





Preview text:
lOMoAR cPSD| 46342985 Bài làm Câu 1 :
Khi nghiên cứu về mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức, chúng ta thấy rằng vật chất quyết
định ý thức nhưng ý thức lại tác động trở lại đối với vật chất đó là quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện
chứng. Trên cơ sở mỗi quan hệ biện chứng này, chủ nghĩa duy vật biện chứng đã rút ra được nguyên tắc
khách quan. Vậy cơ sở lý luận và vận dụng của nguyên tắc khách quan trong triết học là gì?
Từ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, triết học Mác – Lenin đã rút ra nguyên tắc phương pháp luận là
phải xuất phát từ thực tế khách quan.
Xuất phát từ thực tế khách quan tức là xuất phát từ tính khách quan của vật chất, chúng ta phải xuất phát
từ bản thân sự vật, không thể tùy tiện gán cho sự vật cái mà nó không có hoặc là nó chưa có. Trong hoạt
động thì chúng ta phải luôn luôn xuất phát từ thực tế khách quan, mọi chủ trương, đường lối, chính sách,
pháp luật, mục tiêu, phương hướng thì đều phải xuất phát từ thực tế khách quan. Tôn trọng vai trò quyết
định của đời sống vật chất đối với đời sống tinh thần của con người.
Tính khách quan của mối liên hê đự ợc biểu hiên : c ̣ ác mối liên hê là ṿ ốn có của mọi sự vât, hiệ ṇ tượng;
nó không phụ thuôc vào ̣ ý thức của con người.
Như vậy, xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng khách quan có ý nghĩa rất lớn cho hoạt động nhận
thức và hoạt động thực tiễn.
Có thể khái quát được rằng bản chất của nguyên tắc khách quan đó là khi đánh giá, phân tích sự vật hiện
tượng nào đó thì chúng ta phải đánh giá đúng như sự vật thể hiện như vậy. Chúng ta không được gán cho
sự vật cái mà nó không có. Khi chúng ta bôi hồng hoặc to đen sự vật là chúng ta vi phạm nguyên tắc
khách quan trong đánh giá.
Vây thế nào là tôn trọng điều kiện khách quan, quy luật khách quan?̣
Mỗi chúng ta phải xem xét sự vật, hiện tượng như chính sự tồn tại của nó, không bị những tếu tố chủ
quan chi phối để nhận thức sai lệch, tô hồng hay bôi đen cho sự vật, cần phải có phương pháp nhận thức
thức khoa học và tuân thủ theo các nguyên tắc phương pháp luận trong triết học để luôn tôn trọng điều kiện khách quan.
+ Trong mọi hoạt động, khi đề ra phương hướng hoạt động phải căn cứ vào điều kiện khách quan, quy
luật khách quan để đảm bảo hoạt động đạt hiệu quả và không bị các yếu tố khách quan cản trở.
+ Khi xác định phương pháp, cách thức tổ chức hoạt động phải căn cứ vào các quy luật khách quan để
lựa chọn phương pháp, cách thức phù hợp với từng điều kiện khách quan đảm bảo cho sự phát triển của
đối tượng tác động và hoạt động đó theo đúng ý thức của mỗi người.
+ Có kế hoạch điều chỉnh mục tiêu của bản thân cho phù hợp khi điều kiện khách quan có sự biến đổi để
phát huy ý thức của bản thân luôn năng động và sáng tạo trong mọi điều kiện khách quan.
Còn phát huy tính năng động chủ quan: theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng thì ý thức
không thụ động mà nó có tính động lập, tương đối với vật chất và nó tác động trở lại vật chất thông qua
hoạt động thực tiễn của con người. Bản chất của ý thức mang tính năng động, sáng tạo. Phát huy tính
năng đông cḥ ủ quan tức là phát huy vui trò tích cực, năng đ
ông, ṣ áng tạo của ý thức và phát huy lOMoAR cPSD| 46342985
vai trò tích cực của nhân tố con người trong viêc vậ t cḥ ất hóa tính tích cực năng đông ṣ áng tạo ấy. Bản
thân ý thức tự nó không trực tiếp thay đổi hiên tḥ ực. Ý thức muốn tác đông tṛ ở lại đời sống hiên tḥ ực
bằng lực lượng vât cḥ ất, nghĩa là con người thực hiên trong tḥ ực tiễn. Điều ấy có nghĩa là sự tác đông
c ̣ ủa ý thức đối với vât cḥ ất phải thông qua hoạt đông c ̣ ủa con người được bắt đầu từ khâu nhân tḥ ức
được quy luât kḥ ách quan, biết vân ḍ ụng đúng đắn quy luât kḥ ách quan, phải có ý chí, có phương pháp
để tổ chức hành đông.̣
+ Tri thức khoa học và vận dụng tri thức khoa học có vai trò vô cùng quan trọng trong cuộc sống của mỗi
người. Vì tri thức khoa học giúp cho hành động của mỗi người trở đúng quy luật và có hiệu quả hơn.
+ Luôn phát huy tính tích cực của ý thức và tìm tòi cái mới, phương pháp mới. Vì những yếu tố này giúp
ta phát triển bật phá, khác biệt so với những cá nhân khác luôn hoạt động theo quy luật mà không chịu đổi mới.
+ Luôn phát huy tính sáng tạo vì sáng tạo mới giúp phát triển trí tuệ và tạo nên đột phá, biết dự đoán một
cách khoa học, phù hợp quy luật khách quan khi đó chúng ta có thể đối phó với những biến đổi của quy luật khách quan.
Ví dụ về viêc vận dụng nguyên tắc trong hoạt độ ng thực tiễn ṿ à nhân thức :̣ Nguyên tắc khách quan :
+ Sinh viên phải chấp hành nghiêm chỉnh nôi quy nhà trự ờng vì nôi quy dành cho sinh viên la ̣ tiêu chuẩn
đánh giá về tác phong, đạo đức mà mỗi người sinh viên cần phải có. Không nên có tư tưởng cá nhân để
chống đối, làm ảnh hưởng tới viêc học.̣ Nguyên tắc chủ quan :
+ Sinh viên có thể ra sức học hỏi, phấn đấu để thoát khỏi những điều kiên chưa ṭ ốt ảnh hưởng tới bản
thân để đạt được các giải thưởng, các cuôc thi khoa học – x ̣ ã hôi đ ̣ ể mở rông ṭ ầm hiểu biết của bản thân. Câu 2 :
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển là hai nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Trước hết, ta cần hiểu “nguyên lý”, hay nguyên tắc, là những tư tưởng ban đầu, xuất phát, có vai trò định
hướng, chỉ đạo việc triển khai những lý thuyết tiếp theo.
Hiểu một cách chung nhất, “phổ biến” là tồn tại ở khắp mọi nơi, mọi lĩnh vực. Những lĩnh vực này được
khái quát thành 03 lĩnh vực lớn nhất là tự nhiên, xã hội và tư duy.
Trong chủ nghĩa duy vật biện chứng, “mối liên hệ phổ biến” là khái niệm chỉ sự quy định, tác động qua
lại, chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hoặc giữa các mặt của một sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan.
Theo nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, mọi sự vật, hiện tượng, quá trình trong thực tế đều tác động đến
nhau. Không có sự vật, hiện tượng nào tách biệt hoàn toàn với các sự vật, hiện tượng khác. lOMoAR cPSD| 46342985
1. Tính khách quan của mối liên hệ phổ biến
– Trong thế giới vật chất, các sự vật, hiện tượng luôn có mối liên hệ với nhau, dù nhiều dù ít. Điều này
là khách quan, không lệ thuộc vào việc con người có nhận thức được các mối liên hệ hay không.
Sở dĩ mối liên hệ có tính khách quan là do thế giới vật chất có tính khách quan. Các dạng vật chất (bao
gồm sự vật, hiện tượng) dù có vô vàn, vô kể, nhưng thống nhất với nhau ở tính vật chất. Có điểm chung
ở tính vật chất tức là chúng có mối liên hệ với nhau về mặt bản chất một cách khách quan.
2. Tính phổ biến của mối liên hệ phổ biến
Các mối liên hệ tồn tại giữa tất cả các sự vật, hiện tượng của tự nhiên, xã hội và tư duy. Không có sự vật,
hiện tượng bất kỳ nào mà không có sự liên hệ với phần còn lại của thế giới khách quan.
Lấy lĩnh vực tự nhiên để phân tích, ta có những mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng thuộc riêng lĩnh
vực tự nhiên. Cũng có những mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng thuộc tự nhiên với các sự vật, hiện
tượng thuộc lĩnh vực xã hội. Lại có những mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng tự nhiên với các hiện
tượng thuộc lĩnh vực tư duy (hay tinh thần)
Khi lấy lĩnh vực xã hội hoặc tư duy để phân tích, ta cũng có những mối liên hệ đa lĩnh vực như trên.
3. Tính phong phú, đa dạng của mối liên hệ phổ biến
Đó là sự muôn hình, muôn vẻ của những mối liên hệ. Tính đa dạng, nhiều loại của sự liên hệ do tính đa
dạng trong sự tồn tại, vận động và phát triển của chính các sự vật, hiện tượng quy định.
Các loại liên hệ khác nhau có vai trò khác nhau đối với sự vận động, phát triển của các sự vật, hiện tượng.
Ta có thể nêu một số loại hình cơ bản sau:
– Liên hệ bên trong và liên hệ bên ngoài.
Mối liên hệ bên trong là mối liên hệ qua lại, tác động lẫn nhau giữa các yếu tố, các bộ phận, các thuộc
tính, các mặt khác nhau… trong cùng một sự vật. Nó giữ vai trò quyết định đối với sự tồn tại, vận động
và phát triển của sự vật.
Mối liên hệ bên ngoài là mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng khác nhau. Nhìn chung, nó không có ý
nghĩa quyết định. Mối quan hệ này thường phải thông qua mối liên hệ bên trong để phát huy tác dụng.
– Liên hệ bản chất và không bản chất, liên hệ tất yếu và ngẫu nhiên.
Cũng có những tính chất, đặc điểm nêu trên. Ngoài ra, chúng còn có tính đặc thù. Chẳng hạn, cái là ngẫu
nhiên khi xem xét trong mối quan hệ này, lại là tất nhiên trong mối quan hệ khác.
– Liên hệ chủ yếu và thứ yếu; liên hệ trực tiếp và gián tiếp.
Cách phân loại này nói đến vai trò quyết định đối với sự vận động, phát triển của sự vật.
– Liên hệ bản chất và không bản chất; liên hệ cơ bản và không cơ bản.
Cách phân loại này nói lên thực chất của mối liên hệ là gì.
– Liên hệ bao quát toàn bộ thế giới và liên hệ bao quát một số hoặc một lĩnh vực. lOMoAR cPSD| 46342985
Cách phân loại này vạch ra quy mô của mối liên hệ. -…v…v…
Sự phân loại các mối liên hệ có tính tương đối, vì ta phải đặt mỗi sự liên hệ vào một tình huống, mối quan hệ cụ thể.
(Lưu ý: hai từ “liên hệ” và “quan hệ” không hoàn toàn đồng nghĩa với nhau.).
Các loại liên hệ khác nhau có thể chuyển hóa cho nhau. Sự chuyển hóa như vậy là do ta thay đổi phạm
vi xem xét, phân loại hoặc do kết quả vận động khách quan của chính sự vật, hiện tượng.
Phép biện chứng duy vật tập trung nghiên cứu những mối liên hệ chung nhất trong thế giới khách quan,
mang tính phổ biến. Những ngành khoa học cụ thể (toán, lý, hóa…) nghiên cứu những kiểu liên hệ
riêng biệt trong các bộ phận khác nhau của thế giới.
Ý nghĩa phương pháp luân :̣
Từ việc nghiên cứu nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của các sự vật, hiện tượng, chúng ta rút ra quan
điểm toàn diện và quan điểm lịch sử – cụ thể trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.
1. Quan điểm toàn diện
Quán triệt quan điểm toàn diện, chúng ta phải xem xét sự vật, hiện tượng như sau:
– Trong nhận thức:
+ Một là, xem xét các mối quan hệ bên trong của sự vật, hiện tượng.
Tức là xem xét những mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, các tuộc tính khác nhau của
chính sự vật, hiện tượng đó.
+ Hai là, xem xét các mối quan hệ bên ngoài của sự vật, hiện tượng.
Tức là, xem xét sự vật, hiện tượng trong mối liên hệ qua lại giữa sự vật, hiện tượng đó với các sự vật,
hiện tượng khác, kể cả trực tiếp và gián tiếp.
+ Ba là, xem xét sự vật, hiện tượng trong mối quan hệ với nhu cầu thực tiễn.
Ứng với mỗi con người, mỗi thời đại và trong một hoàn cảnh lịch sử nhất định, con người bao giờ cũng
chỉ phản ánh được một số hữu hạn những mối liên hệ. Do đó, trí thức đạt được về sự vật, hiện tượng chỉ
là tương đối, không trọn vẹn, đầy đủ.
Ý thức được điều này sẽ giúp ta tránh được tuyệt đối hóa những tri thức đã có, tránh xem đó là những
chân lý luôn luôn đúng. Để nhận thức được sự vật, chúng ta phải nghiên cứu tất cả những mối liên hệ.
+ Bốn là, tuyệt đối tránh quan điểm phiến diện khi xem xét sự vật, hiện tượng.
Phiến diện tức là chỉ chú ý đến một hoặc một số ít những mối quan hệ. Cũng có nghĩa là xem xét nhiều
mối liên hệ nhưng đều là những mối liên hệ không bản chất, thứ yếu… Đó cũng là cách cào bằng những
thuộc tính, những tính quy định trong bản thân mỗi sự vật. lOMoAR cPSD| 46342985
Quan điểm toàn diện đòi hỏi ta phải đi từ tri thức về nhiều mặt, nhiều mối liên hệ đến chỗ khái quát để
rút ra cái bản chất, cái quan trọng nhất của sự vật, hiện tượng. Điều này không đồng nhất với cách xem
xét dàn trải, liệt kê.
– Trong hoạt động thực tiễn
+ Quan điểm toàn diện đòi hỏi, để cải tạo được sự vật, chúng ta phải dùng hoạt động thực tiễn để biến
đổi những mối liên hệ nội tại của sự vật và những mối liên hệ qua lại giữa sự vật đó với những sự vật khác.
Để đạt được mục đích đó, ta phải sử dụng đồng bộ nhiều biện pháp, phương tiện khác nhau để tác động
nhằm làm thay đổi những mối liên hệ tương ứng.
+ Quan điểm toàn diện cũng đòi hỏi chúng ta phải kết hợp chặt chẽ giữ “chính sách dàn đều” và “chính
sách có trọng điểm”. Ví dụ như trong thực tiễn xây dựng, triển khai chính sách Đổi Mới, Đảng Cộng sản
Việt Nam vừa coi trọng đổi mới toàn diện về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội…, vừa nhấn mạnh đổi
mới kinh tế là trọng tâm.
2. Quan điểm lịch sử – cụ thể
Mọi sự vật, hiện tượng đều tồn tại trong không – thời gian nhất định và mang dấu ấn của không – thời
gian. Do đó, ta nhất thiết phải quán triệt quan điểm lịch sử – cụ thể khi xem xét, giải quyết mọi vấn đề do thực tiễn đặt ra.
Nội dung cốt lõi của quan điểm này là chúng ta phải chú ý đúng mức đến hoàn cảnh lịch sử – cụ thể đã
làm phát sinh vấn đề đó, tới bối cảnh hiện thực, cả khách quan và chủ quan, của sự ra đời và phát triển của vấn đề.
Nếu không quán triệt quan điểm lịch sử – cụ thể, cái mà chúng ta coi là chân lý sẽ trở nên sai lầm. Vì
chân lý cũng phải có giới hạn tồn tại, có không – thời gian của nó.
II) Tại sao nói sự phân chia các loại liên hê là c ̣ ần thiết nhưng chỉ là tương đối :
Nói sự phân chia các loại liên hê là c ̣ ần thiết nhưng chỉ là tương đối bởi : sự phân chia các loại liên hê
gị úp ta sắp xếp hê tḥ ống trình tự các loại có tổ chức, trât ṭ ự và khoa học để ta dễ dàng nhân tḥ ức và
cải tạo thế giới theo quy trình tốt hơn. Tuy nhiên sự phân chia này chỉ là tương đối và không có gì là
tuyêt đ ̣ ối bởi các loại liên hê này g ̣ ắn liền với nhau, đan xen và bổ trợ lẫn nhau và không thể tách rời.
Tuy nhiên, trong thực tế, việc xác định chính xác loại liên hệ giữa các sự kiện không phải lúc nào cũng
dễ dàng. Có thể tồn tại những yếu tố phức tạp và giao động trong quá trình liên kết các sự kiện lại với
nhau, làm cho phân chia này trở nên tương đối.
Do đó, triết học nhìn nhận sự phân chia các loại liên hệ như là tương đối, quan tâm đến sự động chạm và
tương tác giữa các yếu tố trong thế giới thực. Việc hiểu rõ sự tương quan và mức độ tương đối giữa các
loại liên hệ giúp chúng ta có cái nhìn toàn diện và linh hoạt hơn về sự tồn tại và phát triển của các hiện tượng. Ví dụ : lOMoAR cPSD| 46342985 a)
Ví dụ về mối liên hệ nhân quả: Ánh sáng mặt trời chiếu xuống mặt đất làm cho cây cối
quang hợp và phát triển. Trong mối quan hệ này, ánh sáng mặt trời là nguyên nhân, cây cối quang
hợp và phát triển là kết quả. b)
Ví dụ về mối liên hệ giữa các mặt, các yếu tố của sự vật, hiện tượng: Cơ thể người là một
sự vật phức tạp, được cấu thành bởi nhiều mặt, nhiều yếu tố như: hệ thần kinh, hệ hô hấp, hệ tiêu
hóa,... Mỗi mặt, mỗi yếu tố đều tác động, quy định lẫn nhau. Hệ thần kinh điều khiển các hoạt
động của cơ thể, hệ hô hấp cung cấp oxy cho cơ thể, hệ tiêu hóa biến thức ăn thành chất dinh dưỡng nuôi cơ thể,...