Bài kiểm tra giữa kỳ võ Vovinam | Học viện Báo chí và Tuyên truyền

Vovinam (viết tắt của Võ Việt Nam; tên gọi được quốc tế hóa của từ Võ thuật – Võ  đạo Việt Nam., hoặc tiếng Việt: Việt Võ Đạo, nghĩa là Con đường võ thuật Việt  Nam) là một môn võ thuật của Việt Nam, Nó được thành lập vào năm 1938 bởi  Nguyễn Lộc. Nó dựa trên các môn học truyền thống của Việt Nam. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

Thông tin:
28 trang 2 tuần trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Bài kiểm tra giữa kỳ võ Vovinam | Học viện Báo chí và Tuyên truyền

Vovinam (viết tắt của Võ Việt Nam; tên gọi được quốc tế hóa của từ Võ thuật – Võ  đạo Việt Nam., hoặc tiếng Việt: Việt Võ Đạo, nghĩa là Con đường võ thuật Việt  Nam) là một môn võ thuật của Việt Nam, Nó được thành lập vào năm 1938 bởi  Nguyễn Lộc. Nó dựa trên các môn học truyền thống của Việt Nam. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

16 8 lượt tải Tải xuống
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
----- -----
BÀI KIỂM TRA GIỮA KÌ
VÕ THUẬT ( VÕ VOVINAM-VIỆT ĐẠO)
Họ và tên sinh viên: Trần Thị Khánh Chi
Mã sinh viên: 2151020007
Lớp tín chỉ: ĐC01020_K41.3
Hà Nội, 2023
Đề bài: Anh chị hãy phân tích kĩ thuật cơ bản của Vovinam. Cho ví dụ minh họa
1. Khái quát chung về Vovinam
Vovinam (viết tắt của Việt Nam; tên gọi được quốc tế hóa của từ
thuật đạo Việt Nam., hoặc tiếng Việt: Việt Đạo, nghĩa Con đường
thuật Việt Nam) một môn thuật của Việt Nam, được thành lập vào năm
1938 bởi Nguyễn Lộc. Nó dựa trên các môn học truyền thống của Việt Nam.
Vovinam bao gồm việc sử dụng tay, khuỷu tay, chân, đầu gối các khí
như kiếm, dao, đục, vuốt, quạt. Học sinh cũng học cách đối phó với khí cầm
tay, phản đòn, khóađòn bẩy. Trong các môn Việt Nam, Vovinammôn
lớn nhất và phát triển nhất ở Việt Nam với hơn 60 môn phái trên khắp thế giới, bao
gồm Ba Lan, Bỉ, Canada, Campuchia, Đan Mạch, Đức, Hoa Kỳ, Maroc, Na Uy,
Nga, Pháp, Romania, Thụy Sĩ, Thụy Điển, Singapore, Uzbekistan, Thái Lan, Ý,
Úc, Ấn Độ, Pakistan, Iran, Tây Ban Nha, Algeria, Đài Loan, Hy Lạp. Trưởng Hội
đồng Vovinam hiện nay là Nguyễn Văn Chiếu.
Vovinam được thực hành không khí. dựa trên nguyên tắc
giữa cứng và mềm. Nó bao gồm việc rèn luyện cơ thể cũng như trí óc.sử dụng
lực phản ứng của đối thủ. Vovinam cũng bao gồm các kỹ thuật đánh tay,
đánh cùi chỏ, đòn đá, thoát hiểm đòn bẩy. Cả kỹ thuật tấn công phòng thủ
đều được đào tạo, cũng như các hình thức, chiến đấuđấu vật truyền thống. Một
loạt các kỹ thuật bao gồm đấm, đá, hình thức, đấu vật, kiếm, quyền trượng, rìu,
quạt gấp và những kỹ thuật khác.
Các kỹ thuật tự vệ bao gồm phòng thủ chống lại các cuộc tấn công không có
khí như nghẹt thở từ phía sau phòng thủ chống lại những kẻ tấn công được
trang bị dao hoặc kiếm. Học sinh nâng cao học cách kết hợp các kỹ thuật tự vệ
trước đối thủ vũ trang. Các giảng viên dạy các loại vũ khí truyền thống như gậy
dài, gậy ngắn, dao, kiếmkiếm. Do đó, khí đóng vai trò là thiết bị huấn luyện
để đạt được sự kiểm soát tối ưu về thể chất và tinh thần.
Vovinam Việt Đạo được Nguyễn Lộc (1912 1960) sáng lập vào năm
1938 với mục đích cung cấp cho người tập một phương pháp tự vệ hiệu quả sau
1
một thời gian ngắn học tập. Nguyễn tin rằng thuật sẽ góp phần giải phóng Việt
Nam khỏi ách đô hộ của thực dân Pháp từ năm 1859 sự thống trị từ bên ngoài.
Do đó, Vovinam đã thêm các yếu tố của hệ thống Trung Quốc Nhật Bản vào
các hệ thống thuật truyền thống của Việt Nam, do đó được tạo ra một phần như
một phản ứng đối với sự chiếm đóng của Pháp, nhằm thúc đẩy ý thức về bản sắc
dân tộc cho người Việt Nam.
Do đó, tương tự như taekwondo chỗmột hệ thống chiết trung với
các yếu tố kết hợp của thuật Nhật Bản Trung Quốc vào một khuôn khổ bản
địa.
Sau khi được mời biểu diễn Vovinam công khai tại Nội với các môn đệ
của mình vào năm 1940, Nguyễn được mời dạy môn nghệ thuật này tại Ecole
Normale của Nội, Vovinam đã trở nên phổ biến. Trong những năm sau đó,
tình trạng bất ổn chính trị gia tăng khắp Việt Nam; do định hướng chính trị dân tộc
chủ nghĩa của hệ thống, nghệ thuật đã bị đàn áp. Đến năm 1954, Nguyễn di vào
Nam Việt Nam, nơi ông có thể tiếp tục dạy và thành lập trường dạy Vovinam.
Sau khi mất năm 1960, Sang tiếp tục phát triển quảng
Vovinam quốc tế cho đến khi ông qua đời vào ngày 27 tháng 9 năm 2010. Trường
dạy Vovinam đầu tiên bên ngoài Việt Nam được thành lập tại Houston, Texas, bởi
những người Việt di vào năm 1976, sau khi sụp đổ. của Sài Gòn. Đến năm
2000, các trường Vovinam đã được thành lập Úc, Bỉ, Canada, Pháp, Đức, Ý,
Maroc, Ba Lan, Tây Ban Nha, Thụy Hoa Kỳ. Vovinam giờ đây tồn tại với
tên gọi Vovinam Việt Võ Đạo, không mang âm hưởng chính trị ban đầu.
Thuật ngữ Việt đạo (“cách thức (Đạo) của Việt Võ”) được đặt ra bởi tổ
thuộc thế hệ thứ hai của môn phái Vovinam Việt Đạo, Sang, với mục
đích bổ sung thêm một khía cạnh triết học cho môn của mình. “Việt Đạo”
này gồm có mười nguyên tắc
Một “Liên đoàn Việt võ đạo” được thành lập vào ngày 3 tháng 11 năm 1973,
nhằm mục đích thống nhất một số môn Việt Nam. vậy, “Việt đạo”,
châu Âu, cũng được dùng như một thuật ngữ chung cho một số môn triết
của Việt Nam nhưng ở Việt Nam chỉ được dùng để chỉ “Vovinam Việt võ đạo”.
2
Biểu trưng Vovinam Việt Đạo được đóng khung bằng hình màu vàng
bao gồm một hình chữ nhật dính liền với một hình tròn, ở trên có góc cạnh, ở dưới
là hình tròn. Hình dáng này tượng trưng cho sự hoàn hảo giữa cứng và mềm. Trong
hình màu vàng này, dòng chữ màu đỏ “Vovinam” được viết phía trên dòng chữ
màu xanh biển “Việt Đạo”. Bên dưới dòng chữ xuất hiện biểu tượng âm dương
màu đỏ xanh nước biển. Biểu tượng âm dương được bao quanh bởi một vòng
tròn dày, màu trắng, tượng trưng cho bản thể của Đạo, với sứ mệnh làm trung gian
giữa âm dương, để điều phục hai bên, giúp cho sự sống của muôn loài. Bản đồ
màu vàng. của Việt Nam được chồng lên biểu tượng âm dương.
Từ năm 1938 đến năm 1964, không đồng phục chính thức. Sau khi dỡ bỏ
lệnh cấm võ thuật ở Việt Nam vào năm 1963, Hội đồng Vovinam-Việt Võ Đạo đầu
tiên được tập hợp vào năm 1964 để hệ thống hóa Vovinam, thiết lập hệ thống cấp
bậc, đồng phục và hệ thống hóa giáo trình huấn luyện theo cấp bậc.
Màu xanh lam được sử dụng làm màu chính thức cho phục Vovinam. [8]
Một sự phát triển riêng của “Liên đoàn Việt Đạo” vào năm 1973 cho đến năm
1990, sắc phục của quân phục màu đen. Vào mùa năm 1990, các
Vovinam trên khắp thế giới đã họp mặt tại Đại hội Vovinam-Việt Võ Đạo Quốc tế
ở California với mục tiêu tạo ra một tổ chức có cấu trúc cho Vovinam Việt Võ Đạo
bên ngoài Việt Nam (Liên đoàn Vovinam-Việt Võ Đạo Quốc tế). Một trong những
quyết định là bộ đồ trong Vovinam Việt Đạo giờ đây sẽ màu xanh lam trên
toàn thế giới.
2. Đặc trưng kĩ thuật của Vovinam
Tính thực dụng
Đặc trưng đầu tiên cũng đặc trưng nổi bật nhất của Vovinam Việt
Đạo tính thực dụng, thay phải mất một thời gian luyện tấn, đi quyền rồi mới
học phân thế; sinh Vovinam Việt Đạo được huấn luyện viên hướng dẫn
ngay các thế khóa gỡ (khi bị nắm tóc, nắm áo, nắm tay, bóp cổ, ôm ngang...), phản
đòn căn bản (khi bị đấm, đá, đạp...) song song với những kỹ thuật gạt, đấm, đá,
gối, chỏ, chém, té ngã... ngay từ các buổi tập đầu tiên.
3
khoa tay
Đây duy khá mới mẻ của cố Sáng tổ Nguyễn Lộc vào nhưng
năm cuối thập kỷ 1930, nhằm giúp sinh có thể ứng phó hữu hiệu được ngay khi
gặp phải những nh huống bắt buộc phải tự vệ. Tính thực dụng đó không những
phù hợp với hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ mà càng hợp và có giá trị đối với thời
đại ngày nay. Bởi lẽ sinh không chỉ tập trung thời gian cho việc luyện
còn có nhiều nhu cầu và nhiệm vụ thiết yếu trong cuộc sống như: học tập văn hóa,
nghệ thuật, nghiệp vụ, mưu sinh, giá trị...
Tính liên hoàn
Đặc trưng quan trọng thứ hai tính liên hoàn. Một đòn thế Vovinam Việt
Võ Đạo tung ra luôn luôn phải có tối thiểu 3 động tác.
dụ: muốn phản đòn đấm tay phải của đối phương, sinh sẽ bước chân
trái sang bên trái cùng lúc dùng tay phải gạt tay đấm đối phương để tránh né; sau
đó phản công bằng cách dùng tay trái chém vào mắt hay mặt kết thúc bằng
đấm thấp tay phải vào bụng đối phương; hoặc thế chiến lược (liên hoàn tấn công)
số 1 bao gồm cú chém úp bàn tay vào mắt hoặc mặt, bồi thêm cú đấm thấp tay phải
vào bụng tiến chân phải lên dùng chỏ phải đánh vào thái dương (huyệt Khúc
tân) của đối phương.
Nói chung, đó có thể những động tác liên hoàn bằng tay (chém, xỉa, đấm,
bật, chỏ...), hay bằng chân (đá, đạp, quét, triệt ngã...). Lối ra đòn này nhằm chiếm
thế thượng phong khi tự vệ chiến đấu, phù hợp với thể tạng gọn gàng nhanh
lẹ của người Việt Nam, đồng thời cũngbiện pháp đề phòng trường hợp 1 hoặc 2
đòn ban đầu chưa đánh trúng đích, hiệu quả.
Nguyên lý Cương – Nhu phối triển
Hệ thống kỹ thuật Vovinam Việt Đạo còn tuân thủ nguyên Cương
Nhu phối triển. Nguyên này thể hiện chỗ lúc bị tấn công, sinh thường
tránh (nhu), rồi mới phản công (cương). Bên cạnh đó, Vovinam Việt Đạo cũng
nhiều kỹ thuật Vovinam tấn công nhưng vẫn đảm bảo nguyên này. Chẳng
hạn như khi tung một đá tấn công hoặc phản công (cương) vào thân thể đối
4
phương, sinh luôn luôn phải dùng tay che mặt bảo vệ hạ bộ để phòng thủ
(nhu).
Ngay trong phương pháp luyện tập té ngã (không nguy hiểm, không đau), võ
sinh phải lên gân co tròn thân người lại (cương), sau đó lăn tròn thân người lúc
ngã xuống (nhu) để hóa giải lực tấn công của đối phương sức rơi của trọng
lượng thể. Nhờ vào nguyên trên, sinh Vovinam Việt Đạo tập luyện
đòn thế và té ngã trên sàn gạch bình thường như trên thảm (tapie).
Nói khác đi, hệ thống kỹ thuật Vovinam Việt Đạo bao gồm những đòn
thế nhu nhuyễn, các đòn cương mãnh ngay trong bản thân từng đòn thế cũng
chứa đựng sự kết giao giữa cương nhu, giống nhu sự giao hòa giữa âm dương
trong thiên nhiên hội. Cương nhu phối triển không đơn thuần sự bao hàm
cả 2 tính cương nhu linh động biến hóa. lúc cương nhiều, nhu ít;
khi cương ít nhu nhiều; lúc nửa cương nửa nhu, tùy theo từng hoàn cảnh cụ
thể. Đặc biệt, nguyên lý này còn cần được người học võ Vovinam Việt Võ Đạo rèn
luyện ngay trong đời sống tinh thần cách hành xử hàng ngày vì: "Cương tượng
trung sự hào hùng, ý chí sắt thép, lòng cương quyết đức Dũng của con nhà võ.
Nhu biểu tượng tính nhu hòa, điềm đạm lòng Nhân của người sĩ. cương
không thiếu nhu sẽ không biến hóa, linh hoạt theo từng hoàn cảnh cụ thể.
Ngược lại, có nhu nhưng thiếu cương sẽ không thể phát huy được hiệu quả tối đa."
Vận dụng các nguyên lý khoa học
Cũng như các phái khác, kỹ thuật Vovinam Việt Đạo vận dụng các
nguyên lý khoa học vào võ thuật như: lực ly tâm (các thế xoay người, gạt, đỡ, đấm,
đá, chỏ... theo hình vòng cung hoặc vòng tròn); lực đòn bẩy (các thế bẻ, khóa, gài,
móc, chặn...); lực xoáy (các thế đấm thẳng...); lực co gấp sức bật (các đòn
quăng, quật, vật, nhảy...). Nhưng nguyên khoa học này giúp sinh Vovinam
Việt Võ Đạo ít hao tốn sức lực khi tập luyện cũng như lúc thi triển đòn thế mà vẫn
đạt hiệu quả cao.
Đặc biệt, các đòn chém quét, chém triệt, chỏ triệt (lực tay và chân đánh cùng
lúc nhưng nghịch chiều), triệt ngã (lực tay lực chân đánh cùng lúc cùng
chiều) cũng thế đòn chân tấn công tung chân bay đạp, quật ngã bằng cách quặp
5
cổ (bất ngờ tung ra khi đối phương bất cẩn, lảo đảo...). Đòn chân tấn công còn
một đặc trưng kỹ thuật quan trọng của Vovinam Việt Võ Đạo.
don chan tan cong so 9
Nguyên tắc "Một phát triển thành ba"
Từ tính thực dụng trong hệ thống kỹ thuật, các đòn căn bản, khóa gỡ... đơn
lẻ nội dung tập luyện rất quan trọng của người học Vovinam Việt Đạo.
Tuy nhiên, nhằm giúp người học Việt Đạo điều kiện thuận lợi hơn để ôn
luyện thuần thục các đòn thế căn bản cũng như ứng biến với nhiều tình huống khác
nhau.
Hệ thống kỹ thuật của Vovinam Việt Đạo còn 2 phương pháp tập luyện
khác: một là các bài đơn luyện (bài quyền tay không, bài quyền có binh khí) và hai
là các bài song luyện (2 sinh thực hiện liên tục một số đòn thế tay không, khóa
gỡ hoặc khí) đa luyện (3-4 sinh thực hiện liên tục một số đòn thế tay
không, khóa gỡ hoặcvũ khí) được kết nối với nhau một cách hợp lý. Từ cái gốc
đòn căn bản,khóa gỡ, phát triển thành đơn luyện, song luyện đa luyện chính
nguyên tắc "một phát triển thành ba" trong hệ thống kỹ thuật của môn phái.
Khoảng 2 thập kỷ qua, Vovinam Việt Đạo thêm một số bài nhu khí
công quyền dành cho tất cả sinh các bài liên hoàn đối luyện dành cho người
cao tuổi bao gồm những động tác nhẹ nhàng và không té ngã.
Không ngừng liên tục bổ sung trong hơn 40 năm qua, hệ thống đòn thế, bài
quyền tay không cả khí (dao, kiếm, côn, búa, tấu, tay thước, đao, đại
đao...) của Vovinam Việt Đạo vẫn luôn đảm bảo những đặc trưng bản ban
đầu cũng như vừa mang tính truyền thống Việt Nam và vừa mang tính hiện đại.
3. Các kĩ thuật cơ bản của Vovinam
3.1. Võ Vovinam cơ bản - Tư thế thủ
Đây là tư thế chuẩn bị cơ bản và có lợi nhất cho việc phòng thủ và tấn công. Tư thế
này không chỉ riêng tại môn Vovinam trong nhiều môn khác của
thuật Việt Nam cũng có tư thế này.
6
Tư thế chủ trong Vovinam
Thực hiện thế thủ như sau: đứng thế nghiêm, chân trái bước lên trước một
bước, rộng hơn vai một chút. Mũi chân trái quay vào trong, đầu gối trái chùng
xuống. Chân phải thẳng, mũi chân hướng về trước.
Tay trái nắm đấm để cao ngang tầm mũi, khuỷu tay gập thành góc 90 độ. Tay phải
nắm đấm để cao ngang cằm, khuỷu tay gập lại đặt trước ngực. Tư thế đứng đưa vai
trái nhô ra trước, ngực hơi nghiêng. Mắt nhìn thẳng, răng cắn chặt, đầu hơi thấp
một chút.
3.2. Các thế tấn căn bản
Để thể hiện những động tác tại chỗ một cách linh hoạt, chính xác, các thế tấn giúp
giữ vững trọng tâm thăng bằng cho con người. Những thế tấn căn bản này được
sử dụng nhiều trong việc dạy học những người mới bắt đầu
3.2.1. Trung bình tấn
Thực hiện tư thế đứng nghiêm. Chân trái đứng làm trụ, chân phải bước sang ngang
một bước rộng bằng vai. Cùng lúc nắm hai tay nắm đấm để ngửa, kéo sát vào hai
bên hông. Hai chân chùng thấp, thân người hơi nghiêng về phía trước, ngực nở.
7
Trung bình tấn
3.2.2. Đinh tấn
Giữ thế đứng nghiêm chân trái đứng làm trụ, chân phải bước tới trước một
bước dài, chùng xuống. Cạnh bàn chân phải hướng tới trước, chân trái thẳng, hai
tay nắm đấm để ngửa kéo sát vào hai hông. Trọng tâm dồn vào chân phải.
8
Đinh tấn
3.2.3. Trảo mã tấn
Thực hiện thế đứng nghiêm chân phải đứng làm trụ. Còn chân trái bước lên
trước khoảng 20-25 cm, mũi bàn chân cắm.
9
Trảo mã tấn
3.2.4. Độc cước tấn
thế đứng nghiêm, dùng chân trái đứng làm trụ, chân phải co lên, mũi chân
ngang. Hai nắm đấm để ngửa ở hông, trọng tâm dồn về chân trái.
Độc cước tấn
3.2.5. Hồi tấn
Chuẩn bị tư thế đứng nghiêm. Thực hành chân phải bước chéo ngang qua trái, cạnh
trong bàn chân phải hướng sang trái. Hai nắm đấm để ngửa ở hông, trọng tâm dồn
về chân phải.
10
Hồi tấn
3.3. Gạt cạnh tay - Thế võ Vovinam cơ bản
Kỹ thuật gạt cánh tay (đỡ) được thực hiện bằng bàn tay khép chặt, linh hoạt sử
dụng tùy theo dạng hình tấn công của đối phương. Trong khi đỡ gạt, cố gắng
chuyển sức mạnh tấn công của đối phương thành lợi thế của mình.
3.3.1. Gạt cạnh tay số 1
Vị trí lòng bàn tay hướng về phía trước. Cạnh bàn tay hướng ra phía ngoài, nách
hơi khép. Gạt cánh tay theo hướng vẽ nửa vòng tròn, t trong ra ngoài. Vị trí gạt
xuất phát từ bên hông đi ngang che vùng mặt cổ (chống bị tấn công từ phía
trước).
11
Gạt cạnh tay số 1
3.3.2. Gạt cạnh tay số 2
Thực hiện lòng bàn tay hướng ra sau, đồng thời cạnh bàn tay hướng vào trong.
Nách hơi khép một chút. Gạt nửa vòng tròn từ ngoài vào trong, từ trên xuống dưới.
Động tác gạt đi ngang vùng mặt che đỡ khu vực mặt bụng (nhằm chống hướng tấn
công từ phía trước).
12
Gạt cánh tay số 2
3.3.3. Gạt cạnh tay số 3
Thực hiện lòng bàn tay hướng về phía trước. Cạnh bàn tay hướng lên trên. Động
tác gạt đỡ từ dưới gạt lên trên, che đỡ đỉnh đầu (mục đích chống hướng tấn công từ
phía trước).
13
Gạt cạnh tay số 3
3.3.4. Gạt cạnh tay số 4
Thực hiện lòng bàn tay hướng ra sau. Cạnh bàn tay hướng xuống. Động tác gạt đỡ
từ trên gạt xuống hơi chếch ra trước (mục đích đỡ chặn hướng tấn công từ dưới
lên).
14
Gạt cạnh tay số 4
3.4. Chém cạnh tay
Chém cạnh tay là một trong những động tác dùng để tấn công trong Vovinam.
Đây là kỹ thuật sử dụng bàn tay khép chặt lên gân, phối hợp với cùi chỏ và xoay cổ
tay để tấn công. Dồn hết sức khi chạm mục tiêu.
3.4.1. Chém cạnh tay số 1
Thực hiện động tác tay khép chặt để bên vai đối diện (tay phải, vai trái). Úp lòng
bàn tay, cạnh tay hướng trước. Thực hiện chém mạnh cạnh tay từ trong ra ngoài
theo đường chéo từ phía trên.
15
Chém cánh tay số 1
3.4.2. Chém cạnh tay số 2
Đưa tay khép chặt để bên vai cùng bên. Thực hiện chém mạnh cạnh tay từ ngoài
vào trong theo hướng chéo vào mục tiêu. Vị trí lòng bàn tay hướng lên trên. Tay
còn lại đặt ở hông.
16
Chém cạnh tay số 2
3.4.3. Chém cạnh tay số 3
Động tác tay khép chặt để trước ngực. Cạnh tay hướng về phía trước. Thực hiện
chém cạnh tay đẩy thẳng từ ngực ra trước vào cằm hoặc cổ của đối phương.
17
Chém cạnh tay số 3
3.4.4. Chém cạnh tay số 4
Đối với bàn tay chú ý khép chặt, đặt ngửa ở hông. Dùng lực của vai, cánh tay chém
dứt khoát về phía trước. Khi chuẩn bị chạm mục tiêu thì xoay mạnh cổ tay ngược
chiều kim đồng hồ để tăng lực đánh.
Chém cạnh tay số 4
3.5. Đánh cùi chỏ
Đây là động tác sử dụng cùi chỏ để phòng thủ cũng như tấn công đối phương. Thế
võ thực hiện linh hoạt, chắc chắn, dứt khoát.
3.5.1. Đánh cùi chỏ số 1
Cùi chỏ đặt ngang ở ngực. Thực hiện đánh cùi chỏ theo đường chéo từ trên xuống,
từ ngoài vào trong ngực, mặt và cổ.
18
Đánh cùi chỏ số 1
3.5.2. Đánh cùi chỏ số 2
Cùi chỏ đặt ngang ngực. Thực hiện đánh cùi chỏ vòng theo hướng từ trước ra
sau, từ trên cằm xuống. Mục tiêu ở ngay phía sau lưng mình (chỏ lái).
19
| 1/28

Preview text:

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN ----------
BÀI KIỂM TRA GIỮA KÌ
VÕ THUẬT ( VÕ VOVINAM-VIỆT ĐẠO)
Họ và tên sinh viên: Trần Thị Khánh Chi Mã sinh viên: 2151020007
Lớp tín chỉ: ĐC01020_K41.3 Hà Nội, 2023
Đề bài: Anh chị hãy phân tích kĩ thuật cơ bản của Vovinam. Cho ví dụ minh họa
1. Khái quát chung về Vovinam
Vovinam (viết tắt của Võ Việt Nam; tên gọi được quốc tế hóa của từ Võ
thuật – Võ đạo Việt Nam., hoặc tiếng Việt: Việt Võ Đạo, nghĩa là Con đường võ
thuật Việt Nam) là một môn võ thuật của Việt Nam, Nó được thành lập vào năm
1938 bởi Nguyễn Lộc. Nó dựa trên các môn học truyền thống của Việt Nam.
Vovinam bao gồm việc sử dụng tay, khuỷu tay, chân, đầu gối và các vũ khí
như kiếm, dao, đục, vuốt, quạt. Học sinh cũng học cách đối phó với vũ khí cầm
tay, phản đòn, khóa và đòn bẩy. Trong các môn võ Việt Nam, Vovinam là môn võ
lớn nhất và phát triển nhất ở Việt Nam với hơn 60 môn phái trên khắp thế giới, bao
gồm Ba Lan, Bỉ, Canada, Campuchia, Đan Mạch, Đức, Hoa Kỳ, Maroc, Na Uy,
Nga, Pháp, Romania, Thụy Sĩ, Thụy Điển, Singapore, Uzbekistan, Thái Lan, Ý,
Úc, Ấn Độ, Pakistan, Iran, Tây Ban Nha, Algeria, Đài Loan, Hy Lạp. Trưởng Hội
đồng Vovinam hiện nay là Nguyễn Văn Chiếu.
Vovinam được thực hành có và không có vũ khí. Nó dựa trên nguyên tắc
giữa cứng và mềm. Nó bao gồm việc rèn luyện cơ thể cũng như trí óc. Nó sử dụng
vũ lực và phản ứng của đối thủ. Vovinam cũng bao gồm các kỹ thuật đánh tay,
đánh cùi chỏ, đòn đá, thoát hiểm và đòn bẩy. Cả kỹ thuật tấn công và phòng thủ
đều được đào tạo, cũng như các hình thức, chiến đấu và đấu vật truyền thống. Một
loạt các kỹ thuật bao gồm đấm, đá, hình thức, đấu vật, kiếm, quyền trượng, rìu,
quạt gấp và những kỹ thuật khác.
Các kỹ thuật tự vệ bao gồm phòng thủ chống lại các cuộc tấn công không có
vũ khí như nghẹt thở từ phía sau và phòng thủ chống lại những kẻ tấn công được
trang bị dao hoặc kiếm. Học sinh nâng cao học cách kết hợp các kỹ thuật và tự vệ
trước đối thủ có vũ trang. Các giảng viên dạy các loại vũ khí truyền thống như gậy
dài, gậy ngắn, dao, kiếm và kiếm. Do đó, vũ khí đóng vai trò là thiết bị huấn luyện
để đạt được sự kiểm soát tối ưu về thể chất và tinh thần.
Vovinam Việt Võ Đạo được Nguyễn Lộc (1912 – 1960) sáng lập vào năm
1938 với mục đích cung cấp cho người tập một phương pháp tự vệ hiệu quả sau 1
một thời gian ngắn học tập. Nguyễn tin rằng võ thuật sẽ góp phần giải phóng Việt
Nam khỏi ách đô hộ của thực dân Pháp từ năm 1859 và sự thống trị từ bên ngoài.
Do đó, Vovinam đã thêm các yếu tố của hệ thống Trung Quốc và Nhật Bản vào
các hệ thống võ thuật truyền thống của Việt Nam, do đó được tạo ra một phần như
một phản ứng đối với sự chiếm đóng của Pháp, nhằm thúc đẩy ý thức về bản sắc
dân tộc cho người Việt Nam.
Do đó, nó tương tự như taekwondo ở chỗ nó là một hệ thống chiết trung với
các yếu tố kết hợp của võ thuật Nhật Bản và Trung Quốc vào một khuôn khổ bản địa.
Sau khi được mời biểu diễn Vovinam công khai tại Hà Nội với các môn đệ
của mình vào năm 1940, Nguyễn được mời dạy môn nghệ thuật này tại Ecole
Normale của Hà Nội, và Vovinam đã trở nên phổ biến. Trong những năm sau đó,
tình trạng bất ổn chính trị gia tăng khắp Việt Nam; do định hướng chính trị dân tộc
chủ nghĩa của hệ thống, nghệ thuật đã bị đàn áp. Đến năm 1954, Nguyễn di cư vào
Nam Việt Nam, nơi ông có thể tiếp tục dạy và thành lập trường dạy Vovinam.
Sau khi mất năm 1960, võ sư Lê Sang tiếp tục phát triển và quảng bá
Vovinam quốc tế cho đến khi ông qua đời vào ngày 27 tháng 9 năm 2010. Trường
dạy Vovinam đầu tiên bên ngoài Việt Nam được thành lập tại Houston, Texas, bởi
những người Việt di cư vào năm 1976, sau khi sụp đổ. của Sài Gòn. Đến năm
2000, các trường Vovinam đã được thành lập ở Úc, Bỉ, Canada, Pháp, Đức, Ý,
Maroc, Ba Lan, Tây Ban Nha, Thụy Sĩ và Hoa Kỳ. Vovinam giờ đây tồn tại với
tên gọi Vovinam Việt Võ Đạo, không mang âm hưởng chính trị ban đầu.
Thuật ngữ Việt võ đạo (“cách thức (Đạo) của Việt Võ”) được đặt ra bởi tổ
sư thuộc thế hệ thứ hai của môn phái Vovinam Việt Võ Đạo, Lê Sang, với mục
đích bổ sung thêm một khía cạnh triết học cho môn võ của mình. “Việt Võ Đạo”
này gồm có mười nguyên tắc
Một “Liên đoàn Việt võ đạo” được thành lập vào ngày 3 tháng 11 năm 1973,
nhằm mục đích thống nhất một số môn võ Việt Nam. Vì vậy, “Việt võ đạo”, ở
châu Âu, cũng được dùng như một thuật ngữ chung cho một số môn võ và triết lý
của Việt Nam nhưng ở Việt Nam chỉ được dùng để chỉ “Vovinam Việt võ đạo”. 2
Biểu trưng Vovinam Việt Võ Đạo được đóng khung bằng hình màu vàng
bao gồm một hình chữ nhật dính liền với một hình tròn, ở trên có góc cạnh, ở dưới
là hình tròn. Hình dáng này tượng trưng cho sự hoàn hảo giữa cứng và mềm. Trong
hình màu vàng này, dòng chữ màu đỏ “Vovinam” được viết phía trên dòng chữ
màu xanh biển “Việt Võ Đạo”. Bên dưới dòng chữ xuất hiện biểu tượng âm dương
màu đỏ và xanh nước biển. Biểu tượng âm dương được bao quanh bởi một vòng
tròn dày, màu trắng, tượng trưng cho bản thể của Đạo, với sứ mệnh làm trung gian
giữa âm và dương, để điều phục hai bên, giúp cho sự sống của muôn loài. Bản đồ
màu vàng. của Việt Nam được chồng lên biểu tượng âm dương.
Từ năm 1938 đến năm 1964, không có đồng phục chính thức. Sau khi dỡ bỏ
lệnh cấm võ thuật ở Việt Nam vào năm 1963, Hội đồng Vovinam-Việt Võ Đạo đầu
tiên được tập hợp vào năm 1964 để hệ thống hóa Vovinam, thiết lập hệ thống cấp
bậc, đồng phục và hệ thống hóa giáo trình huấn luyện theo cấp bậc.
Màu xanh lam được sử dụng làm màu chính thức cho võ phục Vovinam. [8]
Một sự phát triển riêng của “Liên đoàn Việt Võ Đạo” vào năm 1973 cho đến năm
1990, sắc phục của quân phục là màu đen. Vào mùa hè năm 1990, các võ sư
Vovinam trên khắp thế giới đã họp mặt tại Đại hội Vovinam-Việt Võ Đạo Quốc tế
ở California với mục tiêu tạo ra một tổ chức có cấu trúc cho Vovinam Việt Võ Đạo
bên ngoài Việt Nam (Liên đoàn Vovinam-Việt Võ Đạo Quốc tế). Một trong những
quyết định là bộ đồ trong Vovinam Việt Võ Đạo giờ đây sẽ có màu xanh lam trên toàn thế giới.
2. Đặc trưng kĩ thuật của Vovinam  Tính thực dụng
Đặc trưng đầu tiên và cũng là đặc trưng nổi bật nhất của Vovinam Việt Võ
Đạo là tính thực dụng, thay vì phải mất một thời gian luyện tấn, đi quyền rồi mới
học phân thế; võ sinh Vovinam Việt Võ Đạo được huấn luyện viên hướng dẫn
ngay các thế khóa gỡ (khi bị nắm tóc, nắm áo, nắm tay, bóp cổ, ôm ngang...), phản
đòn căn bản (khi bị đấm, đá, đạp...) song song với những kỹ thuật gạt, đấm, đá,
gối, chỏ, chém, té ngã... ngay từ các buổi tập đầu tiên. 3 khoa tay
Đây là tư duy khá mới mẻ của cố Võ sư Sáng tổ Nguyễn Lộc vào nhưng
năm cuối thập kỷ 1930, nhằm giúp võ sinh có thể ứng phó hữu hiệu được ngay khi
gặp phải những tình huống bắt buộc phải tự vệ. Tính thực dụng đó không những
phù hợp với hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ mà càng hợp lý và có giá trị đối với thời
đại ngày nay. Bởi lẽ võ sinh không chỉ tập trung thời gian cho việc luyện võ mà
còn có nhiều nhu cầu và nhiệm vụ thiết yếu trong cuộc sống như: học tập văn hóa,
nghệ thuật, nghiệp vụ, mưu sinh, giá trị...  Tính liên hoàn
Đặc trưng quan trọng thứ hai là tính liên hoàn. Một đòn thế Vovinam Việt
Võ Đạo tung ra luôn luôn phải có tối thiểu 3 động tác.
Ví dụ: muốn phản đòn đấm tay phải của đối phương, võ sinh sẽ bước chân
trái sang bên trái cùng lúc dùng tay phải gạt tay đấm đối phương để tránh né; sau
đó phản công bằng cách dùng tay trái chém vào mắt hay mặt và kết thúc bằng cú
đấm thấp tay phải vào bụng đối phương; hoặc thế chiến lược (liên hoàn tấn công)
số 1 bao gồm cú chém úp bàn tay vào mắt hoặc mặt, bồi thêm cú đấm thấp tay phải
vào bụng và tiến chân phải lên dùng chỏ phải đánh vào thái dương (huyệt Khúc tân) của đối phương.
Nói chung, đó có thể là những động tác liên hoàn bằng tay (chém, xỉa, đấm,
bật, chỏ...), hay bằng chân (đá, đạp, quét, triệt ngã...). Lối ra đòn này nhằm chiếm
thế thượng phong khi tự vệ và chiến đấu, phù hợp với thể tạng gọn gàng và nhanh
lẹ của người Việt Nam, đồng thời cũng là biện pháp đề phòng trường hợp 1 hoặc 2
đòn ban đầu chưa đánh trúng đích, hiệu quả.
 Nguyên lý Cương – Nhu phối triển
Hệ thống kỹ thuật Vovinam Việt Võ Đạo còn tuân thủ nguyên lý Cương –
Nhu phối triển. Nguyên lý này thể hiện ở chỗ lúc bị tấn công, võ sinh thường né
tránh (nhu), rồi mới phản công (cương). Bên cạnh đó, Vovinam Việt Võ Đạo cũng
có nhiều kỹ thuật Vovinam tấn công nhưng vẫn đảm bảo nguyên lý này. Chẳng
hạn như khi tung một cú đá tấn công hoặc phản công (cương) vào thân thể đối 4
phương, võ sinh luôn luôn phải dùng tay che mặt và bảo vệ hạ bộ để phòng thủ (nhu).
Ngay trong phương pháp luyện tập té ngã (không nguy hiểm, không đau), võ
sinh phải lên gân và co tròn thân người lại (cương), sau đó lăn tròn thân người lúc
ngã xuống (nhu) để hóa giải lực tấn công của đối phương và sức rơi của trọng
lượng cơ thể. Nhờ vào nguyên lý trên, võ sinh Vovinam Việt Võ Đạo tập luyện
đòn thế và té ngã trên sàn gạch bình thường như trên thảm (tapie).
Nói khác đi, hệ thống kỹ thuật Vovinam Việt Võ Đạo bao gồm những đòn
thế nhu nhuyễn, các đòn cương mãnh và ngay trong bản thân từng đòn thế cũng
chứa đựng sự kết giao giữa cương – nhu, giống nhu sự giao hòa giữa âm – dương
trong thiên nhiên và xã hội. Cương nhu phối triển không đơn thuần là sự bao hàm
cả 2 tính cương và nhu mà nó linh động và biến hóa. Có lúc cương nhiều, nhu ít;
có khi cương ít nhu nhiều; có lúc nửa cương nửa nhu, tùy theo từng hoàn cảnh cụ
thể. Đặc biệt, nguyên lý này còn cần được người học võ Vovinam Việt Võ Đạo rèn
luyện ngay trong đời sống tinh thần và cách hành xử hàng ngày vì: "Cương tượng
trung sự hào hùng, ý chí sắt thép, lòng cương quyết và đức Dũng của con nhà võ.
Nhu biểu tượng tính nhu hòa, điềm đạm và lòng Nhân của người võ sĩ. Có cương
mà không có thiếu nhu sẽ không biến hóa, linh hoạt theo từng hoàn cảnh cụ thể.
Ngược lại, có nhu nhưng thiếu cương sẽ không thể phát huy được hiệu quả tối đa."
 Vận dụng các nguyên lý khoa học
Cũng như các võ phái khác, kỹ thuật Vovinam Việt Võ Đạo vận dụng các
nguyên lý khoa học vào võ thuật như: lực ly tâm (các thế xoay người, gạt, đỡ, đấm,
đá, chỏ... theo hình vòng cung hoặc vòng tròn); lực đòn bẩy (các thế bẻ, khóa, gài,
móc, chặn...); lực xoáy (các thế đấm thẳng...); lực co gấp và sức bật (các đòn
quăng, quật, vật, nhảy...). Nhưng nguyên lý khoa học này giúp võ sinh Vovinam
Việt Võ Đạo ít hao tốn sức lực khi tập luyện cũng như lúc thi triển đòn thế mà vẫn đạt hiệu quả cao.
Đặc biệt, các đòn chém quét, chém triệt, chỏ triệt (lực tay và chân đánh cùng
lúc nhưng nghịch chiều), triệt ngã (lực tay và lực chân đánh cùng lúc và cùng
chiều) cũng có thế đòn chân tấn công tung chân bay đạp, quật ngã bằng cách quặp 5
cổ (bất ngờ tung ra khi đối phương bất cẩn, lảo đảo...). Đòn chân tấn công còn là
một đặc trưng kỹ thuật quan trọng của Vovinam Việt Võ Đạo. don chan tan cong so 9
 Nguyên tắc "Một phát triển thành ba"
Từ tính thực dụng trong hệ thống kỹ thuật, các đòn căn bản, khóa gỡ... đơn
lẻ là nội dung tập luyện rất quan trọng của người học võ Vovinam Việt Võ Đạo.
Tuy nhiên, nhằm giúp người học Việt Võ Đạo có điều kiện thuận lợi hơn để ôn
luyện thuần thục các đòn thế căn bản cũng như ứng biến với nhiều tình huống khác nhau.
Hệ thống kỹ thuật của Vovinam Việt Võ Đạo còn có 2 phương pháp tập luyện
khác: một là các bài đơn luyện (bài quyền tay không, bài quyền có binh khí) và hai
là các bài song luyện (2 võ sinh thực hiện liên tục một số đòn thế tay không, khóa
gỡ hoặc có vũ khí) và đa luyện (3-4 võ sinh thực hiện liên tục một số đòn thế tay
không, khóa gỡ hoặc có vũ khí) được kết nối với nhau một cách hợp lý. Từ cái gốc
đòn căn bản,khóa gỡ, phát triển thành đơn luyện, song luyện và đa luyện chính là
nguyên tắc "một phát triển thành ba" trong hệ thống kỹ thuật của môn phái.
Khoảng 2 thập kỷ qua, Vovinam Việt Võ Đạo có thêm một số bài nhu khí
công quyền dành cho tất cả võ sinh và các bài liên hoàn đối luyện dành cho người
cao tuổi bao gồm những động tác nhẹ nhàng và không té ngã.
Không ngừng liên tục bổ sung trong hơn 40 năm qua, hệ thống đòn thế, bài
quyền tay không và cả vũ khí (dao, kiếm, côn, búa, mã tấu, tay thước, đao, đại
đao...) của Vovinam Việt Võ Đạo vẫn luôn đảm bảo những đặc trưng cơ bản ban
đầu cũng như vừa mang tính truyền thống Việt Nam và vừa mang tính hiện đại.
3. Các kĩ thuật cơ bản của Vovinam
3.1. Võ Vovinam cơ bản - Tư thế thủ
Đây là tư thế chuẩn bị cơ bản và có lợi nhất cho việc phòng thủ và tấn công. Tư thế
này không chỉ có riêng tại môn võ Vovinam mà trong nhiều môn võ khác của võ
thuật Việt Nam cũng có tư thế này. 6 Tư thế chủ trong Vovinam
Thực hiện tư thế thủ như sau: đứng ở tư thế nghiêm, chân trái bước lên trước một
bước, rộng hơn vai một chút. Mũi chân trái quay vào trong, đầu gối trái chùng
xuống. Chân phải thẳng, mũi chân hướng về trước.
Tay trái nắm đấm để cao ngang tầm mũi, khuỷu tay gập thành góc 90 độ. Tay phải
nắm đấm để cao ngang cằm, khuỷu tay gập lại đặt trước ngực. Tư thế đứng đưa vai
trái nhô ra trước, ngực hơi nghiêng. Mắt nhìn thẳng, răng cắn chặt, đầu hơi thấp một chút.
3.2. Các thế tấn căn bản
Để thể hiện những động tác tại chỗ một cách linh hoạt, chính xác, các thế tấn giúp
giữ vững trọng tâm và thăng bằng cho con người. Những thế tấn căn bản này được
sử dụng nhiều trong việc dạy học những người mới bắt đầu
3.2.1. Trung bình tấn
Thực hiện tư thế đứng nghiêm. Chân trái đứng làm trụ, chân phải bước sang ngang
một bước rộng bằng vai. Cùng lúc nắm hai tay nắm đấm để ngửa, kéo sát vào hai
bên hông. Hai chân chùng thấp, thân người hơi nghiêng về phía trước, ngực nở. 7 Trung bình tấn 3.2.2. Đinh tấn
Giữ tư thế đứng nghiêm và chân trái đứng làm trụ, chân phải bước tới trước một
bước dài, chùng xuống. Cạnh bàn chân phải hướng tới trước, chân trái thẳng, hai
tay nắm đấm để ngửa kéo sát vào hai hông. Trọng tâm dồn vào chân phải. 8 Đinh tấn 3.2.3. Trảo mã tấn
Thực hiện tư thế đứng nghiêm và chân phải đứng làm trụ. Còn chân trái bước lên
trước khoảng 20-25 cm, mũi bàn chân cắm. 9 Trảo mã tấn
3.2.4. Độc cước tấn
Ở tư thế đứng nghiêm, dùng chân trái đứng làm trụ, chân phải co lên, mũi chân
ngang. Hai nắm đấm để ngửa ở hông, trọng tâm dồn về chân trái. Độc cước tấn 3.2.5. Hồi tấn
Chuẩn bị tư thế đứng nghiêm. Thực hành chân phải bước chéo ngang qua trái, cạnh
trong bàn chân phải hướng sang trái. Hai nắm đấm để ngửa ở hông, trọng tâm dồn về chân phải. 10 Hồi tấn
3.3. Gạt cạnh tay - Thế võ Vovinam cơ bản
Kỹ thuật gạt cánh tay (đỡ) được thực hiện bằng bàn tay khép chặt, linh hoạt sử
dụng tùy theo dạng hình tấn công của đối phương. Trong khi đỡ gạt, cố gắng
chuyển sức mạnh tấn công của đối phương thành lợi thế của mình.
3.3.1. Gạt cạnh tay số 1
Vị trí lòng bàn tay hướng về phía trước. Cạnh bàn tay hướng ra phía ngoài, nách
hơi khép. Gạt cánh tay theo hướng vẽ nửa vòng tròn, từ trong ra ngoài. Vị trí gạt
xuất phát từ bên hông đi ngang che vùng mặt và cổ (chống bị tấn công từ phía trước). 11 Gạt cạnh tay số 1
3.3.2. Gạt cạnh tay số 2
Thực hiện lòng bàn tay hướng ra sau, đồng thời cạnh bàn tay hướng vào trong.
Nách hơi khép một chút. Gạt nửa vòng tròn từ ngoài vào trong, từ trên xuống dưới.
Động tác gạt đi ngang vùng mặt che đỡ khu vực mặt bụng (nhằm chống hướng tấn công từ phía trước). 12 Gạt cánh tay số 2
3.3.3. Gạt cạnh tay số 3
Thực hiện lòng bàn tay hướng về phía trước. Cạnh bàn tay hướng lên trên. Động
tác gạt đỡ từ dưới gạt lên trên, che đỡ đỉnh đầu (mục đích chống hướng tấn công từ phía trước). 13 Gạt cạnh tay số 3
3.3.4. Gạt cạnh tay số 4
Thực hiện lòng bàn tay hướng ra sau. Cạnh bàn tay hướng xuống. Động tác gạt đỡ
từ trên gạt xuống hơi chếch ra trước (mục đích đỡ chặn hướng tấn công từ dưới lên). 14 Gạt cạnh tay số 4 3.4. Chém cạnh tay
Chém cạnh tay là một trong những động tác dùng để tấn công trong võ Vovinam.
Đây là kỹ thuật sử dụng bàn tay khép chặt lên gân, phối hợp với cùi chỏ và xoay cổ
tay để tấn công. Dồn hết sức khi chạm mục tiêu.
3.4.1. Chém cạnh tay số 1
Thực hiện động tác tay khép chặt để bên vai đối diện (tay phải, vai trái). Úp lòng
bàn tay, cạnh tay hướng trước. Thực hiện chém mạnh cạnh tay từ trong ra ngoài
theo đường chéo từ phía trên. 15 Chém cánh tay số 1
3.4.2. Chém cạnh tay số 2
Đưa tay khép chặt để bên vai cùng bên. Thực hiện chém mạnh cạnh tay từ ngoài
vào trong theo hướng chéo vào mục tiêu. Vị trí lòng bàn tay hướng lên trên. Tay còn lại đặt ở hông. 16 Chém cạnh tay số 2
3.4.3. Chém cạnh tay số 3
Động tác tay khép chặt để trước ngực. Cạnh tay hướng về phía trước. Thực hiện
chém cạnh tay đẩy thẳng từ ngực ra trước vào cằm hoặc cổ của đối phương. 17 Chém cạnh tay số 3
3.4.4. Chém cạnh tay số 4
Đối với bàn tay chú ý khép chặt, đặt ngửa ở hông. Dùng lực của vai, cánh tay chém
dứt khoát về phía trước. Khi chuẩn bị chạm mục tiêu thì xoay mạnh cổ tay ngược
chiều kim đồng hồ để tăng lực đánh. Chém cạnh tay số 4 3.5. Đánh cùi chỏ
Đây là động tác sử dụng cùi chỏ để phòng thủ cũng như tấn công đối phương. Thế
võ thực hiện linh hoạt, chắc chắn, dứt khoát.
3.5.1. Đánh cùi chỏ số 1
Cùi chỏ đặt ngang ở ngực. Thực hiện đánh cùi chỏ theo đường chéo từ trên xuống,
từ ngoài vào trong ngực, mặt và cổ. 18 Đánh cùi chỏ số 1
3.5.2. Đánh cùi chỏ số 2
Cùi chỏ đặt ngang ở ngực. Thực hiện đánh cùi chỏ vòng theo hướng từ trước ra
sau, từ trên cằm xuống. Mục tiêu ở ngay phía sau lưng mình (chỏ lái). 19