










Preview text:
- Ưu điểm kinh tế thị trường :
Trong nền kinh tế thị trường, nếu lượng cầu hàng hóa cao hơn lượng cung, thì giá
cả hàng hóa sẽ tăng lên, mức lợi nhuận cũng tăng khuyến khích người sản xuất tăng
lượng cung. Người sản xuất nào có cơ chế sản xuất hiệu quả hơn thì cũng có tỷ suất lợi
nhuận cao hơn, cho phép họ tăng quy mô sản xuất, và do đó các nguồn lực sản xuất sẽ
chảy về phía những người sản xuất hiệu quả. Những người sản xuất có cơ chế sản xuất
kém hiệu quả sẽ có tỷ suất lợi nhuận thấp, khả năng mua nguồn lực sản xuất thấp, sức
cạnh tranh kém sẽ bị đào thải. Do đó, nền kinh tế thị trường tạo ra động lực để các doanh
nghiệp có thể đổi mới, phát triển mình, bởi khi các doanh nghiệp đó muốn cạnh tranh và
đáp ứng tốt nhu cầu của thị trường thì đòi hỏi họ phải đổi mới về công nghệ, về quy trình
sản xuất, quản lý, về các sản phẩm của mình.
Ở nền kinh tế thị trường thì con người mong muốn tìm ra phương án cải tiến cho phương
thức làm việc, đúc rút cho bản thân nhiều kinh nghiệm. Kinh tế thị trường là nơi để phát
hiện, đào tạo, tuyển chọn, sử dụng những người có năng lực tốt, nâng cao quy trình quản
lý kinh doanh, cũng là nơi để đào thải những nhà quản lý chưa đạt được hiệu quả cao.
Kinh tế thị trường tạo xu thế liên doanh, liên kết đẩy mạnh giao lưu kinh tế, các nước
đang phát triển có cơ hội được tiếp xúc được chuyển giao công nghệ sản xuất, công nghệ
quản lý từ các nước phát triển để thúc đẩy công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế ở
nước mình. Trong thương mại quốc tế, mức độ thị trường hóa nền kinh tế có thể được sử
dụng làm tiêu chí trong xác định điều kiện thương mại giữa hai bên.
- Nhược điểm kinh tế thị trường:
Cơ chế phân bổ nguồn lực trong nền kinh tế thị trường có thể dẫn tới bất bình
đẳng trong xã hội và quan niệm. Người giàu sẽ sử dụng lợi thế về tài sản để chiếm hữu
ngày càng nhiều của cải và quyền lực hơn, trong khi người nghèo sẽ ngày càng nghèo
hơn. Cuối cùng sẽ dẫn tới phân chia giai cấp: thiểu số người giàu nắm quyền lực cai trị xã
hội, còn đa số là người nghèo có đời sống khó khăn. Chênh lệch giàu nghèo quá mức sẽ
dẫn tới nguy cơ bất ổn xã hội khi người nghèo đấu tranh (nhiều khi bằng bạo loạn, lật đổ)
để có cuộc sống tốt hơn.
Sau một thời gian cạnh tranh "cá lớn nuốt cá bé", các nhà sản xuất nhỏ lẻ sẽ bị các
hãng sản xuất lớn mạnh hơn thôn tính. Cuối cùng chỉ còn lại một số ít các nhà sản xuất
lớn có tiềm lực mạnh, họ sẽ thâu tóm phần lớn các ngành kinh tế, toàn bộ nền kinh tế sẽ
chỉ do một vài nhà tài phiệt nắm quyền thao túng. Kinh tế thị trường sẽ dần biến thành
kinh tế độc quyền chi phối. Các doanh nghiệp độc quyền không có đối thủ cạnh tranh nên
tùy ý chi phối thị trường, nếu Nhà nước không can thiệp thì họ sẽ cố ý tăng giá, giảm chất
lượng sản phẩm để tăng thêm lợi nhuận, gây ra tổn thất cho xã hội và người tiêu dùng.
Do chạy theo lợi nhuận nên các doanh nghiệp sẽ đầu tư mở rộng sản xuất liên tục,
sớm muộn sẽ dẫn đến mất cân bằng cung cầu. Trong giai đoạn đầu, các công ty đầu tư
phát triển sản xuất khiến nguồn cung tăng mạnh trong khi cầu tăng không tương xứng với
cung. Hiện tượng này tích lũy qua nhiều năm sẽ dẫn đến khủng hoảng thừa: hàng hoá bị
ứ đọng, giá cả sụt giảm, do không bán được hàng để thu hồi chi phí đầu tư nên hàng loạt
doanh nghiệp phá sản và dẫn đến khủng hoảng kinh tế. Cuộc Đại khủng hoảng ở Mỹ năm
1929 chính là kết quả của sự tăng trưởng sản xuất quá mức trong thập kỷ 1920 mà không
có sự điều tiết hợp lý của chính phủ.
Để cơ chế thị trường không phát sinh tiêu cực trong cạnh tranh, thì các điều kiện
sau đây phải được thỏa mãn: thị trường phải có cạnh tranh hoàn hảo, thông tin minh bạch,
không có các ảnh hưởng ngoại lai, không có đầu cơ, không có vi phạm đạo đức kinh
doanh, không có lách luật v.v... Tuy nhiên, trong thực tế không có nước nào đáp ứng
hoàn hảo các điều kiện này, nên có những trường hợp cơ chế thị trường sẽ không thể
phân bổ tối ưu các nguồn lực kinh tế, thậm chí góp phần gây ra khủng hoảng kinh tế hoặc
khủng hoảng nhân đạo. Khi đó sẽ có thất bại thị trường. Một ví dụ tiêu biểu là Hoa Kỳ:
nền y tế nước này hoàn toàn do tư nhân kiểm soát, bệnh viện và đội ngũ bác sĩ Hoa kỳ có
chất lượng hàng đầu thế giới, nhưng viện phí ở Hoa Kỳ cũng đắt đỏ bậc nhất thế giới.
Nếu không có bảo hiểm y tế, một bệnh nhân có thể tiêu tốn hàng trăm nghìn USD cho
mỗi lần chữa bệnh, kết quả là những người thu nhập thấp sẽ không được hệ thống y tế
này cứu chữa. Hoạt động xét nghiệm y tế ở Hoa Kỳ không được kiểm soát trên toàn
quốc, nước này cũng không có hệ thống chăm sóc sức khỏe tập trung và xét nghiệm y tế
tập trung do chính phủ quản lý. Vì những điểm yếu này, khi Đại dịch COVID-19 xảy ra,
Hoa Kỳ đã trở thành nước bị ảnh hưởng nặng nhất thế giới với hàng chục triệu ca nhiễm
bệnh, trong đó vài trăm nghìn người đã chết.
- Trong thực tế hiện nay, để hạn chế mặt trái của kinh tế thị trường, không có nước nào
có một nền kinh tế thị trường hoàn toàn tự do - tự phát, các chính phủ luôn can thiệp vào
thị trường dù ít hay nhiều. Cũng như vậy, không có nước nào có nền kinh tế kế hoạch hóa
tập trung hoàn toàn (ngay cả kinh tế CHDC Triều Tiên cũng có 1 phần nhỏ là kinh tế tư
nhân, kinh tế hộ gia đình). Thay vào đó, hầu hết các nước có nền kinh tế hỗn hợp. Tùy ở
mỗi nước mà các yếu tố thị trường và yếu tố can thiệp của Nhà nước nhiều hay ít. Ví dụ
như tại Hoa Kỳ, tuy có nền kinh tế chủ yếu là thị trường tư nhân nhưng nước này vẫn có
Đạo luật Sản xuất Quốc phòng (DPA), cho phép tổng thống Mỹ có quyền yêu cầu doanh
nghiệp buộc phải nhận và ưu tiên đơn hàng chế tạo vật liệu, thiết bị được coi là cần thiết
với quốc phòng, dù điều đó có thể gây thua lỗ cho doanh nghiệp, Tổng thống Mỹ cũng có
quyền quy định những mặt hàng bị cấm tích trữ hoặc đầu cơ tăng giá.
- Liên hệ thực tiễn nước ta
Ở Việt Nam hiện nay, vai trò của Nhà nước đối với kinh tế không chỉ xuất phát từ
yêu cầu phổ biến của quá trình phát triển kinh tế thị trường, mà còn xuất phát từ tính đặc
thù của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Bài viết này chỉ tập trung vào
khía cạnh thứ hai vừa nêu.
Thị trường, kinh tế thị trường là một kiểu quan hệ giữa người với người trong sản
xuất, trao đổi và tiêu dùng, nên mang đậm dấu ấn của quan hệ xã hội, của thể chế chính
trị mà nền kinh tế đó tồn tại. Với mức độ đáng kể, sự phát triển kinh tế thị trường ở Việt
Nam hiện nay bị chi phối và nhằm phục vụ cho định hướng xã hội chủ nghĩa. Đương
nhiên, nhân tố sâu xa bảo đảm định hướng chính trị đối với kinh tế là đường lối, quan
điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đảng Cộng sản cầm quyền. Song, để đường lối, quan điểm, tư
tưởng chỉ đạo của Đảng biến thành hiện thực vận động của nền kinh tế, chúng phải được
thể chế hóa thành hệ thống pháp luật, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và
được triển khai bằng Nhà nước, thông qua Nhà nước, dưới sự quản lý của Nhà nước do
Đảng lãnh đạo. Xét từ giác độ đó, Nhà nước có tác động trực tiếp nhất tới việc định
hướng sự vận động của kinh tế thị trường. Pháp luật, chương trình, kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội của Nhà nước chỉ đúng, khi chúng phản ánh chính xác yêu cầu phát triển
khách quan của thị trường, lấy quy luật thị trường làm cơ sở. Xét ở mặt này, chúng mang
tính khách quan. Nhưng chúng lại là sự thể chế hóa, cụ thể hóa mục tiêu chính trị của
Đảng, nên cũng có mặt chủ quan. Trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, định hướng chủ quan (ý chí của Đảng, của Nhà nước và nhân
dân ta) là ở chỗ, cùng với việc bảo đảm lợi ích hợp lý của doanh nhân, thì việc ưu tiên
bảo vệ lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động là một vấn đề có tính nguyên tắc.
Nhà nước có cơ chế, chính sách để bảo đảm sự ưu tiên đó, thể hiện ở cả ba lĩnh vực kinh tế cơ bản sau:
Trên lĩnh vực sở hữu: Sự tồn tại của ba chế độ sở hữu (sở hữu toàn dân, sở hữu tập
thể, sở hữu tư nhân), ba hình thức sở hữu (hình thức sở hữu nhà nước, hình thức sở hữu
tập thể, hình thức sở hữu tư nhân) là một đòi hỏi khách quan của nền kinh tế thị trường ở
Việt Nam hiện nay. Nhà nước thông qua hệ thống chính sách, pháp luật, đòn bẩy kinh tế
để định hướng, làm cho kinh tế nhà nước từng bước vươn lên nắm vai trò chủ đạo, kinh
tế nhà nước cùng kinh tế tập thể tạo thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân.
Trên lĩnh vực quản lý: Nhà nước xây dựng cơ chế, chính sách... tạo điều kiện
thuận lợi cho người lao động trực tiếp hay thông qua các khâu trung gian nhất định tham
gia quá trình hoạch định, tổ chức, giám sát, kiểm tra việc thực hiện các kế hoạch phát triển của doanh nghiệp.
Trên lĩnh vực phân phối: Nhà nước vừa thông qua hệ thống chính sách kinh tế do
mình hoạch định, vừa sử dụng các nguồn lực - trực tiếp là bộ phận kinh tế nhà nước - để
định hướng, can thiệp vào lĩnh vực phân phối và phân phối lại theo hướng ưu tiên phân
phối theo lao động và qua phúc lợi xã hội; kết hợp tăng trưởng kinh tế với thực hiện công
bằng xã hội; hoạch định các chính sách xóa đói, giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa...
Đặc biệt, trong sự phát triển kinh tế thị trường ở nước ta, Nhà nước có vai trò to
lớn trong việc bảo đảm sự ổn định vĩ mô cho phát triển và tăng trưởng kinh tế. “ổn định”
ở đây thể hiện sự cân đối, hài hòa các quan hệ nhu cầu, lợi ích giữa người và người, tạo ra
sự đồng thuận xã hội trong hành động vì mục tiêu phát triển của đất nước. Tính đúng đắn,
hợp lý và kịp thời của việc hoạch định và năng lực tổ chức thực hiện các chính sách phát
triển vĩ mô do Nhà nước đảm nhiệm là điều kiện tiên quyết nhất hình thành sự đồng
thuận đó. Là những công cụ tạo ra sự đồng thuận xã hội, từ đó mà có ổn định xã hội cho
phát triển và tăng trưởng kinh tế, các chính sách, pháp luật của Nhà nước, một mặt, phải
phản ánh đúng những nhu cầu chung của xã hội, của mọi chủ thể kinh tế...; mặt khác,
phải tôn trọng tính đa dạng về nhu cầu, lợi ích cụ thể của các chủ thể đó.
Nhà nước ta cũng có vai trò to lớn trong việc bảo đảm gia tăng phúc lợi xã hội, bởi
mục tiêu căn bản của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là
góp phần thực hiện “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Có
chính sách xã hội hợp lý; bảo đảm phúc lợi ngày một gia tăng nhờ hiệu quả tác động của
chính sách kinh tế tiến bộ do Nhà nước hoạch định và tổ chức thực hiện bằng những nỗ
lực của nhiều chủ thể kinh tế khác nhau... là nhân tố có vai trò quyết định trong vấn đề này.
Công bằng xã hội là một động lực của sự phát triển xã hội nói chung, của sự phát
triển và tăng trưởng kinh tế bền vững nói riêng. Một trong những mục tiêu của quá trình
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà Nhà nước hướng tới là
xóa bỏ tình trạng vi phạm công bằng xã hội. Đây là một nhiệm vụ lâu dài. Ở nước ta hiện
nay, công bằng xã hội trên lĩnh vực kinh tế được biểu hiện không chỉ ở chỗ lao động
ngang nhau thì được hưởng thụ ngang nhau, mà còn ở chỗ cống hiến - đóng góp cả về vật
chất lẫn tinh thần trong quá khứ cũng như trong hiện tại - ngang nhau cho sự phát triển
đất nước thì được hưởng ngang nhau. Từ đó, việc bảo đảm yêu cầu thực hiện tiến bộ,
công bằng xã hội được thể hiện đầy đủ ngay trong từng bước và từng chính sách phát
triển kinh tế là một nhiệm vụ cơ bản của Nhà nước ta trong việc thực hiện chức năng phát
triển, tăng trưởng kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nhà nước chủ động tham gia kinh tế thị trường nhằm bảo hộ cho hình thức tổ chức
sản xuất chứa đựng các yếu tố của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa và tạo điều kiện cho
chúng phát huy ưu thế của mình; tạo vị thế cho kinh tế nhà nước có sức mạnh định hướng
xây dựng mô hình kinh tế cho phép giải phóng con người; ngăn chặn các xu hướng phát
triển kinh tế không có lợi cho quảng đại người lao động.
Để thực hiện các mục tiêu đó, điều quan trọng nhất là Nhà nước tạo lập khung khổ
pháp lý cho hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra hiệu quả. Chỉ duy nhất nhà nước có
được chức năng này. Hệ chuẩn pháp luật kinh tế của nhà nước càng được xây dựng đồng
bộ, đúng đắn, nhất quán và kịp thời bao nhiêu, càng có tác động tích cực tới sự vận hành
của nền kinh tế bấy nhiêu. Song, tự nó, pháp luật kinh tế không gây ra những biến đổi
trong hiện thực kinh tế. Để cho các luật kinh tế trở thành tác nhân kích thích phát triển
kinh tế, chúng phải được đưa vào vận hành. Nhà nước chính là thiết chế chủ yếu đảm
đương nhiệm vụ này. Năng lực điều hành kinh tế bằng pháp luật là một thước đo đánh giá
sự trưởng thành và vai trò của nhà nước trong kinh tế.
Vai trò của nhà nước đối với sự phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa cũng thể hiện ở việc nhà nước góp phần đắc lực vào việc tạo môi trường cho thị
trường phát triển, như tạo lập kết cấu hạ tầng kinh tế cho sản xuất, lưu thông hàng hóa;
tạo lập sự phân công lao động theo ngành, nghề, vùng kinh tế qua việc nhà nước tiến
hành quy hoạch phát triển kinh tế theo lợi thế từng vùng, ngành và nhu cầu chung của xã
hội... Là chủ thể trực tiếp sở hữu hoặc quản lý, khai thác những cơ quan truyền thông
mạnh nhất của quốc gia, nhà nước góp phần cung cấp thông tin thị trường cho các chủ thể
kinh tế để các chủ thể này chủ động lựa chọn phương án sản xuất kinh doanh, đối tác
kinh tế, thời điểm thực hiện các giao dịch kinh tế, cách thức sản xuất kinh doanh có hiệu
quả nhất trong điều kiện cụ thể của mình...
Muốn sản xuất phải có an toàn về môi trường xã hội, môi trường kinh doanh, môi
trường an ninh - trật tự, an toàn trong quan hệ giữa người và người, giữa doanh nghiệp và
các cơ quan công quyền... Ngoài những nỗ lực của nhà nước trong sự đồng tình của nhân
dân, không lực lượng nào khác có thể tạo lập được những yêu cầu an toàn như vậy.
Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, sự giao lưu kinh tế, hội nhập kinh tế quốc tế của mọi
quốc gia chỉ có hiệu quả cao, khi có tác nhân khởi thủy từ phía nhà nước, được hỗ trợ đắc
lực từ phía nhà nước. Bằng chính sách hội nhập đúng đắn và năng lực tổ chức thực hiện
có hiệu quả chính sách đó, nhà nước góp phần khởi đầu và có tác động tích cực vào quá
trình thiết lập quan hệ quốc tế. Đại diện cho đất nước tham gia vào các quá trình soạn
thảo và thông qua chuẩn mực luật pháp kinh tế, các hiệp định kinh tế, các nghị định
thư..., Nhà nước ta góp phần tạo cho chủ thể kinh tế của đất nước vị trí có lợi trong quan
hệ kinh tế quốc tế. Sự kiện đàm phán gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO)
thành công là chứng minh rõ rệt cho điều này.
Nhà nước ta là chủ thể chính của nền giáo dục - đào tạo. Bằng hệ thống chính sách
giáo dục, đào tạo của mình, được thực hiện qua hệ thống giáo dục - đào tạo do Nhà nước
thống nhất quản lý, dù tồn tại dưới nhiều loại hình khác nhau (công lập, ngoài công lập,
liên doanh, liên kết trong nước và với nước ngoài...), Nhà nước cung cấp nguồn lao động
chính, có chất lượng cho sản xuất kinh doanh, cung cấp cán bộ quản trị doanh nghiệp cho
mọi thành phần, mọi loại hình kinh tế. Qua đó, Nhà nước ta có tác động rất mạnh và trực
tiếp tới việc nâng cao năng lực sản xuất, nâng cao hiệu quả quản lý nền kinh tế, nâng cao
hiệu quả của kinh tế thị trường nói chung.
Cùng với tác động của hệ thống luật kinh tế và sự đầu tư trực tiếp vào kinh tế, Nhà
nước còn định hướng nền kinh tế qua các công cụ gián tiếp là chính sách kinh tế, như
chính sách tài chính - tiền tệ, chính sách đầu tư, chính sách thu nhập và việc làm...
Việc nhấn mạnh vai trò của Nhà nước trong việc định hướng sự phát triển của nền
kinh tế thị trường ở nước ta không mâu thuẫn với vấn đề có tính nguyên tắc: sự vận hành
của nền kinh tế thị trường nào cũng trước hết và chủ yếu do các quy luật thị trường quyết
định. Song, quy luật kinh tế thị trường lại thuộc lĩnh vực quy luật xã hội. Tính khách
quan của nó được thể hiện và thực hiện thông qua hoạt động có ý thức của con người.
Dựa trên việc nhận thức đúng đắn những yêu cầu của các quy luật trong nền kinh tế thị
trường, Nhà nước cụ thể hóa những yêu cầu đó thành luật, chính sách, kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội, xác định đúng bước đi để hiện thực hóa chúng. Đây là nhân tố có tác
động trực tiếp thúc đẩy nền kinh tế thị trường vận động phù hợp với quy luật nội tại của
nó. Ở đây có sự thống nhất giữa khách quan và chủ quan. Song, sự thống nhất đó chỉ có
được, khi lợi ích chân chính mà nhà nước theo đuổi phù hợp với quy luật phát triển khách
quan của xã hội nói chung, của kinh tế thị trường nói riêng; chủ thể nhà nước có năng lực
trí tuệ đủ tầm để nắm bắt, vận dụng yêu cầu của các quy luật kinh tế vào việc hoạch định
các chính sách phát triển. Trong điều kiện cụ thể ở Việt Nam hiện nay, xét về bản chất,
Nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân, vì dân, lấy lợi ích của dân tộc đáp ứng đúng
nhu cầu phát triển khách quan của xã hội làm mục tiêu hoạt động của mình. Nhà nước ta
lấy hệ tư tưởng cách mạng và khoa học (chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh)
làm một trong những cơ sở xuất phát quan trọng để hoạch định chiến lược phát triển kinh
tế. Đó là hai nhân tố bảo đảm có sự thống nhất giữa tính khách quan của quá trình phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và việc phát huy vai trò của nhà
nước xã hội chủ nghĩa với tư cách là một nhân tố chủ quan tác động tích cực tới sự phát
triển của nền kinh tế đó.
Thực tiễn phát triển nền kinh tế thị trường hơn 20 năm đổi mới cho thấy, Nhà
nước ta đã có nhiều tác động tích cực trong việc bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa
trong quá trình phát triển nền kinh tế này. Việc từng bước hoàn thiện hệ thống chính sách
về chế độ sở hữu và cơ cấu thành phần kinh tế đã góp phần thúc đẩy chuyển dịch theo
hướng tạo động lực và điều kiện thuận lợi hơn cho khai thác các tiềm năng trong và ngoài
nước để phát triển kinh tế- xã hội. Nhờ đó, tốc độ tăng trưởng kinh tế, nhìn chung, không
ngừng được nâng cao: thời kỳ 1986 - 1990, tăng trưởng GDP bình quân đạt 4,5%/năm;
1996 - 2000: 7%/năm; 2001 - 2005: 7,5%/năm; năm 2007 đạt 8,48%. Năm 2008, dù phải
đối mặt với không ít khó khăn, nhưng Việt Nam vẫn đạt mức tăng trưởng GDP là 6,23%.
Để góp phần giữ vững độc lập tự chủ trong phát triển kinh tế, từ đó có độc lập tự
chủ trên con đường phát triển đất nước nói chung, Nhà nước đã có nhiều chính sách phát
huy vai trò các nhân tố nội lực, coi trọng tích lũy từ nội bộ nền kinh tế. Trong năng lực
nội sinh, chúng ta coi trọng trước hết nhân tố con người. Do vậy, Nhà nước đã có nhiều
chính sách về giáo dục - đào tạo để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Số lao động tốt
nghiệp phổ thông trung học từ 13,5% năm 1996 tăng lên 19,7% năm 2005. Năm 1996
mới có 12,31% lực lượng lao động được đào tạo, đến nay, tỷ lệ này đạt 31%. Về nỗ lực
nâng cao tích lũy từ nội bộ nền kinh tế: năm 1990, tỷ lệ tích lũy so với GDP mới đạt
2,9%, năm 2004 là 35,15% và những năm gần đây đều có xu hướng tăng lên...
Nhà nước cũng có nhiều chính sách khai thác ngoại lực, biến ngoại lực thành nội
lực cho sự phát triển. Biểu hiện rõ nhất là Nhà nước đã hoàn thiện Luật Đầu tư, thu hút
được nhiều vốn ODA, FDI,... Từ năm 1988 đến hết năm 2006, có hơn 8.000 dự án đầu tư
FDI với tổng vốn đăng ký 74 tỉ USD. Năm 2006, khu vực FDI đóng góp gần 30% cho
tăng trưởng kinh tế; xuất khẩu của khu vực này chiếm khoảng 50% tổng kim ngạch xuất
khẩu của cả nước; cung cấp việc làm cho khoảng 50 vạn người và việc làm gián tiếp cho
2,5 triệu người; đào tạo được 8.000 cán bộ quản lý, 30.000 cán bộ kỹ thuật. Năm 2007,
nguồn vốn ODA từ các nước, các tổ chức tài chính quốc tế cấp cho Việt Nam đạt hơn 40
tỉ USD, trong đó, 80% là nguồn vốn vay ưu đãi. Năm 2008, dù kinh tế thế giới suy thoái,
nhưng nguồn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam lại tăng kỷ lục: vốn đăng ký 64 tỉ USD,
trong đó các dự án mới chiếm 60,2 tỉ USD.
Một tiêu chí quan trọng đánh giá tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế
là hướng sự phát triển của nó vào việc nâng cao đời sống của nhân dân. Nhìn lại hơn 20
năm đổi mới, thu nhập của nhân dân đã có bước cải thiện đáng kể. Năm 1995, GDP bình
quân đầu người mới đạt 289 USD; năm 2005: 639 USD; năm 2007: 835 USD. Năm
2008, GDP bình quân theo đầu người đã đạt trên 1.000 USD. Với mức thu nhập này, Việt
Nam vượt qua ngưỡng nước thu nhập thấp(2)...
Vai trò của Nhà nước ta đối với kinh tế càng bộc lộ rõ nét trong ban hành, thực thi
các chính sách khắc phục tình trạng suy giảm kinh tế gần đây. Trên cơ sở tiên định những
diễn biến xấu có thể xảy ra, Nhà nước đã đưa ra 8 nhóm giải pháp cấp bách, và bằng việc
tổ chức thực hiện có hiệu quả các giải pháp đó, Nhà nước đã góp phần tích cực vào việc
kiềm chế lạm phát, chỉ số giá tiêu dùng không ngừng giảm: tháng 9-2008 tăng 0,18%,
tháng 10 giảm 0,19%, tháng 11 giảm 0,76%, tháng 12 giảm 0,68%. Kinh tế vĩ mô ổn
định: thu chi ngân sách được cân đối; tổng thu ngân sách nhà nước vượt mức dự toán cả
năm, tăng 26,3% so với năm 2007. Kim ngạch xuất khẩu đạt 62,9 tỉ USD, vượt kế hoạch
đề ra; kim ngạch nhập khẩu đạt 80,4 tỉ USD, tăng 28% so với năm 2007. Những thành
tựu này có vai trò to lớn trong việc giữ vững ổn định xã hội, tạo môi trường thuận lợi cho tăng trưởng kinh tế.
Tuy nhiên, việc phát huy vai trò của Nhà nước đối với sự phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay cũng còn những hạn chế đáng kể:
thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn chưa được xây dựng đồng bộ,
vận hành suôn sẻ; quản lý nhà nước về kinh tế còn nhiều bất cập; chưa có giải pháp mang
tầm đột phá để kinh tế nhà nước thực sự hoàn thành tốt chức năng chủ đạo trong nền kinh
tế; kinh tế tập thể còn rất yếu kém; năng lực cạnh tranh của nền kinh tế thấp; chưa giải
quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường...
Để nâng cao hơn nữa hiệu quả, hiệu lực tác động của Nhà nước tới phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, Nhà nước cần sớm
hoàn thiện thể chế của nền kinh tế thị trường, đặc biệt là hoàn thiện hệ thống pháp luật về
sở hữu. Hệ thống luật này phải khẳng định và bảo vệ sự tồn tại khách quan, lâu dài tính
đa dạng của các hình thức sở hữu; bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ sở
hữu. Cần xác định rõ, nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Nhà nước ta là cung cấp môi
trường pháp lý tin cậy cho các chủ thể kinh tế phát huy tối đa năng lực của họ.
Cùng với vấn đề then chốt trên, cần tiếp tục phân định rạch ròi chức năng quản lý
hành chính nhà nước đối với kinh tế và quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp;
Nhà nước cần làm tốt chức năng hỗ trợ cho toàn xã hội sản xuất hàng hóa công cũng như
tư; đặc biệt là kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội...
Để nâng cao năng lực của bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế, cần cải cách thể
chế xây dựng chính sách, tích cực đấu tranh chống các hành vi độc đoán, chuyên quyền,
tệ quan liêu, tham nhũng trong bộ máy nhà nước.
Việc giải quyết có hiệu quả những vấn đề vừa có tính cấp bách, vừa có tính lâu dài
đó sẽ nâng cao hơn nữa hiệu quả tác động của Nhà nước tới sự phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước và hội nhập toàn cầu hiện nay.