Bài kiểm tra tự luận - Tiếng anh chuyên ngành du lịch | Đại học Mở Hà Nội

BLDS ghi nhận khá nhiều quyền nhân thân khác nhau và quyền bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể là một trong những quyền nhân thân cơ bản. Tính mạng, sức khỏe, thân thể là những yếu tố gắn liền với mỗi con người kể từ khi sinh ra. Tính mạng là “mạng sống, sự sống của con người”, một cơ thể song khi còn có sự trao đổi chất với môi trường bên ngoài. Tài liệu được sưu tầm giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao trong kì thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem !

BÀI KIỂM TRA TỰ LUẬN
MÔN : LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM 1
*****************
HỌ VÀ TÊN: BÙI HOÀNG VỮNG
LỚP: : 2323.HDNAG502A
NGÀNH: LUẬT
SINH VIÊN: 23C5055D3793
ĐỀ SỐ 5: Quyền sống, quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, thân thể, quyền được
pháp luật bảo hộ về sức khẻo của cá nhân- Quy định của pháp luật và thực tiễn áp
dụng.
Bài Làm
I. Khái quát quyền sống, quyền bất khả xâm phạm, quyền được pháp luật bảo hộ về
sức khỏe cá nhân..
1. Khái niệm:
BLDS ghi nhận khá nhiều quyền nhân thân khác nhau và quyền bảo đảm an toàn về
tính mạng, sức khỏe, thân thể là một trong những quyền nhân thân cơ bản. Tính mạng,
sức khỏe, thân thể là những yếu tố gắn liền với mỗi con người kể từ khi sinh ra. Tính
mạng là “mạng sống, sự sống của con người”, một cơ thể song khi còn có sự trao đổi
chất với môi trường bên ngoài. Sức khỏe và tính mạng có mối quan hệ với nhau. Thân
thể là “cơ thể con người”, bao gồm các bộ phận riêng lẻ có các chức năng khác nhau
nhưng các bộ phận đó hợp lại thành tổng thể thể hoàn chỉnh. Đối với bộ phận thể
người, khi còn gắn kết với chỉnh thể cơ thể thì bộ phận cơ thể cũng được coi như thân
thể nhưng khi đã tách rời khỏi cơ thể thì có chế độ pháp lý khác. Khi còn là một chỉnh
thể thì thân thể của cá nhân thuộc về bản thân cá nhân đó, gắn liền với cá nhân đó, là
yếu tố nhân thân, không thể chuyển giao cho người khác. Khi bộ phận cơ thể đã được
tách ra khỏi cơ thể thì theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành cũng như pháp
luật của nhiều nước trên thế giới thì có thể chuyển giao cho người khác.
Tính mạng, sức khỏe, thân thể là những yếu tố quyết định sự sống còn, tồn tại của con
người, ảnh hưởng đến toàn bộ quá trình sống, chất lượng cuộc sống của mỗi người. Do
đó, bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể là vấn đề vô cùng quan trọng.
Quyền sống một quyền nhân thân được ghi nhận lần đầu tiên trong BLDS năm 2015
so với các BLDS trước đó. Việc ghi nhận này nhằm tương thích với sự bổ sung trong
Hiến pháp 2013 về quyền sống của cá nhân: “ Mọi người có quyền sống. Tính mạng
con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật .” (Điều
19). Bên cạnh quyền sống, cá nhân có quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, thân
thể, quyền được pháp luật bảo hộ về sức khỏe. Theo đó, bất kỳ chủ thể nào xâm phạm
bất hợp pháp đến sự an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể của cá nhân đều có thể
phải chịu những chế tài pháp luật. Ví dụ Điều 590, điều 591 BLDS 2015, khi một
người gây thiệt hại trái pháp luật đến sức khỏe, tính mạng của ngườia khác phải có
trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo quy định. Trong trường hợp hành vi gây thiệt hại
tính chất nguy hiểm chohội, người gây thiệt hại còn thể phải chịu chế tài hình
sự đối với hành vi của mình. Giữa quyền sống và quyền bất khả xâm phạm về tính
mạng có mối liên quan mật thiết với nhau.
2. Nội dung:
a, Quyền đảm bảo an toàn về tính mạng:
Quyền đượ đảm bảo an toàn về tính mạng là quyền con người gắn liền với sự ra đời
của nhà nước, ở những khía cạnh khác nhau việc bảo đảm quyền ấy cũng khác nhau.
Đó quyền nhân sự của nhân, theo đó nhân có quyền duy trì sự sống và quyền
làm chủ cuộc sống. Quyền sống đả được ghi nhận là một trong những quyền cơ bản
nhất của con người sau này, trong bộ luật nhân quyền thới giới. Quyền sống tiếp tục
được khẳng định vị trí quan trọng đó, không những quyền sống còn được phát triển
mức độ cao hơn khi thừa nhận cá nhân có quyền làm chủ cuộc sống của mình.
Quyền được bảo đảm an toàn tính mạng, sức khỏe, thân thể còn thể hiện trong trường
hợp cá nhân bị tai nạn hoặc bệnh tật mà tính mạng bị đe dọa. Trong trường hợp này,
người phát hiện ra cá nhân đang gặp nạn phải trách nhiệm đưa cá nhân gặp nạn đến
sở khám bệnh, chữa bệnh hoặc yêu cầu nhân, quan, tổ chức khác điều kiện
đưa nạn nhân đén các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh nơi gần nhất. Cơ sở y tế có trách
nhiệm tiếp nhận cá nhân gặp nạn và có trách nhiệm sử dụng mọi phương tiện và khả
năng hiện có để thực hiện việc cứu chữa cho nạn nhân theo quy định của pháp luật về
khám bệnh, chữa bệnh. (Khoản 2, Điều 33 BLDS năm 2015). Quy định này được đặt
ra trong bối cảnh hiện khi là hết sức phù hợp khi các giá trị đạo đức đang bị suy giảm
nghiêm trọng và sự vô cảm trước tính mạng của người khác ngày càng gia tăng. Đây
là quyền về mặt thực tế rất lớn, bởi lẽ tình trạng nguy hiểm đến tính mạng đối với cá
nhân hiện tượng khách quan. Trong nhiều trường hợp, tính mạng của cá nhân không
thể được bảo đảm nếu không được cứu chữa kịp thời. Quyền này cũng đồng nghĩa với
trách nhiệm bổn phận của phát hiện điều kiện và sở y tế. Việc một người có điều
kiện nhưng đã không cứu giúp người khác đang trong tình trạng nguy hiểm đến tính
mạng căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự, nhưng không đương nhiên là căn cứ truy
cứu trách nhiệm dân sự. Trên phương diện dân sự trách nhiệm đặt ra là trách nhiệm
bồi thường thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm không tiêu chí chung để định lượng.
Chính vì thế người gây thiệt hại không thể đền bù những tổn thất đã gây ra. Họ chỉ có
thểđắp một phần cho những tổn thất đó bằng cách bồi thường. Cụ thể hơn người
hành vi xâm phạm đến tính mạng người khác phải bồi thường thiệt hại tinh thần cho
nạn nhân hay người thân của nạn nhân nhằm một phần nào khắc phục những tổn thất
đã gây ra.
Hiện nay trên thới giới đả có nhiều quốc gia xóa bỏ hình phạt tử hình suất phát từ quan
điểm cho rằng quyền sống quyền tuyệt đối của nhân đó và không một ai quyền
tước đi quyền sống của cá nhân. Trong pháp luật Việt Nam hiện nay, do yêu cầu
phòng chống tội phạm nước ta vẫn duy trì hình phạt tử hình. Tuy nhiên, hình phạt tử
hình chỉ áp dụng đối với những người phạm tội đặc biệt quan trọng. Không áp dụng
hình phạt đối với người phạm tội chưa thành niên, phụ nử có thai hoặc nuôi con nhỏ
dưới 36 tháng tuổi. Ngoài ra, pháp luật Việt Nam chưa công nhận quyền được chết bởi
nhiều lý do về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… đây là một vấn đề còn có nhiều
tranh luận và đang được quan tâm, nghiên cứu. Trên thế giới mới có một số quốc gia
đã thông qua đạo luật về an tử như Hà Lan, Bỉ, một số bang của Hoa Kỳ. Còn hầu hết
pháp luật các quốc gia đều chưa công nhận quyền này nhưng ở những mức độ khác
nhau như coi hành vi trợ giúp người khác thực hiện cái chết là hành vi phạm tội,
quốc gia không xử phạt hành vi nhưng lại không thông qua hay ngấm ngầm chấp nhận
mà không hợp pháp hóa, có quốc gia không cấm hoặc chỉ cho phép chủ thể quyền chủ
động thực hiện hành vi đối với bản thân mình. Đối với người đang trong tình cảnh phải
chịu đau đớn mà không thể cứu chữa được thì việc kéo dài sự sống chỉ khiến họ phải
chịu đựng một cách khổ sở trong những ngày tháng cuối đời. Việc thực hiện quyền
được chết, được ra đi thanh thản theo mong muốn của họ là giải pháp hợp lý cho bản
thân họ. Như vậy, quyền được chết không phải là mâu thuẫn với quyền bảo đảm an
toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể bởi khi đã không còn khả năng để đảm bảo cho
cá nhân có thể sống khỏe mạnh thì mới thực hiện quyền được chết.
b, Quyền được bảo đảm về an toàn và sức khẻo.
Sức khỏe vẫn luôn được coi là vốn quý giá nhất của con người từ xưa đến nay, con
người sẽ không làm đượcnếu như không sức khỏe, đó yếu tố đảm bảo sự sống
của con người tồn tại. Nguồn gốc của bệnh tật có thể là do bẩm sinh hoặc do mắc phải
trong quá trình sống dù là do nguyên nhân nào thì bệnh tật luôn ảnh hưởng xấu đến
sự tồn tại bình thường của con người. Để đảm bảo con người không có bệnh tật cần
đến sự chăm lo của mọi phương tiện từ việc đảm bảo môi trường sống vệ sinh an toàn
thực phẩm đến việc đầu tư trang thiết bị kĩ thuật hiện đại điều này đòi hỏi mọi chính
sách y tế toàn diện của nhà nước. Quyền được bảo đảm an toàn về sức khỏe và quyền
được khám chữa bệnh khi đã mắc bệnh có ý nghĩa đặc biệt thiết thực đối với cuộc
sống của con người nhất là trong giai đoạn hiện nay ngày càng nhiều căn bệnh hiểm
nghèo cướp đi sinh mạng của nhiều người. Bộ luật dân sự năm 1995 lần đầu tiên quy
định những quyền nhân thân của cá nhân trong đó có quyền được bảo đảm an toàn về
sức tại Điều 33 BLDS năm 2015 cũng đã kế thừa quyền này. Trong hoạt động chữa
bệnh, quyền sống, quyền được bảo đảm an toàn tính mạng, sức khỏe, thân thể thể hiện
qua các yêu cầu:
+ Nếu thực hiện vc gây mê, mổ, cắt bỏ, cấy ghép bộ phận của cơ thể phải được sự
đồng ý của người đó. Đây là những hoạt động tác động trực tiếp lên cơ thể người, có
khả năng mang đến những rủi ro bất lợi cho sức khỏe, tính mạng của người bệnh. Cho
nên cần có sự đồng ý của người bệnh vì sự an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể
của họ quyền của nhân đc pháp luật bảo hộ và ghi nhận. Trong những trường hợp
cần có sự đồng ý của cá nhân nêu trên nhưng cá nhân là người chưa thành niên, mất
NLHVDS, người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi hoặc là bệnh nhân
bất tỉnh thì phải được cha, mẹ, vợ, chồng, con đã thành niên hoặc người giám hộ của
nhân đó đồng ý. Quy định này xuất phát từ lợi ích của chính người bệnh, đảm bảo
được việc cứu chữa khẩn cấp, ngay tức thì cho nạn nhân.
3. Quyền được đảm bảo về thân thể.
Thân thể của một nhân được đảm bảo an toàn cả khi còn sống hay đã chết. Thể hiện
qua việc bảo đảm sự toàn vẹn và không xâm phạm đối với tử thi. Khi cá nhân chết thì
địa vị pháp lý chấm dứt, tuy nhiên thi thể của người chết vẫn là đối tượng bảo vệ của
pháp luật, nguyên tắc này xuất phát từ nhiều yếu tố khác nhau như: tâm linh, phong
tục, tập quán, tín ngưỡng và đồng thời xuất phát từ ý nghĩa tình cảm và thiêng liêng.
Sự tôn trọng thi thể của nhân thể hiện việc thi thể của nhân được bảo đảm sự
toàn vẹn thông qua các cơ chế bảo vệ của dân sự, hình sự. Tử thi cá nhân chỉ được
khám nghiệm trong các trường hợp
+ cá nhân đã đồng ý cho việc khám nghiệm tử thi của mình trước khi nhân đó chết.
Đây là trường hợp không phổ biến trên thực tế vì không ai dự liệu được cái chết của
mình bất thường để làm yêu cầu khám nghiệm tử thi cho chính mình khi nhân đó
còn sống.
+ Cha, mẹ, vợ, chồng, con đã thành niên hoặc người dám hộ của cá nhân đồng ý cho
khám nghiệm tử thi của nhân khi không ý kiến của người quá cố trước khi người
đó chết.
+ Việc khám nghiệm tử thi đóng một vai trò quan trọng, đặc biệt trong lĩnh vực điều
tra hình sự. Việc khám nghiệm tử thi giúp các cơ quan điều tra xác định thời điểm
chết, nguyên nhân chết, thậm chí thu thập chứng cứ... Qua đó, nhằm xác định, tìm
kiếm hung thủ cũng như hoàn thiện hồ sơ vụ án.
Việc khám nghiệm tử thi đóng một vai trò quan trọng, đặc biệt trong lĩnh vực điều tra
hình sự. Việc khám nghiệm tử thi giúp các cơ quan điều tra xác định thời điểm chết,
nguyên nhân chết, thậm chí thu thập chứng cứ... Qua đó, nhằm xác định, tìm kiếm
hung thủ cũng như hoàn thiện hồ sơ vụ án.
II. Thực tiễn áp dụng
Mặcvề bản, pháp luật nước ta không mâu thuẫn với các tiêu chuẩn quốc tế về
phân quyền và việc bảo đảm các quyền con người trên thực tế phù hợp, thậm chí ở
mức tiến bộ, so với hệ thống quốc tế. Tuy nhiên, trong việc bảo đảm quyền con người
ở nước ta hiện nay vẫn còn một số vấn đề tồn tại nhất định.
Hiện nay, xuất phát từ sự thay đổi trong nhận thức, số lượng người có mong muốn
hiến mô, bộ phận cơ thể, hiến xác ngày càng tăng. Với số lượng người ủng hộ và hiến
tạng đang ngày càng gia tăng xuất phát từ cách nhìn nhận cũng như việc thấy được
ý nghĩa lớn lao trong việc hiến mô, tạng cứu người. Các chế độ pháp lý đối với bộ
phận cơ thể người thường hạn chế, khắt khe hơn so với các tài sản thông thường. Bên
cạnh đó đã có rất nhiều trường hợp lợi dụng việc hiến bộ phận cơ thể người để trao
đổi, mua bán, trong đó phổ biến nhất là thận, giác mạc.
Thực tế cho thấy, tình trang vi phạm quyền nhân thân ngày càng gia tăng và đang
không ngừng phát triển với những tình tiết ngày càng phức tạp. Lấy ví dụ đã một thời
gian làm luận bức xúc về việc 2 gái mại dâm bị một số cán bộ công an thuộc đội
cảnh sát điều tra tội phạm trật tự xã hội thuộc công an thành phố Cẩm Phả tỉnh Quảng
Ninh bắt, chẳng những không được ném cho cái quần, cái áo mặc vào che thân trước
khi lập biên bản, còn bị quát mắng và buộc phải đứng thẳng, ngẩng mặt, dang hai tay
để 4-5 người hành xử quyền lực công chụp ảnh và quay clip trong tình trạng lõa lồ.
cái clip đó, sau khi được chuyền tay trong một số cán bộ công an thành phố Cẩm Phả,
đã được tung lên mạng internet. Nhưng đối với những hành vi đó chỉ trừng phạt người
hành vi m phạm nhân phẩm, quyền nhân thân của công dân người phát tán. Để
không xảy ra nữa những vụ tương tự, cần đảm bảo, trước khi trao quyền lực công vào
tay ai đó, người ấy phải được dạynắm chắc cách hành xử đúng mực, đúng quy định
của pháp luật với mọi công dân. Hơn thế, cần củng cố hoặc bổ sung những thiết chế
luật pháp và xã hội hữu hiệu chứ không chỉ trên giấy để đảm bảo quyền nhân thân,
nhân phẩm của công dân được bảo vệ trong mọi hoàn cảnh. Mặc dù đòi hỏi ở mức độ
khác nhau, song việc bảo đảm bất cứ quyền con người nào cũng không thể tách rời các
điều kiện vật chất. Do những khó khăn về kinh tế, ở nước ta hiện nay còn thiếu các
điều kiện để chăm sóc, giải quyết việc làm cho các đối tượng: những người bị nhiễm
HIV/AIDS, những người làm mại dâm, những người vi phạm pháp luật sau khi mãn
hạn tù. Có thể nói, những điểm mới về quyền con người trong Hiến pháp năm 2013 là
cơ sở pháp cực kỳ quan trọng, định hướng cho những thay đổi của luật pháp nước ta
tới đây về quyền con người, góp phần làm giảm bớt những sai sót của quá trình thực
thi pháp luật, đặc biệt do những nhân cụ thể trong quá trình thực thi pháp luật gây
ra. Thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử cho thấy, có lúc, có nơi việc tôn trọng và bảo vệ
các quyền con người, nhất đối với các đối tượng yếu thế trong xã hội vẫn chưa được
tôn trọng đầy đủ, toàn diện.
Từ những vụ việc cụ thể trên, có thể thấy, pháp luật hình sự Việt Nam thiếu những
điều khỏan để trừng phạt đối với hành vi quấy rối tình dục, trực tiếp xâm phạm thân
thể, danh dự, nhân phẩm của con người. Nhưng đã phần nào sự tham gia của pháp
luật xử phạt một cách nghiêm minh để bảo vệ quyền lợi của người bị hại.
Đối với những lĩnh vực đặc thù, liên quan đến sinh mạng chính trị của con người, nếu
để xảy ra oan sai, hậu quả rất lớn, nhiều trường hợp không thể khắc phục, bồi thường
được. Việc hoàn thiện cơ chế tố tụng hình sự để bảo đảm thực hiện quyền con người,
quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân phải dựa trên nguyên tắc chung của Hiến pháp,
trên cơ sở quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân được bảo đảm.
| 1/7

Preview text:

BÀI KIỂM TRA TỰ LUẬN
MÔN : LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM 1 *****************
HỌ VÀ TÊN: BÙI HOÀNG VỮNG LỚP: : 2323.HDNAG502A NGÀNH: LUẬT MÃ SINH VIÊN: 23C5055D3793
ĐỀ SỐ 5: Quyền sống, quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, thân thể, quyền được
pháp luật bảo hộ về sức khẻo của cá nhân- Quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng. Bài Làm
I. Khái quát quyền sống, quyền bất khả xâm phạm, quyền được pháp luật bảo hộ về
sức khỏe cá nhân.. 1. Khái niệm:
BLDS ghi nhận khá nhiều quyền nhân thân khác nhau và quyền bảo đảm an toàn về
tính mạng, sức khỏe, thân thể là một trong những quyền nhân thân cơ bản. Tính mạng,
sức khỏe, thân thể là những yếu tố gắn liền với mỗi con người kể từ khi sinh ra. Tính
mạng là “mạng sống, sự sống của con người”, một cơ thể song khi còn có sự trao đổi
chất với môi trường bên ngoài. Sức khỏe và tính mạng có mối quan hệ với nhau. Thân
thể là “cơ thể con người”, bao gồm các bộ phận riêng lẻ có các chức năng khác nhau
nhưng các bộ phận đó hợp lại thành tổng thể cơ thể hoàn chỉnh. Đối với bộ phận cơ thể
người, khi còn gắn kết với chỉnh thể cơ thể thì bộ phận cơ thể cũng được coi như thân
thể nhưng khi đã tách rời khỏi cơ thể thì có chế độ pháp lý khác. Khi còn là một chỉnh
thể thì thân thể của cá nhân thuộc về bản thân cá nhân đó, gắn liền với cá nhân đó, là
yếu tố nhân thân, không thể chuyển giao cho người khác. Khi bộ phận cơ thể đã được
tách ra khỏi cơ thể thì theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành cũng như pháp
luật của nhiều nước trên thế giới thì có thể chuyển giao cho người khác.
Tính mạng, sức khỏe, thân thể là những yếu tố quyết định sự sống còn, tồn tại của con
người, ảnh hưởng đến toàn bộ quá trình sống, chất lượng cuộc sống của mỗi người. Do
đó, bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể là vấn đề vô cùng quan trọng.
Quyền sống là một quyền nhân thân được ghi nhận lần đầu tiên trong BLDS năm 2015
so với các BLDS trước đó. Việc ghi nhận này nhằm tương thích với sự bổ sung trong
Hiến pháp 2013 về quyền sống của cá nhân: “ Mọi người có quyền sống. Tính mạng
con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật .” (Điều
19). Bên cạnh quyền sống, cá nhân có quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, thân
thể, quyền được pháp luật bảo hộ về sức khỏe. Theo đó, bất kỳ chủ thể nào xâm phạm
bất hợp pháp đến sự an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể của cá nhân đều có thể
phải chịu những chế tài pháp luật. Ví dụ Điều 590, điều 591 BLDS 2015, khi một
người gây thiệt hại trái pháp luật đến sức khỏe, tính mạng của ngườia khác phải có
trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo quy định. Trong trường hợp hành vi gây thiệt hại
có tính chất nguy hiểm cho xã hội, người gây thiệt hại còn có thể phải chịu chế tài hình
sự đối với hành vi của mình. Giữa quyền sống và quyền bất khả xâm phạm về tính
mạng có mối liên quan mật thiết với nhau. 2. Nội dung:
a, Quyền đảm bảo an toàn về tính mạng:
Quyền đượ đảm bảo an toàn về tính mạng là quyền con người gắn liền với sự ra đời
của nhà nước, ở những khía cạnh khác nhau việc bảo đảm quyền ấy cũng khác nhau.
Đó là quyền nhân sự của cá nhân, theo đó cá nhân có quyền duy trì sự sống và quyền
làm chủ cuộc sống. Quyền sống đả được ghi nhận là một trong những quyền cơ bản
nhất của con người sau này, trong bộ luật nhân quyền thới giới. Quyền sống tiếp tục
được khẳng định vị trí quan trọng đó, không những quyền sống còn được phát triển ở
mức độ cao hơn khi thừa nhận cá nhân có quyền làm chủ cuộc sống của mình.
Quyền được bảo đảm an toàn tính mạng, sức khỏe, thân thể còn thể hiện trong trường
hợp cá nhân bị tai nạn hoặc bệnh tật mà tính mạng bị đe dọa. Trong trường hợp này,
người phát hiện ra cá nhân đang gặp nạn phải có trách nhiệm đưa cá nhân gặp nạn đến
cơ sở khám bệnh, chữa bệnh hoặc yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức khác có điều kiện
đưa nạn nhân đén các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh nơi gần nhất. Cơ sở y tế có trách
nhiệm tiếp nhận cá nhân gặp nạn và có trách nhiệm sử dụng mọi phương tiện và khả
năng hiện có để thực hiện việc cứu chữa cho nạn nhân theo quy định của pháp luật về
khám bệnh, chữa bệnh. (Khoản 2, Điều 33 BLDS năm 2015). Quy định này được đặt
ra trong bối cảnh hiện khi là hết sức phù hợp khi các giá trị đạo đức đang bị suy giảm
nghiêm trọng và sự vô cảm trước tính mạng của người khác ngày càng gia tăng. Đây
là quyền về mặt thực tế rất lớn, bởi lẽ tình trạng nguy hiểm đến tính mạng đối với cá
nhân là hiện tượng khách quan. Trong nhiều trường hợp, tính mạng của cá nhân không
thể được bảo đảm nếu không được cứu chữa kịp thời. Quyền này cũng đồng nghĩa với
trách nhiệm bổn phận của phát hiện có điều kiện và cơ sở y tế. Việc một người có điều
kiện nhưng đã không cứu giúp người khác đang trong tình trạng nguy hiểm đến tính
mạng là căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự, nhưng không đương nhiên là căn cứ truy
cứu trách nhiệm dân sự. Trên phương diện dân sự trách nhiệm đặt ra là trách nhiệm
bồi thường thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm không có tiêu chí chung để định lượng.
Chính vì thế người gây thiệt hại không thể đền bù những tổn thất đã gây ra. Họ chỉ có
thể bù đắp một phần cho những tổn thất đó bằng cách bồi thường. Cụ thể hơn người có
hành vi xâm phạm đến tính mạng người khác phải bồi thường thiệt hại tinh thần cho
nạn nhân hay người thân của nạn nhân nhằm một phần nào khắc phục những tổn thất đã gây ra.
Hiện nay trên thới giới đả có nhiều quốc gia xóa bỏ hình phạt tử hình suất phát từ quan
điểm cho rằng quyền sống là quyền tuyệt đối của cá nhân đó và không một ai có quyền
tước đi quyền sống của cá nhân. Trong pháp luật Việt Nam hiện nay, do yêu cầu
phòng chống tội phạm nước ta vẫn duy trì hình phạt tử hình. Tuy nhiên, hình phạt tử
hình chỉ áp dụng đối với những người phạm tội đặc biệt quan trọng. Không áp dụng
hình phạt đối với người phạm tội chưa thành niên, phụ nử có thai hoặc nuôi con nhỏ
dưới 36 tháng tuổi. Ngoài ra, pháp luật Việt Nam chưa công nhận quyền được chết bởi
nhiều lý do về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… đây là một vấn đề còn có nhiều
tranh luận và đang được quan tâm, nghiên cứu. Trên thế giới mới có một số quốc gia
đã thông qua đạo luật về an tử như Hà Lan, Bỉ, một số bang của Hoa Kỳ. Còn hầu hết
pháp luật các quốc gia đều chưa công nhận quyền này nhưng ở những mức độ khác
nhau như coi hành vi trợ giúp người khác thực hiện cái chết là hành vi phạm tội, có
quốc gia không xử phạt hành vi nhưng lại không thông qua hay ngấm ngầm chấp nhận
mà không hợp pháp hóa, có quốc gia không cấm hoặc chỉ cho phép chủ thể quyền chủ
động thực hiện hành vi đối với bản thân mình. Đối với người đang trong tình cảnh phải
chịu đau đớn mà không thể cứu chữa được thì việc kéo dài sự sống chỉ khiến họ phải
chịu đựng một cách khổ sở trong những ngày tháng cuối đời. Việc thực hiện quyền
được chết, được ra đi thanh thản theo mong muốn của họ là giải pháp hợp lý cho bản
thân họ. Như vậy, quyền được chết không phải là mâu thuẫn với quyền bảo đảm an
toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể bởi khi đã không còn khả năng để đảm bảo cho
cá nhân có thể sống khỏe mạnh thì mới thực hiện quyền được chết.
b, Quyền được bảo đảm về an toàn và sức khẻo.
Sức khỏe vẫn luôn được coi là vốn quý giá nhất của con người từ xưa đến nay, con
người sẽ không làm được gì nếu như không có sức khỏe, đó là yếu tố đảm bảo sự sống
của con người tồn tại. Nguồn gốc của bệnh tật có thể là do bẩm sinh hoặc do mắc phải
trong quá trình sống dù là do nguyên nhân nào thì bệnh tật luôn có ảnh hưởng xấu đến
sự tồn tại bình thường của con người. Để đảm bảo con người không có bệnh tật cần
đến sự chăm lo của mọi phương tiện từ việc đảm bảo môi trường sống vệ sinh an toàn
thực phẩm đến việc đầu tư trang thiết bị kĩ thuật hiện đại điều này đòi hỏi mọi chính
sách y tế toàn diện của nhà nước. Quyền được bảo đảm an toàn về sức khỏe và quyền
được khám chữa bệnh khi đã mắc bệnh có ý nghĩa đặc biệt thiết thực đối với cuộc
sống của con người nhất là trong giai đoạn hiện nay ngày càng nhiều căn bệnh hiểm
nghèo cướp đi sinh mạng của nhiều người. Bộ luật dân sự năm 1995 lần đầu tiên quy
định những quyền nhân thân của cá nhân trong đó có quyền được bảo đảm an toàn về
sức tại Điều 33 BLDS năm 2015 cũng đã kế thừa quyền này. Trong hoạt động chữa
bệnh, quyền sống, quyền được bảo đảm an toàn tính mạng, sức khỏe, thân thể thể hiện qua các yêu cầu:
+ Nếu thực hiện vc gây mê, mổ, cắt bỏ, cấy ghép bộ phận của cơ thể phải được sự
đồng ý của người đó. Đây là những hoạt động tác động trực tiếp lên cơ thể người, có
khả năng mang đến những rủi ro bất lợi cho sức khỏe, tính mạng của người bệnh. Cho
nên cần có sự đồng ý của người bệnh vì sự an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể
của họ là quyền của cá nhân đc pháp luật bảo hộ và ghi nhận. Trong những trường hợp
cần có sự đồng ý của cá nhân nêu trên nhưng cá nhân là người chưa thành niên, mất
NLHVDS, người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi hoặc là bệnh nhân
bất tỉnh thì phải được cha, mẹ, vợ, chồng, con đã thành niên hoặc người giám hộ của
cá nhân đó đồng ý. Quy định này xuất phát từ lợi ích của chính người bệnh, đảm bảo
được việc cứu chữa khẩn cấp, ngay tức thì cho nạn nhân.
3. Quyền được đảm bảo về thân thể.
Thân thể của một cá nhân được đảm bảo an toàn cả khi còn sống hay đã chết. Thể hiện
qua việc bảo đảm sự toàn vẹn và không xâm phạm đối với tử thi. Khi cá nhân chết thì
địa vị pháp lý chấm dứt, tuy nhiên thi thể của người chết vẫn là đối tượng bảo vệ của
pháp luật, nguyên tắc này xuất phát từ nhiều yếu tố khác nhau như: tâm linh, phong
tục, tập quán, tín ngưỡng và đồng thời xuất phát từ ý nghĩa tình cảm và thiêng liêng.
Sự tôn trọng thi thể của cá nhân thể hiện ở việc thi thể của cá nhân được bảo đảm sự
toàn vẹn thông qua các cơ chế bảo vệ của dân sự, hình sự. Tử thi cá nhân chỉ được
khám nghiệm trong các trường hợp
+ cá nhân đã đồng ý cho việc khám nghiệm tử thi của mình trước khi cá nhân đó chết.
Đây là trường hợp không phổ biến trên thực tế vì không ai dự liệu được cái chết của
mình có bất thường để làm yêu cầu khám nghiệm tử thi cho chính mình khi cá nhân đó còn sống.
+ Cha, mẹ, vợ, chồng, con đã thành niên hoặc người dám hộ của cá nhân đồng ý cho
khám nghiệm tử thi của cá nhân khi không có ý kiến của người quá cố trước khi người đó chết.
+ Việc khám nghiệm tử thi đóng một vai trò quan trọng, đặc biệt trong lĩnh vực điều
tra hình sự. Việc khám nghiệm tử thi giúp các cơ quan điều tra xác định thời điểm
chết, nguyên nhân chết, thậm chí thu thập chứng cứ... Qua đó, nhằm xác định, tìm
kiếm hung thủ cũng như hoàn thiện hồ sơ vụ án.
Việc khám nghiệm tử thi đóng một vai trò quan trọng, đặc biệt trong lĩnh vực điều tra
hình sự. Việc khám nghiệm tử thi giúp các cơ quan điều tra xác định thời điểm chết,
nguyên nhân chết, thậm chí thu thập chứng cứ... Qua đó, nhằm xác định, tìm kiếm
hung thủ cũng như hoàn thiện hồ sơ vụ án. II. Thực tiễn áp dụng
Mặc dù về cơ bản, pháp luật nước ta không mâu thuẫn với các tiêu chuẩn quốc tế về
phân quyền và việc bảo đảm các quyền con người trên thực tế phù hợp, thậm chí ở
mức tiến bộ, so với hệ thống quốc tế. Tuy nhiên, trong việc bảo đảm quyền con người
ở nước ta hiện nay vẫn còn một số vấn đề tồn tại nhất định.
Hiện nay, xuất phát từ sự thay đổi trong nhận thức, số lượng người có mong muốn
hiến mô, bộ phận cơ thể, hiến xác ngày càng tăng. Với số lượng người ủng hộ và hiến
mô tạng đang ngày càng gia tăng xuất phát từ cách nhìn nhận cũng như việc thấy được
ý nghĩa lớn lao trong việc hiến mô, tạng cứu người. Các chế độ pháp lý đối với bộ
phận cơ thể người thường hạn chế, khắt khe hơn so với các tài sản thông thường. Bên
cạnh đó đã có rất nhiều trường hợp lợi dụng việc hiến bộ phận cơ thể người để trao
đổi, mua bán, trong đó phổ biến nhất là thận, giác mạc.
Thực tế cho thấy, tình trang vi phạm quyền nhân thân ngày càng gia tăng và đang
không ngừng phát triển với những tình tiết ngày càng phức tạp. Lấy ví dụ đã một thời
gian làm dư luận bức xúc về việc 2 cô gái mại dâm bị một số cán bộ công an thuộc đội
cảnh sát điều tra tội phạm trật tự xã hội thuộc công an thành phố Cẩm Phả tỉnh Quảng
Ninh bắt, chẳng những không được ném cho cái quần, cái áo mặc vào che thân trước
khi lập biên bản, còn bị quát mắng và buộc phải đứng thẳng, ngẩng mặt, dang hai tay
để 4-5 người hành xử quyền lực công chụp ảnh và quay clip trong tình trạng lõa lồ. Và
cái clip đó, sau khi được chuyền tay trong một số cán bộ công an thành phố Cẩm Phả,
đã được tung lên mạng internet. Nhưng đối với những hành vi đó chỉ trừng phạt người
có hành vi xâm phạm nhân phẩm, quyền nhân thân của công dân và người phát tán. Để
không xảy ra nữa những vụ tương tự, cần đảm bảo, trước khi trao quyền lực công vào
tay ai đó, người ấy phải được dạy và nắm chắc cách hành xử đúng mực, đúng quy định
của pháp luật với mọi công dân. Hơn thế, cần củng cố hoặc bổ sung những thiết chế
luật pháp và xã hội hữu hiệu chứ không chỉ trên giấy để đảm bảo quyền nhân thân,
nhân phẩm của công dân được bảo vệ trong mọi hoàn cảnh. Mặc dù đòi hỏi ở mức độ
khác nhau, song việc bảo đảm bất cứ quyền con người nào cũng không thể tách rời các
điều kiện vật chất. Do những khó khăn về kinh tế, ở nước ta hiện nay còn thiếu các
điều kiện để chăm sóc, giải quyết việc làm cho các đối tượng: những người bị nhiễm
HIV/AIDS, những người làm mại dâm, những người vi phạm pháp luật sau khi mãn
hạn tù. Có thể nói, những điểm mới về quyền con người trong Hiến pháp năm 2013 là
cơ sở pháp lý cực kỳ quan trọng, định hướng cho những thay đổi của luật pháp nước ta
tới đây về quyền con người, góp phần làm giảm bớt những sai sót của quá trình thực
thi pháp luật, đặc biệt là do những cá nhân cụ thể trong quá trình thực thi pháp luật gây
ra. Thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử cho thấy, có lúc, có nơi việc tôn trọng và bảo vệ
các quyền con người, nhất là đối với các đối tượng yếu thế trong xã hội vẫn chưa được
tôn trọng đầy đủ, toàn diện.
Từ những vụ việc cụ thể trên, có thể thấy, pháp luật hình sự Việt Nam thiếu những
điều khỏan để trừng phạt đối với hành vi quấy rối tình dục, trực tiếp xâm phạm thân
thể, danh dự, nhân phẩm của con người. Nhưng đã phần nào có sự tham gia của pháp
luật xử phạt một cách nghiêm minh để bảo vệ quyền lợi của người bị hại.
Đối với những lĩnh vực đặc thù, liên quan đến sinh mạng chính trị của con người, nếu
để xảy ra oan sai, hậu quả rất lớn, nhiều trường hợp không thể khắc phục, bồi thường
được. Việc hoàn thiện cơ chế tố tụng hình sự để bảo đảm thực hiện quyền con người,
quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân phải dựa trên nguyên tắc chung của Hiến pháp,
trên cơ sở quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân được bảo đảm.