dựng và mua sắm. Trong đầu tư XDCB lại có thể thực hiện phân loại chi tiết dựa theo những tiêu thức nhất định:

- Theo tính chất công tác, đầu tư xây dựng của doanh nghiệp gồm:

+ Đầu tư cho xây lắp bao gồm đầu tư cho việc lắp ráp các kết cấu kiến trúc, lắp đặt máy móc thiết bị sản xuất trên nền bệ cố định.

+ Đầu tư cho thiết bị: là đầu tư về mua sắm máy móc, thiết bị cần thiết của doanh nghiệp bao gồm chi phí mua thiết bị theo giá mua, chi phí vận chuyển, bảo quản thiết bị

+ Đầu tư xây dựng cơ bản khác: Bao gồm đầu tư cho việc khảo sát, thiết kế xây dựng, chi phí dùng đất xây dựng, đền bù đất đai, hoa màu, tài sản, chi phí di chuyển nhà cửa trên đất đai xây dựng, chi phí mua bản quyền phát minh sáng chế, chi phí công nghệ, mua nhãn hiệu hàng hóa v.v…

- Theo hình thái vật chất, đầu tư xây dựng cơ bản của doanh nghiệp gồm:

+ Đầu tư về tài sản cố định hữu hình bao gồm toàn bộ việc xây dựng, mua sắm các tài sản như nhà xưởng, máy móc thiết bị …

+ Đầu tư về tài sản cố định vô hình như đầu tư mua bằng phát minh sáng chế, bản quyền, quy trình công nghệ sản xuất mới v.v…

  1. Đầu tư về vốn lưu động thường xuyên cần thiết

Đây là khoản đầu tư để hình thành nên tài sản lưu động tối thiểu thường xuyên cần thiết (nguyên liệu, vật liệu, nhiên liệu) đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tiến hành hoạt động bình thường. Tùy thuộc vào mô hình tổ chức nguồn vốn mà có thể đầu tư một phần hoặc toàn bộ tài sản lưu động thường xuyên cần thiết tương ứng với qui mô kinh doanh nhất định.

  1. Đầu tư góp vốn liên doanh dài hạn và đầu tư vào tài sản tài chính

Đây là các khoản đầu tư ra bên ngoài doanh nghiệp. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp có nhiều hình thức liên doanh liên kết. Trong đó có hình thức liên doanh dài hạn, các doanh nghiệp tham gia góp vốn sản xuất kinh doanh trong thời gian

94

tương đối dài, chịu trách nhiệm chung và phân chia lợi nhuận theo tỷ lệ tương ứng với phần đóng góp. Thuộc loại này có thể có:

  • Đầu tư góp vốn sản xuất kinh doanh trong thời gian dài ra ngoài doanh nghiệp
  • Đầu tư mua cổ phần, mua trái phiếu dài hạn của doanh nghiệp khác phát hành (tài sản tài chính)

Việc phân loại đầu tư theo cơ cấu vốn giúp cho doanh nghiệp có thể xem xét tính chất hợp lý của các khoản đầu tư trong tổng thể đầu tư của doanh nghiệp để đảm bảo xây dựng được cơ cấu vốn đầu tư thích ứng với điều kiện cụ thể của từng doanh nghiệp nhằm nhằm đạt hiệu quả đầu tư cao.

        1. Theo mục tiêu đầu
          • Đầu tư hình thành doanh nghiệp: Bao gồm các khoản dầu tư ban đầu để thành lập doanh nghiệp.
          • Đầu tư mở rộng qui mô kinh doanh: Là toàn bộ các khoản đầu tư nhằm mở rộng thêm các phân xưởng mới hay các đơn vị trực thuộc.
          • Đầu tư chế tạo sản phẩm mới: Là khoản đầu tư cho nghiên cứu và phát triển sản phẩm, tạo điều kiện phát triển lâu dài cho doanh nghiệp.
          • Đầu tư thay thế, hiện đại hoá máy móc, thiết bị: Là khoản đầu tư thay thế hoặc đổi mới các trang thiết bị cho phù hợp với tiến bộ khoa học kỹ thuật nhằm duy trì hoặc tăng khả năng sản xuất sản phẩm của doanh nghiệp.
          • Đầu tư ra bên ngoài: Là sự đầu tư góp vốn thực hiện liên doanh dài hạn với các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế khác, đầu tư về tài sản tài chính khác…

Việc phân loại này giúp cho doanh nghiệp có thể kiểm soát được tình hình thực hiện đầu tư theo những mục tiêu nhất định mà doanh nghiệp đặt ra trong một thời kỳ và có thể tập trung vốn và biện pháp thích ứng để đạt được mục tiêu đầu tư đã đề ra.

      1. Các yếu tố tác động đến quyết định đầu dài hạn của doanh nghiệp

Sự thành bại của doanh nghiệp trong tương lai tùy thuộc rất lớn vào các quyết định đầu tư ngày hôm nay. Chính vì thế, để đi đến đầu tư quyết định đầu tư đòi hỏi doanh nghiệp phải cân nhắc kỹ lưỡng nhiều vấn đề, xem xét nhiều yếu tố. Có nhiều yếu tố tác động đến việc đầu tư của doanh nghiệp, trong đó có những yếu tố tác động có tính chất quyết định gồm các yếu tố chủ yếu sau đây:

        1. Chính sách kinh tế của Nhà nước trong việc phát triển nền kinh tế

Thông qua chính sách kinh tế, pháp luật và biện pháp kinh tế, Nhà nước tạo môi trường và hành lang cho các doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh, đi theo quĩ đạo của kế hoạch vĩ mô

95

Nhà nước định hướng đầu tư phát triển kinh doanh, khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào những ngành nghề có lợi cho quốc kế, dân sinh

Bởi thế, để đi quyết định đầu tư, trước tiên các doanh nghiệp cần phải xem xét đến chính sách kinh tế của nhà nước cũng như chính sách khuyến khích đầu tư, chính sách thuế…

        1. Thị trường sự cạnh tranh

Trong sản xuất hàng hóa, thị trường tiêu thụ sản phẩm là một căn cứ hết sức quan trọng để doanh nghiệp quyết định đầu tư. Vấn đề đặt ra cho doanh nghiệp là phải đầu tư để sản xuất ra những loại sản phẩm mà người tiêu dùng cần, tức là phải căn cứ vào nhu cầu sản phẩm trên thị trường hiện tại và tương lai để xem xét vấn đề đầu tư. Thị trường tiêu thụ sản phẩm là căn cứ quan trọng để doanh nghiệp quyết định đầu tư.

Trong đầu tư khi xem xét thị trường thì không thể bỏ qua yếu tố cạnh tranh. Trong đầu tư, doanh nghiệp phải căn cứ vào tình hình hiện tại của doanh nghiệp, tình hình cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trên thị trường và dự đoán tình hình trong tương lai để có phương thức đầu tư thích hợp

        1. Lãi suất thuế trong kinh doanh

Đây là yếu tố ảnh hưởng tới chi phí đầu tư của doanh nghiệp. Thông thường để thực hiện đầu tư ngoài vốn tự có, doanh nghiệp phải vay và đương nhiên phải trả khoản lãi tiền vay. Lãi suất chính là chi phí về vốn đầu tư trong kinh doanh, do vậy ảnh hưởng tới chi phí đầu tư của doanh nghiệp. Do vậy, doanh nghiệp không thể không tính đến yếu tố lãi suất tiền vay trong quyết định đầu tư.

Thuế là công cụ rất quan trọng của Nhà nước để điều tiết và hướng dẫn các doanh nghiệp đầu tư kinh doanh. Thuế ảnh hưởng tới doanh thu tiêu thụ và lợi nhuận của doanh nghiệp.

        1. Sự tiến bộ của khoa học công nghệ

Có thể là cơ hội hoặc cũng có thể là nguy cơ đe doạ đối với sự đầu tư của doanh

nghiệp.

          • Doanh nghiệp phải chấp nhận mạo hiểm trong đầu tư để phát triển sản phẩm mới
          • Nếu doanh nghiệp không tiếp cận với sự tiến bộ của khoa học công nghệ sẽ dẫn tới làm ăn thua lỗ do không còn phù hợp với nhu cầu thị trường
        1. Mức độ rủi ro của đầu

Trong sản xuất hàng hóa với cơ chế thị trường, mỗi quyết định đầu tư đều có thể gắn liền với rủi ro nhất định do sự biến động trong tương lai về sản xuất và về thị trường v..v

Cần đánh giá mức độ rủi ro và tỷ suất sinh lời để xem xét quyết định đầu tư

        1. Khả năng tài chính của doanh nghiệp

96

Mỗi doanh nghiệp có nguồn tài chính để đầu tư ở giới hạn nhất định bao gồm nguồn vốn tự có và nguồn vốn có khả năng huy động

Doanh nghiệp không thể quyết định đầu tư thực hiện dự án vượt xa khả năng tài chính của mình

      1. Trình tự ra quyết định đầu dài hạn

Quyết định đầu tư cũng là một quyết định tài chính dài hạn của doanh nghiệp, nó ảnh hưởng rất lớn đến tương lai của doanh nghiệp. Thông thường để quyết định đầu tư cần thực hiện các bước cần thiết sau đây:

  • Phân tích tình hình, xác định cơ hội đầu tư hay định hướng đầu tư: Đây là vấn đề hết sức quan trong để đi đến quyết định đầu tư. Việc phân tích tình hình bao gồm đánh giá tình hình hiện tại và dự đoán tình hình trong tương lai ở bên ngoài cũng như ở bên trong doanh nghiệp.

Cần thu thập thông tin và phân tích, đánh giá tình hình hiện tại về các mặt thị trường, cạnh tranh, sự tiến bộ của kỹ thuật và công nghệ sản xuất…, và những thay đổi trong tương lai. Việc phân tích và đánh giá tình hình bên ngoài là vấn đề rất phức tạp và cũng vô cùng quan trọng đối với doanh nghiệp, bởi khi có đánh giá và dự đoán đúng mới giúp doanh nghiệp xác định hướng đầu tư thích ứng với sự thay đổi của tình hình. Nếu dự đoán sai tình hình có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng cho doanh nghiệp trong tương lai. Tiếp theo cần phân tích, đánh giá đùng tình hình hiện tại của doanh nghiệp về năng lực sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, tình hình tài chính…đối với tình hình bên ngoài. Rút ra những mặt mạnh, mặt còn hạn chế trong sản xuất kinh doanh và khả năng tài chính để xác định hướng đầu tư thích hợp.

  • Xác định mục tiêu đầu tư: Mỗi quyết định đầu tư của doanh nghiệp đều phải xác định rõ mục tiêu cần đạt được về sản xuất và về tài chính. Mục tiêu được xác định mang tính dài hạn.
  • Lập dự án đầu tư: Sau khi xác định mục tiêu đầu tư và xem xét tình hình kinh doanh hiện tại, những yếu tố dữ kiện liên quan đến khả năng đầu tư trong tương lai cần phải tiến hành lập các dự án để giải quyết nhiệm vụ kinh tế được đặt ra cho việc đầu tư. Trong mỗi dự án đầu tư phải trình bày rõ luận chứng kinh tế kỹ thuật của việc đầu tư và dự toán để thực hiện việc đầu tư.
  • Đánh giá, thẩm định dự án và lựa chọn dự án đầu tư: Sau khi dự án được thành lập sẽ tiến hành đánh giá, thẩm định dự án. Đây là quá trình kiểm tra, xem xét một cách khách quan, khoa học và toàn diện các nội dung cơ bản của dự án nhằm đánh giá tính hợp lý, tính hiệu quả và tính khả thi của dự án để có sự lựa chọn thích ứng
  • Ra quyết định đầu tư: Chọn được dự án đầu tư tối ưu cần xem xét khả năng thực hiện và cuối cùng đi đến việc ra quyết định đầu tư.
    1. Xác định dòng tiền của dự án

97

      1. Các nguyên tắc bản khi xác định dòng tiền của dự án

Xem xét trên góc độ tài chính thì đầu tư là bỏ tiền chi ra ngày hôm nay để hy vọng thu về những khoản tiền thu nhập lớn hơn trong tương lai. Do vậy, đầu tư là một quá trình phát sinh ra các dòng tiền gồm dòng tiền ra và dòng tiền vào của dự án.

Dòng tiền ra: Là những khoản tiền mà doanh nghiệp chi ra để thực hiện dự án đầu tư Dòng tiền vào: Là những khoản tiền thu nhập do dự án đầu tư mang lại

Xác định dòng tiền của dự án phải dựa trên những nguyên tắc sau:

+ Đánh giá dự án cần dựa trên cơ sở đánh giá dòng tiền tăng thêm do dự án đầu tư đưa lại chứ không dựa vào lợi nhuận kế toán. Dòng tiền mặt cho phép các nhà đầu tư biết được lượng tiền thực có ở từng thời điểm mà doanh nghiệp được phép sử dụng để có những quyết định mới: hoặc dùng tiền đó để trả nợ, hoặc trả lợi tức cho cổ đông, hoặc tăng vốn luân chuyển, hoặc đầu tư tài sản cố định… Trong khi đó nếu sử dụng lợi nhuận kế toán thì không thể đưa ra những quyết định như vậy được. Bởi lợi nhuận kế toán một mặt phụ thuộc vào phương pháp hạch toán kế toán của doanh nghiệp mặt khác doanh thu để tính lợi nhuận kế toán bao gồm cả phần doanh thu bán chịu, làm cho doanh nghiệp có thể có lợi nhuận nhưng lại không có tiền.

+ Phải tính đến chi phí cơ hội khi xem xét dòng tiền của dự án. Chi phí cơ hội là khoản thu nhập mà nhà đầu tư có thể thu được từ dự án tốt nhất còn lại. Chi phí cơ hội ở đây muốn nói đến chính là phần thu nhập cao nhất có thể có được từ tài sản sở hữu của doanh nghiệp nếu nó không sử dụng cho dự án. Chi phí cơ hội không phải là một khoản thực chi nhưng vẫn được tính vào vì đó là một khoản thu nhập mà doanh nghiệp phải mất đi khi thực hiện dự án. Ví dụ: Một doanh nghiệp có thể cho thuê mặt bằng nhà máy với giá 1.300 trđ/năm hoặc sử dụng để sản xuất mặt hàng mới. Như vậy, nếu dự án sản xuất mặt hàng mới được triển khai thì doanh nghiệp đã mất đi cơ hội có được thu nhập cho thuê mặt bằng với mức 1.300 trđ/năm. Khoản thu nhập 1.300 trđ/năm từ việc cho thuê mặt bằng phải được xem là chi phí cơ hội của dự án sản xuất sản phẩm mới.

+ Không được tính chi phí chìm vào dòng tiền của dự án. Chi phí chìm là những khoản chi phí của những dự án đầu tư quá khứ (những chi phí đã xảy ra rồi) không còn khả năng thu hồi mà doanh nghiệp phải hoàn toàn gánh chịu bất kể dự án có được chấp thuận hay không. Chúng không liên quan đến dự án đầu tư lới nên nó không được đưa vào để phân tích.

+ Phải tính đến yếu tố lạm phát khi xem xét dòng tiền. Lạm phát có ảnh hưởng rất lớn đến dòng tiền thu vào và dòng tiền chi ra của dự án đồng thời ảnh hưởng đến chi phí cơ hội của vốn. Lạm phát cao có thể làm cho thu nhập mang lại từ dự án trong tương lai không đủ bù đắp cho khoản đầu tư hôm nay. Do đó, nếu có lạm phát phải tính đến ảnh hưởng của lạm phát đến dòng tiền và tỷ lệ chiết khấu dòng tiền khi đánh giá dự án.

98

+ Ảnh hưởng chéo: Phải tính đến ảnh hưởng của dự án đến các bộ phận khác của doanh nghiệp

      1. Xác định dòng tiền của dự án đầu
        1. Xác định dòng tiền ra của dự án

Những khoản chi tiêu liên quan đến việc bỏ vốn thực hiện đầu tư tạo thành dòng tiền ra của đầu tư. Vốn đầu tư có thể bỏ rải rác trong nhiều năm, cũng có thể bỏ ra ngay một lần (theo phương thức chìa khóa trao tay). Tùy theo tính chất của các khoản đầu tư có thể xác định được khoản chi cụ thể của dự án. Thông thường đối với những dự án đầu tư điển hình (là những dự án tạo ra sản phẩm, dịch vụ) thì nội dung dòng tiền ra của đầu tư dự án gồm:

          • Những khoản chi để hình thành nên tài sản cố định hữu hình và tài sản cố định vô hình, những khoản chi liên quan đến hiện đại hóa để nâng cấp máy móc thiết bị khi dự án đi vào hoạt động
          • Vốn đầu tư để hình thành vốn lưu động thường xuyên, cần thiết cho dự án khi dự án đi vào hoạt động bao gồm: Số vốn đầu tư vào TSLĐ thường xuyên cần thiết ban đầu đưa dự án vào hoạt động và số vốn lưu động thường xuyên cần thiết bổ sung thêm trong quá trình hoạt động của dự án khi có sự tăng về qui mô kinh doanh.

Thông thường để xác định dòng tiền chi về vốn lưu động, đặc biệt đối với vốn lưu động bổ sung người ta đưa ra qui tắc: Khi có nhu cầu vốn lưu động tăng thêm ở năm nay thì việc bổ sung vốn lưu động được thực hiện ở cuối năm trước.

        1. Xác định dòng tiền vào của dự án đầu

Mỗi dự án đầu tư sẽ đưa lại khoản tiền thu nhập ở một hay một số thời điểm khác nhau trong tương lai tạo thành dòng tiền vào của dự án. Việc xác định dòng tiền vào của dự án đầu tư là vấn đề rất phức tạp, phải căn cứ vào tính chất của khoản đầu tư để lượng định các khoản thu nhập do đầu tư tạo ra một cách thích hợp. Dòng tiền vào của dự án bao gồm:

  1. Dòng tiền thuần hoạt động hàng năm: Là khoản chênh lệch giữa số tiền thu được (dòng tiền vào) và số tiền chi ra (dòng tiền ra) phát sinh từ hoạt động thường xuyên hàng năm khi dự án đi vào hoạt động. Đối với một dự án đầu tư trong kinh doanh tạo ra doanh thu bán hàng hóa hoặc dịch vụ thì dòng tiền thuần từ hoạt động hàng năm của dự án được xác định trực tiếp bằng chênh lệch giữa dòng tiền vào do bán sản phẩm, hàng hóa với dòng tiền ra do mua vật tư và chi phí khác bằng tiền liên quan đến việc sản xuất, tiêu thụ sản phẩm hàng hóa và tiền thuế thu nhập mà doanh nghiệp phải nộp.

Hoặc có thể tính gián tiếp như sau:

Dòng tiền thuần = Lợi nhuận sau thuế + Khấu hao TSCĐ hoạt động hàng năm hàng năm hàng năm

99

  1. Số tiền thuần từ thanh lý tài sản khi kết thúc dự án: Là số tiền còn lại từ thu nhập thanh lý tài sản sau khi đã nộp thuế thu nhập về thanh lý tài sản (nếu có), có thể xảy ra 3 trường hợp sau:

+ Khoản thu nhập từ nhượng bán tài sản bằng giá trị còn lại của tài sản cố định, trường hợp này không có lãi, lỗ). Do đó không phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp từ khoản nhượng bán thanh lý tài sản.

Thu nhập từ = Số tiền thu được do – Chi phí liên quan đến

thanh lý tài sản nhượng bán, thanh lý TSCĐ nhượng bán thanh lý TSCĐ

+ Khoản thu nhập từ nhượng bán tài sản lớn hơn giá trị còn lại của tài sản cố định (trường hợp này có lãi và phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp)

+ Khoản thu nhập từ nhượng bán tài sản nhỏ hơn giá trị còn lại của tài sản cố định, trường hợp này bị lỗ vốn do nhượng bán, thanh lý TSCĐ,khoản lỗ này xét về nguyên lý sẽ làm giảm thuế thu nhập mà doanh nghiệp phải nộp.

  1. Thu hồi vốn lưu động thường xuyên đã ứng ra

Khi dự án đưa vào hoạt động, doanh nghiệp đã đầu tư vốn lưu động thường xuyên cần thiết (đầu tư ban đầu khi dự án bắt đầu hoạt động và đầu tư bổ sung thêm trong quá trình hoạt động). Toàn bộ số vốn lưu động đã ứng ra để được thu hồi lại đầy đủ theo nguyên tắc số vốn lưu động đã được ứng ra bao nhiêu phải thu hồi hết bấy nhiêu. Thời điểm thu hồi có thể thu hồi dần hoặc có thể thu hồi toàn bộ một lần khi kết thúc dự án.

    • Xác định dòng tiền thuần hàng năm của đầu tư và dòng tiền thuần của dự án

Dòng tiền thuần hàng năm của đầu tư: được xác định là số chênh lệch của dòng tiền thu vào và dòng tiền chi ra phát sinh hàng năm do đầu tư đưa lại và có thể xác định theo công thức sau:

Dòng tiền thuần hàng năm của đầu tư = Dòng tiền thuần hoạt động hàng năm - Khoản đầu tư mới tăng thêm (nếu có) + Số tăng thêm (+) hoặc giảm bớt (-) vốn lưu động thường xuyên + Số tiền thuần thu từ thanh lý tài sản cố định (nếu có)

    • Dòng tiền thuần của dự án đầu tư: Là dòng tiền tăng thêm do DAĐT đưa lại, góp phần tăng thêm dòng tiền và gia tăng giá trị của doanh nghiệp so với trước khi có dự án. Dòng tiền thuần của DAĐT có thể được xác định bằng cách lấy tổng giá trị dòng tiền vào do dự án tạo ra trừ đi tổng giá trị dòng tiền ra của dự án hoặc có thể xác định bằng công thức sau:

Dòng tiền thuần của dự án đầu tư = Tổng dòng tiền thuần hàng năm của đầu tư - Vốn đầu tư ban đầu

Để thuận tiện cho việc hoạch định dòng tiền của đầu tư, người ta sử dụng qui ước

sau:

100

+ Số vốn đầu tư ban đầu được qui ước phát sinh ra ở thời điểm t = 0

+ Dòng tiền vào hoặc dòng tiền ra của dự án có thể phát sinh ra ở các thời điểm khác nhau trong 1 năm đều được qui về thời điểm cuối năm để tính toán.

        1. Ảnh hưởng của khấu hao đến dòng tiền của dự án đầu

Về mặt lý thuyết, doanh nghiệp có thể áp dụng các phương pháp tính khấu hao tính khấu hao như: Phương pháp khấu hao theo đường thẳng, phương pháp khấu hao nhanh, phương pháp khấu hao theo sản lượng. Vì khấu hao là một khoản chi phí được tính vào chi phí hoạt động hàng năm của doanh nghiệp và được khấu trừ vào thu nhập chịu thuế. Vì vậy, nếu thay đổi phương pháp khấu hao tính thuế sẽ ảnh hưởng rất lớn đến dòng tiền sau thuế của dự án đầu tư.

CFht = CFkt (1- t%) + KHt .t% Trong đó:

CFht: Dòng tiền thuần hoạt động của dự án năm t CFkt: Dòng tiền trước thuế chưa kể khấu hao ở năm t KHt: Mức khấu hao TSCĐ năm t

t%: Thuế suất thuế thu nhập DN

KHt .t%: Mức tiết kiệm thuế do khấu hao ở năm t

Dòng tiền thuần trước thuế chưa kể khấu hao (CFkt) = Doanh thu thuần – Chi phí hoạt động bằng tiền (không kể khấu hao)

Từ công thức trên cho thấy, phần chi phí khấu hao càng cao thì dòng tiền thuần hàng năm của dự án càng cao. Như vậy, nếu doanh nghiệp áp dụng phương pháp khấu hao nhanh thì trong những năm đầu sử dụng tài sản, do khấu hao càng cao dòng tiền mặt thu về hàng năm sẽ cao, và càng những năm cuối của thời gian sử dụng tài sản cố định nếu các yếu tố khác không có gì thay đổi thì dòng tiền thuần hàng năm của doanh nghiệp sẽ càng giảm đi.

Giá trị thời gian của tiền

Yếu tố lãi suất

Lãi suất là giá cả mà người đi vay phải trả cho người cho vay để được sử dụng tiền trong một thời gian nhất định hay nói cách khác lãi suất là giá cả của vốn

Khi thực hiện cơ chế lãi suất tín dụng thị trường thì giá cả của vốn sẽ do quan hệ cung cầu quyết định

Hoạt động của doanh nghiệp gắn liền với việc hình thành và sử dụng vốn tiền tệ. Do vậy các doanh nghiệp phải xem xét yếu tố lãi suất để quyết định cơ cấu tài chính của mình một cách hợp lý để lựa chọn các nguồn vốn và hình thức huy động vốn

101

Ở mỗi mức lãi suất tiền vay khác nhau sẽ tương ứng với một mức vốn đầu tư của một dự án cho lợi nhuận

Giá trị theo thời gian của tiền

Thực tiễn của các hoạt động kinh tế đã chỉ rõ rằng giá trị của tiền luôn thay đổi ở những thời kỳ khác nhau. Chẳng hạn nếu ta có 1 triệu đồng đem đầu tư hoặc cho vay với lãi suất 8%/năm thì sau 1 năm sẽ nhận được số tiền là 1,08 triệu đồng. Nói cách khác: 1 triệu đồng ngày hôm nay có giá trị 1,08 triệu đồng sau 1 năm nếu lãi suất là 8%/năm. Điều này hàm ý nói rằng: tiền tệ có giá trị theo thời gian, 1 đồng mà ta nhận được tại thời điểm ngày hôm nay có giá hơn 1 đồng nhận được tại một thời điểm nào đó trong tương lai (nếu lãi suất đầu tư >0)

Như vậy, giá trị tiền tệ phải được xem xét cả hai khía cạnh: số lượng và thời gian. Giá trị tiền ở các thời điểm khác nhau không thể cộng lại đơn giản với nhau được. Đây là vấn đề hết sức quan trọng, chi phối nhiều đến quyết định đầu tư và các quyết định tài chính khác.

Thời giá của tiền phụ thuộc vào lãi suất. Nó thể hiện quan hệ tỷ lệ giữa tiền lãi trong một đơn vị thời gian với số vốn gốc trong thời gian đó.

Tiền lãi

Lãi suất =

Vốn gốc

Đơn vị thời gian: Có thể là 1 năm, 1 quí, 1 tháng…Yếu tố lãi suất trong các quyết định tài chính phải bao hàm cùng một lúc cả 3 nhân tố: chính sách lãi suất hiện hành, rủi ro (sự không chắc chắn) trong tương lai và yếu tố lạm phát.

Để hiểu rõ hơn khái niệm giá trị theo thời gian của tiền, chúng ta xét giá trị tiền tệ ở hai thời điểm: Hiện tại và tương lai.

        1. Giá trị tương lai của tiền
  1. Lãi đơn, lãi kép và giá trị tương lai
  • Lãi đơn:
    • Là số tiền lãi được xác định dựa trên số vốn gốc (vốn đầu tư ban đầu) với 1 lãi suất nhất định
    • Đặc điểm: Chỉ có vốn sinh lời còn lãi không sinh lời
    • Áp dụng trong các nghiệp vụ tài chính ngắn hạn

*. Lãi kép:

    • Là số tiền lãi được xác định dựa trên cơ sở số tiền lãi của các thời kỳ trước đó được gộp vào vốn gốc để làm căn cứ tính tiền lãi cho các thời kỳ tiếp theo

102

    • Đặc điểm: Chẳng những vốn sinh ra lãi mà lãi cũng sinh ra lãi (lãi mẹ đẻ lãi con)
    • Áp dụng trong các nghiệp vụ tài chính dài hạn
  • Giá trị tương lai: Là giá trị có thể nhận được tại 1 thời điểm trong tương lai bao gồm số vốn gốc và toàn bộ số tiền lãi tính đến thời điểm đó
    • Trường hợp tính theo lãi đơn:

Giá trị tương lai tính theo lãi đơn hay còn gọi là giá trị đơn được xác định theo công

thức:

thức:

Fn = V0 (1 + i.n)

Trong đó: Fn: Giá trị tương lai (Giá trị đơn) tại thời điểm cuối kỳ thứ n V0: Số vốn gốc (vốn đầu tư ban đầu)

i: Lãi suất/kỳ (kỳ: Tháng, quí, 6 tháng, năm…) n: Số kỳ tính lãi

+ Lãi đơn tính như sau: I = V0 .i.n

- Trường hợp tính lãi kép:

Giá trị tương lai tính theo lãi kép hay còn gọi là giá trị kép được xác định theo công

FVn = V0 (1+i)n

Trong đó: FVn : Giá trị kép nhận được tại thời điểm cuối kỳ thứ n V0, i, n như trên

Trong công thức trên (1+i)n được gọi là thừa số lãi, nó biểu thị giá trị tương lai của 1

đồng sau n kỳ với lãi suất mỗi kỳ là i tính theo phương pháp lãi kép. Giá trị của nó phụ thuộc vào lãi suất 1 kỳ (i) và số kỳ tính lãi (n). Có thể sử dụng ký hiệu f(i,n) để biểu thị thừa số lãi: (1+i)n = f(i,n). Từ đó, công thức tính giá trị kép ở trên có thể viết dưới dạng sau:

FVn = V0. f(i, n)

* Chú ý:

  • Để thuận tiện cho việc tính toán khi sử dụng một số phép toán tài chính người ta lập bảng tính sẵn gọi bảng tài chính. Căn cứ vào bảng tài chính số 1 có thể dễ dàng tìm được giá trị (1+i)n với các giá trị tương ứng của i và n
  • Nếu đơn vị thời gian của i và n không đồng nhất thì trước tiên phải biến đổi công thức cơ bản để chúng đồng nhất với nhau rồi mới áp dụng công thức (Nếu i tính theo năm)

+ Nếu i tính theo năm còn n tính theo tháng thì: I =

+ Nếu i tính theo năm còn n tính theo ngày thì: I =

103

dụ: Một người gửi tiền tiết kiệm 100 triệu đồng theo kỳ hạn gửi là 1 năm với lãi suất 10%/năm. Sau 5 năm người đó mới rút tiền gốc và lãi. Hỏi sau 5 năm người đó nhận được số tiền là bao nhiêu?

Giải: 1. Tính theo lãi kép

Số tiền ở cuối năm thứ 5 người đó nhận được là:

FV5 = 100. (1+10%)5 = 100.[f(10%,5)] = 100 * 1,611 = 161,6 tr.đồng

2. Tính theo lãi đơn

Nếu kỳ hạn gửi tiền là 5 năm với lãi suất 10%/năm (5 năm tính lãi 1 lần) thì sau 5 năm người đó chỉ nhận được số tiền (theo cách tính lãi đơn) là:

F5 = 100 * (1+10%*5) = 150 tr.đồng

So sánh giá trị kép và giá trị đơn chênh lệch là: 161,1 – 150 = 11,1 tr.đồng

  1. Giá trị tương lai của một chuỗi tiền tệ

Phần trên chúng ta đã tính giá trị tương lai của một khoản tiền đơn lẻ. Trong thực tế hiện tượng thường gặp là có nhiều khoản tiền phát sinh liên tục theo những khoảng cách thời gian bằng nhau tạo thành một chuỗi các khoản tiền tệ. Khoảng cách giữa hai khoản tiền phát sinh liền nhau được tính theo năm, quí, tháng…còn gọi là một kỳ hay một thời kỳ.

Tùy theo thời điểm phát sinh các khoản tiền ở cuối mỗi kỳ hay ở đầu mỗi kỳ mà người ta có thể phân biệt thành chuỗi tiền tệ trả cuối kỳ và chuỗi tiền tệ trả đầu kỳ

Ta có sơ đồ về chuỗi tiền tệ như sau:

+ Chuỗi tiền tệ trả cuối kỳ

0 1 2 3 n-1

PV1

PV2 PV3

…....

PVn

Trong đó: PV1, PV2, …PVn là các khoản tiền phát sinh ở các thời điểm cuối kỳ thứ nhất, thứ hai,…thứ n.

+ Chuỗi tiền tệ trả đầu kỳ

0 1 2 3 n- 1 n

PV1

PV2

PV3

…….

PVn

104

Trong đó: PV1, PV2, …PVn là các khoản tiền phát sinh ở các thời điểm đầu kỳ thứ nhất, thứ hai,…thứ n.

Giá trị tương lai của một chuỗi tiền tệ được xác định bằng tổng giá trị tương lai của tất cả các khoản tiền trong chuỗi tiền tệ đó.

  • Giá trị tương lai của một chuỗi tiền tệ cuối kỳ
    • Trường hợp các khoản tiền phát sinh ở cuối mỗi kỳ không bằng nhau: FV = PV1 (1+i)n-1 + PV2 (1+i)n-2 + + PVn

Hay FV =

Trong đó: FV: Giá trị tương lai của chuỗi tiền tệ trả cuối kỳ FVt: Giá trị khoản tiền phát sinh cuối kỳ t

i: Lãi suất/kỳ n: Số kỳ

dụ: Anh Tư gửi vào ngân hàng liên tục trong 5 năm số tiền gửi mỗi năm lần lượt là 20 triệu, 22 triệu, 22 triệu, 25 triệu, 25 triệu. Ngay sau lần gửi thứ 5, anh Tư rút hết ra. Hỏi tổng số tiền anh Tư rút ra là bao nhiêu? Biết rằng lãi suất tiền gửi là 8%/năm

Giải: Tổng số tiền rút ra là giá trị cuối của số tiền gửi

FV = 20(1+8%)4+22(1+8%)3+22(1+8%)2+25(1+8%)+25=132,5842 triệu

    • Trường hợp các khoản tiền phát sinh ở cuối mỗi kỳ bằng nhau:

Khi các khoản tiền phát sinh ở cuối các thời điểm bằng nhau (PV1 = PV2 = …PVn = A) thì giá trị tương lai của chuỗi tiền tệ được xác định như sau:

FV = A x

Trong đó: FV: Giá trị tương lai của chuỗi tiền tệ trả cuối kỳ A: Giá trị khoản tiền đồng nhất ở cuối các kỳ

i: Lãi suất/kỳ n: Số kỳ

Giá trị của biểu thức được tính sẵn trong bảng tài chính số 3

Ví dụ: Lấy ví dụ trên nhưng số tiền gửi mỗi năm là 22 triệu đồng FV = 22*=22* 5,8666 = 129,06522

FV = 10 * = 10 * 15,9374 = 159,374 (trđ)

  • Giá trị tương lai của một chuỗi tiền tệ đầu kỳ
    • Trường hợp các khoản tiền phát sinh ở đầu mỗi kỳ không bằng nhau:

105

FV = PV1(1+i)n +PV2(1+i)n-1 + PVn(1+i)

FV, =

Trong đó: FV, : Giá trị tương lai của chuỗi tiền tệ trả đầu kỳ PVt : Khoản tiền phát sinh ở thời điểm đầu kỳ thứ t i,n: Như trên

    • Trường hợp các khoản tiền phát sinh ở đầu mỗi kỳ bằng nhau: (PV1=PV2= …PVn = A)

FV, = A x

Trong đó: FV, : Giá trị tương lai của chuỗi tiền tệ trả đầu kỳ

A: Giá trị khoản tiền đồng nhất phát sinh ở đầu các kỳ i,n: Như trên

dụ: Ông A muốn để dành tiền cho con đi học đại học. Ngay từ lúc mới sinh con, ông dự định sẽ mua bảo hiểm nhân thọ của công ty bảo hiểm AIA với mức đóng phí đều đặn hàng năm là 7 triệu đồng, lãi suất ổn định ở mức 6%/năm. Hỏi khi con ông tròn 18 tuổi, hợp đồng bảo hiểm kết thúc thì số số tiền ông A sẽ được thanh toán là bao nhiêu?

Giải: Số tiền ông A được thanh tóan khi hợp đồng kết thúc là: (giả sử ông A gửi tiền vào đầu các năm)

FV, = 7* = 7*30,9057*1,06 = 229,32 triệu

        1. Giá trị hiện tại của tiền
  1. Giá trị hiện tại của một khoản tiền

Giá trị hiện tại của 1 khoản tiền (còn gọi là hiện giá) là giá trị của khoản tiền phát sinh trong tương lai được qui về thời điểm hiện tại (thời điểm gốc) theo 1 tỷ lệ chiết khấu nhất định

Như trên đã nêu, lãi suất được coi là giá trị của thời gian và rủi ro. Vì thế, để tính đổi giá trị của một khoản tiền trong tương lai về giá trị hiện tại, người ta phải sử dụng một lãi suất như một công cụ để chiết khấu giá trị theo thời gian. Có thể xem xét ví dụ sau: Một người hiện tại có 10 triệu đồng và cho vay sẽ được trả với lãi suất 10%/năm, như vậy sau 1 năm người đó có số tiền là: 10.(1+10%) = 11 triệu đ. Điều đó có nghĩa giá trị hiện tại của khoản tiền 11 triệu đ là 10 triệu đ. Vậy nếu sau 1 năm sẽ thu được số tiền là 11 triệu đ thì giá trị hiện tại của nó sẽ là 11/1+10% = 10 triệu đồng. Từ đó giá trị hiện tại của một khoản tiền phát sinh tại một thời điểm trong tương lai được xác định bằng công thức tổng quát:

PV = FVn *

Trong đó:

106

PV: Giá trị hiện tại của khoản tiền phát sinh trong tương lai FVn: Giá trị khoản tiền tại thời điểm cuối kỳ n trong tương lai i: Tỷ lệ chiết khấu hay tỷ lệ hiện tại hoá

n: Số kỳ chiết khấu

được gọi là hệ số chiết khấu hay hệ số hiện tại hoá, nó biểu thị giá trị hiện tại của 1 đồng phát sinh ở cuối kỳ thứ n trong tương lai và được ký hiệu là p(i,n). Vậy công thức trên có thể viết như sau:

PV = FVn * p(i,n)

Có thể sử dụng bảng tài chính số 2 để xác định giá trị hiện tại của 1 đồng ( ) với các giá trị tương ứng i và n.

Như vây, thực chất của cách tính giá trị hiện tại là phép tính ngược của cách tính giá trị tương lai. Phương pháp tính như trên được gọi là phương pháp hiện tại hóa giá trị hay phương pháp chiết khấu giá trị.

Từ công thức tính giá trị hiện tại của một khoản tiền nêu trên có thể rút ra nhận xét:

  • Thời điểm phát sinh khoản tiền càng xa thời điểm hiện tại thì giá trị hiện tại của khoản tiền càng nhỏ
  • Tỷ lệ chiết khấu hay tỷ lệ hiện tại hoá càng lớn thì giá trị hiện của khoản tiền càng

nhỏ

  1. Giá trị hiện tại của một chuỗi tiền tệ

* Giá trị hiện tại của chuỗi tiền tệ cuối kỳ

- Trường hợp các khoản tiền phát sinh ở cuối mỗi kỳ không bằng nhau

Giả sử có các khoản tiền FV1, FV2, …FVn phát sinh ở cuối các thời kỳ khác nhau trong tương lai (cuối kỳ thứ nhất, thứ hai,…thứ n), ta có giá trị hiện tại của các khoản tiền được xác định bằng công thức sau:

PV =

PV = hoặc =

Trong đó: PV: Giá trị hiện tại của chuỗi tiền tệ cuối kỳ

FVt: Giá trị của khoản tiền phát sinh ở cuối kỳ thứ t i: Tỷ lệ chiết khấu

n: Số kỳ

- Trường hợp các khoản tiền phát sinh ở cuối mỗi kỳ bằng nhau:

107

Khi các khoản tiền phát sinh ở các thời điểm cuối kỳ trong tương lai đều bằng nhau (FV1 = FV2 = …= FVn = A) thì giá trị hiện tại của các khoản tiền đó được xác định bằng công thức:

PV = A *

Trong đó: PV: Giá trị hiện tại của chuỗi tiền tệ cuối kỳ

A: Giá trị khoản tiền đồng nhất phát sinh ở cuối các kỳ trong tương lai i, n: như trên

Có thể sử dụng bảng tài chính số 4 để xác định giá trị của biểu thức với các giá trị tương ứng i và n

dụ: Doanh nghiệp A mua một số thiết bị theo phương thức thanh toán trả dần mỗi năm 1 lần trong thời gian 10 năm, mỗi năm trả số tiền là 80 triệu đồng, sao cho năm cuối cùng vừa hết nợ. Lần trả đầu tiên được thực hiện sau 1 năm kể từ ngày mua hàng. Tính số tiền phải trả qui về thời điểm hiện tại. Biết lãi suất thị trường tính là 12%/năm

Giải: Số tiền phải trả qui về thời điểm hiện tại là:

PV = 80 *= 452 trđ

* Giá trị hiện tại của chuỗi tiền tệ đầu kỳ

- Trường hợp các khoản tiền phát sinh ở đầu mỗi kỳ không bằng nhau: PV = FV1 +

PV = *

Hoặc PV =

Trong đó: PV : Giá trị hiện tại của chuỗi tiền tệ đầu kỳ

FVt : Giá trị của khoản tiền phát sinh ở thời điểm đầu kỳ thứ t trong tương lai

i: Tỷ lệ chiết khấu 1 kỳ n: Số kỳ

- Trường hợp các khoản tiền phát sinh ở đầu mỗi kỳ bằng nhau (FV1 = FV2 = …FVn =

A):

PV = A x

Trong đó: PV: Giá trị hiện tại của chuỗi tiền tệ đầu kỳ

A: Giá trị khoản tiền đồng nhất phát sinh ở đầu các thời kỳ trong tương

lai

108

Trong thực tế để xem xét và đưa ra quyết định đầu tư người ta thường hay tính giá trị hiện tại của tiền hơn là giá trị tương lai. Việc xem xét giá trị hiện tại của tiền có ý nghĩa rất lớn trong kinh tế. Trước hết, với phương pháp xác định giá trị hiện tại cho phép xem xét các vấn đề tài chính của doanh nghiệp dưới một góc độ mới có tính đến yếu tố thời gian và sự rủi ro để từ đó đưa ra các quyết định kinh doanh đúng đắn hơn.

    1. Các phương pháp chủ yếu đánh giá lựa chọn dự án đầu

Để đánh giá và lựa chọn dự án đầu tư trước hết cần phải tiến hành phân loại các dự án. Căn cứ vào mối quan hệ giữa các dự án, có thể phân chia các dự án đầu tư thành hai loại: Loại dự án đầu tư độc lập và loại dự án đầu tư loại trừ nhau.

+ Dự án đầu tư độc lập là dự án mà khi được chấp thuận hay bị loại bỏ không ảnh hưởng già đến các dự án khác.

+ Dự án loại trừ nhau hay dự án xung khắc là loại dự án mà khi một dự án này được thực hiện thì những dự án khác còn lại sẽ bị loại bỏ. Chẳng hạn một công ty vận tải cần chở hàng đang xem xét hai khả năng là nên mua hay thuê phương tiện đó. Đây là hai dự án loại trừ nhau. Việc quyết định cuối cùng chọn dự án đầu tư là thuộc trách nhiệm và thẩm quyền của những người lãnh đạo doanh nghiệp. Để giúp cho việc ra quyết định đúng đắn, bộ phận tài chính doanh nghiệp có nhiệm vụ tham gia ý kiến tham mưu với lãnh đạo doanh nghiệp. Vì thế, bộ phận tài chính doanh nghiệp cần nắm được nhuwnhx phương pháp nhất định về lựa chọn dự án đầu tư. Có nhiều phương pháp lựa chọn dự án đầu tư, trên góc độ tài chính để xem xét người ta thường sử dụng một số phương pháp chủ yếu sau:

Phương pháp thời gian hoàn vốn đầu tư (PP)

Phương pháp này chủ yếu dựa vào chỉ tiêu thời gian thu hồi vốn đầu tư để lựa chọn dự

án

Thời gian hoàn vốn đầu tư (Thời gian thu hồi vốn) là khoảng thời gian cần thiết mà dự

án tạo ra dòng tiền thuần bằng chính số vốn đầu tư ban đầu để thực hiện dự án.

Thời gian hoàn vốn càng ngắn, dự án đầu tư càng hấp dẫn.

Để xác định thời gian thu hồi vốn đầu tư của dự án có thể chia làm 2 trường hợp:

Trường hợp 1: Nếu dự án đầu tư tạo ra chuỗi tiền tệ thu nhập đều đặn hàng năm thì thời gian thu hồi vốn đầu tư được xác định theo công thức:

Vốn đầu tư ban đầu

Thời gian thu hồi vốn đầu tư (năm) =

Dòng tiền thuần hàng năm của đầu tư

Trường hợp 2: Dự án đầu tư tạo ra chuỗi tiền tệ thu nhập không ổn định ở các năm.

Thời gian thu hồi vốn đầu tư được xác định theo cách sau:

109

+ Xác định số năm thu hồi vốn đầu tư bằng cách tính số vốn đầu tư còn phải thu hồi ở cuối năm lần lượt theo thứ tự

VĐT còn phải thu hồi = Số vốn ĐT chưa thu – Dòng tiền thuần của đầu tư ở cuối năm t hồi ở cuối năm (t-1) của đầu tư năm t

+ Khi số vốn đầu tư còn phải thu hồi ở cuối năm nào đó nhỏ hơn dòng tiền thuần của đầu tư năm kế tiếp thì cần xác định thời gian (số tháng) thu hồi nốt vốn đầu tư trong năm kế tiếp

Số tháng thu hồi VĐT Số vốn đầu tư chưa thu hồi cuối năm (t-1) x 12 trong năm t =

Dòng tiền thuần của năm t

Tổng hợp số năm và số tháng thu hồi vốn đầu tư chính là thời gian thu hồi vốn đầu tư của dự án

* Đánh giá dự án:

+ Đối với dự án loại trừ nhau: Dự án có thời gian thu hồi vốn ngắn nhất sẽ được lựa

chọn

+ Đối với dự án độc lập: Dự án có thời gian thu hồi vốn dài hơn thời gian thu hồi vốn

tiêu chuẩn sẽ bị loại bỏ

* Ví dụ: Hai dự án đầu tư A và B có số vốn đầu tư là 150 triệu đồng (bỏ vốn 1 lần). Khoản thu nhập dự kiến (bao gồm khấu hao và lợi nhuận sau thuế) ở các năm trong tương lai như sau:

Bảng số 6.1 : Dòng tiền thuần của dự án

Đơn vị tính: Triệu đồng

Năm

1

2

3

4

5

Dự án A

60

50

50

40

40

Dự án B

30

50

70

80

80

Ta có: Thời gian thu hồi của dự án A được tính như sau:

Bảng số 6.2:

Đơn vị tính: Triệu đồng

Năm

Dòng tiền

của DA

Vốn đầu còn phải

thu hồi cuối năm

Thời gian thu hồi

lũy kế

0

(150)

(150)

2

1

60

(90)

2

50

(40)

3

50

40/50 *12 = 9,6

4

40

5

30

110

Thời gian thu hồi vốn đầu tư của dự án A: TA= 2+*12 = 2 năm và 9,6 tháng Tương tự thời gian thu hồi vốn đầu tư của dự án B là: 3 năm

  • Ưu điểm: Đơn giản, dễ tính toán, phù hợp với những dự án qui mô vừa và nhỏ hoặc với chiến lược thu hồi vốn nhanh, tăng vòng quay vốn
  • Hạn chế:

+ Chú trọng lợi ích ngắn hạn hơn lợi ích dài hạn. Những dự án có mức sinh lời chậm như dự án sản xuất sản phẩm mới hay xâm nhập vào thị trường mới thì phương pháp này không thích hợp

+ Không chú trọng tới yếu tố giá trị thời gian của tiền

Phương pháp thời gian thu hồi vốn có chiết khấu (DPP)

Thời gian thu hồi vốn có chiết khấu là khoảng thời gian cần thiết để tổng giá trị hiện tại tất cả dòng thu nhập trong tương lai của dự án vừa đủ bù đắp số vốn đầu tư bỏ ra ban đầu

Ví dụ: Vẫn ví dụ về 2 dự án A và B ở trên, giả định chi phí sử dụng vốn là 10% Thời gian thu hồi vốn có chiết khấu của dự án A như sau:

Bảng số 6.3:

Đơn vị tính: Triệu đồng

Năm

Dòng tiền của DA

Dòng tiền chiết khấu

Vốn đầu còn phải thu

hồi cuối năm

Thời gian thu hồi lũy kế (năm)

0

(150)

(150)

(150)

3

1

60

54,54

(95,46)

2

50

41,13

(54,33)

3

50

37,55

(16,78)

4

40

27,32

16,78/27,32= 0,61

5

30

18,63

TA = 3 năm + 0,61 x 12 = 3 năm và 7,3 tháng

Tương tự thời gian thu hồi vốn có chiết khấu của dự án B là: 3 năm và 6,3 tháng

Phương pháp thời gian thu hồi vốn có chiết khấu đã khắc phục được hạn chế của thời gian hoàn vốn đầu tư giản đơn là xem xét dự án có tính đến giá trị thời gian của tiền tệ. Tuy nhiên, phương pháp này vẫn mang đầy đủ những nhược điểm của phương pháp thời gian thu hồi vốn đơn giản.

Phương pháp giá trị hiện tại thuần (NPV)

Tiêu chuẩn đánh giá và lựa chọn dự án đầu tư chủ yếu là giá trị hiện tại thuần của dự

án.

111

Theo phương pháp này, tất cả các khoản thu nhập đạt được trong tương lai và vốn đầu tư bỏ ra để thực hiện dự án đều phải qui về giá trị hiện tại theo một tỷ lệ chiết khấu nhất định. Trên cơ sở đó so sánh giá trị hiện tại của thu nhập và giá trị hiện tại của vốn đầu tư để xác định giá trị hiện tại thuần của dự án.

Công thức tính như sau:

NPV =

Trong đó:

NPV: Giá trị hiện tại thuần của DAĐT CFt: Dòng tiền thuần của đầu tư ở năm t CF0: Vốn đầu tư ban đầu của DA

n: Vòng đời của DA

r: Tỷ lệ chiết khấu hay tỷ lệ hiện tại hóa

Tỷ lệ chiết khấu được sử dụng trong việc tính giá trị hiện tại thuần của DAĐT thường là chi phí sử dụng vốn, đó chính là tỷ suất sinh lời mà nhà đầu tư đòi hỏi

Như vậy, giá trị hiện tại thuần thể hiện giá trị tăng thêm do đầu tư đưa lại có tính đến yếu tố giá trị thời gian của tiền

Việc sử dụng giá trị hiện tại thuần làm tiêu chuẩn đánh giá lựa chọn dự án được xác định như sau:

  • Xác định giá trị hiện tại thuần của mỗi DAĐT
  • Đánh giá và lựa chọn dự án: Cần phân biệt 3 trường hợp:

+ Nếu giá trị hiện tại thuần của DA là 1 số âm (NPV<0) thì dự án bị loại bỏ

+ Nếu giá trị hiện tại thuần của DA là bằng không (NPV=0) thì tùy thuộc vào tình hình cụ thể và sự cần thiết của dự án mà doanh nghiệp có thể quyết định chấp thuận hay loại bỏ DA

+ Nếu giá trị hiện tại thuần của DA là 1 số dương (NPV>0): Nếu các dự án độc lập thì đều có thể được chấp thuận

Nếu các dự loại trừ nhau và vòng đời của các dự án bằng nhau thì sẽ chọn dự án có giá trị hiện tại thuần dương cao nhất (trong điều kiện không bị giới hạn khả năng huy động vốn đầu tư)

dụ: Hai dự án đầu tư A và B cùng đòi hỏi vốn đầu tư ban đầu là 100 triệu đồng và dự kiến sẽ kéo dài trong 3 năm. Theo tính toán ban đầu, dự án A sẽ mang lại các khoản thu nhập ròng lần lượt trong các năm từ năm thứ nhất đến năm thứ ba là: 10 trđ, 60trđ và 80trđ.

112

Tương tự, dòng tiền của dự án B là 70 trđ, 50 trđ và 20 trđ. Chi phí sử dụng vốn bình quân nhà đầu tư phải chịu khi huy động vốn là 10%. Hãy cho biết:

  1. Nếu 2 dự án độc lập với nhau, chọn dự án nào?
  2. Nếu 2 dự án loại trừ lẫn nhau, chọn dự án nào? NPVA =

Tương tự NPVB = 19,95 trđ

Kết luận: Nếu 2 dự án độc lập với nhau, chọn cả 2 dự án Nếu 2 dự án loại trừ nhau, chọn dự án B vì NPVB >NPVA

  • Ưu điểm của phương pháp

+ Đã tính đến yếu tố giá trị theo thời gian của tiền

+ Cho phép đo lường trực tiếp giá trị tăng thêm do vốn đầu tư tạo ra từ đó, giúp cho việc đánh giá và lựa chọn dự án phù hợp với mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận của doanh nghiệp

+ Có thể tính đến giá trị hiện tại thuần của dự án đầu tư bằng cách cộng giá trị hiện tại thuần của nhiều dự án với nhau. Nghĩa là:

NPV (A + B) + NPVA + NPVB

Trong khi các phương pháp khác không thể có tính chất này.

  • Hạn chế của phương pháp:

+ Không phản ánh mức sinh lời của đồng vốn đầu tư

+ Không cho thấy mối liên hệ giữa mức sinh lời của vốn đầu tư và chi phí sử dụng vốn

+ Không thể đưa ra kết quả lựa chọn khi các dự án không đồng nhất về mặt thời gian cũng như xếp hạng ưu tiên trong việc lựa chọn các dự án đầu tư khi nguồn vốn của doanh nghiệp bị giới hạn

Phương pháp tỷ suất doanh lợi nội bộ (IRR)

Tỷ suất doanh lợi nội bộ hay còn gọi là lãi suất hoàn toàn mới vốn nội bộ là một lãi suất mà chiết khấu với mức lãi suất đó làm cho giá trị hiện tại của các khoản tiền thuần hàng năm trong tương lai do đầu tư mang lại bằng với vốn đầu tư ban đầu. Hay nói cách khác, tỷ suất doanh lợi nội bộ là một lãi suất mà chiết khấu với mức lãi suất đó làm cho giá trị hiện tại thuần (NPV) của khoản đầu tư bằng không (=0).

Ta có:

Hoặc: NPV =

Trong đó: NPV, CFt, CFo như đã nêu ở trên

IRR: Tỷ suất doanh lợi nội bộ của DAĐT

113

Tỷ suất doanh lợi nội bộ cũng là một trong những đại lượng phản ánh mức sinh lời của DAĐT.

Để xác định được tỷ suất doanh lợi nội bộ của dự án, người ta thường sử dụng 2 phương pháp: Phương pháp thử và xử lý sai số và phương pháp nội suy.

  • Phương pháp thử và xử lý sai số: Theo phương pháp này trước tiên người ta phải tự chọn một lãi suất và sử dụng lãi suất đó làm tỷ lệ chiết khấu để tìm giá trị hiện tại của các khoàn thu, giá trị hiện tại của vốn đầu tư và so sánh chúng với nhau để xác định giá trị hiện tại thuần của dự án.

Nếu giá trị hiện tại thuần của dự án khác không tương đối lớn thì tiếp tục thử lại bằng cách nâng mức lãi suất lên (nếu NPV>0) hoặc hạ mức lãi suất xuống (nếu NPV<0), cứ làm như vậy cho đến khi tìm được một mức lãi suất làm cho giá trị hiện thuần của DAĐT bằng không hoặc xấp xỉ bằng không thì lãi suất đó chính là tỷ suất doanh lợi nội bộ (IRR) của dự án.

  • Phương pháp nội suy: Theo phương pháp này, việc xác định tỷ suất doanh lợi nội bộ của dự án được thực hiện theo các bước sau:

Bước 1: Chọn một mức lãi suất tuỳ ý r1 sau đó tính giá trị hiện tại thuần của dự án (NPV1) theo lãi suất r1.

Bước 2: Chọn tiếp một mức lãi suất r2 thoả mãn điều kiện:

+ Nếu giá trị hiện tại thuần NPV1 là một số dương (NPV1>0) thì chọn lãi suất r2>r1 sao cho với r2 sẽ là cho giá trị hiện tại thuần của dự án là một số âm (NPV2 <0) và ngược lại.

+ Để đảm bảo mức độ chính xác cao hơn thì chênh lệch giữa r1 và r2 trong khoảng 5%.

Bước 3: Tỉm tỷ suất doanh lợi nội bộ của dự án: Tỷ suất doanh lợi nội bộ (IRR) của dự án sẽ nằm trong khoảng r1 và r2 và được xác định theo công thức:

IRR = r1 + ( r2 - r1)

dụ: Một dự án đầu tư, dự kiến số vồn đầu tư bỏ ngay 1 lần là 150 triệu đồng, thời gian hoạt động của dự án kéo dài trong 3 năm. Dự kiến thu nhập do dự án mang lại trong các năm lần lượt là 40 triệu đồng, 60 triệu đồng và 90 triệu đồng. Hãy tìm tỷ suất doanh lợi nội bộ của dự án trên.

Có thểm tìm IRR gần đúng bằng phương pháp nội suy như sau: Ta có: NPV =

+ Chọn r1 = 12% => NPV1 = -2,38

+ Chọn r2 = 10% => NPV2 = 3,51

=> IRR = 12% + (10% - 12%) x

114

IRR còn gọi là tỷ lệ hoàn vốn nội bộ (tỷ lệ hoàn vốn từ những khoản thu nhập của một dự án). Điều đó có nghĩa là nếu dự án chỉ có tỷ lệ hoàn vốn (IRR) bằng chi phí sử dụng vôố, thì các khoản thu nhập từ dự án chỉ đủ để hoàn trả phần vốn goóc đã đầu tư vào dự án và trả lãi.

Việc đánh giá và lựa chọn DAĐT bằng phương pháp tỷ suất daonh lợi nội bộ (IRR) được thực hiện theo trình tự sau:

+ Xác định tỷ suất doanh lợi nội bộ của DAĐT.

+ Đánh giá và lựa chọn dự án: Khi sử dụng tỷ suất doanh lợi nội bộ làm tiêu chuẩn xem xét chấp nhận hay loại bỏ dự án, thông thường người ta dự trên cơ sở so sánh tỷ suất doanh lợi nội bộ với chi phí sử dụng vốn cho dự án (r) và cần phân biệt 3 trường hợp sau:

Trường hợp 1: Tỷ suất doanh lợi nội bộ của dự án nhỏ hơn chi phí sử dụng vốn (IRR<r) thì loại bỏ dự án.

Trường hợp 2: Tỷ suất doanh lợi nội bộ của dự án bằng chi phí dựng vốn (IRR=r) thì tuỳ theo điều kiện cụ thể và sự cần thiết của dự án mà doanh nghiệp có thể chấp nhận hay loại bỏ dự án.

Trường hợp 3: Tỷ suất doanh lợi nội bộ của dự án lớn hơn chỉ sử dụng vốn (IRR>r):

  • Nếu đây là dự án độc lập thì dự án được chấp nhận.
  • Nếu là dự án thuộc loại loại trừ nhau thì chọn dự án có tỷ suất doanh lợi nôi bộ cao

nhất.

Ưu, nhược điểm của phương pháp tỷ suất doanh lợi nội bộ:

+ Phương pháp này cho phép đánh giá được mức sinh lời của dự án có tính đến yếu tố

giá trị thời gian của tiền.

+ Cho phép dễ dàng so sánh mức sinh lời của dự án với chi phí sử dụng vốn, thấy được mối liên hệ giữa việc huy động vốn và hiệu quả sử dụng vốn trong việc thực hiện dự án đầu tư.

+ Cho phép đánh giá khả năng bù đắp chi phí sử dụng vốn của DAĐT so với tính rủi ro của nó (trong khi phương pháp NPV không cung cấp cho ban lãnh đạo doanh nghiệp những thông tin như vậy). CHẳng hạn, nếu dự án có IRR>r, nghĩa là thu nhập sau khi đã trừ chi phí đầu tư còn lại một khoản lãi, nó được tích luỹ lại làm tăng tài sản xủa doanh doanh nghiệp. Do vậy việc chọn các dự án có IRR lớn hơn chi phí sử dụng vốn sẽ làm tăng tài sản của doanh nghiệp. Mặt khác, nếu chọn dự án có IRR nhỏ hơn chi phí sử dụng sẽ dẫn tới tình trạng thâm hụt vốn làm giảm tài sản của doanh nghiệp.

Tuy nhiên phương pháp này cũng có những hạn chế nhất định:

115

+ Trong phương pháp TSDLNB thu nhập của dự án được giả định tái đầu tư với lãi suất bằng với TSDLNB của dự án. ĐIều đó khônng thật phù hợp với thực tế nhất là đối với ẹư án có tỷ suất doanh lợi nội bộ ở mức cao.

+ Phương pháp này không chú trọng đến quy mô vốn đầu tư nên có thể dẫn đến trường hợp kết luận chưa thoả đáng khi đánh giá dự án, vì tỷ suất doanh lợi nội bộ luôn luôn cao đối với những dự án có quy mô nhỏ.

+ Áp dụng phương pháp tỷ suất doanh lợi nội bộ sẽ rất khó khăn trong đánh giá lựa chọn dự án có nhiều tỷ suất doanh lợi nội bộ và có thể dẫn đến sai lầm trong việc lựa chọn dự án.

Một dự án sẽ có nhiều tỷ suất doanh lợi nộ bộ khác nhau khi dòng tiền của dự án đổi dấu nhiều lần (trường hợp dự án có đầu tư bổ sung và dự án có tái đầu tư…).

Giả sử 2 dự án A và B loại trừ nhau có dòng tiền ở các năm như sau:

Bảng số 6.4: Dòng tiền của dự án

Đơn vị tính: triệu đồng

Năm

0

1

2

3

A

-600

320

280

240

B

-100

430

-591,25

262,5

Với NPVA = O => IRRA = 20%

Với NPVB = 0 có 3 giá trị IRR khác nhau: 5%, 25% và 100%.

Phương pháp chỉ số sinh lời (PI)

Chỉ số sinh lời cũng là một thước đo khả năng sinh lời của một dự án đầu tư có tính đến yếu tố giá trị thời gian của tiền.

Chỉ số sinh lời được xác định bằng tỷ lệ giữa giá trị hiện tại của các khoản thu nhập từ dự án và vốn đầu tư ban đầu của dự án.

PI =

Trong đó: PI: Chỉ số sinh lời của dự án

CFt, CF0 như đã nêu ở trên

R: Tỷ lệ chiết khấu, thường sử dụng là chi phí sử dụng vốn để thực hiện

dự án.

dụ: Dự án đầu tư A với chi phí sử dụng vốn của dự án là 10% và dòng tiền của dự

án như sau:

Bảng số 6.5:

Năm

NPV (10%)

IRR

116

0

1

2

Dòng tiền (Trđ)

-1.000

600

600

41

13,06%

PI = = 1,041

Chỉ số PI cho biết thu nhập ròng của dự án sẽ đủ để hoàn trả vốn gốc, trả lãi, còn lại là phần giá trị tăng thêm tương đương 4,1% của vốn đầu tư ban đầu.

Việc sử dụng chỉ số sinh lời làm tiêu chuẩn để đánh giá lựa chọn dự án đầu được thực hiện như sau:

+ Xác định cỉ số sinh lời của mỗi dự án đầu tư

+ Đánh giá và lựa chọn dự án: Căn cứ vào chỉ số sinh lời có thể xem xét 3 TH sau:

Trường hợp 1: Chỉ số sinh lời của dự án nhỏ hơn 1 (PI<1) sẽ loại bỏ dự án

Trường hợp 2: Chỉ số sinh lời của dự án bằng 1 (PI = 1), tùy điều kiện có thể chấp thuận hay loại bỏ dự án

Trường hợp 3: Chỉ số sinh lời của dự án lớn hơn 1 (PI>1):

  • Nếu đây là dự án độc lập thì dự án được chấp thuận
  • Nếu đó là các dự án loại trừ nhau thì thông thường dự án có chỉ số sinh lời (PI) cao nhất là dự án sẽ được lựa chọn

Ưu điểm của phương pháp:

+ Phương pháp này cho phép đánh giá khả năng sinh lời của dự án đầu tư có tính đến giá trị thời gian của tiền.

+ Cho thấy mối liên hệ giữa các khoản thu nhập do dự án đưa lại với số vốn đầu tư bỏ ra để thực hiện dự án.

+ Có thể sử dụng chỉ số sinh lời trong việc so sánh các dự án có số vốn đầu tư khác nhau để thấy được mức sinh lời của giữa các dự án.

+ Trong trường hợp nguồn vốn bị giới hạn, nếu phải ưu tiên lựa chọn một số dự án trong nhiều dự án khác nhau thì phương pháp chỉ số sinh lời tỏ ra hữu hiệu hơn.

Giả sử doanh nghiệp có 3 dự án đầu tư với chi phí sử dụng vốn bằng 10% và dòng tiền của các dự án như sau:

Bảng số 6.6:

Dự án

Dòng tiền các năm (trđ)

NPV 10%

PI

0

1

2

A

-1.000

600

800

206,6

1,21

B

-2.000

1.200

1.500

330,6

1,17

C

-1.000

400

1.000

190,6

1,19

Khả năng tài trợ vốn của doanh nghiệp hạn chế ở mức 2.000 trđ

117

  • Dựa vào tiêu chuẩn NPV sẽ chọn dự án B, loại A, C. Vì NPVB = 330,6 trđ
  • Nếu chọn dự án A và C ta sẽ thu được 206,6 + 190,6 = 396,7 trđ với số tiền vốn đầu tư bằng dự án

Như vậy, nếu dựa theo chỉ số sinh lời sẽ cho phép chọn dự án A và C loại dự án B.

+ Phương pháp này thường cũng giả định tỷ lệ tái đầu tư bằng với mức chi phí sử dụng vốn, điều này cũng tương tự như trong phương pháp giá trị hiện tại thuần.

Nhược điểm của phương pháp: Phương pháp này không phản ánh trực tiếp giá trị tăng thêm của dự án đầu tư, vì thế nếu sử dụng phương pháp chỉ số sinh lời có thể dẫn đến quyết định sai lầm.

CHƯƠNG 7

PHÂN TÍCH DỰ BÁO NHU CẦU TÀI CHÍNH CỦA DOANH NGHIỆP

Phân tích tài chính doanh nghiệp

Phân tích tài chính là vấn đề hết sức quan trọng trong việc đánh giá tình hình doanh nghiệp. Thông qua việc phân tích tài chính cho phép đánh giá được khái quát và toàn diện các mặt hoạt động của doanh nghiệp, thấy rõ những điểm mạnh, những điểm yếu và những tiềm năng của doanh nghiệp. Đối với những người quản lý doanh nghiệp, mục tiêu của việc phân tích tài chính chủ yếu là:

  • Đánh giá tình hình tài chính và kết quả hoạt động kinh doanh, từ đó đưa ra các dự báo và kế hoạch tài chính cùng các quyết định tài chính thích hợp.
  • Phân tích tài chính nhằm kiểm soát các mặt hoạt động của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó đưa ra các biện pháp quản lý thích ứng để thực hiện các mục tiêu của doanh nghiệp.

Đối với người ngoài doanh nghiệp như những người cho vay và các nhà đầu tư .v.v thì thông qua việc phân tích tài chính để đánh giá khả năng thanh toán, khả năng sinh lời và hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh để có quyết định về cho vay, thu hồi nợ hoặc đầu tư vào doanh nghiệp. Nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp rất phong phú. Phần dưới đây, chỉ đề cập nội dung phân tích một số vấn để chủ yếu tại cơ sở cho việc dự báo, lập kế hoạch tài chính của doanh nghiệp

Phân tích các hệ số tài chính của doanh nghiệp

        1. Nội dung tài liệu phân tích hệ số tài chính

118

Một trong những phương pháp phân tích thường được sử dụng để đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp là phân tích các hệ số tài chính.

Thông qua việc phân tích các hệ số tài chính cho phép đánh giá tổng quát tình hình tài chính của một doanh nghiệp.

Các hệ số tài chính phản ánh đặc trưng tài chính của doanh nghiệp gồm:

  • Hệ số về khả năng thanh toán
  • Hệ số về cơ cấu tài chính và tình hình đầu tư
  • Hệ số về hoạt động
  • Hệ số sinh lời

Tài liệu chủ yếu để phân tích các hệ số tài chính là bảng cân đối kế toán và Bản báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Các báo cáo tài chính là cánh cửa quan trọng để nhận biết tình hình tài chính của doanh nghiệp.

  1. Bảng cân đối kế toán

Bảng cân đối kế toán là một báo cáo tài chính tổng hợp, phản ảnh tổng quát toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp theo hai cách đánh giá: Tài sản và nguồn vốn hình thành tài sản tại thời điểm lập báo cáo. Bảng cân đối kế toán là bức ảnh tài chính của doanh nghiệp tại một thời điểm. Bảng cân đối kế toán được lập theo nguyên tắc cân đối:

TỔNG TÀI SẢN = TỔNG NGUỒN VỐN

Về mặt kinh tế, qua việc xem xét phần “Tài sản”, cho phép đánh giá tổng quát năng lực và trình độ sử dụng vốn. Về mặt pháp lý, phần “Tài sản” thể hiện số tiềm lực mà doanh nghiệp có quyền quản lý, sử dụng lâu dài gắn với mục đích thu được các khoản lợi ích trong tương lai.

Phần “Tài sản” nằm bên trái (với bảng kết cấu theo kiểu hai bên) của bảng cân đối kế toán, phản ánh qui mô và kết cấu các loại tài sản của doanh nghiệp. Toàn bộ tài sản gồm hai loại:

    1. Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn

Phản ánh tổng giá trị tài sản thuộc quyền sở hữu của công ty có đến thời điểm báo cáo. Đây là những tài sản mà thời gian sử dụng, luân chuyển thường dưới một năm hoặc một chu kỳ kinh doanh. Tài sản lưu động bao gồm: Tiền, Các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn; Các khoản phải thu; Hàng tồn kho; Tài sản lưu động khác; Chi sự nghiệp

    1. Tài sản cố định và đầu tư dài hạn

Tài sản cố định và đầu tư dài hạn là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh toàn bộ giá trị còn lại của tài sản cố định, giá trị thực của các khoản đầu tư tài chính dài hạn, các khoản chi phí xây

119

dựng cơ bản dở dang và các khoản ký cược, ký quĩ dài hạn của doanh nghiệp tại thời điểm báo cáo.

Kế toán tài sản cố định phải phản ánh ba giá trị của tài sản cố định. Nguyên giá, giá trị hao mòn và giá trị còn lại. Tài sản cố định bao gồm toàn bộ tài sản cố định hiện có thuộc sở hữu của doanh nghiệp hình thành từ các nguồn vốn khác nhau. Ngoài ra, còn bao gồm cả tài sản cố định mà doanh nghiệp thuê dài hạn (thuê tài chính). Tài sản cố định bao gồm: Tài sản cố định; Các khoản đầu tư tài chính dài hạn; Chi phí xây dựng cơ bản dở dang; Các khoản ký quĩ, ký cược dài hạn.

Khi xem xét phần “Nguồn vốn”, về mặt kinh tế, người sử dụng thấy được thực trạng tài chính của doanh nghiệp. Về mặt pháp lý, người sử dụng bảng cân đối kế toán thấy được trách nhiệm của doanh nghiệp về tổng số vốn đã đăng ký kinh doanh với Nhà nước, về số tài sản đã hình thành bằng vốn vay ngân hàng và vốn vay đối tượng khác cũng như trách nhiệm phải thanh toán các khoản nợ với người lao động, với cổ đông, nhà cung cấp, với trái chủ, với ngân sách…

Phần “Nguồn vốn” nằm bên phải (với bảng kết cấu kiểu hai bên) của bảng CĐKT, phản ánh cơ cấu nguồn vốn được huy động vào sản xuất kinh doanh. Nó cho biết, tài sản của doanh nghiệp được hình thành, được tài trợ từ đâu. Toàn bộ nguồn vốn được chia thành hai mục lớn là nợ phải trả và nguồn vốn chủ sở hữu.

  1. Bản báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh

Bản báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh là báo cáo tài chính tổng hợp phản ánh kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong một thời kì nhất định.

Số liệu trên báo cáo này cung cấp những thông tin tổng hợp về phương thức kinh doanh, về việc sử dụng các tiềm năng vốn, lao động, kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý của doanh nghiệp và chỉ ra rằng các hoạt động kinh doanh đó đem lại lợi nhuận hay gây ra tình trạng lỗ vốn.

Đây là một báo cáo tài chính được những nhà quản lý tài chính doanh nghiệp rất quan tâm, vì nó được cung cấp số liệu về hoạt động kinh doanh mà doanh nghiệp đã thực hiện trong kỳ. Nó được coi như một bản hướng dẫn để dự tính xem doanh nghiệp đã hoạt động ra sao trong tương lai.

Nội dung của báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh có thể thay đổi theo từng thời kỳ, tuỳ theo yêu cầu quản lý, nhưng phải phản ánh được 4 nội dung cơ bản sau: doanh thu, giá vốn hàng bán, chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp.

Nội dung báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh gồm 2 phần như sau:

Phần I: Lãi, lỗ, phản ánh tình hình và kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp theo từng hoạt động. Về thực chất, phần I phản ánh chi phí và kết quả kinh doanh theo 3 hoạt động: Hoạt động sản xuất kinh doanh; Hoạt động tài chính; Hoạt động khác

120

Phần II: Tình hình thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước

  1. Chú ý

Khi sử dụng các hệ số tài chính cần chú ý là các hệ số tự nó không có mấy ý nghĩa, chúng chỉ thực sự có ý nghĩa khi được so sánh:

  • So sánh hệ số kỳ này với hệ số kỳ trước của cùng doanh nghiệp, qua đó xem xét xu hướng thay đổi về tình hình tài chính của doanh nghiệp.
  • So sánh với các hệ số trung bình của các doanh nghiệp trong ngành để đánh giá thực trạng tài chính của doanh nghiệp hoặc so sánh với doanh nghiệp tiên tiến trong ngành để rút ra những nhận định về tình hình tài chính của doanh nghiệp và đưa ra các quyết định tài chính phù hợp.

Khi sử dụng các hệ số tài chính, người phân tích phải hiểu được các yếu tố tham gia vào cấu trúc của hệ số, trên cơ sở đó mới có thể đánh giá được sâu sắc tình hình tài chính doanh nghiệp.

Dưới đây, sẽ phân tích các hệ số tài chính thông qua số liệu của công ty X:

Biểu: Trích bảng cân đối kế toán của công ty X

Ngày 31 tháng 12 năm N Đơn vị tính: Triệu đồng

TT

Tài sản

Số đầu

kỳ

Số cuối kỳ

T T

Nguồn vốn

Số đầu kỳ

Số cuối kỳ

A

Tài sản lưu động đầu ngắn

hạn

380

460

A

Nợ phải trả

500

590

I

Tiền và các khoản

tương đương tiền

60

80

I

Nợ ngắn hạn

110

140

1

Tiền

50

75

1

Vay và nợ ngắn

hạn

15

30

2

Các khoản tương

đương tiền

10

5

2

Phải trả người

bán

30

50

II

Các khoản đầu tư

tài chính ngắn hạn

-

-

3

Người mua trả

tiền trước

-

-

III

Các khoản phải thu

70

100

4

Thuế và các

khoản phải nộp nhà nước

17

25

IV

Hàng tồn kho

250

280

5

Phải trả công

nhân viên

48

35

V

Tài sản ngắn hạn

-

-

II

Nợ dài hạn

390

450

121

khác

B

Tài sản cố định

đầu dài hạn

420

560

-

Vay và nợ dài

hạn

I

Các khoản phải

thu dài hạn

-

-

B

Vốn chủ sở

hữu

300

430

II

Tài sản cố định

380

490

I

Vốn chủ sở hữu

300

410

-

Nguyên giá

510

665

-

Vốn đầu tư của

chủ sở hữu

240

310

-

Giá trị hao mòn

luỹ kế

(130)

(175)

-

Thặng dư vốn

cổ phần

15

29

III

Bất động sản đầu

-

-

-

Quĩ đầu tư phát

triển

20

28

IV

Các khoản đầu tư

tài chính dài hạn

30

50

-

Quĩ dự phòng

tài chính

15

17

V

Tài sản dài hạn

khác

10

20

-

Lợi nhuận chưa

phân phối

10

26

II

Nguồn kinh phí

và quĩ khác

-

20

Tổng cộng tài sản

800

1.020

Tổng cộng

nguồn vốn

800

1.020

Biểu: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm N của công ty X

Đơn vị tính: Triệu đồng

Chỉ tiêu

Năm trước

Năm nay

1

Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ

1.370

1.700

2

Các khoản giảm trừ

150

195

3

Doanh thu thuần về bán hàng và cung cấp dịch vụ

1.220

1.505

4

Giá vốn hàng bán

960

1.175

5

Lợi nhuận gộp về bán hàng và cung cấp dịch vụ

260

330

6

Chi phí bán hàng

55

80

7

Chi phí quản lý doanh nghiệp

85

110

8

Lợi nhuận bán hàng và cung cấp dịch vụ

120

140

9

Doanh thu hoạt động tài chính

30

55

10

Chi phí hoạt động tài chính

60

85

Trong đó: Chi phí lãi vay

60

85

11

Lợi nhuận từ hoạt động tài chính

- 30

- 30

12

Thu nhập khác

-

-

13

Chi phí khác

14

Lợi nhuận khác

-

-

15

Tổng lợi nhuận trước thuế

90

110

16

Thuế thu nhập doanh nghiệp

22,5

27,5

17

Lợi nhuận sau thuế

67,5

82,5

        1. Phân tích tổng quát tình hình tài chính của doanh nghiệp

122

Dựa trên cơ sở số liệu của Bảng cân đối kế toán và Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, phân tích tổng quát tình hình tài chính doanh nghiệp nhằm nhìn nhận bao quát ban đầu tình hình của doanh nghiệp, thông thường cần xem xét một số biến động chủ yếu sau giữa cuối năm và đầu năm hoặc của năm nay so với năm trước:

          • Sự tăng, giảm tổng tài sản.
          • Sự biến động của nợ phải trả.
          • Sự tăng trưởng của doanh thu thuần bán hàng, giá vốn của hàng bán, lợi nhuận bán hàng, lợi nhuận sau thuế.

Qua nghiên cứu công ty X có thể thấy tổng sản lượng cuối kỳ so với đầu kỳ tăng 25% là số tăng khá lớn, trong khi đó nợ phải trả chỉ tăng 18%. Doanh thu thuần bán hàng năm nay so với năm trước tăng 22,95%, mặc dù có thấp hơn chút ít so với tốc độ tăng tài sản, nhưng nhìn chung tình hình tăng trưởng của công ty là khả quan. Giá vốn hàng bán chỉ tăng 22,4% thấp hơn tốc độ tăng doanh thu, đó là dấu hiệu tốt trong việc quản lý chi phí sản xuất và giá thành sản xuất. Lợi nhuận bán hàng tăng 20,1% và lợi nhuận sau thuế tăng 16,6% so với năm trước. Đây cũng là dấu hiệu tốt và sự phát triển của công ty, tuy vậy tốc độ tăng lợi nhuận chưa thỏa đáng so với sự tăng tài sản và doanh thu.

        1. Phân tích hệ số tài chính
  1. Hệ số khả năng thanh toán

Để đánh giá khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn khi chúng đến kỳ hạn thanh toán, người ta thường sử dụng các chi tiêu chủ yếu sau:

    • Hệ số khả năng thanh toán hiện thời hay khả năng thanh toán nợ ngắn hạn

Hệ số này được tính bằng cách lấy tổng tài sản lưu động tài sản ngắn hạn chia cho số nợ ngắn hạn của doanh nghiệp:

Hệ số khả năng

thanh toán hiện thời

Tổng tài sản ngắn hạn

=

Nợ ngắn hạn

Tổng tài sản lưu động bao hàm cả khoản đầu tư tài chính ngắn hạn. Số nợ ngắn hạn là những khoản nợ phải trả trong khoảng thời gian dưới 12 tháng bao gồm: Các khoản vay ngắn hạn, phải trả cho người bán, thuế và các khoản phải trả người lao động, nợ dài hạn đến hạn phải trả, các khoản phải trả khác có thời hạn dưới 12 tháng.

Hệ số này phản ánh khả năng chuyển đổi tài sản thành tiền để trang trải các khoản nợ ngắn hạn, vì thế, hệ số này cũng thể hiện mực độ đảm bảo thanh toán các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp.

123

Để đáng giá hệ số này cần dựa vào hệ số trung bình của các doanh nghiệp trong cùng ngành. Cần thấy rằng, hệ số này ở các ngành nghề kinh doanh khác nhau có sự khác nhau.

Một căn cứ quan trọng để đánh là so sánh với hệ số thanh toán ở các thời kỳ trước đó của doanh nghiệp.

Thông thường, khi hệ số này thấp thể hiện khả năng trả nợ của doanh nghiệp là yếu và cũng là dấu hiệu báo trước những khó khăn tiểm ẩn về tài chính mà doanh nghiệp có thể gặp phải trong việc trả nợ. Hệ số này cao cho thấy doanh nghiệp có khả năng cao trong việc sẵn sàng thanh toán các khoản nợ đến hạn.

Tuy nhiên, trong một số trường hợp hệ số này quá cao chưa chắc đã phản ánh năng lực thanh toán của doanh nghiệp là tốt. Do vậy để đánh giá đúng hơn cần xem xét thêm tình hình của doanh nghiệp.

Căn cứ vào Bảng cân đối kế toán của công ty X nêu trên có thể xác định:

Hệ số khả năng thanh toán hiện thời đầu kỳ

Hệ số khả năng thanh toán cuối kỳ

380

= ≈ 3,45 110

460

= ≈ 3,28 140

Giả sử hệ số trung bình của ngành là 2,5 thì hệ số thanh toán hiện thời của công ty ở cuối kỳ so với đầu kỳ là thấp hơn, tuy nhiên so với hệ số trung bình của ngành lại là quá cao. Điều này chưa chắc đã tốt, có thể công ty có một bộ phận hàng tồn kho bị ứ đọng lại ở khoản phải thu quá lớn. Để đánh giá được sát hơn cần kết hợp xem xét các chỉ tiêu khác hoặc đi sâu xem xét chi tiết hơn.

- Hệ số thanh toán nhanh

Là một chỉ tiêu đánh giá chặt chẽ hơn khả năng thanh toán của doanh nghiệp, được xác định bằng tài sản lưu động trừ đi hàng tồn kho và chia cho số nợ ngắn hạn. Ở đây, hàng tồn kho bị loại trừ ra, bởi lẽ trong tài sản lưu động, hàng tồn kho được coi là loại tài sản có tính thanh khoản thấp hơn. Hệ số này được xác định bằng công thức sau:

Hệ số thanh toán nhanh

Đối với công ty X:

Tổng tài sản ngắn hạn – Hàng tồn kho

=

Nợ ngắn hạn

Hệ số thanh toán nhanh đầu kỳ

380 -250

=

110

≈ 1,18

Hệ số thanh toán = 460 – 280 ≈ 1,28

124

nhanh cuối kỳ 140

Hệ số trung bình của ngành là 1,5. Như vậy, khả năng thanh toán nhanh của công ty ở cuối kỳ đã được cải thiện tốt hơn đầu kỳ, tuy nhiên, so với hệ số trung bình của ngành khi còn thấp. Điều đó cho thấy, công ty cần phải chú ý hơn việc đảm bảo khả năng thanh toán.

Ngoài hai hệ số trên, để đánh giá sát hơn khả năng thanh toán của doanh nghiệp còn có thể sử dụng chỉ tiêu hệ số vốn bằng tiền hay còn có thế gọi là hệ số thanh toán tức thời, được xác định bằng công thức sau:

Hệ số thanh toán tức thời

Tiền + các khoản tương đương tiền

=

Nợ ngắn hạn

Ở đây, tiền bao gồm tiền mặt, tiền gửi, tiền đang chuyển. Các khoản tương đương tiền là các khoản đầu tư ngắn hạn về chứng khoán, các khoản đầu tư ngắn hạn khác có thể dễ dàng chuyển đổi thành tiền trong thời hạn 3 tháng và không gặp rủi ro lớn. Đối với công ty X:

Hệ số thanh toán tức thời đầu kỳ

Hệ số thanh toán

60 tr

= ≈ 0,54

110 tr

80 tr

tức thời cuối kỳ

=

140 tr

≈ 0,57

Hệ số trung bình của ngành là 0,7. Hệ số vốn bằng tiên cuối kỳ so với đầu kỳ đã có sự tăng lên tương đối khá. Nhưng so với ngành vẫn còn thấp.

- Hệ số thanh toán lãi vay

Đây cũng là một hệ số cần xem xét khi phân tích kết cấu tài chính của doanh nghiệp và cũng phản ánh mức độ rủi ro có thể gặp phải đối với các chủ nợ.

Lãi tiền vay là khoản chi phí sử dụng vốn vay mà doanh nghiệp có nghĩa vụ phải trả đúng hạn cho các chủ nợ. Một doanh nghiệp vay nợ nhiều nhưng kinh doanh không tốt, mức sinh lời của đồng vốn quá thấp hoặc bị thua lỗ thì khó có thể đảm bảo thanh toán tiền lãi vay đúng hạn.

Hệ số thanh toán lãi vay được xác định theo công thức sau:

Hệ số thanh toán lãi vay

Lợi nhuận trước lãi vay và thuế

=

Số lãi tiền vay phải trả trong kỳ

Dựa vào số liệu của Bản báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh có thể xác định được hệ số này.

125

Đối với công ty X, hệ số thanh toán lãi tiền vay: Kỳ trước =

Kỳ này =

Hệ số trung bình của ngành là 2,2. Như vậy, công ty về cơ bản vẫn có thể đảm bảo khả năng thanh toán tiền lãi vay.

  1. Hệ số cơ cấu nguồn vốn và cơ cấu tài sản
    • Hệ số cơ cấu nguồn vốn: Là một hệ số tài chính hết sức quan trọng đối với nhà quản lý doanh nghiệp, với các chủ nợ cũng như nhà đầu tư.

Đối với các nhà quản lý doanh nghiệp thông qua hệ số nợ cho thấy sự độc lập về tài chính, mức độ sử dụng đòn bẩy tài chính và rủi ro tài chính có thể gặp phải để từ đó có sự điều chỉnh về chính sách tài chính phù hợp.

Đối với các chủ nợ qua xem xét hệ số nợ của doanh nghiệp thấy được sự an toàn của khoản cho vay để đưa ra các quyết định cho vay và thu hồi nợ.

Nhà đầu tư có thể đánh giá mức độ rủi ro tài chính của doanh nghiệp, trên cơ sở đó để cân nhắc việc đầu tư.

Hệ số cơ cấu nguồn vốn được thể hiện chủ yếu qua hệ số nợ

+ Hệ số nợ: Thể hiện việc sử dụng nợ của doanh nghiệp trong việc tổ chức nguồn vốn và điều đó cũng cho thấy mức độ sử dụng đòn bẩy tài chính của doanh nghiệp.

Tổng số nợ

Hệ số nợ =

Tổng nguồn vốn của doanh nghiệp

Tổng số nợ của doanh nghiệp bao gồm toàn bộ số nợ ngắn hạn và nợ dài hạn. Tổng nguồn vốn bao gồm tổng các nguồn vốn mà doanh nghiệp sử dụng.

Đối với công ty X, hệ số nợ:

Đầu kỳ = hay 62,5% Cuối kỳ = hay 58%

Hệ số nợ của ngành là 52%. Điều này cho thấy, mặc dù hệ số nợ ở cuối năm có giảm thấp hơn đầu năm, nhưng hệ số nợ của doanh nghiệp còn khá cao, nếu vốn vay không được sử dụng có hiệu quả làm tăng sẽ tăng rủi ro cho doanh nghiệp.

Cùng với hệ số nợ, có thể xác định hệ số vốn chủ sở hữu:

Hệ số vốn chủ sở hữu

Vốn chủ sở hữu

=

Tổng nguồn vốn

126

Hoặc = 1 – Hệ số nợ

    • Hệ số cơ cấu tài sản: Phản ánh mức độ đầu tư vào các loại tài sản của doanh nghiệp: Tài sản lưu động và tài sản ngắn hạn khác, tài sản cố định và tài sản dài hạn khác

Tỷ suất đầu tư vào tài sản ngắn hạn = hay tài sản lưu động

Tài sản ngắn hạn Tổng tài sản

Tỷ suất đầu tư vào tài sản dài hạn

Tài sản dài hạn

=

Tổng tài sản

Cần căn cứ vào ngành kinh doanh và tình hình kinh doanh cụ thể của doanh nghiệp để đánh giá mức độ hợp lý trong việc đầu tư vào các loại tài sản của doanh nghiệp.

Đối với công ty X tỷ suất đầu tư vào tài sản ngắn hạn: Đầu kỳ: = 0,475 hay 47,5%

Cuối kỳ: hay 45%

Tỷ suất đầu tư vào tài sản ngắn hạn của các doanh nghiệp trong ngành trung bình là 42%, như vậy tỷ suất đầu tư vào tài sản của công ty X có xu hướng tiến triển khá hợp lý.

  1. Hệ số hiệu suất hoạt động

Các hệ số hiệu suất hoạt động kinh doanh có tác dụng đo lường năng lực quản lý và sử dụng số vốn hiện có của doanh nghiệp. Thông thường, các hệ số hoạt động sau đây được sử dụng trong việc đánh giá mức độ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp:

    • Số vòng quay hàng tồn kho

Đây là một chỉ tiêu khá quan trọng để đánh giá hiệu suất sử dụng vốn của doanh nghiệp và được xác định bằng công thức sau:

Số vòng quay hàng tồn kho

Giá vốn hàng bán

=

Số hàng tồn kho bình quân trong kỳ

Số hàng tồn kho bình quân có thể tính bằng cách lấy số dư đầu kỳ cộng với số dư cuối kỳ và chia đôi. Số vòng quay hàng tồn kho cao hay thấp phụ thuộc rất lớn vào đặc điểm của ngành kinh doanh.

Thông thường, số vòng quay hàng tồn kho so với doanh nghiệp trong ngành chỉ ra rằng: Việc tổ chức và quản lý dự trữ của doanh nghiệp là tốt, doanh nghiệp có thể rút ngắn được chu kỳ kinh doanh và giảm được lượng vốn bỏ vào hàng tồn kho. Nếu số vòng quay hàng tồn kho thấp, thượng gọi lên doanh nghiệp có thể dự trữ vật tư quá mức dẫn đến tình trạng bị ứ đọng hoặc sản phẩm bị tiêu thụ chậm. Từ đó, có thể dẫn đến dòng tiền vào của doanh nghiệp bị giảm đi và có thể đặt doanh nghiệp vào tình thế khó khăn về tài chính trong

127

tương lai. Tuy nhiên, để đánh giá thỏa đáng cần xem xét cụ thể và sâu hơn tình thế của doanh nghiệp.

Đối với công ty X vòng quay hàng tồn kho bình quân trong năm N là: 4,4 vòng

Hệ số trung bình của ngành là 8 vòng. Như vậy hệ số vòng quay hàng tồn kho của công ty X là khá thấp, đòi hỏi công ty phải xem xét thêm hiệu suất sử dụng tài sản của doanh nghiệp.

    • Kỳ thu tiền trung bình

Là một hệ số hiệu suất hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, phản ánh độ dài thời gian thu tiền bán hàng của doanh nghiệp kể từ lúc xuất giao hàng cho đến khi thu được tiền bán hàng. Kỳ thu tiền trung bình của doanh nghiệp phụ thuộc vào chính sách bán chịu và việc tổ chức thanh toán của doanh nghiệp. Do vậy, khi xem xét kỳ thu tiền trung bình cần xem xét trong mối liên hệ với sự tăng trưởng doanh thu của doanh nghiệp. Khi kỳ thu thu tiền trung bình quá dài so với các doanh nghiệp trong ngành thì dễ dẫn đến tình trạng nợ khó đòi. Kỳ thu tiền trung bình có thể các định theo công thức sau:

Kỳ thu tiền

trung bình (ngày)

Đối với công ty X:

Số dư bình quân các khoản phải thu

=

Doanh thu bình quân 1 ngày trong kỳ

Kỳ thu tiền trung bình = = 18 ngày

Kỳ thu tiền trung bình của doanh nghiệp trong ngành là 20. Như vậy hệ số này của công ty gần sát với hệ số của ngành.

    • Số vòng quay vốn lưu động Doanh thu thuần Chỉ tiêu này đã được xem xét ở chương III =

Vốn lưu động bình quân Số vòng quay vốn lưu động của doanh nghiệp X ở trong kỳ:

≈ 3, 71vòng

Hệ số của ngành là 4,5 vòng. Như vậy, số vòng quay vốn của công ty thấp hơn so với hệ số trung bình của ngành. Cùng với việc xem xét các hệ số ở trên, điều này gợi lên cho thấy công ty X có khả năng bị ứ động hàng tồn kho.

    • Hiệu suất sử dụng vốn cố định và vốn dài hạn khác

Đây là một chỉ tiêu cho phép đánh giá mức độ sử dụng vốn cố định của doanh nghiệp trong kỳ:

128

Hiệu suất sử dụng vốn cố định và vốn dài hạn khác

Đối với công ty X:

Doanh thu thuần trong kỳ

=

Vốn cố định và vốn dài hạn khác

bình quân trong kỳ

Hiệu suất sử dụng vốn cố định và vốn dài hạn khác = = 3,18

Điều này có nghĩa là 1 đồng vốn cố định và vốn dài hạn khác trong kỳ tham gia tạo ra 3,18 đồng doanh thu.

Hệ số trung bình của ngành là 4,8. Như vậy, hiệu suất sử dụng vốn cố định của công ty X còn rất thấp so với mức của ngành.

    • Vòng quay tài sản hay toàn bộ vốn

Chỉ tiêu này phản ánh tổng quát hiệu suất sử dụng tài sản hay toàn bộ số vốn hiện có của doanh nghiệp và được xác định bằng công thức sau:

Vòng quay tài sản hay toàn bộ vốn trong kỳ

Doanh thu thuần trong kỳ

=

Số tài sản hay vốn kinh doanh bình quân

sử dụng trong kỳ

Xem xét công ty X vòng quay toàn bộ vốn trong kỳ:

= 1,71 vòng

Hệ số này chịu sự ảnh hưởng đặc điểm ngành kinh doanh, chiến lược kinh doanh và trình độ quản lý sử dụng tài sản vốn của doanh nghiệp.

Hệ số trung bình của ngành là 2,2 vòng. Điều này cho thấy hiệu suất sử dụng vốn của công ty X còn thấp.

  1. Hệ số sinh lời

Là thước đo đánh giá hiệu quả của hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nó là kết quả tổng hợp của hàng loạt biện pháp và quyết định quản lý của doanh nghiệp. Hệ số sinh lời bao gồm các chỉ tiêu chủ yếu sau:

    • Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên doanh thu hay hệ số lãi ròng

Hệ số này phản ánh mối quan hệ giữa lợi nhuận sau thuế và doanh thu thuần trong kỳ của doanh nghiệp. Nó thể hiện, khi thực hiện 1 đồng doanh thu trong kỳ, doanh nghiệp có thể thu được bao nhiêu lợi nhuận.

Tỷ suất lợi nhuận = Lợi nhuận sau thuế trong kỳ

129

sau thuế trên doanh thu (hệ số lãi ròng)

Doanh thu thuần trong kỳ

Với công ty X có thể xác định tỷ suất lợi nhuận doanh thu:

+ Năm trước =

+ Năm nay =

Tỷ suất lợi nhuận doanh thu của ngành là 5,5%. Qua đó cho thấy, tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên doanh thu của công ty có chiều hướng giảm và còn thấp so với doanh nghiệp trong ngành.

    • Tỷ suất lợi nhuận trước lãi vay và thuế trên vốn kinh doanh hay tỷ suất sinh lời kinh tế của tài sản (ROAE)

Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của tài sản hay vốn kinh doanh không tính đến ảnh hưởng của thuế thu nhập doanh nghiệp và nguồn gốc của vốn kinh doanh.

Tỷ suất sinh lời kinh tế của = tài sản (ROAE)

Lợi nhuận trước lãi vay và thuế Tài sản hay vốn kinh doanh bình quân

Đối với công ty X hệ số này là: 0,21 hay 21%

Hệ số này của ngành là 22% so với hệ số của ngành thì mức sinh lời của đồng vốn kinh doanh của công ty X còn thấp.

    • Tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên vốn kinh doanh

Chỉ tiêu này thể hiện mỗi đồng vốn kinh doanh trong kỳ có khả năng sinh lời ra bao nhiêu đồng lợi nhuận sau khi đã trang trải lãi tiền vay.

Tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên vốn kinh doanh

Lợi nhuận trước thuế trong kỳ

=

Vốn kinh doanh bình quân sử dụng trong kỳ

Đối với công ty X, tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên vốn kinh doanh:

= 0,12 hay 12 %

Hệ số này của ngành là 15%. Như vậy, tỷ suất lợi nhuận vốn kinh doanh của công ty là khá còn thấp.

    • Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn kinh doanh hay tỷ suất sinh lời ròng của tài sản (ROA)

Phản ánh mỗi đồng vốn sử dụng trong kỳ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế.

Tỷ suất lợi nhuận sau thuế = Lợi nhuận sau thuế

130

trên vốn kinh doanh (ROA) Vốn kinh doanh (hay tài sản) bình quân trong kỳ Chỉ tiêu này của công ty X là: = = 0,09 hay 9%

Hệ số này của ngành là 9,5%. Do vậy tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn kinh doanh

của công ty X là thấp.

    • Tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu (ROE)

Đây là một chỉ tiêu mà các nhà đầu tư rất quan tâm. Hệ số này đo lường mức lợi nhuận thu được trên mỗi đồng vốn của chủ sở hữu trong kỳ.

Tỷ suất lợi nhuận vốn

chủ sở hữu

Lợi nhuận sau thuế

=

Vốn chủ sở hữu bình quân sử dụng trong kỳ

Có thể xác định được tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp X là:

0,226 hay 22,6%

Hệ số của ngành là 20%. Như vậy, tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu của công ty là khá tốt so với hệ số trung bình của ngành.

    • Thu nhập một cổ phần (EPS)

Đây là chỉ tiêu rất quan trọng, nó phản ánh mỗi cổ phần thường (hay cổ phần phổ thông) trong năm thu được bao nhiêu lợi nhuận sau thuế.

Thu nhập

một cổ phần (EPS)

Lợi nhuận sau thuế - Cổ tức trả cho cổ đông ưu đãi

= (nếu có)

Tổng số cổ phần thường đang lưu hành

Hệ số EPS cao hơn so với các doanh nghiệp cạnh tranh khác là một trong những mục tiêu mà các nhà quản lý doanh nghiệp luôn hướng tới.

    • Cổ tức một cổ phần (DIV)

Chỉ tiêu này phản ánh mỗi cổ phần thường nhận được bao nhiêu đồng cổ tức trong

năm.

Thu nhập một

cổ phần thường (DIV)

- Hệ số trả cổ tức

Số lợi nhuận sau thuế dành trả cổ tức cho cổ đông thường

=

Số cổ phần thường đang lưu hành

Chỉ tiêu này phản ánh công ty đã dành ra bao nhiêu phần trăm (%) thu nhập để trả cổ tức cho cổ đông.

131

Lợi tức một cổ phần thường

Hệ số trả cổ tức =

Thu nhập một cổ phần thường trong năm

  1. Hệ số giá trị thị trường
    • Hệ số giá trên thu nhập (hệ số P/E)

Đây là một chỉ tiêu quan trọng thường được các nhà đầu tư sử dụng để xem xét lựa chọn dầu tư vào cổ phiếu của các Công ty. Hệ số này được xác định bằng công thức sau:

Hệ số giá trên thu = nhập

Giá thị trường một cổ phần Thu nhập một cổ phần

Chỉ tiêu này phản ánh nhà đầu tư hay thị trường trả giá bao nhiêu cho 1 đồng thu nhập của Công ty. Nhìn chung hệ số này cao là tốt, thể hiện sự đánh giá cao triển vọng Công ty của nhà đầu tư. Tuy nhiên, khi xây dựng hệ số này phải xem xét thận trọng.

    • Hệ số giá thị trường trên giá trị sổ sách (hệ số M/B) Hệ số được xác định theo công thức:

Hệ số giá thị trường trên giá trị sổ sách

Giá thị trường một cổ phần

=

Giá trị sổ sách một cổ phần

Hệ số này phản ánh mối quan hệ giữa giá thị trường và giá trị sổ sách một cổ phần của Công ty, nó cũng cho thấy sự tách rời giữa giá thị trường và giá trị sổ sách. Hệ số này nếu nhỏ hơn 1 là dấu hiệu xấu về triển vọng của Công ty, ngược lại nếu hệ số này quá cao đòi hỏi nhà đầu tư phải xem xét thận trọng trong việc quyết định đầu tư vào Công ty.

    • Tỷ suất cổ tức

Chỉ tiêu được xác định theo công thức sau:

Cổ tức một cổ phần

Tỷ suất cổ tức =

Giá thị trường một cổ phần

Chỉ tiêu này phản ánh, nếu nhà đầu tư bỏ ra 1 đồng đầu tư vào cổ phần của Công ty trên thị trường thì có thể thu được bao nhiêu cổ tức.

Trên đây đã xem xét từng hệ tài chính của doanh nghiệp. Để đánh giá tổng quát, xác đáng tình hình tài chính doanh nghiệp, cần xem xét tổng thể các hệ số tài chính, nhìn nhận mối liên hệ giữa các hệ số. Có thể xem Biểu tổng hợp các hệ số tài chính của doanh nghiệp.

Biểu: Các hệ số tài chính

132

T T

Các chỉ tiêu tài chính

Công ty X

Mức trung bình của ngành

Đánh giá

Năm N-1

Năm N

I

Hệ số thanh toán

1

Hệ số thanh toán hiện thời

3,45 lần

3,28 lần

2,5 lần

Quá cao

2

Hệ số thanh toán nhanh

1,18 lần

1,28 lần

1,5 lần

Thấp

3

Hệ số thanh toán tức thời

0,54

0,57

0,7

Thấp

4

Hệ số thanh toán lãi vay

2,5

2,29

2,2

Được

II

Hệ số cấu nguồn vốn

1

Hệ số nợ

62,5%

58%

52%

Cao

2

Hệ số nợ dài hạn

50%

Cao

III

Hệ số hoạt động kinh doanh

1

Số vòng quay hàng tồn kho

4,4 vòng

8 vòng

Thấp

2

Kỳ thu tiền trung bình

18 ngày

20 ngày

Được

3

Số vòng quay vốn lưu động

3,71 vòng

4,5 vòng

Thấp

4

Hiệu suất sử dụng vốn cố định

3,18

4,8

Thấp

5

Số vòng quay toàn bộ vốn

1,71 vòng

2,2

Thấp

IV

Hệ số sinh lời

1

Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên

doanh thu

5,28%

5,5%

Thấp

2

Tỷ suất sinh lời kinh tế của tài

sản (ROAE)

21%

22%

Thấp

3

Tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên

vốn kinh doanh

12%

15%

Khá thấp

4

Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên

vốn kinh doanh (ROA)

9%

9,5%

Thấp

5

Tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu

(ROE)

22,6%

20%

Khá tốt

Qua biểu trên, có thể đánh giá khái quát:

    • Tuy khả năng thanh toán lãi vay ở mức bình thường, nhưng nhìn chung khả năng thanh toán của công ty X là thấp. Trong khi đó, hệ số thanh toán hiện thời lại quá cao so với mức trung bình của ngành, vòng quay hàng tồn kho lại rất thấp, kỳ thu tiền trung bình ở mức bình thường. Điều đó, gợi lên công ty có thể dự trữ vật tư quá lớn, có bộ phận vật tư bị ứ đọng.
    • Hệ số nợ của doanh nghiệp khá cao so mức trung bình của ngành. Khả năng vay vốn của công ty trong thời kỳ tới là có thể bị hạn chế.

133

    • Các chỉ số về hoạt động kinh doanh cho thấy: Hiệu suất sử dụng vốn cố định và các loại vật tư hàng hóa còn thấp so với mức trung bình của ngành. Điều này, tất yếu ảnh hưởng tới mức sinh lời của vốn kinh doanh.
    • Mức sinh lời vốn kinh doanh của doanh nghiệp nhìn chung còn thấp. Mặc dù tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp cao hơn so với mức trung bình của ngành, đó là điểm tốt, tuy nhiên hệ số nợ của doanh nghiệp khá cao so với ngành, từ đỏ cho thấy ẩn chứa rủi ro tài chính là khá lớn.
      1. Phân tích diễn biến nguồn vốn sử dụng vốn

Việc phân tích này cho phép nắm được tổng quát diễn biến thay đổi của nguồn vốn và sử dụng vốn trong mối quan hệ với vốn bằng tiền của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định giữa hai thời điểm lập Bảng cân đối kế toán, từ đó có thể định hướng cho việc huy động vốn và sử dụng vốn của thời kỳ tiếp theo.

Việc phân tích có thể được thực hiện như sau:

+ Xác định diễn biến thay đổi nguồn vốn và sử dụng vốn

Việc xác định này được thực hiện bằng cách: Trước hết, chuyển toàn bộ các khoản mục trên Bảng cân đối kế toán thành cột dọc. Tiếp đó, so sánh số liệu cuối kỳ với đầu kỳ để tìm ra sự thay đổi của mỗi khoản mục trên Bảng cân đối kế toán. Mỗi sự thay đổi của từng khoản mục sẽ được xem xét và phản ánh vào một trong hai cột sử dụng vốn hoặc diễn biến nguồn vốn theo cách thức sau:

  • Sử dụng vốn sẽ tương ứng với tăng tài sản hoặc giảm nguồn vốn.
  • Diễn biến nguồn vốn sẽ tương ứng với tăng nguồn vốn hoặc giảm tài sản.

Ở đây, xem xét diễn biến thay đổi nguồn vốn và sử dụng vốn trong mối liên hệ với vốn bằng tiền.

+ Lập bảng phân tích

Sắp xếp các khoản liên quan đến việc sử dụng vốn và liên quan đến việc thay đổi nguồn vốn hình thức một bản cân đối. Qua bảng này có thể xem xét và đánh giá tổng quát: Số vốn tăng hay giảm của doanh nghiệp ở trong kỳ đã được sử dụng vào những việc gì và các nguồn phát sinh dẫn đến việc tăng hay giảm vốn.

Trên cơ sở phân tích, có thể định hướng huy động vốn cho kỳ tiếp theo.

Ví dụ: Dựa vào số liệu của Bảng cân đối kế toán của công ty X có thể phân tích tình hình diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn như sau:

Biểu: Bảng diễn biến nguồn vốn sử dụng vốn

Đơn vị: Triệu đồng

TT

Khoản thu

31/12/N-1

31/12/N

Sử dụng

Nguồ

134

vốn

n vốn

A

Tài sản

1

Tiền

60

80

20

2

Các khoản phải thu

70

100

30

3

Hàng tồn kho

250

280

30

4

Tài sản cố định

-

Nguyên giá

510

665

155

-

Hao mòn luỹ kế

(130)

(175)

45

5

Các khoản đầu tư tài chính dài

hạn

30

50

20

6

Tài sản dài hạn khác

10

20

10

B

Nguồn vốn

1

Vay ngắn hạn

15

30

15

2

Phải trả người bán

30

50

20

3

Thuế và các khoản phải nộp

nhà nước

17

25

8

4

Phải trả công nhân viên

48

35

13

5

Nợ dài hạn

390

450

60

6

Vốn đầu tư của chủ sở hữu

240

310

70

7

Thặng dư vốn cổ phần

15

29

14

8

Quỹ đầu tư phát triển

20

28

8

9

Quỹ dự phòng tài chính

15

17

2

10

Lợi nhuận chưa phân phối

10

26

16

11

Nguồn kinh phí và quỹ khác

20

20

Tổng cộng

278

278

Biểu: Bảng phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn

Đơn vị: Triệu đồng

Sử dụng vốn

Số tiền

Tỷ trọng (%)

Diễn biến nguồn vốn

Số tiền

Tỷ trọng

(%)

1. Tăng đầu tư vào

TSCĐ

155

55,7

1. Tăng vốn đầu tư

của chủ sở hữu

70

25,2

2. Tăng hàng tồn kho

30

10,8

2. Tăng vay dài hạn

60

21,6

3. Tăng tín dụng cho

khách hàng

30

10,8

3. Tăng khấu hao

TSCĐ

45

16,2

4. Tăng đầu tư tài

chính dài hạn

20

7,2

4. Tăng tín dụng nhà

cung cấp

20

7,2

5. Trả bớt nợ công

nhân viên

13

4,6

5. Tăng vay ngắn hạn

15

5,4

6. Tăng tài sản dài

hạn khác

10

3,6

6. Tăng thặng dư vốn

cổ phần

14

5

7. Tăng vốn bằng tiền

20

7,2

7. Tăng lợi nhuận

16

5,7

135

chưa phân phối

8. Tăng nợ thuế và các khoản phải nộp

NN

8

2,9

9. Tăng quĩ đầu tư

phát triển

8

2,9

10. Tăng quĩ dự

phòng tài chính

2

0,7

11. Tăng nguồn kinh

phí

20

7,2

Tổng cộng

278

100

Tổng cộng

278

100

Qua bảng trên cho thấy quy mô sử dụng vốn của Công ty X trong năm N đã tăng 278 triệu đồng so với đầu năm. Trong đó, chủ yếu là chỉ tiêu đầu tư tăng thêm TSCĐ là 155 triệu chiếm 55,7%, đồng thời đầu tư tăng thêm hàng tồn kho chiếm 10,8% và tăng thêm tín dụng cho khách hàng chiếm 10,8% tổng quy mô số vốn sử dụng tăng thêm. Điều này là hợp lý khi Công ty tăng quy mô kinh doanh. Công ty cũng mở rộng đầu tư tài chính dài hạn, chiếm 7,2%. Trong điều kiện tăng thêm đầu tư, công ty thanh toán trả bớt nợ công nhân viên là sự cố gắng đáng kể.

Về nguồn vốn, một phần chủ yếu là huy động tăng thêm vốn chủ sở hữu và vay dài hạn. Nguồn vốn huy động này là phù hợp vì một phần lớn vốn của công ty cũng tăng thêm tài sản cố định. Công ty cũng tăng thêm việc sử dụng tín dụng của nhà cung cấp và vay ngắn hạn.

Từ sự phân tích trên cho thấy trong thời kỳ tiếp theo Công ty cần xem xét khả năng tăng thêm tín dụng nhà cung cấp và vay vốn ngắn hạn đồng thời chú ý đảm bảo khả năng thanh toán.

    1. Dự báo nhu cầu tài chính

Phương pháp tỷ lệ phần trăm trên doanh thu

Đây là một phương pháp dự báo nhu cầu tài chính ngắn hạn và đơn giản. Khi áp dụng phương pháp này đòi hỏi người thực hiện phải hiểu đặc thù sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp (quy trình sản xuất, tính chất của sản phẩm, tính thời vụ...) và phải hiểu tính quy luật của mối quan hệ giữa doanh thu với tài sản, tiền vốn, phân phối lợi nhuận của doanh nghiệp. Tài liệu dùng để dự báo bao gồm: các báo cáo tài chính kỳ trước và dự kiến doanh thu của kỳ kế hoạch.

Phương pháp này được tiến hành qua 4 bước sau đây.

Bước 1: Tính số dư bình quân của các khoản mục trong bảng cân đối kế toán kỳ thực hiện

136

Bước 2: Chọn các khoản mục trong bảng cân đối kế toán chịu sự tác động trực tiếp và có quan hệ chặt chẽ với doanh thu bán hàng, sau đó tính tỷ lệ phần trăm của các khoản đó so với doanh thu bán hàng thực hiện trong kỳ.

Chú ý rằng chỉ chọn các khoản mục nào đồng thời thoả mãn cả hai điều kiện là quan hệ chặt chẽ và trực tiếp với doanh thu bán hàng. Trong thực tế cho thấy toàn bộ các khoản mục tài sản ngắn hạn bên phần tài sản (Tiền, nợ phải thu, vốn tồn kho... sau khi đã loại trừ các yếu tố bất hợp lý như: nợ không có khả năng thu hồi, hàng hoá, vật tư mất, kém phẩm chất, chậm luân chuyển, không cần dùng...), và các khoản mục vốn chiếm dụng bên phần nguồn vốn (phải trả nhà cung cấp, phải thanh toán cán bộ công nhân viên, phải nộp ngân sách sau khi đã loại trừ các yếu tố bất hợp lý như nợ vô chủ...) thoả mãn điều kiện này.

Bước 3: Dùng tỷ lệ phần trăm đó để ước tính nhu cầu vốn lưu động cho năm kế hoạch trên cơ sở doanh thu bán hàng dự kiến năm kế hoạch. Tổng tỷ lệ phần trăm của phần tài sản lưu động cho biết: Muốn tạo ra một đồng doanh thu bán hàng thì phải có bao nhiêu đồng vốn đầu tư vào tài sản lưu động.

Tổng tỷ lệ phần trăm bên phần vốn chiếm dụng cho biết: khi tạo ra một đồng doanh thu bán hàng thì chiếm dụng đương nhiên được bao nhiêu đồng vốn (nguồn vốn phát sinh tự động).

Chênh lệch của hai tỷ lệ này cho biết: Vậy thực chất khi tăng một đồng doanh thu bán hàng thì doanh nghiệp chỉ cần tài trợ bao nhiêu đồng vốn đầu tư vào tài sản lưu động

Tích của phần doanh thu bán hàng tăng thêm với chênh lệch của hai tỷ lệ này chính là nhu cầu vốn lưu động tăng thêm cần phải bổ sung cho kỳ kế hoạch.

Bước 4: Định hướng nguồn trang trải nhu cầu vốn lưu động tăng thêm trên cơ sở kết quả kinh doanh kỳ kế hoạch.

Nguồn trang trải nhu cầu vốn tăng thêm gồm 2 phần: trước hết là nguồn lợi nhuận để lại của năm kế hoạch, sau nữa là nguồn huy động từ bên ngoài.

Phương pháp lập bảng cân đối kế toán mẫu

Khi đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp, người ta thường dùng hệ thống các chỉ tiêu tài chính và luôn mong muốn hệ thống chỉ tiêu tài chính này được hoàn thiện. Do vậy, để dự báo nhu cầu vốn và tài sản cho kỳ kế hoạch, người ta xây dựng hoặc dựa vào một hệ thống chỉ tiêu tài chính được coi là chuẩn và dùng nó để ước lượng nhu cầu vốn cần phải có tương ứng với một mức doanh thu nhất định. Phương pháp này được áp dụng rộng rãi trong thực tế, đặc biệt là doanh nghiệp mới được thành lập. Các chỉ tiêu tài chính đặc trưng được

137

sử dụng ở đây có thể là các tỷ số trung bình của ngành hoặc của doanh nghiệp cùng loại (doanh nghiệp này cùng tuổi, cùng quy mô, trong cùng một vùng địa lý, thị trường có thể so sánh được), hoặc là tự xây dựng từ thông tin quá khứ của doanh nghiệp.

  • Nội dung của phương pháp: Căn cứ vào các chỉ tiêu tài chính trung bình của ngành, hoặc của doanh nghiệp điển hình trong cùng ngành, căn cứ vào kết quả dự báo về doanh thu dự kiến, nhà quản trị tài chính sẽ tính toán và xác định được các khoản mục trên Bảng cân đối kế toán như: Tổng tài sản, TSNH, TSDH, Nợ phải thu, Hàng tồn kho, Vốn bằng tiền, Tổng nguồn vốn, Nợ phải trả, Nợ ngắn hạn, Nợ dài hạn, Vốn chủ sở hữu…Như vậy, kết quả của việc dự báo là xây dựng được một bảng cân đối kế toán mẫu với số liệu dự kiến cho một doanh nghiệp phù hợp với quy mô kinh doanh của doanh nghiệp đó.

Bảng cân đối kế toán mẫu cho biết doanh nghiệp muốn đạt doanh thu dự kiến và các tỷ số tài chính đặc trưng thì cần phải có lượng vốn bao nhiêu, được hình thành từ các nguồn nào và đầu tư vào các loại tài sản gì. Cần chú ý rằng, cùng một hệ số tài chính nhưng doanh thu khác nhau sẽ dẫn đến bảng cân đối kế toán mẫu khác nhau. Do đó có thể lập ra nhiều bảng cân đối kế toán mẫu để dự báo nhu cầu tài chính theo những mức doanh thu khác nhau.

  • Điều kiện để áp dụng phương pháp này: là phải biết rõ ngành nghề hoạt động của doanh nghiệp và sau đó là quy mô sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp (được đo lường bằng mức doanh thu dự kiến hàng năm). Kết quả dự báo theo phương pháp này được thể hiện trên bảng cân đối kế toán mẫu.

dụ: Công ty D dự kiến năm N quy mô doanh thu sẽ đạt 10 tỷ đồng. Dựa trên các hệ số tài chính của các doanh nghệp trong ngành, doanh nghiệp xây dựng các hệ số tài chính năm N +1 như sau:

  • Hệ số nợ: 50%
  • Vòng quay toàn bộ vốn 2,5 lần
  • Nợ ngắn hạn chiếm 20% trong tổng số nợ
  • Hệ số thanh toán ngắn hạn 4,5 lần
  • Hệ số thanh toán nhanh 1,5 lần
  • Kỳ thu tiền bình quân: 18 ngày.

Với tài liệu trên, dựa trên các mối quan hệ cân đối tài chính, có thể xác định được các khoản chủ yếu của một Bảng cân đối tài sản như sau:

  1. Vòng quay toàn bộ vốn = Doanh thu = 2,5

138

Vốn kinh doanh bình quân Như vậy, vốn kinh doanh = 4 tỷ

  1. Hệ số nợ =

Nợ phải trả

Tổng nguồn vốn kinh doanh

= 0,5

Vậy nợ phải trả = 4 x 0,5 = 2 tỷ.

  1. Nợ ngắn hạn = Tổng nợ phải trả x 20% = 2 tỷ x 20% = 0,4 tỷ
  2. Nợ phải trả = Nợ ngắn hạn + Nợ dài hạn

Vậy nợ dài hạn = Nợ phải trả - Nợ ngắn hạn = 2 tỷ - 0,4 tỷ = 1,6 tỷ

  1. Tổng nguồn vốn = Nợ phải trả + Vốn chủ sở hữu

Từ đó, có thể xác định vốn chủ sở hữu = Tổng nguồn vốn – Nợ phải trả = 4 tỷ – 2tỷ = 2 tỷ.

  1. Hệ số thanh toán ngắn hạn =

Tài sản lưu động Nợ ngắn hạn

= 4,5

Do vậy, tài sản lưu động = Nợ ngắn hạn x 4,5 = 0,4 x 4,5 = 1,8 tỷ

  1. Tổng tài sản = Tài sản lưu động + Tài sản cố định

Từ đó, tài sản cố định = Tổng tài sản – Tài sản lưu động = 4 – 1,8 = 2,2 tỷ

Tiền

  1. Hệ số thanh toán nhanh =

Nợ ngắn hạn

= 1,5

Vậy vốn bằng tiền = 0,4 x1,5 tỷ = 0,6 tỷ

Các khoản phải thu bình quân x 360

  1. Kỳ thu tiền trung bình =

Doanh thu

Do vậy, các khoản phải thu bình quân = tỷ

= 18 ngày

  1. Tài sản

=

lưu động

Vốn bằng

+

tiền

Khoản phải thu +

Hàng tồn kho

Vì thế, hàng tồn kho = Tài sản lưu động – Vốn băng tiền – Các khoản phải thu

= 1,8 – 0,6 – 0,5 = 0,7 tỷ.

Dựa vào kết quả có thể lập Bảng cân đối tài sản mẫu cho công ty D năm N+1 như sau

139

Biểu 7.1. Bảng cân đối tài sản dự kiến cuối năm N của công ty Y

Đơn vị tính: Triệu đồng

Tài sản

Số tiền

Nguồn vốn

Số tiền

A. Tài sản lưu động

1.800

A. Nợ phải trả

2.000

1. Vốn bằng tiền

600

1. Nợ ngắn hạn

400

2. Các khoản phải thu

500

2. Nợ dài hạn

1.600

3. Hàng tồn kho

700

B. Tài sản cố định (giá

trị còn lại)

2.200

B. Vốn chủ sở hữu

2.000

Tổng cộng tài sản

4.000

4.000

Trên đây là một ví dụ đơn giản về lập Bảng cân đối tài sản theo dự kiến với doanh thu ở mức 10 tỷ đồng. Với mức doanh thu khác nhau sẽ dẫn đến Bảng cân đối tài sản dự kiến khác.

Người quản lý doanh nghiệp có thể lập ra một số bảng cân đối tài sản dự kiến theo những mức doanh thu khác nhau để tham gia phục vụ cho việc chỉ đạo hoạt động của doanh nghiệp./.

      1. Phương pháp dự báo dựa vào chu kỳ vận động của vốn

Đối với nhu cầu vốn lưu động, doanh nghiệp có thể dựa vào chu kỳ vận động của vốn lưu động để xác định nhu cầu tài trợ vốn lưu động. Thời gian vận động của vốn lưu động càng dài thì lượng vốn lưu động mà doanh nghiệp phải tài trợ càng nhiều để đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra thường xuyên. Nhu cầu vốn lưu động có thể được xác định bằng 2 cách sau đây:

Cách 1: Xác định gián tiếp thông qua vòng quay của vốn lưu động của kỳ trước hoặc của trung bình ngành.

Công thức xác định như sau:

Cách 2: Xác định trực tiếp thông qua thời gian luân chuyển của vốn lưu

động

Phương pháp xác định như sau:

+ Bước 1: Xác định số ngày luân chuyển của vốn lưu động

140

Trong đó:

A = Hàng tồn kho bình quân/ Giá vốn hàng bán bình quân một ngày

B = Nợ phải thu bình quân/ Doanh thu bán chịu bình quân mỗi ngày

C = Nợ phải trả nhà cung cấp bình quân/ Tín dụng mua chịu bình quân mỗi ngày

+ Bước 2: Xác định nhu cầu vốn lưu động của doanh nghiệp

Nhu cầu = VLĐ

Giá trị nguyên vật liệu và lao động bình x quân cho 1 sản phẩm

Số lượng sản phẩm sản xuất bình quân x mỗi ngày

Số ngày luân chuyển của vốn lưu động

      1. Dự báo nhu cầu vốn tiền mặt

Trong nền kinh tế thị trường, vốn bằng tiền là một loại tài sản linh động nhất, dễ dàng dùng nó để thoả mãn mọi nhu cầu trong quá trình sản xuất kinh doanh. Vốn bằng tiền còn là tiền đề để có các yều tố khác nhau của quá trình sản xuất (nhân công, thiết bị, nguyên vật liệu). Nếu vốn bằng tiền giảm đi có nghĩa là tính chủ động về tài chính trong việc mở rộng quy mô, chớp lấy cơ hội đầu tư bị giảm sút, khả năng đáp ứng nghĩa vụ thanh toán bị hạn chế. Nhưng do thời điểm thu tiền và thời điểm chi tiêu bằng tiền không phải lúc nào cũng phù hợp với nhau, cho nên trong thực tế thường xẩy ra thời điểm này thừa vốn bằng tiền mà còn thời điểm khác lại thiếu vốn bằng tiền. Vì vậy phải xác định nhu cầu vốn bằng tiền và chỉ rõ thời gian vốn bằng tiền cần được tài trợ.

Dự báo nhu cầu vốn bằng tiền là loại kế hoạch tác nghiệp. Người ta có thể lập kế hoạch tác nghiệp cho tuần, kỳ, tháng, quý hoặc cho năm.

- Nội dung dự báo nhu cầu vốn bằng tiền: Để đảm bảo thuận tiện trong điều hành và nhận biết nguồn gốc của dòng tiền, người ta thường chia thành 3 bộ phận cấu thành dòng tiền vào, dòng tiền ra của một doanh nghiệp, đó là:

Dòng tiền từ hoạt động kinh doanh, Dòng tiền từ hoạt động đầu tư, Dòng tiền từ hoạt động tài chính. Sau đó, người ta dự báo nhu cầu qua các bước sau:

Bước 1: Xác định dòng tiền vào của doanh nghiệp. Dựa trên cơ sở các dự báo về doanh thu bán hàng, dự kiến huy động vốn bằng tiền (đi vay nợ, phát hành cổ phiếu, trái phiếu…), căn cứ vào quy luật phát sinh dòng tiền trong quá khứ và các chính sách bán chịu của doanh nghiệp để dự kiến dòng tiền vào của doanh nghiệp. Cần chú ý đến sự khác nhau của doanh thu và thu tiền.

141

Bước 2: Xác định dòng tiền ra của doanh nghiệp. Căn cứ vào kế hoạch SXKD, kế hoạch chi phí, các chính sách tín dụng thương mại của nhà cung cấp đối với DN, các chính sách của nhà nước như chính sách thuế…để xác định dòng tiền chi phát sinh trong kỳ. Chú ý đến sự khác nhau của chi phí và chi tiền.

Bước 3: Xác định dòng tiền thuần trong kỳ: Đó là chênh lệch giữa dòng tiền vào và dòng tiền ra của doanh nghiệp phát sinh trong cùng một kỳ.

Bước 4: Xác định số dư tiền cuối kỳ: Lấy số dư đầu kỳ cộng với dòng tiền thuần trong kỳ.

Bước 5: Xác định số tiền thừa (thiếu): Căn cứ vào số tiền mặt tối thiểu cần thiết, có thể xác định được số tiền thừa hoặc thiếu ở trong kỳ.

Căn cứ vào số tiền thừa thiếu, nhà quản lý sẽ đưa ra biện pháp sử dụng số tiền thừa để tránh lãng phí. Hoặc tìm cách huy động để đảm bảo lượng tiền đáp ứng đầy đủ cho hoạt động của doanh nghiệp.

142