Bài kiểm tra giữa kì lịch sử đảng | Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Anh/chị hãy phân tích đặc điểm ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam? Ý nghĩa sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam? Phân tích đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ của Đảng? Liên hệ với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Môn: Lịch sử Đảng (LSĐ)
Trường: Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA LỊCH SỬ ĐẢNG ---- --
BÀI KIỂM TRA GIỮA KỲ
MÔN: LỊCH SỬ ĐẢNG
Học viên: Tạ Vũ Uyên Nhi Mã sinh viên: 2055380037
Lớp chuyên ngành: Truyền thông chính sách K40
Khoa: Tuyên Truyền
Hà Nội – Năm 2021 1 ĐỀ BÀI
1. Anh/chị hãy phân tích đặc điểm ra đời của Đảng Cộng sản Việt
Nam? Ý nghĩa sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam?
2. Phân tích đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp và can
thiệp Mỹ của Đảng? Liên hệ với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong
giai đoạn hiện nay. BÀI LÀM Câu 1:
1. Đặc điểm ra đời, bối cảnh lịch sử của Đảng Cộng sản Việt Nam
Bối cảnh quốc tế cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
Chủ nghĩa tư bản chuyển từ tự do cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa.
Các nước tư bản đế quốc vừa tăng cường bóc lột nhân dân lao động trong nước
vừa xâm lược và áp bức nhân dân các dân tộc thuộc địa. Sự thống trị của chủ
nghĩa đế quốc làm cho đời sống nhân dân lao động các nước trở nên cùng cực.
Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa thực dân ngày càng gay gắt.
Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc diễn ra mạnh mẽ ở các nước thuộc địa.
Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, chủ nghĩa Mác -
Lênin từ lý luận đã trở thành hiện thực, mở ra một thời đại mới - thời đại cách
mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc. Cách mạng Tháng Mười Nga
đã nêu tấm gương sáng trong việc giải phóng các dân tộc bị áp bức. 2
Sự ra đời của Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) vào tháng 3/1919 đã thúc đẩy sự
phát triển mạnh mẽ phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Đối với Việt
Nam, Quốc tế Cộng sản có vai trò quan trọng trong việc truyền bá chủ nghĩa
Mác - Lênin và thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Bối cảnh trong nước
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng tấn công xâm lược và từng bước thiết lập bộ
máy thống trị ở Việt Nam, biến một quốc gia phong kiến thành thuộc địa nửa phong kiến.
Về chính trị, thực dân Pháp áp đặt chính sách cai trị thực dân, tước bỏ quyền lực
đối nội và đối ngoại của chính quyền phong kiến nhà Nguyễn; chia Việt Nam
thành ba xứ: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ và thực hiện ở mỗi kỳ một chế độ cai
trị riêng. Thực dân Pháp câu kết với giai cấp địa chủ để bóc lột kinh tế và áp
bức chính trị đối với nhân dân Việt Nam.
Về kinh tế, thực dân Pháp thực hiện chính sách bóc lột, cướp đoạt ruộng đất để
lập đồn điền; đầu tư khai thác tài nguyên; xây dựng một số cơ sở công nghiệp,
hệ thống đường giao thông, bến cảng phục vụ chính sách khai thác thuộc địa.
Về văn hóa, thực dân Pháp thi hành triệt để chính sách văn hóa nô dịch, gây tâm
lý tự ti, khuyến khích các hoạt động mê tín dị đoan. Mọi hoạt động yêu nước
của nhân dân ta đều bị cấm đoán. Chúng tìm mọi cách bưng bít và ngăn chặn
ảnh hưởng của nền văn hóa tiến bộ trên thế giới vào Việt Nam và thi hành chính
sách ngu dân để dễ bề cai trị.
Dưới tác động của chính sách cai trị và chính sách kinh tế, văn hóa,
giáo dục thực dân, xã hội Việt Nam đã diễn ra quá trình phân hóa
sâu sắc. Giai cấp địa chủ câu kết với thực dân Pháp tăng cường bóc
lột, áp bức nông dân. Tuy nhiên, trong nội bộ địa chủ Việt Nam lúc
này có sự phân hóa. Một bộ phận địa chủ có lòng yêu nước, căm
ghét chế độ thực dân đã tham gia đấu tranh chống Pháp dưới các
hình thức và mức độ khác nhau. 3
Giai cấp nông dân là lực lượng đông đảo nhất trong xã hội Việt Nam, bị thực
dân và phong kiến áp bức, bóc lột nặng nề. Tình cảnh bần cùng khốn khổ của
giai cấp nông dân Việt Nam đã làm tăng thêm lòng căm thù đế quốc và phong
kiến tay sai, tăng thêm ý chí cách mạng của họ trong cuộc đấu tranh giành lại
ruộng đất và quyền sống tự do.
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của
thực dân Pháp, đa số xuất thân từ giai cấp nông dân, có quan hệ trực tiếp và chặt
chẽ với giai cấp nông dân, bị đế quốc, phong kiến áp bức bóc lột. Giai cấp tư
sản Việt Nam bị tư sản Pháp và tư sản người Hoa cạnh tranh chèn ép, do đó thế
lực kinh tế và địa vị chính trị nhỏ bé và yếu ớt, có tinh thần dân tộc và yêu nước
ở mức độ nhất định. Tầng lớp tiểu tư sản Việt Nam bao gồm học sinh, trí thức,
những người làm nghề tự do… đời sống bấp bênh, dễ bị phá sản trở thành người
vô sản, có lòng yêu nước, căm thù đế quốc, thực dân, có khả năng tiếp thu
những tư tưởng tiến bộ từ bên ngoài truyền vào.
Giai cấp tư sản Việt Nam xuất hiện muộn hơn giai cấp công nhân Việt Nam.
Một bộ phận gắn liền lợi ích với tư bản Pháp, tham gia vào đời sống chính trị,
kinh tế của chính quyền thực dân Pháp, trở thành tầng lớp tư sản mại bản. Một
bộ phận là giai cấp tư sản dân tộc, họ bị thực dân Pháp chèn ép, kìm hãm, bị lệ
thuộc, yếu ớt về kinh tế. Vì vậy, phần lớn tư sản dân tộc Việt Nam có tinh thần
dân tộc, nhưng không có khả năng tập hợp các giai tầng để tiến hành cách mạng.
Tầng lớp tiểu tư sản (tiểu thương, tiểu chủ, sinh viên,...) bị đế quốc, tư bản chèn
ép, khinh miệt, do đó có tinh thần dân tộc, yêu nước và rất nhạy cảm về chính
trị và thời cuộc. Tuy nhiên, do địa vị kinh tế bấp bênh, thái độ hay dao động,
thiếu kiên định, do đó họ không thể lãnh đạo cách mạng.
Tầng lớp sĩ phu phong kiến Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX bị phân
hóa càng ngày càng sâu sắc. Một bộ phận vẫn giữ cốt cách phong kiến, một bộ
phận chuyển sang tư tưởng tư sản hoặc tư tưởng vô sản. Một số người trong
tầng lớp này khởi xướng các phong trào yêu nước có ảnh hưởng lớn. 4
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Việt Nam đã có sự biến đổi rất quan trọng cả
về chính trị, kinh tế, xã hội. Chính sách cai trị và khai thác bóc lột của thực dân
Pháp và chính quyền tay sai đã làm phân hóa những giai cấp vốn là của chế độ
phong kiến, đồng thời tạo nên những giai cấp, tầng lớp mới với thái độ chính trị
khác nhau. Mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam cũng thay đổi, ngoài mâu
thuẫn vốn có của xã hội Việt Nam trước đây là mâu thuẫn giữa nông dân với địa
chủ phong kiến, đến lúc này đã xuất hiện mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt
Nam với thực dân Pháp và chính quyền tay sai. Trong đó, mâu thuẫn chủ yếu
nhất và ngày càng trở nên gay gắt là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam
với thực dân Pháp và chính quyền phong kiến tay sai.
Các giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam lúc này đều mang thân phận người
dân mất nước và ở những mức độ khác nhau, đều bị thực dân áp bức, bóc lột. Vì
vậy, trong xã hội Việt Nam, ngoài mâu thuẫn cơ bản giữa nhân dân, chủ yếu là
nông dân với giai cấp địa chủ và phong kiến, đã nảy sinh mâu thuẫn vừa cơ bản
vừa chủ yếu và ngày càng gay gắt trong đời sống dân tộc, đó là mâu thuẫn giữa
toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược. Tính chất của xã hội
Việt Nam là xã hội thuộc địa nửa phong kiến đang đặt ra hai yêu cầu: Một là,
phải đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược, giành độc lập cho dân tộc, tự do cho
nhân dân; Hai là, xóa bỏ chế độ phong kiến, giành quyền dân chủ cho nhân dân,
chủ yếu là ruộng đất cho nông dân. Trong đó, chống đế quốc, giải phóng dân
tộc là nhiệm vụ hàng đầu.
Trước những yêu cầu đó, các phong trào yêu nước của nhân dân ta chống thực
dân Pháp diễn ra liên tục và sôi nổi nhưng đều không mang lại kết quả. Phong
trào Cần Vương - phong trào yêu nước theo ý thức hệ phong kiến, do giai cấp
phong kiến lãnh đạo đã chấm dứt ở cuối thế kỷ XIX với cuộc khởi nghĩa của
Phan Đình Phùng (năm 1896). Sang đầu thế kỷ XX, khuynh hướng này không
còn là khuynh hướng tiêu biểu nữa. Phong trào nông dân, tiêu biểu là cuộc khởi
nghĩa Yên Thế của Hoàng Hoa Thám kéo dài mấy chục năm cũng thất bại vào
năm 1913. Phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản do các cụ 5
Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh lãnh đạo cũng rơi vào bế tắc. Cuộc khởi nghĩa
Yên Bái do Nguyễn Thái Học lãnh đạo cũng bị thất bại.
Các phong trào yêu nước từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là sự tiếp nối truyền
thống yêu nước, bất khuất của dân tộc ta được hun đúc qua hàng ngàn năm lịch
sử. Nhưng do thiếu đường lối đúng đắn, thiếu tổ chức và lực lượng cần thiết nên
các phong trào đó đã lần lượt thất bại. Cách mạng Việt Nam chìm trong cuộc
khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước.
Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị và thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Giữa lúc dân tộc ta đứng trước cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước, nhiều
nhà yêu nước đương thời tiếp tục con đường cứu nước theo lối cũ thì ngày
5/6/1911 người thanh niên Nguyễn Tất Thành (tức là Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí
Minh sau này) ra đi tìm đường cứu nước theo phương hướng mới. Người đã đi
qua nhiều nước của châu Âu, châu Phi, châu Mỹ và đã phát hiện ra chân lý: Chủ
nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc thực dân là cội nguồn mọi đau khổ của công
nhân và nhân dân lao động ở chính quốc cũng như ở các nước thuộc địa.
Năm 1917, Người trở lại nước Pháp, đến Paris và năm 1919 gia nhập Đảng Xã hội Pháp.
Tháng 6/1919, thay mặt những người yêu nước Việt Nam, với tên gọi mới là
Nguyễn Ái Quốc, Người gửi bản yêu sách 8 điểm tới Hội nghị Vécxây
Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc được đọc “Đề cương về vấn đề dân tộc và
thuộc địa” của Lênin và từ tư tưởng đó, Người đã tìm ra con đường cứu nước
đúng đắn cho dân tộc Việt Nam.
Tại Đại hội Đảng Xã hội Pháp (tháng 12/1920), Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán
thành Quốc tế III (Quốc tế Cộng sản do Lênin sáng lập) và tham gia thành lập
Đảng Cộng sản Pháp, trở thành người Cộng sản đầu tiên của Việt Nam. Đó là
một sự kiện lịch sử trọng đại, không những Nguyễn Ái Quốc từ chủ nghĩa yêu
nước đến với lý luận cách mạng của thời đại là chủ nghĩa Mác-Lênin, mà còn
đánh dấu bước chuyển quan trọng của con đường giải phóng dân tộc Việt Nam: 6
muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản.
Từ đây, cùng với việc thực hiện nhiệm vụ đối với phong trào cộng sản quốc tế,
Nguyễn Ái Quốc xúc tiến truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin, vạch phương hướng
chiến lược cách mạng Việt Nam và chuẩn bị điều kiện để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Từ năm 1921 đến năm 1930, Nguyễn Ái Quốc ra sức truyền bá chủ nghĩa Mác-
Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, chuẩn bị về
lý luận cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Người nhấn mạnh: cách
mạng muốn thành công phải có đảng cách mạng chân chính lãnh đạo; Đảng
phải có hệ tư tưởng tiên tiến, cách mạng và khoa học dẫn đường, đó là hệ tư tưởng Mác-Lênin.
Người đã viết nhiều bài báo, tham gia nhiều tham luận tại các đại hội, hội nghị
quốc tế, viết tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” và tổ chức ra các tờ báo
Thanh niên, Công nông, Lính cách mệnh, Tiền phong, nhằm truyền bá chủ
nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam. Năm 1927, Bộ Tuyên truyền của Hội Liên hiệp
các dân tộc bị áp bức xuất bản tác phẩm “Đường cách mệnh” (tập hợp các bài
giảng của Nguyễn Ái Quốc ở lớp huấn luyện chính trị của Hội Việt Nam cách
mạng thanh niên). Đó là sự chuẩn bị về đường lối chính trị tiến tới thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam. Người khẳng định, muốn thắng lợi thì cách mạng
phải có một đảng lãnh đạo, Đảng có vững, cách mạng mới thành công cũng như
người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy.
Trong thời gian này, Người cũng tập trung cho việc chuẩn bị về tổ chức và cán
bộ. Người lập ra Hội Việt Nam cách mạng thanh niên (năm 1925), tổ chức
nhiều lớp đào tạo cán bộ tại Quảng Châu (Trung Quốc) và gửi cán bộ đi học tại
trường Đại học Phương Đông (ở Liên Xô trước đây) và trường Lục quân Hoàng
Phố (Trung Quốc) nhằm đào tạo cán bộ cho cách mạng Việt Nam.
Nhờ hoạt động không mệt mỏi của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và nhiều đồng chí
cách mạng tiền bối mà những điều kiện thành lập Đảng ngày càng chín muồi. 7
Cuối năm 1929, những người cách mạng Việt Nam trong các tổ chức cộng sản
đã nhận thức được sự cần thiết và cấp bách phải thành lập một Đảng Cộng sản
thống nhất, chấm dứt tình trạng chia rẽ phong trào cộng sản ở Việt Nam.
Nguyễn Ái Quốc đã chủ động tổ chức và chủ trì Hội nghị hợp nhất Đảng tại
Hương Cảng, Trung Quốc từ ngày 6 tháng 1 đến ngày 7/2/1930.
Hội nghị đã quyết định hợp nhất các tổ chức Đảng (Đông Dương Cộng sản
Đảng, An Nam Cộng sản Đảng, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn) thành Đảng
Cộng sản Việt Nam. Hội nghị thảo luận và thông qua các văn kiện: Chánh
cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của
Đảng Cộng sản. Những văn kiện đó do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, được Hội
nghị hợp nhất Đảng thông qua là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin
vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam. Hội nghị thông qua lời kêu gọi
của Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng sản Việt Nam
gửi đến đồng bào, đồng chí trong cả nước nhân dịp thành lập Đảng.
Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản có ý nghĩa như là một Đại hội thành lập
Đảng. Những văn kiện được thông qua tại Hội nghị hợp nhất do Nguyễn Ái
Quốc chủ trì chính là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng đã quyết nghị lấy ngày 3 tháng
2 dương lịch hằng năm làm ngày kỷ niệm thành lập Đảng.
2. Ý nghĩa sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã mở ra thời
kì mới cho cách mạng Việt Nam - thời kì đấu tranh giành độc lập dân tộc tiến
lên chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng ra đời, đã xác định được
những nội dung cơ bản nhất của con đường cách mạng Việt Nam; đáp ứng được
những nhu cầu bức thiết của lịch sử và trở thành ngọn cờ tập hợp, đoàn kết
thống nhất các tổ chức cộng sản, các lực lượng cách mạng và toàn thể dân tộc.
Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam là một bước ngoặt vô cùng quan
trọng của lịch sử cách mạng Việt Nam, quyết định sự phát triển của dân tộc,
chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối và tổ chức lãnh đạo của phong trào yêu 8
nước Việt Nam đầu thế kỷ XX. Đó là kết quả của sự vận động, phát triển và
thống nhất phong trào cách mạng trong cả nước; sự chuẩn bị công phu về mọi
mặt của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và sự đoàn kết nhất trí của những chiến sỹ
tiên phong vì lợi ích của giai cấp, của dân tộc.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là thành quả của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-
Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam; chứng tỏ
giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành, đủ sức lãnh đạo cách mạng.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và việc Đảng chủ trương cách mạng Việt Nam
là một bộ phận của phong trào cách mạng thế giới, đã tranh thủ được sự ủng hộ
to lớn của cách mạng thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời
đại làm nên những thắng lợi vẻ vang; đồng thời đóng góp tích cực vào sự
nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ của nhân loại trên thế giới. Câu 2:
1. Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ của Đảng
Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp là một bộ phận quan trọng
của đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân của. Đó là đường lối tiếp tục
hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc bằng chiến tranh cách mạng, trong
điều kiện nhân dân ta đã giành được chính quyền để tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Trong một thời gian ngắn và trong bối cảnh lịch sử đầy khó khăn, phức tạp,
Đảng ta đã dựa vào đường lối cách mạng và kinh nghiệm đấu tranh giải phóng
dân tộc sớm đề ra được những vấn đề cơ bản của đường lối kháng chiến chống
thực dân Pháp. Chỉ thị Toàn dân kháng chiến 12-1 -
2 1946, Lời kêu gọi toàn
quốc kháng chiến ngày 19-12-1946 và tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng
lợi là những văn kiện lịch sử quan trọng thể hiện đường lối kháng chiến của
Đảng ta. Đường lối ấy không ngừng được bổ sung, phát triển, hoàn chỉnh trong 9
quá trình kháng chiến. Nó là ngọn đèn pha soi sáng, dẫn dắt nhân dân ta vượt
qua mọi khó khăn nguy hiểm, chiến đấu và chiến thắng kẻ thù.
Nội dung đường lối kháng chiến của Đảng bao gồm các vấn đề cơ
bản: Phát động và tổ chức toàn dân kháng chiến; kháng chiến toàn
diện trên tất cả các mặt trận: chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa,
ngoại giao; kháng chiến lâu dài, dựa vào sức mình là chính, đồng
thời tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế. Trong đó việc phát động toàn
dân đánh giặc, biến “Mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi làng xóm
là một pháo đài” là nội dung quan trọng nhất của Đường lối kháng chiến.
Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ được đề ra ngay
từ đầu cuộc kháng chiến và không ngừng được bổ sung hoàn chỉnh trong quá
trình tiến hành kháng chiến.
Đường lối kháng chiến được thể hiện rõ trong nhiều văn kiện quan trọng của
Đảng: bắt đầu từ bản Chỉ thị về Kháng chiến kiến quốc (ngày 25-11-1945), tiếp
đến là Công việc khẩn cấp bây giờ (tháng 10-1946), Chỉ thị Toàn dân kháng
chiến ngày 12-12-1946 và Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ
Chí Minh (ngày 19-12-1946), những quan điểm cơ bản của đường lối kháng
chiến đã hình thành. Giữa năm 1947, Tổng Bí thư Trường Chinh đã viết một
loạt bài báo nhằm hướng dẫn việc thực hiện đường lối của Đảng, những bài viết
này được tập hợp thành cuốn sách Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi.
Tác phẩm Trường kỳ kháng chiến nhất định thắnq lợi đã thể hiện những quan
điểm cơ bản về đường lối kháng chiến của Đảng, đó là đưòng lối: "toàn dân,
toàn diện, lâu dài và dựa vào sức mình là chính” đưa cuộc kháng chiến của nhân
dân ta đi đến thắng lợi. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (tháng 2-
1951) tổng kết 5 năm kháng chiến đã bổ sung và phát triển đường lối kháng
chiến khi kháng chiến đã phá thế bị bao vây và đế quốc Mỹ can thiệp sâu vào
cuộc chiến tranh Đông Dương. Về cơ bản, đường lối chung của cuộc kháng
chiến tập trung một số nội dung: 10
Về mục đích kháng chiến: Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp
Mỹ là sự kế thừa và phát triển thành quả Cách mạng Tháng Tám nhằm đánh đổ
thực dân Pháp xâm lược, giành thống nhất, độc lập hoàn toàn.
Tính chất của cuộc kháng chiến: Đang khẳng định đây là cuộc chiến tranh cách
mạng của nhân dân, chiến tranh chính nghĩa, nó có tính chất toàn dân, toàn diện,
lâu dài. Do vậy, đó là cuộc chiến tranh tiến bộ vì tự do, độc lập, dân chủ và hòa
hình có tính chất dân tộc giải phóng và dân chủ mới. Đảng chủ trương lien hiệp
với dân tộc Pháp, chống phản động thực dân Pháp, đoàn kết với Miên, Lào và
các dân tộc yêu chuộng tự do hoà bình.
Chương trình và nhiệm vụ kháng chiến: Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh trên cơ
sở xác định rõ đối tượng của cách mạng Việt Nam là chủ nghĩa đế quốc và thế
lực phong kiến, đặc biệt, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đáng
(tháng 2-1951) đã chỉ rõ kẻ thù cụ thể trước mắt của cách mạng Việt Nam là đế
quốc Pháp, kẻ thù nguy hiểm là dế quốc Mỹ, kẻ thù phụ là các thế lực phong
kiến. Lúc này là phong kiến phản động, từ đó đề ra nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam:
- Đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược làm cho Việt Nam hoàn toàn thống nhất và độc lập.
- Xoá bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến làm cho người cày có
ruộng, phát triển chế độ dân chủ nhân dân.
- Gây cơ sở cho chủ nghĩa xã hội.
- Động lực của cách mạng Việt Nam là nhân dân, chủ yếu là công, nông.
Lãnh đạo cách mạng Việt Nam là giai cấp công nhân. Nông dân là bạn đồng
minh "lớn mạnh và chắc chắn" của giai cấp công nhân.
Phương châm kháng chiến: Đảng chủ trương tiến hành chiến tranh nhân dân,
thực hiện "kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức mình là chính".
Trong đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng, điều cốt lõi nhất và cơ bản
nhất là chiến lược toàn dân kháng chiến. Đảng tổ chức cả nước thành một mặt 11
trận, tạo nên thế trận cả nước đánh giặc, phát huy sức mạnh của toàn dân và
khối đoàn kết toàn dân tộc tham gia kháng chiến với những biện pháp đa dạng
phong phú, phù hợp như tuyên truyền giáo dục, động viên chính trị sâu rộng từ
đó xác định trách nhiệm đứng lên cứu nước nhà. Chú trọng xây dựng lực lượng
vũ trang với ba thứ quân: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du
kích. Từ chiến tranh du kích phát triển lên chiến tranh chính quy, kết hợp du
kích chiến với vận động chiến.
Để phát huy sức mạnh tổng hợp của cuộc kháng chiến, Đảng chủ trương kháng
chiến toàn diện, tức là tiến hành tiến công địch trên tất cả các mặt chính trị,
quân sự, kinh tế, văn hoá, ngoại giao tạo thành sức mạnh tổng hợp.
+ Về chính trị, phải đoàn kết toàn dân chống Pháp xâm lược, phải thống nhất
toàn dân, làm cho mặt trận dân tộc thống nhất ngày càng vững chắc và rộng rãi.
Phải củng cố chế độ cộng hoà dân chủ, xây đựng bộ máy kháng chiến vững
mạnh, thống nhất quân, dân, chính trong toàn quốc, phát triển các đoàn thể cứu
quốc, củng cố bộ máy lãnh đạo kháng chiến toàn dân. Phải cô lập kẻ thù, kéo
thêm nhiều bạn, làm cho nhân dân Pháp và nhân dân các thuộc địa Pháp tích
cực ủng hộ ta, chống lại thực dân phản động Pháp. Coi trọng xây dựng Đảng,
xây dựng chính quyền nhà nước và Mặt trận dân tộc thống nhất vững mạnh.
Thống nhất Việt Minh, Liên Việt thành mặt trận Liên Việt (1951).
+ Về quân sự, triệt để dùng "du kích vận động chiến", tiến công địch ở khắp nơi,
vừa đánh địch vừa xây dựng lực lượng; tản cư nhân dân ra xa vùng chiến sự.
Xây dựng căn cứ địa kháng chiến và hậu phương vững mạnh. Chủ động làm
thất bại các kế hoạch chiến tranh lớn của dịch, phối hợp chặt chẽ các chiến
trường với sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung thống nhất.
+ Về kinh tế, xây dựng nền kinh tế kháng chiến theo nguyên tắc vừa kháng
chiến vừa kiến quốc, toàn dân tăng gia sản xuất, tự túc tự cấp về mọi mặt; ra sức
phá kinh tế địch không cho chúng thực hiện mưu đồ lấy chiến tranh nuôi chiến
tranh. Kinh tế kháng chiến về hình thức là kinh tế chiến tranh, về nội dung là
dân chủ mới, chú trọng phát triển nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp 12
và công nghiệp. Phát triển các thành phần kinh tế, từng bước thực hiện chính
sách ruộng đất đối với nông dân (giảm tô và cải cách ruộng dất). Phái triển kinh
tế quốc doanh, gây mầm cho chủ nghĩa xã hội.
+ Về văn hoá, thực hiện hai nhiệm vụ: xoá bỏ nền văn hoá nô dịch ngu dân, xâm
lược của thực dân Pháp và xây dựng nền văn hoá dân chủ mới, dựa trên ba
nguyên tắc: dân tộc hoá, khoa học hoá, đại chúng hoá. Phát triển giáo dục, đào
tạo các bậc phổ thong trung học chuyên nghiệp và đại học. Tiến hành cải cách
giáo dục. Phát triển văn học, nghệ thuật, coi văn nghệ là một mặt trận và văn
nghệ sĩ là chiến sĩ trên mặt trận này.
+ Về đấu tranh ngoại giao, triệt để cô lập kẻ thù, tranh thủ thêm nhiều bầu bạn,
làm cho nhân dân thế giới kể cả nhân dân Pháp hiểu, tán thành và ủng hộ cuộc
kháng chiến chính nghĩa của nhân dân Việt Nam. Tranh thủ sự ủng hộ giúp đỡ
về mọi mặt trận các nước xã hội chủ nghĩa nhất là Liên Xô, Trung Quốc. Năm
1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ Việt Nam là bạn của các nước dân chủ trên
thế giới, không gây thủ oán với một ai.
Kháng chiến lâu dài: Xuất phát từ sự so sánh lực lượng, ban đầu địch mạnh, ta
yếu nên Đảng chủ trương đánh lâu dài. Vừa đánh vừa xây dựng phát triển lực
lượng, đồng thời tích cực tiêu hao, tiêu diệt địch để so sánh lực lượng sẽ dần có
lợi cho và ta sẽ chuyển từ yếu thành mạnh, tiến tới đánh thắng thù. Song, Đảng
khẳng định đánh lâu dài nhưng phải tạo thế chr động phát triển thế và lực, tạo
thời cơ giành thắng lợi quyết định.
Dựa vào sức mình là chính: là dựa vào sức lực của nhân dân, vào đường lối
đúng đắn của Đảng, vào các điều kiện thiên thời, địa lợi, nhân hoà của đất nước,
đồng thời ra sức tranh thủ sự đồng tình ủng hộ và giúp đỡ quốc tế để chiến
thắng kẻ thù.
Đường lối kháng chiến của Đảng là sự kế thừa và nâng lên tầm cao
mới tư tưởng quân sự truyền thống của dân tộc, là sự vận dụng lý
luận chiến tranh cách mạng của chủ nghĩa Mác Lênin và kinh 13
nghiệm nước ngoài vào điều kiện Việt Nam. Đường lối đó là ngọn
cờ dẫn dắt và là động lực chính trị tinh thần đưa quân và dân ta tiến
lên chiến đấu và chiến thắng thực dân Pháp xâm lược. Với đường
lối kháng chiến đúng đắn của Đảng, buộc kháng cn chiến chống
thực dân Pháp và can thiệp Mỹ ngày càng phát triển và giành thắng
lợi vẻ vang. Sự lãnh đạo của Đảng được tăng cường, Nhà nước dân
chủ nhân dân ngày càng vững mạnh, mặt trận Việt Minh, Liên Việt
và các đoàn thể cách mạng đã tập hợp rộng rãi khối đại đoàn kết
dân tộc. Kinh tế phát triển nhất là nông nghiệp, xây dựng, văn hóa,
giáo dục có nhiều thành công. Ngoại giao từng bước phá thế bị bao
vây, tranh thủ được sự ủng hộ về mọi mặt của đồng chí, bè bạn trên
thế giới. Đặc biệt, trên mặt trận quân sự, quân đội và nhân dân Việt
Nam đẫ lần lượt đánh bại các kế hoạch chiến tranh lớn của thực
dân Pháp: đánh bại kế hoạch chiến tranh chớp nhoáng của địch với
chiến thắng Việt Bắc thu đông (1947); làm thất bại kế hoạch Rơve
với chiến thắng Biên giới (1950); đánh bại kế hoạch Đ.Tátxinhi với
chiến thắng Hòa Bình (1951), Tây Bắc(1952) và làm phá sản kế
hoạch Nava với chiến thắng vĩ đại ở Điện Biên Phủ (ngày 7-5-
1954),buộc thực dân Pháp ký Hiệp định Giơnevơ, chấm đứt chiến
tranh, rút quân Pháp về nước. Miền Bắc hoàn toàn giải phóng, tiến
lên chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân vi mục tiêu giành độc lập, thắng lợi hoàn toàn.
2. Liên hệ với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp là thắng lợi của đường
lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ kháng chiến, tự lực cánh sinh.
Đây là sự kết hợp nhuần nhuyễn những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
Mac-Lenin với truyền thống, tinh hoa và nghệ thuật đánh giặc giữ nước của 14
ông cha ta với một tinh thần dân tộc “ Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không
chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”.
Phát huy giá trị lịch sử của Đường lối Toàn dân kháng chiến gợi mở những ý
nghĩa sâu xa đối với việc phát huy sức mạnh toàn dân tộc trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc nhất là trong tình hình dịch bệnh COVID-19
đang bùng phát hiện nay. Là một bộ phận trong đường lối chiến lược của
Đảng, chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc luôn bám sát và phục vụ mục tiêu
chiến lược của Đảng.
Chúng ta cần tập trung xây dựng và phát huy mọi tiềm lực của đất nước. Đó
là các tiềm lực: chính trị – tinh thần, quân sự, kinh tế, văn hóa, khoa học –
công nghệ (KH-CN),... Để xây dựng tiềm lực chính trị – tinh thần, trước hết
cần tập trung xây dựng hệ thống chính trị các cấp trong sạch, vững mạnh, đủ
năng lực, bản lĩnh, trí tuệ để triển khai thực hiện đúng đắn, sáng tạo mọi chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Trong
đó, vấn đề then chốt là nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong
hệ thống chính trị các cấp; đẩy mạnh cải cách hành chính, tạo điều kiện thúc
đẩy phát triển kinh tế – xã hội (KT-XH) và thực hiện mục tiêu “Dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Trong công tác giáo dục quốc
phòng – an ninh (QP-AN), cần tập trung quán triệt, tuyên truyền quan điểm,
đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đồng thời, nâng
cao nhận thức cho nhân dân về âm mưu, thủ đoạn trong chiến lược "Diễn
biến hoà bình" của các thế lực thù địch. Thông qua đó, bồi đắp tinh thần yêu
nước, lòng tự hào dân tộc, củng cố lòng tin của các tầng lớp nhân dân đối với
Đảng và chế độ XHCN, xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc, tạo sự
đồng thuận của toàn dân đối với sự nghiệp cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng. 15
Hiện nay, công cuộc xây dựng CNXH của chúng ta đã tạo ra những tiền đề
mới về cơ sở vật chất của nền QPTD. Tuy nhiên, chúng ta phải biết tận dụng
và phát huy một cách hiệu quả nhất, biến tiềm lực thành thực lực quốc
phòng, quân sự khi cần thiết. Đó vừa là đòi hỏi khách quan của sự nghiệp
BVTQ trong tình hình mới, vừa là sự kế thừa những bài học kinh nghiệm sâu
sắc trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc. Trong kháng chiến chống
thực dân Pháp, mặc dù còn “trăm bề” khó khăn, phải tập trung sức người,
sức của cho kháng chiến, nhưng Đảng ta vẫn đề ra nhiều chính sách đẩy
mạnh sản xuất, “vừa kháng chiến, vừa kiến quốc”, chăm lo cải thiện đời
sống nhân dân. Bài học đó cho thấy, để xây dựng và phát huy tiềm lực kinh
tế trong sự nghiệp BVTQ, trước hết từng địa phương phải tập trung phát
triển kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân, đồng thời, thực hiện tốt yêu cầu
kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với tăng cường QP-AN. Thực hiện
mỗi bước phát triển kinh tế là một bước tăng cường tiềm lực QP-AN. Sự kết
hợp đó phải được thực hiện ngay trong quy hoạch, kế hoạch phát triển KT-
XH, việc phân bố dân cư và xây dựng kết cấu hạ tầng trên các địa bàn, nhất
là ở các địa bàn chiến lược trọng điểm về QP-AN. Thực tiễn cho thấy, nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN với sự phát triển của nhiều thành phần
kinh tế đang đặt ra những vấn đề mới, nhất là trong huy động nhân lực và vật
lực. Vì vậy, chúng ta cần coi trọng việc tiếp tục nghiên cứu, xây dựng các
chế tài quy phạm pháp luật, các chính sách, phương thức, các biện pháp phù
hợp để quản lý, huy động các nguồn lực này cho công tác quốc phòng, quân sự khi cần thiết.
Xây dựng nền QPTD là quan điểm cơ bản của Đảng ta về sức mạnh BVTQ
trong tình hình mới. Quan điểm đó hình thành trên cơ sở bài học kinh
nghiệm về phát huy sức mạnh toàn dân tộc trong lịch sử dựng nước, giữ
nước của nhân dân ta, mà nổi bật là đường lối: “Toàn dân kháng chiến, toàn
diện kháng chiến, trường kỳ kháng chiến, dựa vào sức mình là chính" trong 16
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Ngày nay, chúng ta có thuận lợi
cơ bản là hệ thống pháp luật từng bước được hoàn thiện. Đó là cơ sở pháp lý
để xây dựng kế hoạch, các biện pháp phối hợp, huy động các tiềm lực, đáp
ứng yêu cầu, nhiệm vụ BVTQ. 17