Bài kiểm tra ôn tập - Triết học Mác - Lênin | Đại học Tôn Đức Thắng
Sự ra đời của và phát triển của triết học Mác làdo những yêu cầu khách quan để giải quyết nhữngnhiệm vụ chín muồi của thời đại mới, thời đại chủnghĩa xã hội. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Triết học Mác -Lênin (THML01)
Trường: Đại học Tôn Đức Thắng
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
Kiểm tra môn Triết học Mac-Lenin
Giảng viên: Đỗ Văn Thắng
Sinh viên: Lê Thị Tính – 720H0814
Câu 1. Hãy phân tích và trình bày lý do vì sao cho đến
nay Triết học Mác - Lênin vẫn là đỉnh cao của Triết học .
Sự ra đời của và phát triển của triết học Mác là
do những yêu cầu khách quan để giải quyết những
nhiệm vụ chín muồi của thời đại mới, thời đại chủ nghĩa xã hội.
Trong các triết học trước Mác, cơ bản đều không
thấy được vai trò của thực tiễn đối với nhận thức và
đối với sự phát triển của xã hội. Cơ sở lý luận của các
hệ thống triết học trước kia, nhất là triết học duy tâm
không phải quan điểm từ vật chất, từ hoạt động thực
tiễn, mà chủ yếu là sự nhấn mạnh đến vai trò quyết
định của tinh thần, của lực lượng siêu nhiên, vv..
Mác đã tạo ra hình thức cao của chủ nghĩa duy
vật, của phép hiện chứng, thể hiện sự thống nhất giữa
chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng. Theo Lê-nin,
Mác đã làm phong phú chủ nghĩa duy vật bằng phép
biện chứng, còn phép biện chứng đặt trên cơ sở hiện
thực trở thành khoa học,
Sự xuất hiện quan điểm duy vật biện chứng về
lịch sử của triết học Mác là cơ sở lý luận khoa học
nghiên cứu về lịch sử. Đó là việc khẳng định vai trò
quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội, vai
trò của sản xuất vật chất là cơ sở cho sự tồn tại và phát
triển của xã hội, rằng lịch sử phát triển của xã hội là
lịch sử của các phương thức sản xuất vật chất khác
nhau; khẳng định quần chúng nhân dân là lực lượng
sáng tạo chân chỉnh ra lịch sử. Còn trong triết học
trước Mắc về cơ bản là những quan điểm duy tâm
hoặc siêu hình về lịch sử.
Sự biến đổi về tính chất và đối tượng nghiên cứu
của triết học gắn tiền với sự phân ngành của khoa học
cụ thể. Sự ra đời của triết học Mác đã giải quyết một
cách khoa học về mối quan hệ giữa triết học và khoa học.
Đối với chủ nghĩa duy vật trước đây về cơ bản có
những quan điểm đúng về mặt tự nhiên nhưng lại duy
tâm về mặt xã hội, nên nó rất hạn chế và không có ý
nghĩa cách mạng triệt để đối với quá trình cải tạo hiện
thực khách quan của con người. Mác khẳng định
nhiệm vụ cụ thể: học phải có ý nghĩa cải tạo thế giới
và đồng thời Mác khẳng định vai trò và sứ mệnh lịch
sử của giai cấp công nhân đối với sự phát triển xã hội.
Với sự ra đời triết học Mác, vai trò xã hội của
triết học cũng như vị trí của triết học trong hệ thống tri
thức khoa học đã có sự biến đổi. Nếu như đối với triết
học trước kia chủ yếu đóng vai trò giải thích thế giới
thì triết học Mác ra đời không chỉ giải thích thế giới
mà chủ yếu là công cụ cải tạo thế giới. Triết học Mác
trở thành công cụ nhận thức thế giới và cải tạo thế giới
bằng thực tiễn cách mạng của giai cấp công nhân và
quần chúng lao động. Triết học Mác là thế giới quan
khoa học của giai cấp công nhân, là “vũ khí lý luận”
của giai cấp này trong công cuộc cải tạo xã hội, giải
phóng bản thân và giải phóng loài người nói chung.
Tương tự, giai cấp công nhân chính là vũ khí vật chất,
là lực lượng vật chất quan trọng của triết học mác, để
nhờ đó, triết học Mác thể hiện được vai trò cải tạo thế giới của mình.
Ngoài ra, triết học Mác cũng trở thành thế giới
quan và phương pháp luận chung cần thiết cho sự phát
triển của các khoa học cụ thể. Đồng thời, sự ra đời
triết học Mác cũng chấm dứt quan niệm của triết học
cũ coi triết học là “khoa học của các khoa học”, đứng
trên mọi khoa học. Trái lại, triết học Mác khẳng định
về vai trò của khoa học tự nhiên và khoa học xã hội
đối với sự phát triển của bản thân triết học; trong đó,
tùy vào sự phát triển của khoa học tự nhiên và khoa
học xã hội, đòi hỏi triết học cũng phải biến đổi theo,
phải thay đổi hình thức cho phù hợp.
Mác và Ăngghen đã sáng tạo ra học thuyết về
chủ nghĩa cộng sản trong thời kỳ mà nhiệm vụ của
bước chuyển cách mạng từ chủ nghĩa tư bản sang chủ
nghĩa xã hội chưa được đặt ra một cách trực tiếp trước
mắt. Lê-nin đã phát triển chủ nghĩa Mác trong những
điều kiện lịch sử mới để thực hiện bước chuyến cách mạng đó.
Chủ nghĩa tư bản đã chuyển sang một giai đoạn
mới: giai đoạn chủ nghĩa đế quốc và thời đại của cách
mạng vô sản. Xuất hiện những điều kiện khách quan
và chủ quan cho phép thực hiện nhiệm vụ cách mạng
của bước chuyển từ chủ nghĩa tư bản sang chủ nghĩa
xã hội trên phạm vi toàn thế giới, thông qua cách mạng vô sản.
Sự phát triển của Lê-nin đối với triết học của
Mác được thể hiện trong các lĩnh vực của triết học
Mác. Từ những quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện
chứng đến chủ nghĩa duy vật lịch sử. Nhưng quan
trọng hơn cả là lý luận về cách mạng xã hội chủ nghĩa,
về quá trình xây dựng và phát triển chủ nghĩa xã hội
hiện thực, v,v... Sự phát triển của Lê-nin đối với triết
học Mác không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn
có ý nghĩa về mặt thực tiễn đối với sự phát triển của
khoa học và xã hội hiện đại.
Trong giai đoạn hiện nay, tuy có sự khủng hoảng
trong hệ thống xã hội chủ nghĩa và nhất là sự biến đổi
có tính chất phức tạp trên thế giới. Chủ nghĩa tư bản
cũng như chủ nghĩa xét lại dưới nhiều hình thức khác
nhau đang mưu toan tìm mọi cách hạ thấp và phủ
nhận vai trò của Lê-nin trong hệ thống triết học và chủ nghĩa Mác.
Chủ nghĩa Lê-nin trên thực tế là sự khái quát
những kinh nghiệm và thực tiễn đấu tranh của lịch sử,
nó không phải là sự giải thích*cực đoan chủ nghĩa
Mác". Chủ nghĩa Lê-nin là sự phát triển chủ nghĩa
Mác trong điều kiện và hoàn cảnh mới, điều kiện cách
mạng vô sản và chủ nghĩa xã hội hiện thực, khẳng
định nó mang tính tất yếu khách quan trong sự phát triển của lịch sử.
Vì vậy có thể nói cho đến nay Triết học Mác -
Lênin vẫn là đỉnh cao, là nền móng của Triết học .
Câu 2. Từ nội dung của phép biện chứng duy vật; hãy
trình bày lý do tại sao chúng ta phải đổi mới; Liên hệ
với việc đổi mới của bản thân.
Phép biện chứng duy vật là “linh hồn sống”, là
“cái quyết định” của chủ nghĩa Mác, bởi khi nghiên
cứu các quy luật phát triển phổ biến của hiện thực
khách quan và của nhận thức khoa học, phép biện
chứng duy vật thực hiện chức năng phương pháp luận
chung nhất của hoạt động nhận thức và thực tiễn.
Chức năng này thể hiện ở chỗ, con người dựa vào các
nguyên lý, được cụ thể hóa bằng các cặp phạm trù và
quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật, để đề ra
các nguyên tắc tương ứng, định hướng hoạt động lý
luận và thực tiễn của mình.
Trong tác phẩm Chống Đuyrinh, khi bàn về các
quy luật, Ph.Ăngghen định nghĩa “Phép biện chứng
chẳng qua chỉ là môn khoa học về những quy luật phổ
biến của sự vận động và sự phát triển của tự nhiên,
của xã hội loài người và của tư duy”. Khi chỉ ra nội
dung chủ yếu của phép biện chứng, Ph.Ăngghen định
nghĩa “Phép biện chứng là khoa học về sự liên hệ phổ
biến” có “Những quy luật chủ yếu: sự chuyển hóa
lượng thành chất, - sự xâm nhập lẫn nhau của các mâu
thuẫn đối cực và sự chuyển hóa từ mâu thuẫn này sang
mâu thuẫn khác khi mâu thuẫn đó lên tới cực độ, - sự
phát triển bằng mâu thuẫn hoặc phủ định của phủ
định, - phát triển theo hình xoáy trôn ốc”1.
V.I.Lênin định nghĩa “Phép biện chứng, tức là
học thuyết về sự phát triển, dưới hình thức hoàn bị
nhất, sâu sắc nhất và không phiến diện, học thuyết về
tính tương đối của nhận thức của con người, nhận thức
này phản ánh vật chất luôn phát triển không ngừng”;
khi bàn về các yếu tố của phép biện chứng, ông đưa ra
định nghĩa, “Có thể định nghĩa vắn tắt phép biện
chứng là học thuyết về sự thống nhất của các mặt đối
lập. Như thế là nắm được hạt nhân của phép biện
chứng, nhưng điều đó đòi hỏi phải có những sự giải
thích và một sự phát triển thêm”2.
Đối tượng nghiên cứu của phép biện chứng duy
vật là trạng thái tồn tại có tính quy luật phổ biến nhất
của sự vật, hiện tượng trong thế giới. Vấn đề này thể
hiện trong các câu hỏi: sự vật, hiện tượng quanh ta và
cả bản thân ta tồn tại trong trạng thái liên hệ qua lại,
quy định, chuyển hóa lẫn nhau và luôn vận động, phát
triển hay trong trạng thái tách rời, cô lập nhau và đứng
im, không vận động, phát triển?... Để trả lời câu hỏi
trên, phép biện chứng duy vật đã đưa ra nội dung gồm
hai nguyên lý, sáu cặp phạm trù và ba quy luật cơ bản.
1 C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr. 455. 2 V.I.Lênin: //T
Bút ký triết học oàn tập, Hà Nội, 2005, t. 29, tr. 240.
Để tiến hành sự đổi mới thì ta cần phải áp dụng
nguyên lí về sự phát triển chứng duy vật. Sự đổi mới
là giới thiệu, áp dụng một ý tưởng, phương pháp, cách
làm hay công cụ mới. Trong phép biện chứng duy vật,
quy luật mâu thuẫn chỉ ra nguyên nhân, động lực của
sự phát triển; quy luật lượng đổi chất đổi chỉ ra tính
chất và cách thức của sự phát triển; quy luật phủ định
của phủ định chỉ ra xu hướng, hình thức và kết quả
của sự phát triển đó. Nhờ 3 quy luật này sự thay đổi
diễn ra nhằm phát triển mọi thứ theo hướng tốt hơn,
vừa bỏ đi những cái lạc hậu, cũ kĩ vừa kế thừa đc
những điều tốt, tích cực.
Phát triển là phạm trù triết học dùng để chỉ quá
trình vận động của sự vật, hiện tượng theo khuynh
hướng đi lên từ trình độ thấp đến trình độ cao, từ kém
hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
Phát triển là một dạng của vận động nhưng
không đồng nhất với vận động nói chung, mà là sự
biến đổi về chất theo hướng ngày càng hoàn thiện của
sự vật ở trình độ ngày càng cao hơn *
Nội dung nguyên lý về sự phát triển
Mọi sự vật nằm trong quá trình vận động theo khuynh
hướng chung là phát triển
Nguồn gốc của sự phát triển : thống nhất và đấu
tranh giữa các mặt đối lập để giải quyết các mâu thuẫn của sự vật
Phương thức của sự phát triển: lượng đổi dẫn đến
chất đổi và ngược lại
Khuynh hướng của sự phát triển : tiến lên theo
đường xoáy ốc, quanh co phức tạp, phủ định của phủ
định, cái mới ra đời thay thế cái cũ. Hết mỗi chu kỳ,
sự vật, hiện tượng lặp lại dường như ban đầu nhưng ở mức độ cao hơn
Tính chất của sự phát triển - Tí nh
khách quan : nguồn gốc của sự phát triển
nằm trong chính bản thân sự vật, hiện tượng,
không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người
- Tính phổ biến : sự phát triển diễn ra ở mọi sự
vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
| Tỉnh kế thừa trong sự vật, hiện tượng mới giữ
lại, có chọn lọc và cải tạo các yêu tố còn phù
hợp, đồng thời gạt bỏ yếu tố tiêu cực, lỗi thời,
lạc hậu của sự vật, hiện tượng
- Tính đa dạng, phong phú : các sự vật, hiện
tượng khác nhau có quá trình phát triển khác
nhau. Một sự vật, hiện tượng trong những
không gian, thời gian khác, điều kiện. hoàn
cảnh khác nhau thì sự phát triển cũng khác nhau
Ý nghĩa phương pháp luận và sự liên hệ với việc
đổi mới của bản thân:
- Quan điểm phát triển, chống trị trệ, bảo thủ, bị
quan, phải xem xét sự vật trong sự vận động và phát triển
Loại bỏ tư duy siêu hình, cứng nhắc, bảo
thủ, trì trệ...Có kế hoạch học tập và làm
việc cụ thể, nghiêm túc thực hiện.
Xem xét tính chất của sự việc xấu xảy ra, không bi quan, bảo thủ.
- Hiểu nguồn gốc, cách thức, khuynh hướng của
sự phát triển nhằm thúc đẩy hay kìm hãm sự
phát triển, phục vụ mục đích của con người
(Biết được giống cây phù hợp với điều kiện,
môi trường như thế nào để có thể tiến hành gieo
trổng phục vụ sản xuất).
Luôn tiếp nhận tri thức một cách khoa
học, sáng tạo. Tư duy biện chứng sẽ giúp
bản thân có cái nhìn toàn diện, phân biệt
tri thức đúng, sai; chỉ ra nguyên nhân cái
sai, và khẳng định, phát triển tri thức
đúng đắn. Sinh viên tự học, tự nghiên
cứu, giải thích thực tiễn biến đổi, đưa ra
những giải pháp mà thực tiễn đặt ra.
- Tính đa dạng, phong phú cần có phương pháp
phù hợp trong từng giai đoạn (Phát triển kinh tế,
thương mại, dịch vụ ở Thành phố Hồ Chí Minh
và Long An sẽ khác nhau về phương pháp cũng
như thời gian tiến hành)
Có phương pháp học tập, làm việc đúng
đắn; không còn phải học vẹt, học tủ; mà
học hiểu, biết vận dụng, biết đánh giá và
sáng tạo ra tri thức mới.
Thử và tìm phương pháp học tập phù hợp
với bản thân trong từng giai đoạn.