lOMoARcPSD| 61601299
BÀI LÀM KIỂM TRA GIỮA KỲ MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Câu 1:
Ý nghĩa của việc học tập, nghiên cứu môn Tư tưởng Hồ Chí Minh:
Thnhất, góp phần nâng cao năng lực tư duy lý luận:
Môn học này trang bị cho sinh viên tri thức khoa học về hệ thống quan điểm toàn diện và sâu
sắc về cách mạng Việt Nam nhằm nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí của tưởng Hồ Chí
Minh đối với cách mạng Việt Nam, làm cho tư tưởng của Người ngày càng giữ vai trò chủ đạo
trong đời sống nh thần của thế hệ trViệt Nam; góp phần bồi dưỡng, củng cố lập trường
ởng, quan điểm cách mạng trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin; kiên định với mục êu độc
lập dân chủ gắn liền với chủ nghĩa xã hội; ch cực, chủ động đấu tranh phê phán những quan
điểm sai trái, bài trừ những suy nghĩ lệch lạc, êu cực, phiến diện về chnghĩa Mác Lênin
tưởng Hồ Chí Minh. Tđó biết vận dụng tưởng Hồ Chí Minh vào việc giải quyết các
vấn đề thực ễn trong cuộc sống hướng con người đi đến những tưởng đúng đắn
phù hợp hơn. Ngoài ra, thấm nhuần được các tưởng sẽ nền tảng vững chắc cũng như
mục êu đúng đắn để phát triển đất nước đi lên con đường xã hội chủ nghĩa với bản sắc văn
hóa riêng.
Thứ hai, giáo dục, thực hành đạo đức cách mạng, củng cố niềm n khoa học gắn với trau dồi
nh cảm cách mạng, bồi dưỡng lòng yêu nước:
Qua nghiên cứu môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh, người học có điều kiện ếp cận, hiểu hơn
về con người cũng như sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, người con đại của đất nước
Việt Nam, người cha kính yêu của toàn dân Việt Nam. Hơn hết học tập theo tấm gương
sáng của Người, suốt đời phấn đấu phục vụ Tquốc phục vụ nhân dân. Sinh viên có điều kiện
thực hành đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân,làm một người có ích cho xã hội, có
ích cho cộng đồng, tự hào về đất nước, về chế độ hội chủ nghĩa, về chtịch Hồ Chí Minh
về Đảng Cộng sản Việt Nam. Sinh viên vận dụng vào cuộc sống, tu dưỡng, rèn luyện bản
thân theo tưởng,đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh nhằm nâng cao bản lĩnh chính trị, ý
thức cũng như trách nhiệm của một công dân. Từ đó hoàn thành tốt chức trách của mình và
góp phần thiết thực cho hiệu quả của sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước trong tương
lai theo con đường cách mạng mà Bác và Đảng ta đã lựa chọn cho dân tộc.
Thứ ba, xây dựng, rèn luyện phương pháp và phong cách công tác
Sinh viên điều kiện vận dụng tốt hơn những kiến thức, kỹ năng đã học vào việc xây dựng
phương pháp học tập, tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ về ý thức tu dưỡng, rèn luyện và làm
theo tấm gương của Bác, học tập phong cách duy, diễn đạt, làm việc hay ứng xử,… của
Người. Thế hệ trên phong trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tquốc. Do đó việc hc
lOMoARcPSD| 61601299
tập tưởng Hồ Chí Minh cũng góp phần làm cho đất nước ngày càng đàng hoàng hơn, to
đẹp hơn như khát vọng của chủ tịch Hồ Chí Minh và của mỗi người Việt Nam yêu nước.
Liên hệ bản thân: Trong bất cứ giai đoạn lịch sử nào, thanh niên, sinh viên cũng là lực lượng
hội quan trọng, một trong những nhân tố quyết định tương lai, vận mệnh của đất nước.
một sinh viên đang học tập trên giảng đường đại học, tôi nhận thấy tầm quan trọng của việc
cố gắng học tập, trau dồi kiến thức rèn luyện bản thân, đặc biệt là việc học tập và làm theo
tư tưởng, đạo đức, phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh: luôn tuyệt đối trung thành với chủ
nghĩa Mác Lênin, tưởng Hồ Chí Minh đường lối đổi mới của Đảng; n tưởng kiên
định mục êu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; chấp hành tốt mọi chủ chương đường lối,
quan điểm, chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; ch cực
đấu tranh với các biểu hiện suy thoái về tưởng chính trị, phai nhạt lý tưởng; bảo vệ lẽ phải,
bảo vệ người tốt; gương mẫu thực hiện và có ý thức tuyên truyền, vận động gia đình và nhân
dân thực hiện theo đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Vi
một nền giáo dục ngày càng phát triển, đặc biệt chú trọng vào việc học làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh, tôi n rằng thế hệ trẻ, thanh niên sẽ góp phần ch cực trong
việc xây dựng Việt Nam một đất nước hoà bình, phát triển, ổn định về chính trị, bạn,
đối tác n cậy của các quốc gia trên toàn cầu, mục êu dân giàu, nước mạnh, dân ch,
công bằng văn minh”.
Câu 2:
Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh:
Thnhất, về cơ sở thực ễn:
Thực ễn Việt Nam cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX: Tgiữa thế kỉ XIX, thực dân Pháp đã xâm
lược Việt Nam, biến nước ta trở thành một nước thuộc địa nửa phong kiến. Do chính sách
thống trị tàn bạo, dã man của thực dân Pháp đối với nhân dân Việt Nam, hàng loạt các phong
trào yêu nước chống thực dân Pháp với những khuynh hướng chính trị phong kiến, dân chủ
sản... đã nổ ra nhưng tất cả đều thất bại. Nguyên nhân bản, sâu xa do sự bế tắc, khủng
hoảng về đường lối lãnh đạo cách mạng. Lịch sử Việt Nam đặt ra yêu cầu cần một đường
lối cách mạng phù hợp để giải quyết vấn đề thực ễn đặt ra.
Thực ễn thế giới cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX: Chnghĩa bản từ giai đoạn tự do cạnh
tranh chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quc đã tăng cường xâm lược nhiều nước dẫn đến
nh trạng phần lớn các nước ở Á, Phi, Mỹ Lanh trở thành thuộc địa, phụ thuộc của các nước
đế quốc. Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc các nước đã nổ ra hết sức rầm rộ nhưng
đều lần lượt thất bại. Mâu thuẫn giữa các nước đế quốc các dân tộc thuộc địa ngày càng
gay gắt. Cách mạng Tháng Mười Nga thành công (1917) đã mở ra một thời đại mới: Thời đại
quá độ từ chnghĩa bản lên chnghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Sự kiện này ảnh
ởng mạnh mẽ đến phong trào cách mạng thế giới đồng thời tác động mạnh mẽ đến nhận
thức của các nhà cách mạng trong đó có Nguyễn Ái Quốc trong việc lựa chọn con đường cách
lOMoARcPSD| 61601299
mạng cho dân tộc mình. Sự ra đời của Quốc tế Cộng sản (1919) đã góp phần truyền chủ
nghĩa Mác – Lênin và thúc đẩy sự ra đời của các đảng cộng sản trên thế giới.
Thứ hai, về cơ sở lý luận:
Một là giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam:
Chủ nghĩa yêu nước là sợi chỉ đỏ xuyên suốt lịch sử dân tộc Việt Nam. Đây chính là điểm xuất
phát và động lực thúc đẩy Nguyễn Tất Thành ra đi m đường cứu nước đến với chủ nghĩa
Mác Lênin. Truyền thống đoàn kết cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết
dân tộc. Những giá trị truyền thống tốt đẹp khác của dân tộc: ý chí, kiên cường, bất khuất,
tương thân, tương ái; nhân nghĩa, hào hiệp, yêu thương con người; lạc quan... đã được Người
kế thừa, phát huy và nâng lên tầm cao mới, chất lượng mới.
Hai là nh hoa văn hóa nhân loại:
Tinh hoa n hóa phương Đông: V Nho giáo, Hồ Chí Minh kế thừa những giá trị ch cực: triết
hành động; tưởng thân dân; hành đạo; nhân, nghĩa, lễ, tri, n, tu thân... Tư tưởng của
Lão giáo, Mặc Tử, Hàn Phi Tử, Quản Tthời cổ đại Trung Quốc hay tư tưởng Tam dân của n
cách mạng
Tôn Trung Sơn cũng ảnh hưởng tới sự hình thành và phát triển tưởng Hồ Chí Minh một
số khía cạnh khác nhau. VPhật giáo, Hồ Chí Minh ếp thu, kế thừa ởng độ lượng, khoan
dung, bình đẳng... khuyến khích làm việc thiện, chống điều ác; dân chủ, chống phân biệt đẳng
cấp...
Tinh hoa văn hóa phương Tây: Kế thừa, phát triển những giá trị tư tưởng về nhân quyền, dân
quyn trong Tuyên ngôn độc lập của Cách mạng Mỹ (1776), Tuyên ngôn Nhân quyền Dân
quyn của Cách mạng Pháp (1791). Nghiên cứu ếp thu những tưởng về dân chủ, tdo,
bình đẳng, bác ái của các nhà tưởng khai sáng như Voltaire, Rousseau, Montesquieu,
J.Locke... hay triết lý của Thiên chúa giáo...
Ba là chủ nghĩa Mác – Lênin:
Là cơ sở lý luận quyết định bản chất cách mạng và khoa học tư tưởng Hồ Chí Minh. Người đã
vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin vào điều kiện cụ thcủa cách mạng
Việt Nam, giải quyết vấn đề khủng hoảng về đường lối cứu nước giải phóng dân tộc. Chủ
nghĩa Mác – Lênin là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận trong nhận thức và hoạt động
cách mạng của Hồ Chí Minh.
Thứ ba, nhân tố chủ quan Hồ Chí Minh:
lOMoARcPSD| 61601299
Một là phẩm chất Hồ Chí Minh:
Người kế thừa và phát triển những phẩm chất tốt đẹp của dân tộc lên một tầm cao mới. Hồ
Chí Minh là kết nh những giá trị tốt đẹp nhất của dân tộc Việt Nam được hun đúc qua hàng
ngàn năm lịch sử dựng giữ ớc. Người nguồn trí tuệ lớn, tưởng cao cả hoài
bão cứu dân, cứu nước thoát khỏi cảnh lầm than, cực, khát vọng tự ờng, phát triển
để đuổi kịp các nước ên ến trên thế giới, khả năng duy độc lập, tự chsáng tạo,
giàu nh phê phán, đổi mới cách mạng. Người không vận dụng những học thuyết, tưởng
của người đi trước một cách giáo điều, phụ thuộc, bắt chước tư tưởng, hành động của người
khác luôn sự vận dụng sáng tạo, sự bsung phát triển để giải quyết nhiệm vụ
cách mạng đặt ra. Hồ Chí Minh người suốt đời tận trung với nước, tận hiểu với dân, người
suốt đời đấu tranh cho sự nghiệp cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam và của cách mạng
thế giới.
Hai là năng lực hoạt động, tổng kết thực ễn và phát triển lý luận:
Hồ Chí Minh là người có vốn sống và thực ễn hoạt động cách mạng phong phú, là người
tầm nhìn chiến lược, bao quát thời đại, đã đưa cách mạng Việt Nam hòa vào dòng chảy chung
của cách mạng thế giới, người năng lực tổng kết thực ễn kịp thời, năng lực dự báo
tương lai chính xác để cùng toàn Đảng, toàn quân, toàn dân Việt Nam đi tới thắng lợi. Người
đã sống, học tập, hoạt động, công tác nhiều nước trên thế gii. Người hiểu sâu sắc chủ nghĩa
đế quốc, chủ nghĩa thực dân chế độ thực dân, hiểu sức mạnh của nhân dân các nước thuộc
địa. Người trực ếp tham gia hoạt động trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế nên
có kiến thức thực ền phong phú.
Quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh:
Thnhất, giai đoạn trước năm 1911:
Hồ Chí Minh ếp thu truyền thống yêu nước của gia đình, quê hương, dân tộc. Người chứng
kiến cuộc sống nghèo khổ, bị áp bức, bóc lột của nhân dân ta ới sự cai trị của thực dân
Pháp. Người rất khâm phục nh thần yêu nước của các bậc ền bối lúc bấy giờ nhưng không
tán thành con đường giải phóng dân tộc của họ. Ny 5/6/1911, Hồ Chí Minh đã đi ra thế gii
để m kiếm con đường cứu nước, cứu dân từng bước hiện thực hóa lý tưởng của Người.
Thứ hai, giai đoạn từ năm 1911 đến năm 1920:
Trong thời gian từ năm 1911 đến 1917, Hồ Chí Minh sống. Làm việc, nghiên cứu luận
tham gia hoạt động cách mạng nhiều nước, đặc biệt tại Pháp. Năm 1919, Người gia nhập
Đảng Xã hội Pháp, thay mặt những người yêu nước Pháp, Người gởi bản Yêu sách của nhân
dân An Nam đến Hội nghị Véc-xây (18/6/1919) đòi các quyền tự do cơ bản cho nhân dân An
Nam. Tháng 7/1920, Người đọc bản thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân
lOMoARcPSD| 61601299
tộc vấn đề thuộc địa của Lênin. Sau sự kiện này, Người n theo Lênin con đường cách
mạng sản. Tháng 12/1920, Người tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp và bphiếu tán
thành Quốc tế III và trở thành người cộng sản Việt Nam đầu ên.
Thứ ba, giai đoạn từ năm 1920 đến năm 1930:
Trong thời gian này, Hồ Chí Minh có nhiều hoạt động thực ễn Pháp, Liên Xô, Trung Quốc,
Thái Lan. Vluận, Người viết nhiều bài báo và các tác phẩm như: Bản ản chế độ thực dân
Pháp (1925), Đường Cách mạng (Đường Cách mệnh) (1927), Chánh cương vắn tắt, Sách lược
vắn tắt (2/1930).
Hồ Chí Minh đẩy mạnh hoạt động lý luận chính trị và tổ chức, chuẩn bị các điều kiện cho việc
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam để lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Thông qua báo chí và
các hoạt động thực ễn, Người ch cực truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin o phong trào công
nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Qua những hoạt động trên, tư tưởng Hồ Chí Minh về
cách mạng Việt Nam bản đã hình thành về đường lối, phương pháp cách mạng, vtổ chức,
y dựng Đảng...
Thứ tư, giai đoạn từ năm 1930 đến năm 1941:
Với những quan điểm đúng đắn sáng tạo thể hiện trong Chánh cương vắn tắt, Sách lược
vẫn tắt được nêu ra trong Hội nghthành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (2/1930), Nguyễn Ái
Quốc bị một số đồng chí trong Quốc tế Cộng sản quan điểm khác biệt phê phán “hữu
khuynh”, dân tộc chủ nghĩa” phải ến hành kiểm điểm, sửa chữa. Hội nghị Trung ương
Đảng tháng 10/1930 cũng cho rằng Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản đầu năm 1930 do
Nguyễn Ái Quốc chủ trì có nhiều sai lầm, khuyết điểm về đường lối và buộc phải kiểm điểm.
Tháng 6/1931 đến tháng 8/1932, Người bị bắt giam vào nhà của thực dân Anh tại Hồng
Kông (Trung Quốc) đối mặt với rất nhiều nguy hiểm. Đầu năm 1941, Người trở về c
hoạt động chủ trì Hội nghị Trung ương Đảng lần thVIII (5/1941), Đảng Cộng sản Đông
Dương đã khẳng định đường lối, phương pháp cách mạng được Nguyễn Ái Quốc nêu ra trong
Cương lĩnh chính trị đầu ên của Đảng là đúng đắn và phù hợp.
Thứ năm, giai đoạn từ năm 1941 đến năm 1969:
Người đề ra chiến lược, sách lược đúng đắn, lãnh đạo Đảng và nhân dân ta trải qua thời khó
khăn tựa “ngàn cân treo sợi tóc” sau Cách mạng Tháng Tám (1945). Người tham gia hoạch
định đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kì tự lực cánh sinh chống thực dân
Pháp, đế quc Mỹ xâm lược; hoàn thiện hệ thống quan điểm cơ bản về cách mạng Việt Nam
trên nhiều lĩnh vực: chính trị, kinh tế, quân sự, đối ngoại, đạo đức, văn hóa...
Bản chất khoa học, cách mạng và nhân văn trong tư tưởng Hồ Chí Minh:
lOMoARcPSD| 61601299
Thnhất, tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ tư tưởng khoa học:
Tư tưởng Hồ Chí Minh sch hợp nh hoa trí tuệ của dân tộc nhân loại (Đông và Tây),
trong đó nội dung cốt lõi Chủ nghĩa Mác- Nin- một học thuyết kết nh thành tựu khoa
học của nhân loại ở thi kỳ cận đại.
Tư tưởng Hồ Chí Minh đồng thời cũng sự tổng kết kinh nghiệm đấu tranh và thắng lợi của
các phong trào yêu ớc cách mạng của nhân dân Việt Nam, đặc biệt từ khi Đảng. T
thực ễn, Hồ Chí Minh đúc kết thành luận, rồi lại dựa vào thực ễn cách mạng để kim
nghiệm lý luận, do đó nó là một tư tưởng khoa học.
Tư tưởng Hồ Chí Minh giá trị khoa học đã phản ánh được những vấn đề thuộc về bản
chất và quy luật của cách mạng Việt Nam từ độc lập dân tộc đi lên chủ nghĩa xã hội. Nhiều
mệnh đề luận của Hồ Chí Minh có giá trị khái quát như một chânkhoa học: “Không
gì quý hơn độc lập tự do”,
“Chủ nghĩa thực dân là con đỉa 2 vòi”,
“Muốn giải phóng, các dân tộc thuộc địa chỉ có thể trông cậy vào bản thân mình”, “phải đem
sức ra mà giải phóng cho ta”,
“Chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của đất nước”,
Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không có gì mạnh bằng lực lượng
đoàn kết của nhân dân. Trong hội không vẻ vang, tốt đẹp bằng phục vụ cho lợi ích của
nhân dân... Có dân là có tất cả”,
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”,
“Đạo đức là cái gốc của người cách mạng,
“Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng mới hoàn thành được nhiệm vụ
cách mạng vẻ vang,
“Dân chủ của quý báu nhất của nhân dân”. “Nước ta nước dân chủ, địa vị cao nhất
dân, dân là chủ”. Thực hành dân chủ cái chìa khoá vạn năng có thể gii quyết mọi khó
khăn”, “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”, v.v...
thể nói: đó những mệnh để chứa đựng những chân phổ biến, có giá trị vĩnh hằng,
được diễn đạt giản dị nhưng súc ch như những châm ngôn, góp phần làm phong pthêm
cho lý luận Mác- Lênin. Vì vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành tài sản nh thần vô giá của
dân tộc và thuộc về kho báu của nhân loại.
Thứ hai, tư tưởng Hồ Chi Minh là một học thuyết cách mạng:
Tư tưởng Hồ Chí Minh ra đời không phải như là sản phẩm suy nghiệm chủ quan của một nhà
hiền triết từ yêu cầu của thực ễn cách mạng Việt Nam nhằm giải đáp những vấn đề do
thực ễn cách mạng đặt ra trong thế kỷ 20: giải phóng dân tộc, phát triển đất nước, đem lại
tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Đó là một học thuyết cách mạng.
lOMoARcPSD| 61601299
Sau khi m tòi, xác lập được con đường chân chính cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân
tộc, Hồ Chí Minh đã “trở về ớc, đi vào quần chúng, tuyên truyền họ, thức tỉnh họ, tổ chc
họ, đưa họ ra đấu tranh”. Tư tưởng Hồ Chí Minh hướng vào hành động cải tạo xã hội, cải tạo
con người, đổi đời cho dân tộc, “biến người lệ thành người tự do”. Tđó, Người bắt tay
vào mở lớp huấn luyện, đào tạo những hạt giống cho cách mạng theo một đường lối mới, một
phương pháp cách mạng mới, đưa họ vào rèn luyện, thử thách trong đấu tranh.
Người lập ra các tổ chức cách mạng, từ thấp đến cao: từ Hội Việt Nam thanh niên cách mạng
đến Đảng Cộng sản Việt Nam; từ các hội cứu quốc có nh chất quần chúng ở địa phương đến
Mặt trận Việt Minh toàn quốc,... Trên sở đó, Người đưa đường lối phương pháp cách
mạng mới thâm nhập vào phong trào ng nhân và phong trào yêu nước, biến tưởng thành
sức mạnh vật chất, đưa cách mạng đến thành công, kháng chiến đến thắng lợi, từng bước mở
mang đất nước và nâng cao đời sống của nhân dân.
Thứ ba, tư tưởng Hồ Chí Minh có nh nhân văn sâu sắc:
Hồ Chí Minh người cộng sản một người cộng sản Việt Nam đã thực hiện được sự kết
hợp nhuần nhuyễn những giá trị Á Đông với các giá trị phương Tây. Đi nhiều, hiểu rộng, biết
mình, biết người, Hồ Chí Minh không hề chút thoáng gợn nào của thói “kiêu ngạo cộng
sản”; trái lại, Người có khả năng dung hoà uyển chuyển, biết truy m cái tương đồng, bảo lưu
điều dị biệt. Kế thừa truyền thống khoan dung nhân ái Việt Nam, Hồ Chí Minh luôn luôn
ứng xử mềm mỏng trong đối thoại về chính trị cũng nvăn hoá, không bao giờ tỏ ra cứng
nhắc, cực đoan.
Người từng nói: “Đạo đức phương Đông và phương Tây đều tán dương một triết lý: Kỷ sở bất
dục, vật thì ư nhân”. (Trong kinh Cựu ước Tân ước của đốc giáo cũng một lời răn
tương tự).
Trong phương pháp duy nói chung, trong giao ếp, đối thoại quốc tế nói riêng, kể cả với
đất nước của kthù đang xâm lược nước ta, Hồ Chí Minh vẫn cái nhìn phân biệt: lên án
bọn thực dân, đế quốc hiếu chiến, nhưng yêu mến trân trọng nhân dân yêu chuộng hoà
bình, công những giá trtrong nền văn hoá lâu đời của họ. Trong mỗi vấn đề, Người
thường nhìn vào mặt ưu điểm, mặt ch cực, m ra cái hay, cái tốt để học, học kẻ thù để chiến
thắng kẻ thù. Hồ Chí Minh hết sức xa lạ với lối tư duy phiến diện, cực đoan một thời chúng ta
dễ mắc: cái của phe ta cũng tốt, cái gì của phe địch cũng xấu; địch chê ta, đó là ta đúng, nếu
địch khen ta thì ta phải coi chừng!
Vì vậy, người Cộng sản Hồ Chí Minh, ngay trong khi đang phải chiến đấu chống lại bọn thực
dân xâm lược Pháp, vẫn không ngần ngại ca ngợi truyền thống văn hoá dân chủ, ến bcủa
Pháp, biết dùng văn hoá của đối phương để chiến thắng đối phương. Hồ Chí Minh từng nói
về những đức nh tốt của người Pháp như sau: “Nói chung, những người Pháp đều yêu
chuộng đức lành như Tdo, Bình đẳng, Bác ái. Phần đông người Pháp nh hào hiệp... Thấy
việc phải thì họ làm, không quản mất ng, tốn của. Họ đã cho trái thì anh em ruột
thịt họ cũng phản đối đến cùng. Họ đã nhận là phải thì dù là người dưng, nước lã, thì họ cũng
lOMoARcPSD| 61601299
hết sức giúp giùm... Người Pháp lại vui nh, dễ làm quen. Nói dăm ba câu chuyện ý hợp
tâm đầu thì liền trở nên bạn tốt.
Trong thư gửi Giêm Biêcnơ, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ năm 1945, Hồ Chí Minh bày tỏ ý
muốn được gửi 50 thanh niên Việt Nam sang Mỹ để học hỏi về kỹ thuật, nông nghiệp cũng
như các lĩnh vực chuyên môn khác. Người “mong muốn tạo được mối quan hệ với nhân dân
Mỹ những người lập trường cao quý đối với những ý tưởng cao thượng về công
nhân bản quốc tế cùng những thành tựu kỹ thuật hiện đại... đã có sức hấp dẫn mạnh mẽ đối
với giới trí thức Việt Nam”. Tiêu biểu nhất cho nh thần khoan dung văn hoá Hồ Chí Minh phải
kđến việc Người đã không chút e ngại khi trích dẫn hai bản Tuyên ngôn Độc lập 1776 của
Hoa Kỳ và Tuyên ngôn Nhân quyền Dân quyền 1793 của Cộng hoà Pháp làm lời mở đầu cho
bản Tuyên ngôn Độc lập 1945 của Việt Nam, khẳng định đó những chân bất hủ, “những
lời lẽ phải không ai chối cãi được”. Hồ Chí Minh trân trọng mọi giá trị văn hoá của nhân loại,
không chút kỳ thị, biệt phái. Đó chính duy cần thời kỳ mở cửa, hội nhập, toàn cầu
hoá hiện nay.
HẾT

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61601299
BÀI LÀM KIỂM TRA GIỮA KỲ MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH Câu 1:
Ý nghĩa của việc học tập, nghiên cứu môn Tư tưởng Hồ Chí Minh:
Thứ nhất, góp phần nâng cao năng lực tư duy lý luận:
Môn học này trang bị cho sinh viên tri thức khoa học về hệ thống quan điểm toàn diện và sâu
sắc về cách mạng Việt Nam nhằm nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí của tư tưởng Hồ Chí
Minh đối với cách mạng Việt Nam, làm cho tư tưởng của Người ngày càng giữ vai trò chủ đạo
trong đời sống tinh thần của thế hệ trẻ Việt Nam; góp phần bồi dưỡng, củng cố lập trường tư
tưởng, quan điểm cách mạng trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin; kiên định với mục tiêu độc
lập dân chủ gắn liền với chủ nghĩa xã hội; tích cực, chủ động đấu tranh phê phán những quan
điểm sai trái, bài trừ những suy nghĩ lệch lạc, tiêu cực, phiến diện về chủ nghĩa Mác – Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh. Từ đó biết vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc giải quyết các
vấn đề thực tiễn trong cuộc sống và hướng con người đi đến những tư tưởng đúng đắn và
phù hợp hơn. Ngoài ra, thấm nhuần được các tư tưởng sẽ có nền tảng vững chắc cũng như
mục tiêu đúng đắn để phát triển đất nước đi lên con đường xã hội chủ nghĩa với bản sắc văn hóa riêng.
Thứ hai, giáo dục, thực hành đạo đức cách mạng, củng cố niềm tin khoa học gắn với trau dồi
tình cảm cách mạng, bồi dưỡng lòng yêu nước:
Qua nghiên cứu môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh, người học có điều kiện tiếp cận, hiểu rõ hơn
về con người cũng như sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, người con vĩ đại của đất nước
Việt Nam, người cha kính yêu của toàn dân Việt Nam. Hơn hết là học tập theo tấm gương
sáng của Người, suốt đời phấn đấu phục vụ Tổ quốc phục vụ nhân dân. Sinh viên có điều kiện
thực hành đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân,làm một người có ích cho xã hội, có
ích cho cộng đồng, tự hào về đất nước, về chế độ xã hội chủ nghĩa, về chủ tịch Hồ Chí Minh
và về Đảng Cộng sản Việt Nam. Sinh viên vận dụng vào cuộc sống, tu dưỡng, rèn luyện bản
thân theo tư tưởng,đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh nhằm nâng cao bản lĩnh chính trị, ý
thức cũng như trách nhiệm của một công dân. Từ đó hoàn thành tốt chức trách của mình và
góp phần thiết thực cho hiệu quả của sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước trong tương
lai theo con đường cách mạng mà Bác và Đảng ta đã lựa chọn cho dân tộc.
Thứ ba, xây dựng, rèn luyện phương pháp và phong cách công tác
Sinh viên có điều kiện vận dụng tốt hơn những kiến thức, kỹ năng đã học vào việc xây dựng
phương pháp học tập, tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ về ý thức tu dưỡng, rèn luyện và làm
theo tấm gương của Bác, học tập phong cách tư duy, diễn đạt, làm việc hay ứng xử,… của
Người. Thế hệ trẻ là tiên phong trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Do đó việc học lOMoAR cPSD| 61601299
tập tư tưởng Hồ Chí Minh cũng góp phần làm cho đất nước ngày càng đàng hoàng hơn, to
đẹp hơn như khát vọng của chủ tịch Hồ Chí Minh và của mỗi người Việt Nam yêu nước.
Liên hệ bản thân: Trong bất cứ giai đoạn lịch sử nào, thanh niên, sinh viên cũng là lực lượng
xã hội quan trọng, một trong những nhân tố quyết định tương lai, vận mệnh của đất nước. Là
một sinh viên đang học tập trên giảng đường đại học, tôi nhận thấy tầm quan trọng của việc
cố gắng học tập, trau dồi kiến thức và rèn luyện bản thân, đặc biệt là việc học tập và làm theo
tư tưởng, đạo đức, phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh: luôn tuyệt đối trung thành với chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối đổi mới của Đảng; tin tưởng và kiên
định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; chấp hành tốt mọi chủ chương đường lối,
quan điểm, chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tích cực
đấu tranh với các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, phai nhạt lý tưởng; bảo vệ lẽ phải,
bảo vệ người tốt; gương mẫu thực hiện và có ý thức tuyên truyền, vận động gia đình và nhân
dân thực hiện theo đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Với
một nền giáo dục ngày càng phát triển, đặc biệt là chú trọng vào việc học và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh, tôi tin rằng thế hệ trẻ, thanh niên sẽ góp phần tích cực trong
việc xây dựng Việt Nam là một đất nước hoà bình, phát triển, ổn định về chính trị, là bạn, là
đối tác tin cậy của các quốc gia trên toàn cầu, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng văn minh”. Câu 2:
Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh:
Thứ nhất, về cơ sở thực tiễn:
Thực tiễn Việt Nam cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX: Từ giữa thế kỉ XIX, thực dân Pháp đã xâm
lược Việt Nam, biến nước ta trở thành một nước thuộc địa nửa phong kiến. Do chính sách
thống trị tàn bạo, dã man của thực dân Pháp đối với nhân dân Việt Nam, hàng loạt các phong
trào yêu nước chống thực dân Pháp với những khuynh hướng chính trị phong kiến, dân chủ
tư sản... đã nổ ra nhưng tất cả đều thất bại. Nguyên nhân cơ bản, sâu xa là do sự bế tắc, khủng
hoảng về đường lối lãnh đạo cách mạng. Lịch sử Việt Nam đặt ra yêu cầu cần có một đường
lối cách mạng phù hợp để giải quyết vấn đề thực tiễn đặt ra.
Thực tiễn thế giới cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX: Chủ nghĩa tư bản từ giai đoạn tự do cạnh
tranh chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc đã tăng cường xâm lược nhiều nước dẫn đến
tình trạng phần lớn các nước ở Á, Phi, Mỹ Latinh trở thành thuộc địa, phụ thuộc của các nước
đế quốc. Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước đã nổ ra hết sức rầm rộ nhưng
đều lần lượt thất bại. Mâu thuẫn giữa các nước đế quốc và các dân tộc thuộc địa ngày càng
gay gắt. Cách mạng Tháng Mười Nga thành công (1917) đã mở ra một thời đại mới: Thời đại
quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Sự kiện này ảnh
hưởng mạnh mẽ đến phong trào cách mạng thế giới đồng thời tác động mạnh mẽ đến nhận
thức của các nhà cách mạng trong đó có Nguyễn Ái Quốc trong việc lựa chọn con đường cách lOMoAR cPSD| 61601299
mạng cho dân tộc mình. Sự ra đời của Quốc tế Cộng sản (1919) đã góp phần truyền bá chủ
nghĩa Mác – Lênin và thúc đẩy sự ra đời của các đảng cộng sản trên thế giới.
Thứ hai, về cơ sở lý luận:
Một là giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam:
Chủ nghĩa yêu nước là sợi chỉ đỏ xuyên suốt lịch sử dân tộc Việt Nam. Đây chính là điểm xuất
phát và là động lực thúc đẩy Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước và đến với chủ nghĩa
Mác – Lênin. Truyền thống đoàn kết là cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết
dân tộc. Những giá trị truyền thống tốt đẹp khác của dân tộc: ý chí, kiên cường, bất khuất,
tương thân, tương ái; nhân nghĩa, hào hiệp, yêu thương con người; lạc quan... đã được Người
kế thừa, phát huy và nâng lên tầm cao mới, chất lượng mới.
Hai là tinh hoa văn hóa nhân loại:
Tinh hoa văn hóa phương Đông: Về Nho giáo, Hồ Chí Minh kế thừa những giá trị tích cực: triết
lí hành động; tư tưởng thân dân; hành đạo; nhân, nghĩa, lễ, tri, tín, tu thân... Tư tưởng của
Lão giáo, Mặc Tử, Hàn Phi Tử, Quản Tử thời cổ đại Trung Quốc hay tư tưởng Tam dân của nhà cách mạng
Tôn Trung Sơn cũng ảnh hưởng tới sự hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh ở một
số khía cạnh khác nhau. Về Phật giáo, Hồ Chí Minh tiếp thu, kế thừa tư tưởng độ lượng, khoan
dung, bình đẳng... khuyến khích làm việc thiện, chống điều ác; dân chủ, chống phân biệt đẳng cấp...
Tinh hoa văn hóa phương Tây: Kế thừa, phát triển những giá trị tư tưởng về nhân quyền, dân
quyền trong Tuyên ngôn độc lập của Cách mạng Mỹ (1776), Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân
quyền của Cách mạng Pháp (1791). Nghiên cứu và tiếp thu những tư tưởng về dân chủ, tự do,
bình đẳng, bác ái của các nhà tư tưởng khai sáng như Voltaire, Rousseau, Montesquieu,
J.Locke... hay triết lý của Thiên chúa giáo...
Ba là chủ nghĩa Mác – Lênin:
Là cơ sở lý luận quyết định bản chất cách mạng và khoa học tư tưởng Hồ Chí Minh. Người đã
vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của cách mạng
Việt Nam, giải quyết vấn đề khủng hoảng về đường lối cứu nước và giải phóng dân tộc. Chủ
nghĩa Mác – Lênin là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận trong nhận thức và hoạt động
cách mạng của Hồ Chí Minh.
Thứ ba, nhân tố chủ quan Hồ Chí Minh: lOMoAR cPSD| 61601299
Một là phẩm chất Hồ Chí Minh:
Người kế thừa và phát triển những phẩm chất tốt đẹp của dân tộc lên một tầm cao mới. Hồ
Chí Minh là kết tinh những giá trị tốt đẹp nhất của dân tộc Việt Nam được hun đúc qua hàng
ngàn năm lịch sử dựng và giữ nước. Người có nguồn trí tuệ lớn, có lý tưởng cao cả và hoài
bão cứu dân, cứu nước thoát khỏi cảnh lầm than, cơ cực, có khát vọng tự cường, phát triển
để đuổi kịp các nước tiên tiến trên thế giới, có khả năng tư duy độc lập, tự chủ và sáng tạo,
giàu tính phê phán, đổi mới và cách mạng. Người không vận dụng những học thuyết, tư tưởng
của người đi trước một cách giáo điều, phụ thuộc, bắt chước tư tưởng, hành động của người
khác mà luôn có sự vận dụng sáng tạo, có sự bổ sung và phát triển để giải quyết nhiệm vụ
cách mạng đặt ra. Hồ Chí Minh là người suốt đời tận trung với nước, tận hiểu với dân, là người
suốt đời đấu tranh cho sự nghiệp cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam và của cách mạng thế giới.
Hai là năng lực hoạt động, tổng kết thực tiễn và phát triển lý luận:
Hồ Chí Minh là người có vốn sống và thực tiễn hoạt động cách mạng phong phú, là người có
tầm nhìn chiến lược, bao quát thời đại, đã đưa cách mạng Việt Nam hòa vào dòng chảy chung
của cách mạng thế giới, là người có năng lực tổng kết thực tiễn kịp thời, năng lực dự báo
tương lai chính xác để cùng toàn Đảng, toàn quân, toàn dân Việt Nam đi tới thắng lợi. Người
đã sống, học tập, hoạt động, công tác ở nhiều nước trên thế giới. Người hiểu sâu sắc chủ nghĩa
đế quốc, chủ nghĩa thực dân và chế độ thực dân, hiểu sức mạnh của nhân dân các nước thuộc
địa. Người trực tiếp tham gia hoạt động trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế nên
có kiến thức thực tiền phong phú.
Quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh:
Thứ nhất, giai đoạn trước năm 1911:
Hồ Chí Minh tiếp thu truyền thống yêu nước của gia đình, quê hương, dân tộc. Người chứng
kiến cuộc sống nghèo khổ, bị áp bức, bóc lột của nhân dân ta dưới sự cai trị của thực dân
Pháp. Người rất khâm phục tinh thần yêu nước của các bậc tiền bối lúc bấy giờ nhưng không
tán thành con đường giải phóng dân tộc của họ. Ngày 5/6/1911, Hồ Chí Minh đã đi ra thế giới
để tìm kiếm con đường cứu nước, cứu dân từng bước hiện thực hóa lý tưởng của Người.
Thứ hai, giai đoạn từ năm 1911 đến năm 1920:
Trong thời gian từ năm 1911 đến 1917, Hồ Chí Minh sống. Làm việc, nghiên cứu lý luận và
tham gia hoạt động cách mạng ở nhiều nước, đặc biệt tại Pháp. Năm 1919, Người gia nhập
Đảng Xã hội Pháp, thay mặt những người yêu nước ở Pháp, Người gởi bản Yêu sách của nhân
dân An Nam đến Hội nghị Véc-xây (18/6/1919) đòi các quyền tự do cơ bản cho nhân dân An
Nam. Tháng 7/1920, Người đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân lOMoAR cPSD| 61601299
tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin. Sau sự kiện này, Người tin theo Lênin và con đường cách
mạng vô sản. Tháng 12/1920, Người tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp và bỏ phiếu tán
thành Quốc tế III và trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên.
Thứ ba, giai đoạn từ năm 1920 đến năm 1930:
Trong thời gian này, Hồ Chí Minh có nhiều hoạt động thực tiễn ở Pháp, Liên Xô, Trung Quốc,
Thái Lan. Về lý luận, Người viết nhiều bài báo và các tác phẩm như: Bản ản chế độ thực dân
Pháp (1925), Đường Cách mạng (Đường Cách mệnh) (1927), Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt (2/1930).
Hồ Chí Minh đẩy mạnh hoạt động lý luận chính trị và tổ chức, chuẩn bị các điều kiện cho việc
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam để lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Thông qua báo chí và
các hoạt động thực tiễn, Người tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào phong trào công
nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Qua những hoạt động trên, tư tưởng Hồ Chí Minh về
cách mạng Việt Nam cơ bản đã hình thành về đường lối, phương pháp cách mạng, về tổ chức, xây dựng Đảng...
Thứ tư, giai đoạn từ năm 1930 đến năm 1941:
Với những quan điểm đúng đắn và sáng tạo thể hiện trong Chánh cương vắn tắt, Sách lược
vẫn tắt được nêu ra trong Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (2/1930), Nguyễn Ái
Quốc bị một số đồng chí trong Quốc tế Cộng sản có quan điểm khác biệt phê phán là “hữu
khuynh”, “dân tộc chủ nghĩa” và phải tiến hành kiểm điểm, sửa chữa. Hội nghị Trung ương
Đảng tháng 10/1930 cũng cho rằng Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản đầu năm 1930 do
Nguyễn Ái Quốc chủ trì có nhiều sai lầm, khuyết điểm về đường lối và buộc phải kiểm điểm.
Tháng 6/1931 đến tháng 8/1932, Người bị bắt giam vào nhà tù của thực dân Anh tại Hồng
Kông (Trung Quốc) và đối mặt với rất nhiều nguy hiểm. Đầu năm 1941, Người trở về nước
hoạt động và chủ trì Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ VIII (5/1941), Đảng Cộng sản Đông
Dương đã khẳng định đường lối, phương pháp cách mạng được Nguyễn Ái Quốc nêu ra trong
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng là đúng đắn và phù hợp.
Thứ năm, giai đoạn từ năm 1941 đến năm 1969:
Người đề ra chiến lược, sách lược đúng đắn, lãnh đạo Đảng và nhân dân ta trải qua thời kì khó
khăn tựa “ngàn cân treo sợi tóc” sau Cách mạng Tháng Tám (1945). Người tham gia hoạch
định đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kì và tự lực cánh sinh chống thực dân
Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược; hoàn thiện hệ thống quan điểm cơ bản về cách mạng Việt Nam
trên nhiều lĩnh vực: chính trị, kinh tế, quân sự, đối ngoại, đạo đức, văn hóa...
Bản chất khoa học, cách mạng và nhân văn trong tư tưởng Hồ Chí Minh: lOMoAR cPSD| 61601299
Thứ nhất, tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ tư tưởng khoa học:
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự tích hợp tinh hoa trí tuệ của dân tộc và nhân loại (Đông và Tây),
trong đó nội dung cốt lõi là Chủ nghĩa Mác- Lê Nin- một học thuyết kết tinh thành tựu khoa
học của nhân loại ở thời kỳ cận đại.
Tư tưởng Hồ Chí Minh đồng thời cũng là sự tổng kết kinh nghiệm đấu tranh và thắng lợi của
các phong trào yêu nước và cách mạng của nhân dân Việt Nam, đặc biệt từ khi có Đảng. Từ
thực tiễn, Hồ Chí Minh đúc kết thành lý luận, rồi lại dựa vào thực tiễn cách mạng để kiểm
nghiệm lý luận, do đó nó là một tư tưởng khoa học.
Tư tưởng Hồ Chí Minh có giá trị khoa học vì đã phản ánh được những vấn đề thuộc về bản
chất và quy luật của cách mạng Việt Nam từ độc lập dân tộc đi lên chủ nghĩa xã hội. Nhiều
mệnh đề lý luận của Hồ Chí Minh có giá trị khái quát như một chân lý khoa học: “Không có
gì quý hơn độc lập tự do”,
“Chủ nghĩa thực dân là con đỉa 2 vòi”,
“Muốn giải phóng, các dân tộc thuộc địa chỉ có thể trông cậy vào bản thân mình”, “phải đem
sức ra mà giải phóng cho ta”,
“Chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của đất nước”,
“Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không có gì mạnh bằng lực lượng
đoàn kết của nhân dân. Trong xã hội không gì vẻ vang, tốt đẹp bằng phục vụ cho lợi ích của
nhân dân... Có dân là có tất cả”,
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”,
“Đạo đức là cái gốc của người cách mạng”,
“Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”,
“Dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân”. “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là
dân, vì dân là chủ”. “Thực hành dân chủ là cái chìa khoá vạn năng có thể giải quyết mọi khó
khăn”, “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”, v.v...
Có thể nói: đó là những mệnh để chứa đựng những chân lý phổ biến, có giá trị vĩnh hằng,
được diễn đạt giản dị nhưng súc tích như những châm ngôn, góp phần làm phong phú thêm
cho lý luận Mác- Lênin. Vì vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành tài sản tinh thần vô giá của
dân tộc và thuộc về kho báu của nhân loại.
Thứ hai, tư tưởng Hồ Chi Minh là một học thuyết cách mạng:
Tư tưởng Hồ Chí Minh ra đời không phải như là sản phẩm suy nghiệm chủ quan của một nhà
hiền triết mà từ yêu cầu của thực tiễn cách mạng Việt Nam nhằm giải đáp những vấn đề do
thực tiễn cách mạng đặt ra trong thế kỷ 20: giải phóng dân tộc, phát triển đất nước, đem lại
tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Đó là một học thuyết cách mạng. lOMoAR cPSD| 61601299
Sau khi tìm tòi, xác lập được con đường chân chính cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân
tộc, Hồ Chí Minh đã “trở về nước, đi vào quần chúng, tuyên truyền họ, thức tỉnh họ, tổ chức
họ, đưa họ ra đấu tranh”. Tư tưởng Hồ Chí Minh hướng vào hành động cải tạo xã hội, cải tạo
con người, đổi đời cho dân tộc, “biến người nô lệ thành người tự do”. Từ đó, Người bắt tay
vào mở lớp huấn luyện, đào tạo những hạt giống cho cách mạng theo một đường lối mới, một
phương pháp cách mạng mới, đưa họ vào rèn luyện, thử thách trong đấu tranh.
Người lập ra các tổ chức cách mạng, từ thấp đến cao: từ Hội Việt Nam thanh niên cách mạng
đến Đảng Cộng sản Việt Nam; từ các hội cứu quốc có tính chất quần chúng ở địa phương đến
Mặt trận Việt Minh toàn quốc,... Trên cơ sở đó, Người đưa đường lối và phương pháp cách
mạng mới thâm nhập vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước, biến tư tưởng thành
sức mạnh vật chất, đưa cách mạng đến thành công, kháng chiến đến thắng lợi, từng bước mở
mang đất nước và nâng cao đời sống của nhân dân.
Thứ ba, tư tưởng Hồ Chí Minh có tính nhân văn sâu sắc:
Hồ Chí Minh là người cộng sản – một người cộng sản Việt Nam – đã thực hiện được sự kết
hợp nhuần nhuyễn những giá trị Á Đông với các giá trị phương Tây. Đi nhiều, hiểu rộng, biết
mình, biết người, ở Hồ Chí Minh không hề có chút thoáng gợn nào của thói “kiêu ngạo cộng
sản”; trái lại, Người có khả năng dung hoà uyển chuyển, biết truy tìm cái tương đồng, bảo lưu
điều dị biệt. Kế thừa truyền thống khoan dung nhân ái Việt Nam, Hồ Chí Minh luôn luôn có
ứng xử mềm mỏng trong đối thoại về chính trị cũng như văn hoá, không bao giờ tỏ ra cứng nhắc, cực đoan.
Người từng nói: “Đạo đức phương Đông và phương Tây đều tán dương một triết lý: Kỷ sở bất
dục, vật thì ư nhân”. (Trong kinh Cựu ước và Tân ước của Cơ đốc giáo cũng có một lời răn tương tự).
Trong phương pháp tư duy nói chung, trong giao tiếp, đối thoại quốc tế nói riêng, kể cả với
đất nước của kẻ thù đang xâm lược nước ta, Hồ Chí Minh vẫn có cái nhìn phân biệt: lên án
bọn thực dân, đế quốc hiếu chiến, nhưng yêu mến và trân trọng nhân dân yêu chuộng hoà
bình, công lý và những giá trị trong nền văn hoá lâu đời của họ. Trong mỗi vấn đề, Người
thường nhìn vào mặt ưu điểm, mặt tích cực, tìm ra cái hay, cái tốt để học, học kẻ thù để chiến
thắng kẻ thù. Hồ Chí Minh hết sức xa lạ với lối tư duy phiến diện, cực đoan một thời chúng ta
dễ mắc: cái gì của phe ta cũng tốt, cái gì của phe địch cũng xấu; địch chê ta, đó là ta đúng, nếu
địch khen ta thì ta phải coi chừng!
Vì vậy, người Cộng sản Hồ Chí Minh, ngay trong khi đang phải chiến đấu chống lại bọn thực
dân xâm lược Pháp, vẫn không ngần ngại ca ngợi truyền thống văn hoá dân chủ, tiến bộ của
Pháp, biết dùng văn hoá của đối phương để chiến thắng đối phương. Hồ Chí Minh từng nói
về những đức tính tốt của người Pháp như sau: “Nói chung, những người Pháp đều yêu
chuộng đức lành như Tự do, Bình đẳng, Bác ái. Phần đông người Pháp có tính hào hiệp... Thấy
việc phải thì họ làm, không quản mất công, tốn của. Họ đã cho là trái thì dù là anh em ruột
thịt họ cũng phản đối đến cùng. Họ đã nhận là phải thì dù là người dưng, nước lã, thì họ cũng lOMoAR cPSD| 61601299
hết sức giúp giùm... Người Pháp lại vui tính, dễ làm quen. Nói dăm ba câu chuyện mà ý hợp
tâm đầu thì liền trở nên bạn tốt”.
Trong thư gửi Giêm Biêcnơ, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ năm 1945, Hồ Chí Minh bày tỏ ý
muốn được gửi 50 thanh niên Việt Nam sang Mỹ để học hỏi về kỹ thuật, nông nghiệp cũng
như các lĩnh vực chuyên môn khác. Người “mong muốn tạo được mối quan hệ với nhân dân
Mỹ là những người mà lập trường cao quý đối với những ý tưởng cao thượng về công lý và
nhân bản quốc tế cùng những thành tựu kỹ thuật hiện đại... đã có sức hấp dẫn mạnh mẽ đối
với giới trí thức Việt Nam”. Tiêu biểu nhất cho tinh thần khoan dung văn hoá Hồ Chí Minh phải
kể đến việc Người đã không chút e ngại khi trích dẫn hai bản Tuyên ngôn Độc lập 1776 của
Hoa Kỳ và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền 1793 của Cộng hoà Pháp làm lời mở đầu cho
bản Tuyên ngôn Độc lập 1945 của Việt Nam, khẳng định đó là những chân lý bất hủ, “những
lời lẽ phải không ai chối cãi được”. Hồ Chí Minh trân trọng mọi giá trị văn hoá của nhân loại,
không chút kỳ thị, biệt phái. Đó chính là tư duy cần có ở thời kỳ mở cửa, hội nhập, toàn cầu hoá hiện nay. HẾT