










Preview text:
BÀI KIỂM TRA GIỮA KỲ
MÔN LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
______________________________
Họ và tên: Nguyễn Thị Kiều Trang MSSV: 2056100053
Lớp: Thông tin đối ngoại K40
Câu 1: Phân tích vai trò của đồng chí Nguyễn Ái
Quốc đối với sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam.
Ngày 3 tháng 2 năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra
đời. Đó là kết quả tất yếu của sự kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin,
phong trào công nhân và phong trào yêu nước của Nhân dân
Việt Nam, thông qua vai trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - người
cộng sản đầu tiên của Việt Nam, người tìm đường và dẫn đường
cho cách mạng Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc đã có những đóng
góp to lớn, có tính quyết định cho việc thành lập Đảng Cộng
sản Việt Nam khi chuẩn bị các tiền đề tốt nhất về tư tưởng,
chính trị và tổ chức. Công lao to lớn của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc
trong quá trình chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đó là:
Một là, Người đã tìm ra con đường cứu nước đúng
đắn cho dân tộc Việt Nam - Con đường Cách mạng Vô sản.
Nguyễn Ái Quốc sinh ngày 19/5/1890 trong một gia đình
có truyền thống yêu nước tại làng Kim Liên, huyện Nam Đàn,
tỉnh Nghệ An. Lúc nhỏ có tên là Nguyễn Sinh Cung, khi đi học 1
lấy tên là Nguyễn Tất Thành. Lớn lên giữa lúc nước mất, nhà
tan và đau xót trước cảnh lầm than của đồng bào, Nguyễn Ái
Quốc sớm đã có ý chí đánh đuổi bè lũ thực dân, giải phóng dân
tộc, mang lại hòa bình và ấm no cho nhân dân. Người rất khâm
phục tinh thần yêu nước của Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh,
Hoàng Hoa Thám, nhưng không đồng ý đi theo con đường của một người nào.
Đầu thế kỷ 20, vượt qua những hạn chế về tư tưởng của
các sĩ phu và các nhà cách mạng có xu hướng tư sản đương
thời, Nguyễn Ái Quốc đã đến với học thuyết cách mạng của chủ
nghĩa Mác - Lênin và lựa chọn con đường cách mạng vô sản.
Những chuyến đi, những cuộc khảo nghiệm, dấu chân Người
từng in trên 3 đại dương, 4 châu lục và khoảng 30 quốc gia
trong 10 năm (1911 - 1920). Quá trình thâm nhập thực tiễn
rộng lớn đó đã giúp người thanh niên yêu nước nhận thức rõ
hơn, khái quát hơn những vấn đề mang tính chất bước ngoặt
quan trọng, đó là nhận ra diện mạo, bản chất của chủ nghĩa đế
quốc, chủ nghĩa thực dân: ở đâu bọn đế quốc, thực dân cũng
tàn bạo, độc ác; ở đâu những người lao động cũng bị bóc lột, áp
bức nặng nề và “dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có
hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột”.
Nhận ra bản chất của các cuộc cách mạng qua nghiên cứu các
cuộc cách mạng của các nước tư bản chủ nghĩa: “Cách mệnh
Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản.
Cách mệnh không đến nơi, không triệt để, tiếng nói là cộng hòa
là dân chủ. Kỳ thực bên trong thì nó bóc lột công nông trong
nước, ở ngoài thì áp bức thuộc địa”1. Bắt gặp lý tưởng của Chủ
nghĩa Mác - Lênin: Người đã tìm thấy con đường cứu nước giải
1 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, H.2000, t. 2, tr. 296 2
phóng cho dân tộc - con đường cách mạng vô sản. Sau này
Người có kể lại: “Luận cương của Lênin đã làm cho tôi rất cảm
động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến
phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như
đang nói trước quần chúng đông đảo: Hỡi đồng bào bị đọa đày
đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường
giải phóng cho chúng ta”2. Có thể khẳng định, chính chủ nghĩa
yêu nước đã đưa Nguyễn Ái Quốc tìm đến lý tưởng cao quý của
chủ nghĩa Mác - Lênin, với khát vọng mang lại hòa bình cho dân
tộc, Người đưa ra những thông điệp mang giá trị vĩnh hằng, đó
là những thông điệp về hòa bình, độc lập, tự do, hạnh phúc, dân
chủ, đó chính là: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội -
con đường Người lựa chọn suốt 100 năm qua, nay vẫn là sợi chỉ
đỏ, là kim chỉ nam cho hoạt động cách mạng Việt Nam.
Hai là, Người đã tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, chuẩn bị
về tư tưởng, chính trị, tổ chức cho sự ra đời của Đảng.
Khi xác định con đường cách mạng Việt Nam là con đường cách mạng vô
sản theo cách mạng Tháng Mười Nga, theo Quốc tế Cộng sản thì Nguyễn Ái
Quốc bằng hoạt động thực tiễn tích cực của mình ở nước ngoài đã tiến hành
truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về Việt Nam, quá trình truyền bá đi từ thức
tỉnh đến giác ngộ, từ lựa chọn con đường đến hành động cách mạng theo con
đường cách mạng vô sản.
Về tư tưởng: Nguyễn Ái Quốc đã dùng ngòi bút của mình tích cực tố cáo,
lên án bản chất bóc lột của chủ nghĩa thực dân đối với nhân dân các nước thuộc
địa và kêu gọi, thức tỉnh nhân dân bị áp bức đấu tranh giải phóng. Người đã góp
phần quan trọng vào việc tố cáo tội ác của chủ nghĩa thực dân Pháp ở các thuộc
địa. Chỉ rõ bản chất của chủ nghĩa thực dân, xác định chủ nghĩa thực dân là kẻ
2 Hồ Chí Minh: Con đường dẫn tôi đến với chủ nghĩa Mác - Lênin. Nxb Sự Thật. 1980 3
thù chung của các dân tộc thuộc địa, của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động trên thế giới. Đồng thời tiến hành tuyên truyền tư tưởng Mác - Lênin, xây
dựng mối quan hệ gắn bó giữa những người cộng sản và nhân dân lao động
Pháp với các nước thuộc địa và phục thuộc. Về chính trị: Lãnh
tụ Nguyễn Ái Quốc đã hình thành một hệ thống luận
điểm chính trị: Lãnh tụ Nguyễn
Ái Quốc khẳng định con đường cách mạng của
các dân tộc bị áp bức; xác định cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận
của cách mạng vô sản thế giới; xác định lực lượng cách mạng; xác định vai trò
lãnh đạo của Đảng; cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân. Những
luận điểm ấy sau này phát triển thành những nội dung cơ bản trong Cương lĩnh
chính trị đầu tiên của Đảng.
Về tổ chức: Sau khi từ Liên
Xô về Quảng Châu, Người lựa chọn một số
thanh niên tích cực trong tổ chức Tâm tâm xã lập ra nhóm Cộng sản đoàn
(02/1925). Trên cơ sở nhóm Cộng sản đoàn Người sáng lập nên Hội Việt Nam
cách mạng Thanh niên (6/1925) tại Quảng Châu - Trung Quốc, sau đó Người
liên kết với những cộng sản ở thuộc địa đang hoạt động cách mạng ở Pháp lập
ra Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức Á Đông (7/1925). Các tổ chức là nơi để
truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về nước và cũng là sự chuẩn bị quan trọng về
tổ chức để tiến tới thành lập chính đảng của giai cấp vô sản ở Việt Nam. Nhờ
đó, thúc đẩy mạnh mẽ sự chuyển biến của phong trào công nhân, phong trào yêu
nước Việt Nam những năm 1928 - 1929 theo khuynh hướng cách mạng vô sản.
Có thể nói, trong những năm tháng đầy cam go, hiểm nguy, thử thách, với khát
vọng cháy bỏng giải phóng dân tộc, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã hoạt động khẩn
trương, tích cực và đầy sáng tạo chuẩn bị những tiền đề tư tưởng, chính trị, tổ
chức để dẫn đến sự ra đời các tổ chức cộng sản ở Việt Nam phù hợp với xu thế tiến bộ của lịch sử.
Ba là, Người đã triệu tập và chủ trì Hội nghị thành lập Đảng.
Cuối năm 1929, phong trào cách mạng phát triển mạnh mẽ dẫn tới sự ra
đời của ba tổ chức cộng sản: Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản 4
Đảng, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn. Sự ra đời của các tổ chức cộng sản đã
khẳng định bước phát triển quan trọng của phong trào cách mạng Việt Nam.
Tuy nhiên, sự ra đời ba tổ chức cộng sản ở ba miền đều tuyên bố ủng hộ Quốc
tế Cộng sản, kêu gọi Quốc tế Cộng sản thừa nhận tổ chức của mình và đều nhận
là đảng cách mạng chân chính, do đó không tránh khỏi phân tán về lực lượng và
thiếu thống nhất về tổ chức.Trước nhu cầu cấp bách của phong trào cách mạng
trong nước, với tư cách là phái viên của Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc
đến Hương Cảng (Trung Quốc) triệu tập Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng
sản để lập một chính đảng duy nhất của Việt Nam, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam.
Bốn là, Người đã soạn thảo và thông qua Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
Cương lĩnh đã xác định đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam với
nhiều nội dung rất quan trọng: mục tiêu của cách mạng, nhiệm vụ cách
mạng, lực lượng cách mạng, phương pháp tiến hành cách mạng, quan hệ quốc
tế, vai trò lãnh đạo của Đảng. Những nội dung ấy dẫu rằng “vắn tắt” nhưng đã
phản ánh những vấn đề cơ bản trước mắt và lâu dài cho cách mạng Việt Nam,
đưa cách mạng Việt Nam sang một bước ngoặt lịch sử vĩ đại. Cương lĩnh chính
trị đầu tiên là một cương lĩnh cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn và sáng
tạo, nhuần nhuyễn về quan điểm giai cấp, thấm đượm tính dân tộc và tính nhân
văn sâu sắc. Và là kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng ta trong mọi thời
kì cách mạng và đặc biệt có giá trị trong thời đại ngày nay. 90 năm thực hiện
đường lối chiến lược theo Cương lĩnh chính trị đầu tiên, Việt Nam vẫn kiên định
con đường cách mạng được khẳng định từ Cương lĩnh chính tri đầu tiên, đó là
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, vẫn là sợi chỉ đỏ, là kim chỉ nam
cho hoạt động cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh (bổ sung, phát triển 2011)
khẳng định: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa
chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh phù hợp 5
với xu thế phát triển của lịch sử”3; Đại hội lần thứ XII (2016) của Đảng tiếp tục
khẳng định: “Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với
thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử”4. Do đó, chúng ta hoàn
toàn có quyền khẳng định rằng di sản Hồ Chí Minh vẫn vẹn nguyên giá trị lý
luận và thực tiễn sâu sắc trong kỷ nguyên toàn cầu hóa hiện nay.
Đảng ra đời cũng chính là bước ngoặt vĩ đại của cách mạng
Việt Nam, gắn liền với quá trình hoạt động không mệt mỏi của
lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Nhìn lại chặng đường lịch sử vẻ vang
của dân tộc cùng sự lớn mạnh của Đảng, chúng ta càng cảm
phục về tư tưởng, tầm vóc và công lao to lớn của Chủ tịch Hồ
Chí Minh. Mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng phải ra sức học tập,
nghiên cứu trau dồi kiến thức lý luận và thực tiễn, học tập và
làm theo tư tưởng, đạo đức và phong cách Chủ tịch Hồ Chí Minh
để vận dụng vào giải quyết những vấn đề trong thực tiễn công
cuộc đổi mới đất nước. Qua đó, tích cực đấu tranh chống các
quan điểm sai trái phủ nhận vai trò của Đảng, hạ thấp uy tín
của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam, góp
phần bảo vệ Đảng, lãnh tụ, chế độ và thực hiện thành công sự
nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa và hội nhập quốc tế hiện nay.
Câu 2: So sánh nội dung Chính cương vắn tắt do
đồng chí Nguyễn Ái Quốc khởi thảo và Luận cương chính
trị do đồng chí Trần Phú khởi thảo.
3 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện ĐH đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, Chính trị quốc gia - Sự thật, H, 2011, tr.70.
4 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện ĐH đại biểu toàn quốc lần thứ
XII, Chính trị quốc gia - Sự thật, H, 2016, tr.16 6
Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời là một tất yếu của lịch sử,
là một bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam. Để xác lập
đường lối, chiến lược, sách lược cơ bản của cách mạng Việt
Nam và tôn chỉ mục đích, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của
Đảng cộng sản Việt Nam, các cương lĩnh hoặc những văn bản
có tính cương lĩnh đã được vạch ra. Tại hội nghị thành lập Đảng
từ ngày 3/2/1930 đến ngày 7/2/1930 ở Hương Cảng – Trung
Quốc, các đại biểu đã nhất trí thông qua Chính cương vắn tắt,
Sách lược vắn tắt, Điều lệ tóm tắt do đồng chí Nguyễn Ái Quốc
khởi thảo. Các văn kiện đó hợp thành Cương lĩnh chính trị đầu
tiên của Đảng ta - Cương lĩnh Hồ Chí Minh. Tiếp theo đó, vào
tháng 10/1930, cũng tại Hương Cảng - Trung Quốc, Ban chấp
hành Trung ương họp Hội nghị lần thứ nhất đã thông qua Luận
cương chính trị do đồng chí Trần Phú khởi thảo.
Hai văn kiện trên được xây dựng trên cơ sở lý luận và cơ sở
thực tiễn, xác định rõ phương hướng chiến lược, nhiệm vụ cụ
thể và cơ bản, lực lượng cách mạng, phương pháp cách mạng,
đoàn kết quốc tế và vai trò lãnh đạo của Đảng.
Trong mỗi khía cạnh trên đều thể hiện rõ sự giống và khác nhau giữa hai văn kiện.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (3/2/1930) và Luận
cương chính trị (10/1930) có những điểm tương đồng sau:
Về phương hướng chiến lược của cách mạng, cả hai văn
kiện đều xác định được tích chất của cách mạng Việt Nam là:
Cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng, bỏ qua giai
đoạn tư bản chủ nghĩa để đi tới xã hội cộng sản, đây là 2 nhiệm
vụ cách mạng nối tiếp nhau không có bức tường ngăn cách. 7
Phương hướng chiến lược đã phản ánh xu thế của thời đại và
nguyện vọng đông đảo của nhân dân Việt Nam.
Về lực lượng lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân
lãnh đạo thông qua Đảng. Lực lượng lấy liên minh công – nông
làm gốc, gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới.
Về phương pháp cách mạng, sử dụng sức mạnh của số
đông dân chúng Việt Nam cả về chính trị và vũ trang nhằm đạt
mục tiêu cơ bản của cuộc cách mạng là đánh đổ đế quốc và
phong kiến, giành chính quyền về tay công nông.
Về vị trí quốc tế, cả hai văn kiện cũng đều xác định rằng:
Cách mạng Việt Nam là một bộ phận khăng khít với cách mạng
thế giới đã thể hiện sự mở rộng quan hệ bên ngoài, tìm đồng
minh cho mình. Lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân
thông qua Đảng cộng sản. “Đảng là đội tiên phong của vô sản
giai cấp phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải
làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng”. Như Hồ Chí
Minh đã từng nói: “Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự
kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và
phong trào yêu nước Việt Nam”.
Sự giống nhau trên là do cả hai văn kiện đều thấm nhuần
chủ nghĩa Mác-Lênin và cách mạng vô sản chiụ ảnh hưởng của
cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại năm 1917.
Bên cạnh những điểm giống nhau, hai văn kiện trên có
một số điểm khác nhau sau:
Thứ nhất, về phạm vi phản ánh, Cương lĩnh chính trị xây
dựng đường lối của cách mạng Việt Nam còn Luận cương chính
trị xây dựng đường lối cách mạng cho Việt Nam nói riêng và các
nước Đông Dương nói chung. 8
Thứ hai, về xác định kẻ thù và nhiệm vụ, mục tiêu của
cách mạng, trong Cương lĩnh chính trị xác định kẻ thù, nhiệm
vụ của cách mạng là đánh đổ giặc Pháp sau đó mới đánh đổ
phong kiến và tay sai phản cách mạng (nhiệm vụ dân tộc và
dân chủ). Nhiệm vụ dân tộc được coi là nhiệm vụ trọng đại của
cách mạng, nhiệm vụ dân chủ cũng dựa vào vấn đề dân tộc để
giải quyết. Như vậy mục tiêu của cương lĩnh xác định là làm cho
Việt Nam hoàn toàn độc lập, nhân dân được tự do, dân chủ,
bình đẳng, tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc Việt gian chia
cho dân cày nghèo, thành lập chính phủ công nông binh và tổ
chức cho quân đội công nông, thi hành chính sách tự do dân
chủ bình đẳng phổ thông giáo dục theo hướng công nông hóa.
Còn Luận cương chính trị lại xác định phải “tranh đấu để đánh
đổ các di tích phong kiến, đánh đổ các cách bóc lột theo lối tiền
tư bản và để thực hành thổ địa cách mạng cho triệt để” và
“đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, làm cho Đông Dương hoàn
toàn độc lập”. Luận cương chưa xác định được kẻ thù, nhiệm vụ
hàng đầu ở một nước thuộc địa nửa phong kiến nên không nêu
cao vấn đề dân tộc lên hàng đầu đó là nêu cao vấn đề đấu
tranh giai cấp, vấn đề cách mạng ruộng đất.
Thứ ba, về lực lượng cách mạng, Cương lĩnh chính trị xác
định lực lượng cách mạng là giai cấp công nhân và nông dân
nhưng bên cạnh đó cũng phải liên minh đoàn kết với tiểu tư
sản, lợi dụng hoặc trung lập phú nông, trung nông, tiểu địa chủ
và tư bản Việt Nam chưa rõ mặt phản cách mạng. Luận cương
chính trị thì xác định giai cấp vô sản và nông dân là hai động
lực chính của cách mạng mạng tư sản dân quyền, trong đó giai
cấp vô sản là đông lực chính và mạnh, là giai cấp lãnh đạo cách 9
mạng, nông dân có số lượng đông đảo nhất, là một động lực
mạnh của cách mạng, còn những giai cấp và tầng lớp khác
ngoài công nông như tư sản thương nghiệp thì đứng về phía đế
quốc chống cách mạng, còn tư sản công nghiệp thì đứng về
phía quốc gia cải lương và khi cách mạng phát triển cao thì họ sẽ theo đế quốc.
Chung quy lại, Luận cương chính trị do đồng chí Nguyễn Ái
Quốc khởi thảo đã thể hiện là một văn kiện tiếp thu được những
quan điểm chủ yếu của chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt,
điều lệ tóm tắt; xác định được nhiệm vụ nòng cốt của cách
mạng Việt Nam. Tuy nhiên Luận cương cũng có những mặt hạn
chế nhất định: sử sụng một cách dập khuôn máy móc chủ nghĩa
Mác - Lênin vào cách mạng Việt Nam, còn quá nhấn mạnh đấu
tranh giai cấp, đánh giá không đúng khả năng cách mạng của
tiểu tư sản, tư sản, địa chủ yêu nước. Còn Cương lĩnh chính trị
do đồng chí Trần Phú khởi thảo tuy còn sơ lược, vắn tắt nhưng
đã vạch ra phương hương cơ bản của cách mạng nước ta, đề
cao cách mạng giải phóng dân tộc hơn cách mạng xã hội chủ
nghĩa. Cương lĩnh đã thể hiện sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo,
nhạy bén chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt
Nam, kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế vô sản. 10 11