Bài luận triết - Môn Triết học Mác Lênin | Đại học Y dược Cần Thơ
Đại học Y dược Cần Thơ với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và học tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới.
Môn: Triết học Mác lênin(YCT01)
Trường: Đại học Y dược Cần Thơ
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
MỞ ĐẦU
Xã hội loài người phát triển trải qua nhiều hình thái kinh tế - xã hội nối tiếp nhau. Trên
cơ sở tổng kết sự phát triển của xã hội loài người, phát hiện ra các quy luật vận động, phát triển
khách quan của xã hội loài người, C.Mác đã rút ra kết luận: “Sự phát triển của những hình thái
kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên”. Các hình thái kinh tế - xã hội vận động, phát
triển theo các quy luật khách quan, chứ không phải theo ý chí chủ quan của con người, V.I.Lênin
viết: “Mác coi sự vận động xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên chịu sự chi phối của những
quy luật không những không phụ thuộc vào ý chí, ý thức và ý định của con người, mà trái lại,
còn quyết định ý chí, ý thức và ý định của con người”.
Sự vận động, phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội vừa bị chi phối bởi các quy luật
phổ biến, vừa bị chi phối bởi các quy luật đặc thù. Các quy luật phổ biến là quy luật về sự phù
hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; quy luật cơ sở hạ tầng
quyết định kiến trúc thượng tầng,… Sự tác động của các quy luật khách quan làm cho các hình
thái kinh tế - xã hội phát triển thay thế nhau từ thấp đến cao, đó là con đường phát triển chung
của lịch sử xã hội loài người.
Tính đặc thù trong lịch sử phát triển xã hội loài người thể hiện ở hai điểm: (1) Cùng một
hình thái kinh tế - xã hội nhưng ở các nước khác nhau có những hình thức cụ thể; (2) Có những
dân tộc lần lượt trải qua tất cả các hình thái kinh tế - xã hội tuần tự từ thấp đến cao, nhưng cũng
có những dân tộc bỏ qua một hay một số hình thái kinh tế - xã hội nào đó. Lịch sử phát triển của
xã hội loài người đã diễn ra như thế. Việc bỏ qua đó cũng diễn ra theo một quá trình lịch sử - tự
nhiên, chứ không phải theo ý muốn chủ quan. V.I.Lênin đã phát triển sáng tạo lý luận về con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội: (1) Quá độ trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội. Đây là con đường tiến
lên chủ nghĩa xã hội đối với các nước tư bản chủ nghĩa; (2) Quá độ lên chủ nghĩa xã hội thông
qua nhiều khâu trung gian, nhiều bước quá độ. Đây là con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội đối
với các nước lạc hậu, kinh tế kém phát triển.
Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, ngay từ Chánh cương vắn tắt, được thông qua
tại Hội nghị hợp nhất ba tổ chức Cộng sản thành Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng đã xác định
làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản. Đến Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991, Đảng xác định: “Lịch sử
thế giới đang trải qua những bước quanh co; song, loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới
chủ nghĩa xã hội vì đó là quy luật tiến hóa của lịch sử”[4]. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) một lần nữa khẳng
định: “Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã
hội”[5]; “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của
Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”[6].
Vậy vì sao Đảng ta lại kiên quyết xây dựng đất nước theo con đường CNXH mà không
phải con đường nào khác? Nghiên cứu vấn đề này dưới góc độ triết học mà cụ thể là lý luận các
hình thái kinh tế xã hội nhằm khẳng định sự lựa chọn của đảng ta hoàn toàn đúng đắn.
Phương hướng xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh được bổ sung nhận thức mới về
xây dựng Đảng toàn diện: chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; về xây dựng Đảng gắn
với chỉnh đốn Đảng, đấu tranh chống suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện
“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược
có phẩm chất, năng lực và uy tín ngang tầm nhiệm vụ. 1
Chúng ta kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Các đặc trưng của xã hội xã hội
chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng từng bước được hiện thực hóa. Trong năm 2020-2021, đại
dịch Covid-19 tác động lớn đến Việt Nam, gây ra nhiều khó khăn, thách thức nhưng nhờ sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, sự ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, sự vào cuộc đồng bộ,
quyết liệt của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, Việt Nam đã kiểm soát
thành công đại dịch; từng bước phục hồi sản xuất kinh doanh; ổn định đời sống Nhân dân. Do
đó, Nhân dân tin Đảng, tin Nhà nước, tin chế độ xã hội chủ nghĩa.
Thực tế hơn 37 năm đổi mới , những thành tựu về kinh tế ,chính trị , khoa học xã hội đã
chứng minh một cách hùng hồn nhất về sự lựa chọn của nhân dân ta , của Đảng ta là đúng đắn và
khẳng định sự lựa chọn con đường xây dựng đất nước theo CNXH là một tất yếu khách quan. Từ
đó việc tìm hiểu lý luận hình thái kinh tế xã hội và con đường đi lên XHCN ở Việt Nam sẽ góp
phần vào khẳng định sự lựa chọn của Đảng ta hoàn toàn đúng đắn. 2 PHẦN NỘI DUNG
1-Khái niệm hình thái kinh tế – xã hội: 1
Theo quan điểm của Karl Marx, Hình thái kinh tế – xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa
duy vật lịch sử, dùng để chỉ xã hội ở từng nấc thang lịch sử nhất định , với một kiểu quan hệ sản
xuất đặc trưng cho xã hội đó, phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và với
một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy.
2- Sự phát triển của các hình thái kinh tế – xã hội là quá trình lịch sử - tự nhiên
Xã hội đã phát triển trải qua nhiều giai đoạn kế tiếp nhau, ứng với mỗi giai đoạn của sự
phát triển là một hình thái kinh tế – xã hội nhất định. Các hình thái kinh tế – xã hội vận động và
phát triển do tác động của các quy luật khách quan, đó là quá trình tự nhiên của sự phát triển.
Karl Marx viết : “ Tôi coi sự phát triển của những hình thái kinh tế – xã hội là một quá trình lịch
sử tự nhiên” , tức là muốn nói đến quy luật khách quan của lịch sử, quy luật đó được coi là sự
phát triển của quá trình sản xuất vật chất , xét đến cùng là do mâu thuẫn bên trong giữa lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất , do tính tất yếu kinh tế quy định. Các quy luật xã hội chính là hiện
thân của các quy luật tự nhiên được con người sử dụng nó để kiến tạo nên xã hội loài người. Tiến
trình lịch sử là quá trình phát triển biện chứng vừa bao hàm sự phát triển đứt đoạn và liên tục.
Trong quá trình sản xuất , con người có những quan hệ với nhau, đó chính là quan hệ sản xuất.
Những quan hệ sản xuất đó do trình độ của lực lượng sản xuất quy định. đến lượt nó quan hệ sản
xuất lại quy định các quan hệ xã hội khác như : chính trị, luật pháp, đạo đức… Khi lực lượng sản
xuất phát triển đến một mức độ nào đó thì những thay đổi về chất mâu thuẫn gay gắt với những
quan hệ sản xuất có dẫn đến đòi hỏi khách quan là thay đổi quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản
xuất mới thông qua cuộc cách mạng xã hội. Quan hệ sản xuất thay đổi thì toàn bộ các quan hệ
sản xuất khác cũng thay đổi. Như vậy, phương thức sản xuất thay đổi, các quan hệ xã hội, chính
trị, tinh thần thay đổi dẫn đến sự thay đổi của hình thái kinh tế – xã hội. Chính vì thế, Vladimir
Lenin viết: “Chỉ có đem quy những quan hệ xã hội vào những quan hệ sản xuất, và đem quy
những quan hệ sản xuất vào trình độ của những lực lượng sản xuất thì người ta mới có thể có
được những cơ sơ vững chắc để quan niệm sự phát triển của những hình thái xã hội là một quá
trình lịch sử – tự nhiên.”
Quá trình tự nhiên của sự phát triển lịch sử được chia ra thành những bậc thang lịch sử
khác nhau, ứng với một trình độ kinh tế, kỹ thuật nhất định trong từng phương thức sản xuất nhất
định. Thực tiễn đã cho thấy, loài người đã, đang và sẽ trải qua 5 hình thái kinh tế – xã hội theo
thứ tự từ thấp đến cao. Đó chính là quá trình tự nhiên của sự phát triển lịch sử, thể hiện tính liên
tục của lịch sử. Tuy nhiên, đối với mỗi nước cụ thể, do những điều kiện khách quan và chủ quan
riêng thì một nước nào đó, một dân tộc nào đó có thể “ bỏ qua” những chế độ xã hội nhất định.
Sự khác nhau về trật tự phát triển ở phạm vi toàn nhân loại vẫn là quá trình lịch sử – tự nhiên,
còn đối với từng quốc gia, dân tộc cụ thể bỏ qua những “ nấc thang ”nhất định. Vldimir Lenin
viết: “ …tính quy luật chung của sự phát triển trong lịch sử toàn thế giới đã không loại trừ mà
trái lại, còn bao hàm một số giai đoạn phát triển mang những đặc điểm hoặc về hình thức, hoặc
về trình tự của sự phát triển đó”.
Thực tế lịch sử của một số nước đi theo con đường XHCN đã chứng minh tính đúng đắn,
khoa học của hình thái kinh tế – xã hội và lý luận về khả năng “bỏ qua” một chế độ xã hội nhất định.
Từ việc nghiên cứu học thuyết hình thái kinh tế – xã hội chúng ta có thể rút ra một số
điểm có ý nghĩa phương pháp luận sau: 3
- Việc vạch ra nguồn gốc, động lực bên trong của sự phát triển xã hội, những nguyên nhân và cơ
sở của sự xuất hiện, biến đổi của các hiện tượng xã hội đã biến đổi xã hội học thành một khoa
học thực sự, khắc phục mọi quan điểm duy tâm về lịch sử. Từ đó có một cách nhìn đúng đắn,
thấy được vai trò thực sự của LLSX, QHSX, mối quan hệ biện chứng giữa chúng và các mối
quan hệ khác trong quá trình phát triển xã hội.
- Là công cụ lý luận giúp chúng ta nhận thức những quy luật phổ biến đang tác động và chi phối
sự vận động của xã hội. Vũ trang cho chúng ta phương pháp khoa học để nghiên cứu xã hội và
chỉ đạo thực tiễn ở tầm vĩ mô và vi mô.
- Là cơ sở lý luận của việc hoạch định các đường lối cách mạng của Đảng Cộng Sản. là cơ sở lý
luận cho việc triển khai đường lối, chính sách ở tầm quốc gia và mỗi địa phương nhằm thực hiện
thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
- Giúp chúng ta một cái nhìn biện chứng về sự phát triển liên tục của các hình thái kinh tế – xã
hội, của các giá trị văn hoá, khoa học , kĩ thuật và của chính bản thân thế hệ con người. Từ đó
giúp chúng ta không nóng vội chủ quan, không đốt cháy giai đoạn, biết kế thừa những thành tựu
chung của văn minh nhân loại.
- Học thuyết hình thái kinh tế – xã hội đòi hỏi chúng ta phải thấu triệt nguyên lý đó, vận dụng
một cách chủ động sáng tạo và kiến thức tổng quát của nhiều môn khoa học khác vào công việc
hàng ngày của mỗi người, mỗi địa phương phải nhìn nhận các vấn đề trong dòng chảy liên tục của nó.
3- Qúa độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN ở nước ta:
Xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, dựa trên nền
tảng lợi ích chung của toàn xã hội hài hòa với lợi ích chính đáng của con người, khác hẳn về chất
so với các xã hội cạnh tranh để chiếm đoạt lợi ích riêng giữa các cá nhân và phe nhóm, do đó cần
và có điều kiện để xây dựng sự đồng thuận xã hội thay vì đối lập, đối kháng xã hội. Trong chế độ
chính trị xã hội chủ nghĩa, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân là mối quan hệ giữa
các chủ thể thống nhất về mục tiêu và lợi ích; mọi đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật và
hoạt động của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, lấy hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu
phấn đấu. Mô hình chính trị và cơ chế vận hành tổng quát là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý
và nhân dân làm chủ. Dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là mục tiêu, vừa là
động lực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo
đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân là một nhiệm vụ trọng yếu, lâu dài của cách mạng Việt
Nam. Chúng ta chủ trương không ngừng phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, trên cơ sở liên minh giữa công
nhân, nông dân và trí thức do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Từ hình thái kinh tế xã hội này chuyển sang hình thái kinh tế – xã hội khác có một giai
đoạn lịch sử đặc biệt với độ dài ngắn khác nhau, kết cấu và hình thức biểu hiện khác nhau, đó là “ thời kỳ quá độ”.
Tuỳ theo điều kiện tự nhiên kinh tế xã hội của mình mà các nước các dân tộc sẽ thực hiện
sự quá độ lên CNXH dưới những hình thức, bước đi khác nhau, do trình độ xuất phát khác nhau.
Có thể khái quát thành 3 loại nước tương ứng với 3 kiểu quá độ:
-Những nước TBCN phát triển cao
- Những nứơc đạt trình độ phát triển TBCN ở mức trung bình thấp
- Những nước chưa trải qua giai đoạn TBCN của sự phát triển lịch sử
Nước ta thuộc loại nước thứ ba. Do toàn bộ những điều kiện khách quan và nhân tố chủ
quan quy định, nước ta đi theo con đường xã hội chủ nghĩa là một tất yếu của lịch sử. Để “nhận 4
dạng”con đường đi lên của nước ta, trước hết cần phân tích đầy đủ và chính xác điểm xuất phát
từ đó nước ta quá độ lên CNXH. Để xác định con đường đi lên của mình, cụ thể trong điều kiện
hiện nay chính là thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thì điều cần thiết là
phải xuất phát từ thực trạng kinh tế xã hội của đất nước, xuất phát từ đặc điểm LLSX và QHSX ở
nước ta để lựa chọn đúng hình thức kinh tế cho hiệu quả, xác định rõ những bước đi cụ thể theo
mục tiêu đã chọn. Nghị quyết Trung ương 5 về văn hoá và Nghị quyết Trung ương 6 (lần1) khoá
VIII về kinh tế gần đây đã khẳng định cần phải đẩy mạnh việc phát huy nội lực kinh tế, tăng
cường chuyển dịch cơ cấu kinh tế, mở rộng thị trường tiêu thụ, mạnh dạn hội nhập vào thị trường
khu vực và thế giới. Đó chính là những nghị quyết sát thực với cuộc sống, đã khuyến khích
QHSX phát triển trên cơ sở phù hợp với trình độ của LLSX ở nước ta hiện nay.
Như vậy, kế thừa quan điểm của của nghĩa Marx – Lenin, tư thưởng Hồ Chí Minh về các
thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Đảng ta vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh
Việt Nam trên cơ sở phân tích đặc điểm của từng bước quá độ, từ đó từng đại hội trong thời kỳ
đổi mới không những nhất quán thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần, mà còn xã định
rõ cơ cấu các thành phần kinh tế, tạo cơ sở cho hoạch định và thực thi đúng đắn các chính sách
đối với các thành phần kinh tế.
Nhà nước đại diện cho quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời là người tổ chức thực hiện
đường lối của Đảng; có cơ chế để nhân dân thực hiện quyền làm chủ trực tiếp và dân chủ đại
diện trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, tham gia quản lý xã hội. Chúng ta nhận thức rằng, nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa về bản chất khác với nhà nước pháp quyền tư sản là ở chỗ:
pháp quyền dưới chế độ tư bản chủ nghĩa về thực chất là công cụ bảo vệ và phục vụ cho lợi ích
của giai cấp tư sản, còn pháp quyền dưới chế độ xã hội chủ nghĩa là công cụ thể hiện và thực
hiện quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm và bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân. Thông qua
thực thi pháp luật, Nhà nước bảo đảm các điều kiện để nhân dân là chủ thể của quyền lực chính
trị, thực hiện chuyên chính với mọi hành động xâm hại lợi ích của Tổ quốc và nhân dân. Đồng
thời, chúng ta xác định: Đại đoàn kết toàn dân tộc là nguồn sức mạnh và là nhân tố có ý nghĩa
quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp cách mạng ở Việt Nam; không ngừng thúc
đẩy sự bình đẳng và đoàn kết giữa các dân tộc, tôn giáo.
4- Sự lựa chọn con đường xây dựng CNXH ở nước ta:
Trước đây, sau mấy năm khôi phục kinh tế và thực hiện cải tạo XHCN, công cuộc xây
dựng CNXH trên đất nước ta có thể nói xuất phát từ khái niệm đơn giản, duy ý chí về CNXH.
Chúng ta tưởng rằng có thể thực hiện được ngay mọi đặc trưng của CNXH sau khi tiến hành
quốc hữu hoá, công hữu hoá những tư liệu sản xuất cơ bản mà không cần biết nền sản xuất xã
hội hoá ấy thực hiện như thế nào.
Dần dần từ thực tiễn khủng hoảng và trì trệ về kinh tế chúng ta mới hay rằng: không thể
thực hiện được ngay mọi đặc trưng của CNXH trên cơ sở một nền sản xuất xã hội hoá theo kiểu
hình thức, một nền sản xuất gọi là”xã hội hoá”nhưng trình độ của LLSX còn rất thấp, còn xa mới
đạt tới xã hội hoá được coi như một tất yếu kinh tế. Mức độ thực hiện những đặc trưng của
CNXH không thể áp đặt theo ý muốn chủ quan mà phải căn cứ vào trình độ thực tế của LLSX và
năng suất lao động trong từng thời kỳ lịch sử cụ thể. Nghĩa là: chỉ có thể thực hiện từng bước
những đặc trưng của CNXH.
Với ý nghĩa trên, định hướng XHCN chính là sự quay trở về với luận điểm sau của
Vladimir Lenin: “ … danh từ nước cộng hoà xô viết XHCN có nghĩa là chính quyền Xô Viết
quyết tâm thực hiện bước chuyển lên CNXH, chứ hoàn toàn không có nghĩa là đã thừa nhận chế
độ kinh tế mới là chế độ XHCN”. Bởi vậy, quá trình định hướng XHCN trên đất nước ta là quá
trình xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH – cốt lõi của quá trình xã hội hoá sản xuất 5
trong thực tế. Để có được nền móng của CNXH, chúng ta chỉ có thể rút ngắn cái phải trải qua
theo quy luật lịch sử tự nhiên, chứ không thể bỏ qua cái phải trải qua. Cái phải trải qua ấy là gì?
Là phát triển mạnh LLSX , là xã hội hoá sản xuất trong thực tế thông qua các quá trình chuyển
hoá từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp, từ mô hình nông thôn sang mô
hình đô thị, từ tổ chức cộng đồng xóm sang cộng đồng dân tộc, quốc tế…Cũng vì vậy, quá trình
định hướng XHCN ở nước ta tất yếu phải là một quá trình đan xen giữa nhiệm vụ trực tiếp và
gián tiếp xây dựng CNXH, là quá trình còn nhiều mâu thuẫn, nghịch lý, bất công mà tạm thời
phải chấp nhận, và cuộc vận động của lịch sử CNXH trên thực tế sẽ xoá bỏ dần những mâu
thuẫn, nghịch lý, bất công ấy. Sự định hướng XHCN còn chứa đựng một vấn đề cơ bản không
thể né tránh. Đó là thời kỳ “ai thắng ai”. Cho nên, không chỉ có khả năng đi đúng hướng mà còn
có khả năng đi chệch hướng. Chệch hướng là một nguy cơ có thật. Quá trình đi theo con đường
XHCN quyết không phải là sự chuyển động phẳng lặng theo một chiều mong muốn, đặc biệt cơ
chế thị trường được coi là phương tiện khách quan để xây dựng CNXH. Nó là phương tiện để
phát triển kinh tế, nhưng sự phát triển ấy lại tiềm ẩn nguy cơ CNXH bị huỷ hoại.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH của Đảng đã xác định 6
đặc trưng của xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng. Nói định hướng XHCN nghĩa là nói mục
tiêu chúng ta đạt tới. Đó cũng là hành lang của sự phát triển , sự sáng tạo.
Cương lĩnh vạch ra những phương hướng cơ bản chỉ đạo quá trình thực hiện những đặc
trưng của CNXH trên đất nước ta. Những phương hướng đó vừa mang tính bảo đảm không
chệch hướng XHCN, vừa quán triệt tinh thần đổi mới cho phép không lặp lại những sai lầm cũ,
tinh thần từng bước thực hiện những đặc trưng của CNXH. Chẳng hạn, trong cách mạng QHSX,
sự định hướng XHCN có nghĩa là thiết lập từng bước QHSX XHCN phù hợp với sự phát triển
của LLSX. Do đó,QHSX XHCN sẽ được hình thành từ thấp đến cao, rồi sự đa dạng về hình thức sở hữu.
Sau cương lĩnh, các hội nghị của Trung Ương Đảng từ Đại Hội VII đến nay đã cụ thể hoá
thêm một bước sự định hướng XHCN trên các mặt đời sống xã hội. Sau nhiều năm đổi mới, đất
nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, đã thu được những thành tựu to lớn có ý nghĩa rất
quan trọng. Đất nước ta, nhờ đó có thể chuyển sang thời kỳ mới : đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước.
Nhận định chung về quá trình định hướng XHCN sau đổi mới Đảng ta khẳng định: về cơ
bản việc hoạch định và thực hiện đường lối đổi mới những năm qua là đúng đắn, đúng định
hướng XHCN. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện có một số khuyết điểm, lệch lạc kéo dài, dẫn
đến chệch hướng ở mức độ này hay mức độ khác. Nhận định đó là đúng đắn và sáng suốt , phản
ánh tinh thần đầy trách nhiệm của Đảng ta đối với vận mệnh của dân tộc, của hàng triệu quần
chúng nhân dân lao động – nền tảng của chế độ ta.
Từ đó, một mặt cổ vũ cho nhân dân ta phát huy tinh thần tự lực tự cừơng để đưa đất nước
ra khỏi cảnh nghèo nàn lạc hậu,mặt khác đòi hỏi mọi người phát huy tinh thần trách nhiệm khắc
phục mọi trở ngại trên con đường đi tới một chế độ do nhân dân lao động làm chủ.
Như vậy con đường đi lên CNXH là con đường đúng đắn mặc dù còn nhiều khó khăn
trước mắt nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta không chịu lùi bước trước bất cứ khó khăn , thử thách nào.
5. Thực trạng quá trình đi CNXH ở nước ta
Trước Đổi mới (năm 1986), Việt Nam vốn là một nước nghèo lại bị chiến tranh tàn phá
rất nặng nề, để lại những hậu quả hết sức to lớn cả về người, về của và môi trường sinh thái. Tôi
chỉ nêu thí dụ, cho đến nay vẫn có hàng triệu người chịu các bệnh hiểm nghèo và hàng trăm ngàn 6
trẻ em bị dị tật bẩm sinh bởi tác động của chất độc da cam/dioxin do quân đội Mỹ sử dụng trong
thời gian chiến tranh ở Việt Nam. Theo các chuyên gia, phải mất đến hơn 100 năm nữa Việt
Nam mới có thể dọn sạch hết bom mìn còn sót lại sau chiến tranh. Sau chiến tranh, Mỹ và
phương Tây đã áp đặt cấm vận kinh tế với Việt Nam trong suốt gần 20 năm. Tình hình khu vực
và quốc tế cũng diễn biến phức tạp, gây nhiều bất lợi cho chúng ta. Lương thực, hàng hóa nhu
yếu phẩm hết sức thiếu thốn, đời sống nhân dân hết sức khó khăn, khoảng 3/4 dân số sống dưới mức nghèo khổ.
Nhờ thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế bắt đầu phát triển và phát triển liên tục với
tốc độ tương đối cao trong suốt 35 năm qua với mức tăng trưởng trung bình khoảng 7% mỗi
năm. Quy mô GDP không ngừng được mở rộng, năm 2020 đạt 342,7 tỉ đô la Mỹ (USD), trở
thành nền kinh tế lớn thứ tư trong ASEAN. Thu nhập bình quân đầu người tăng khoảng 17 lần,
lên mức 3.512 USD; Việt Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp từ năm 2008. Từ một
nước bị thiếu lương thực triền miên, đến nay Việt Nam không những đã bảo đảm được an ninh
lương thực mà còn trở thành một nước xuất khẩu gạo và nhiều nông sản khác đứng hàng đầu thế
giới. Công nghiệp phát triển khá nhanh, tỉ trọng công nghiệp và dịch vụ liên tục tăng và hiện nay
chiếm khoảng 85% GDP. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tăng mạnh, năm 2020 đạt trên 540 tỉ
USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt trên 280 tỉ USD. Dự trữ ngoại hối tăng mạnh, đạt 100 tỉ
USD vào năm 2020. Đầu tư nước ngoài tăng nhanh, đăng ký đạt gần 395 tỉ USD vào cuối năm
2020. Về cơ cấu nền kinh tế xét trên phương diện quan hệ sở hữu, tổng sản phẩm quốc nội của
Việt Nam hiện nay gồm khoảng 27% từ kinh tế nhà nước, 4% từ kinh tế tập thể, 30% từ kinh tế
hộ, 10% từ kinh tế tư nhân trong nước và 20% từ khu vực có vốn đầu tư nước ngoài.
Hiện dân số của Việt Nam là hơn 97 triệu người, gồm 54 dân tộc anh em, trong đó hơn
60% số dân sống ở nông thôn. Phát triển kinh tế đã giúp đất nước thoát khỏi tình trạng khủng
hoảng kinh tế - xã hội những năm 80 và cải thiện đáng kể đời sống của nhân dân. Tỉ lệ hộ nghèo
trung bình mỗi năm giảm khoảng 1,5%; giảm từ 58% năm 1993 xuống còn 5,8% năm 2016 theo
chuẩn nghèo của Chính phủ và dưới 3% năm 2020 theo chuẩn nghèo đa chiều (tiêu chí cao hơn
trước). Đến nay, hơn 60% số xã đạt chuẩn nông thôn mới; hầu hết các xã nông thôn đều có
đường ô tô đến trung tâm, có điện lưới quốc gia, trường tiểu học và trung học cơ sở, trạm y tế và
điện thoại. Trong khi chưa có điều kiện để bảo đảm giáo dục miễn phí cho mọi người ở tất cả các
cấp, Việt Nam tập trung hoàn thành xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học vào năm 2000 và phổ
cập giáo dục trung học cơ sở năm 2010; số sinh viên đại học, cao đẳng tăng gần 17 lần trong 35
năm qua. Hiện nay, Việt Nam có 95% người lớn biết đọc, biết viết. Trong khi chưa thực hiện
được việc bảo đảm cung cấp dịch vụ y tế miễn phí cho toàn dân, Việt Nam tập trung vào việc
tăng cường y tế phòng ngừa, phòng, chống dịch bệnh, hỗ trợ các đối tượng có hoàn cảnh khó
khăn. Nhiều dịch bệnh vốn phổ biến trước đây đã được khống chế thành công. Người nghèo, trẻ
em dưới 6 tuổi và người cao tuổi được cấp bảo hiểm y tế miễn phí. Tỉ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em
và tỉ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh giảm gần 3 lần. Tuổi thọ trung bình của dân cư tăng từ 62 tuổi năm
1990 lên 73,7 tuổi năm 2020. Cũng nhờ kinh tế có bước phát triển nên chúng ta đã có điều kiện
để chăm sóc tốt hơn những người có công, phụng dưỡng các Bà Mẹ Việt Nam Anh hùng, chăm
lo cho phần mộ của các liệt sĩ đã hy sinh cho Tổ quốc. Đời sống văn hóa cũng được cải thiện
đáng kể; sinh hoạt văn hóa phát triển phong phú, đa dạng. Hiện Việt Nam có khoảng 70% dân số
sử dụng Internet, là một trong những nước có tốc độ phát triển công nghệ tin học cao nhất thế
giới. Liên hợp quốc đã công nhận Việt Nam là một trong những nước đi đầu trong việc hiện thực
hóa các Mục tiêu Thiên niên kỷ. Năm 2019, chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam đạt 7
mức 0,704, thuộc nhóm nước có HDI cao của thế giới, nhất là so với các nước có cùng trình độ phát triển.
Như vậy, có thể nói, việc thực hiện đường lối đổi mới đã đem lại những chuyển biến rõ rệt,
hết sức sâu sắc và tích cực ở Việt Nam: kinh tế phát triển, lực lượng sản xuất được tăng cường;
nghèo đói giảm nhanh, liên tục; đời sống nhân dân được cải thiện, nhiều vấn đề xã hội được giải
quyết; chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được bảo đảm; đối ngoại và hội nhập quốc
tế ngày càng được mở rộng; thế và lực của quốc gia được tăng cường; niềm tin của nhân dân vào
sự lãnh đạo của Đảng được củng cố. Tổng kết 20 năm đổi mới, Đại hội Đảng lần thứ X (năm
2006) đã nhận định, sự nghiệp đổi mới đã giành được "những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch
sử". Trên thực tế, xét trên nhiều phương diện, người dân Việt Nam ngày nay đang có các điều
kiện sống tốt hơn so với bất cứ thời kỳ nào trước đây. Đó là một trong những lý do giải thích vì
sao sự nghiệp đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo được toàn dân Việt
Nam đồng tình, hưởng ứng và tích cực phấn đấu thực hiện. Những thành tựu đổi mới tại Việt
Nam đã chứng minh rằng, phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa không những có hiệu quả
tích cực về kinh tế mà còn giải quyết được các vấn đề xã hội tốt hơn nhiều so với các nước tư
bản chủ nghĩa có cùng mức phát triển kinh tế. Những kết quả, thành tích đặc biệt đạt được của
Việt Nam trong bối cảnh đại dịch COVID-19 và suy thoái kinh tế toàn cầu bắt đầu từ đầu năm
2020 được nhân dân và bạn bè quốc tế ghi nhận, đánh giá cao, thể hiện tính ưu việt của chế độ xã
hội chủ nghĩa ở nước ta. Mới đây, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng một lần nữa
lại khẳng định và nhấn mạnh: "Qua 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận về đường lối
đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được
hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa. Chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý
nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn so với những năm trước đổi mới. Với tất cả sự
khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế
và uy tín quốc tế như ngày nay. Những thành tựu đó là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết quả
của cả một quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục qua nhiều nhiệm kỳ của toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân ta; tiếp tục khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta là đúng
đắn, phù hợp với quy luật khách quan, với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại;
đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu
quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh chính trị của Đảng tiếp tục là
ngọn cờ tư tưởng, lý luận dẫn dắt dân tộc ta vững vàng tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ
công cuộc đổi mới; là nền tảng để Đảng ta hoàn thiện đường lối xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới" (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn 2 quốc lần thứ
XIII, tập I, Nhà xuất bản chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, trang 25 - 26).
Bên cạnh những thành tựu, mặt tích cực là cơ bản, chúng ta cũng còn không ít khuyết
điểm, hạn chế và đang phải đối mặt với những thách thức mới trong quá trình phát triển đất nước.
Về kinh tế, chất lượng tăng trưởng, sức cạnh tranh còn thấp, thiếu bền vững; kết cấu hạ
tầng thiếu đồng bộ; hiệu quả và năng lực của nhiều doanh nghiệp, trong đó có doanh nghiệp nhà
nước còn hạn chế; môi trường bị ô nhiễm tại nhiều nơi; công tác quản lý, điều tiết thị trường còn
nhiều bất cập. Trong khi đó, sự cạnh tranh đang diễn ra ngày càng quyết liệt trong quá trình toàn
cầu hóa và hội nhập quốc tế. 8
Về xã hội, khoảng cách giàu nghèo gia tăng; chất lượng giáo dục, chăm sóc y tế và nhiều
dịch vụ công ích khác còn không ít hạn chế; văn hóa, đạo đức xã hội có mặt xuống cấp; tội phạm
và các tệ nạn xã hội diễn biến phức tạp. Đặc biệt, tình trạng tham nhũng, lãng phí, suy thoái về tư
tưởng chính trị và đạo đức, lối sống vẫn diễn ra trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Trong khi
đó, các thế lực xấu, thù địch lại luôn tìm mọi thủ đoạn để can thiệp, chống phá, gây mất ổn định,
thực hiện âm mưu "diễn biến hòa bình" nhằm xóa bỏ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Đảng ta nhận thức rằng, hiện nay Việt Nam đang trong quá trình xây dựng, quá độ lên
chủ nghĩa xã hội. Trong thời kỳ quá độ, các nhân tố xã hội chủ nghĩa được hình thành, xác lập và
phát triển đan xen, cạnh tranh với các nhân tố phi xã hội chủ nghĩa, gồm cả các nhân tố tư bản
chủ nghĩa trên một số lĩnh vực. Sự đan xen, cạnh tranh này càng phức tạp và quyết liệt trong điều
kiện cơ chế thị trường và mở cửa, hội nhập quốc tế. Bên cạnh các mặt thành tựu, tích cực, sẽ
luôn có những mặt tiêu cực, thách thức cần được xem xét một cách tỉnh táo và xử lý một cách
kịp thời, hiệu quả. Đó là cuộc đấu tranh rất gay go, gian khổ, đòi hỏi phải có tầm nhìn mới, bản
lĩnh mới và sức sáng tạo mới. Đi lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một quá trình không
ngừng củng cố, tăng cường, phát huy các nhân tố xã hội chủ nghĩa để các nhân tố đó ngày càng
chi phối, áp đảo và chiến thắng. Thành công hay thất bại là phụ thuộc trước hết vào sự đúng đắn
của đường lối, bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Hiện nay, chúng ta đang tiếp tục đẩy mạnh đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền
kinh tế theo hướng chú trọng hơn chất lượng và tăng tính bền vững với các khâu đột phá là:
Hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, trước hết là thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa; phát triển nguồn nhân lực, trước hết là nguồn nhân lực chất lượng cao;
xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại cả về kinh tế và xã hội (Văn kiện Đại hội XIII, tập 2,
trang 337 - 338). Về xã hội, chúng ta tiếp tục đẩy mạnh công tác giảm nghèo bền vững, nâng cao
chất lượng y tế, giáo dục và các dịch vụ công ích khác, nâng cao hơn nữa đời sống văn hóa cho
nhân dân. Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân đang ra sức học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh với quyết tâm ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản
lý các cấp, thực hiện tốt hơn nữa các nguyên tắc tổ chức xây dựng Đảng, nhằm làm cho tổ chức
đảng và bộ máy nhà nước ngày càng trong sạch, vững mạnh, giữ vững bản chất cách mạng, nâng
cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Cả lý luận và thực tiễn đều cho thấy, xây dựng chủ nghĩa xã hội là kiến tạo một kiểu xã
hội mới về chất, hoàn toàn không hề đơn giản, dễ dàng. Đây là cả một sự nghiệp sáng tạo vĩ đại,
đầy thử thách, khó khăn, một sự nghiệp tự giác, liên tục, hướng đích lâu dài, không thể nóng vội.
Vì vậy, bên cạnh việc xác định chủ trương, đường lối đúng, bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng,
phải phát huy mạnh mẽ vai trò sáng tạo, sự ủng hộ và tham gia tích cực của nhân dân. Nhân dân
tiếp nhận, ủng hộ và nhiệt tình tham gia thực hiện đường lối của Đảng vì thấy đường lối đó đáp
ứng đúng yêu cầu, nguyện vọng của mình. Sức mạnh nhân dân là cội nguồn sâu xa của thắng lợi, của phát triển.
Mặt khác, Đảng lãnh đạo và cầm quyền, trong khi xác định phương hướng chính trị và đề
ra quyết sách, không thể chỉ xuất phát từ thực tiễn của đất nước và dân tộc mình, mà còn phải
nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm từ thực tiễn của thế giới và thời đại. Trong thế giới toàn cầu 9
hóa như hiện nay, sự phát triển của mỗi quốc gia - dân tộc không thể biệt lập, đứng bên ngoài
những tác động của thế giới và thời đại, của thời cuộc và cục diện của nó. Chính vì vậy, chúng ta
phải chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa
bình, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế trên cơ sở tôn trọng
độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi.
Và điều hết sức quan trọng là phải luôn luôn kiên định và vững vàng trên nền tảng tư tưởng
lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin - học thuyết khoa học và cách mạng của giai cấp công nhân
và quần chúng lao động. Tính khoa học và cách mạng triệt để của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh là những giá trị bền vững, đã và đang được những người cách mạng theo
đuổi và thực hiện. Nó sẽ còn tiếp tục phát triển và có sức sống trong thực tiễn cách mạng cũng
như trong thực tiễn phát triển của khoa học. Chúng ta cần tiếp thu, bổ sung một cách có chọn lọc
trên tinh thần phê phán và sáng tạo những thành tựu mới nhất về tư tưởng và khoa học để chủ
nghĩa, học thuyết của chúng ta luôn luôn tươi mới, luôn luôn được tiếp thêm sinh lực mới, mang
hơi thở của thời đại, không rơi vào xơ cứng, trì trệ, lạc hậu so với cuộc sống.
6- Mở rộng hợp tác quốc tế nhằm đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá(CNH), hiện
đại hoá(HĐH) đất nước.
CNH, HĐH ở nước ta nhằm xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật cho CNXH, tạo nền tảng
cho sự tăng trưởng nhanh, hiệu quả cao và bền vững của nền kinh tế. Trong quá trình tiến hành
CNH,HĐH đất nước ngoài việc lấy nội lực làm nhân tố quyết định đẩy mạnh mở rộng hợp tác
quốc tế tiếp thu tối đa nguồn ngoại lực, coi đây là nhân tố quan trọng để củng cố vững chắc độc
lập dân tộc, thúc đẩy sự nghiệp CNH, HĐH đất nước thành công… để đưa đất nước ngày càng
hiện đại hơn, văn minh hơn.
Mở rộng hợp tác quốc tế trong sự nghiệp CNH, HĐH nhằm đáp ứng nhu cầu :
- Thu hút được nhiều vốn nước ngoài.
Do nền kinh tế của chúng ta xuất phát thấp. LLSX đan xen của nhiều loại trình độ, trong đó
chiếm đại bộ phận là kỹ nghệ và công nghệ cũ kỹ, do đó thu hút vốn để thúc đẩy LLSX phát
triển, nhập khẩu máy móc hiện đại, mở rộng thị trường…
- Chuyển giao máy móc, công nghệ, kỹ thuật hiện đại
- Đẩy mạnh buôn bán thương mại giữa các nước
- Học tập kinh nghiệm và cách thức quản lý tiên tiến của các nước trên thế giới
- Tạo môi trường ổn định để phát triển
- Tiếp thu văn hoá nhân loại để xây dựng một nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc
Hiện nay xu thế toàn cầu hoá và quốc tế hoáLLSX của nhân loại do cuộc cách mạng khoa
học và công nghệ mới hiện nay đem lại, đang chứa đựng những phương tiện, đó là những điều
kiện vật chất của những QHSX cao hơn mà những nước lạc hậu chưa trải qua chế độ tư bản chủ
nghĩa, có thể tìm thấy và vận dụng vào nước mình thông qua sự giao lưu hợp tác quốc tế dưới
nhiều hình thức khác nhau, từ đó tận dụng nguồn công nghệ, vốn, kinh nghiệm quản lý. Từ đó
các quốc gia chậm phát triển vẫn có thể bước vào con đường phát triển “rút ngắn” ngay cả khi
CNTB còn chưa bị đánh bại tại quê hương của nó và thậm chí khi thiếu cả sự giúp đỡ trực tiếp
của một nước XHCN tiên tiến. Khi các quốc gia chậm phát triển đi sau nhận thấy sản xuất
TBCN còn thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế đến mức độ nhất định thì các nước đi theo con đường
XHCN lại không có lý do gì không giám sử dụng nó như một thành phần kinh tế nhiều thành
phần. Tất nhiên là dưới sự dẫn dắt của thành phần kinh tế nhà nước theo định hướng XHCN .
7- Thiết lập từng bước QHSX XHCN từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu 10
Theo nhận thức truyền thống, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có quan hệ mật
thiết và thống nhất với nhau trong mỗi phương thức sản xuất. Lực lượng sản xuất là cơ sở vật
chất, điều kiện vật chất có vai trò quyết định quan hệ sản xuất - hình thức xã hội của sản xuất.
Khi quan hệ sản xuất không còn phù hợp với lực lượng sản xuất thì tất yếu phải được thay thế
bằng phương thức sản xuất tiến bộ hơn. Phương thức sản xuất TBCN đã ra đời trên cơ sở của lực
lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ và phá bỏ quan hệ sản xuất phong kiến lạc hậu. Với thành
quả của cách mạng công nghiệp chuyển mạnh từ lao động thủ công lên lao động với công cụ kỹ
thuật cao, và diễn ra quá trình công nghiệp hóa, “Giai cấp tư sản, trong quá trình thống trị giai
cấp chưa đầy một thế kỷ, đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng
sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại”(1).
Trong công cuộc đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam thực hiện nhất quán đường lối CNH,
HĐH đất nước nhằm phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7
khóa VII (7-1994) nêu rõ: “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn
diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động
thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện
và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học -
công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao”(6). Đó là một quá trình lâu dài, “Mục tiêu lâu dài
của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là cải biến nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật
chất-kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ
phát triển của sức sản xuất, mức sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng - an ninh vững chắc,
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”(7).
Đại hội VIII của Đảng (6-1996) khẳng định Việt Nam đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế-xã
hội, hoàn thành những nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ, cho phép
chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo,
khoa học và công nghệ do Hội nghị Trung ương 2 khóa VIII (12-1996) đề ra và xác định giáo
dục, đào tạo cùng với khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu nhằm phát triển lực lượng sản
xuất, phát triển đất nước.
Đẩy mạnh CNH, HĐH, chú trọng chiến lược phát triển giáo dục, đào tạo và khoa học,
công nghệ là cần thiết và đúng đắn. Nhưng sau 10 năm đổi mới, Đại hội VIII lại thấy rõ một
khuyết điểm là: “Việc lãnh đạo xây dựng quan hệ sản xuất mới có phần vừa lúng túng vừa buông
lỏng”(8). Kinh tế nhà nước, doanh nghiệp nhà nước chưa phát huy được vai trò chủ đạo trong nền
kinh tế quốc dân. Chưa đổi mới kinh tế hợp tác, hợp tác xã tan rã hoặc chỉ tồn tại hình thức chưa
có hình thức hợp tác xã mới. Chưa thật sự thúc đẩy và quản lý tốt kinh tế tư nhân. Quản lý kinh
tế liên doanh với nước ngoài có nhiều sơ hở.
Có sự buông lỏng và lúng túng trong lãnh đạo xây dựng quan hệ sản xuất mới vì quan hệ
sản xuất được xây dựng trước đổi mới đã không còn thích hợp và nhận thức về quan hệ sản xuất mới còn chưa rõ ràng.
Sau khi khẳng định nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị
trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng XHCN, thì nhận thức về quan hệ sản xuất
và thể hiện nó trong xây dựng, phát triển các hình thức tổ chức kinh tế, các thành phần kinh tế
mới từng bước được làm rõ.
Hội nghị Trung ương 3 khóa IX (9-2001) ban hành nghị quyết Về tiếp tục sắp xếp, đổi
mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX
(2-2002) Về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể và Về tiếp tục đổi
mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân. Những quan 11
điểm cơ bản đó được thể chế hóa trong sự bổ sung, phát triển Luật doanh nghiệp và Luật hợp tác xã.
Công cuộc đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế đã thúc đẩy phát triển lực lượng
sản xuất ở Việt Nam. Kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội phát triển nhanh. Cơ cấu kinh tế chuyển
dịch tích cực. Gần 30 năm đổi mới, nhiều công trình lớn của đất nước được xây dựng và đi vào
hoạt động. Đó là nhà máy thủy điện Yaly, Sơn La, Tuyên Quang cùng với Hòa Bình, Trị An
trước đó, hệ thống tải điện Bắc Nam, cùng với các nhà máy thủy điện vừa và nhỏ, nhiệt điện đã
là thành tựu lớn của điện khí hóa toàn quốc. Công nghiệp dầu khí với khu công nghiệp lọc dầu
Dung Quất, khí điện đạm Phú Mỹ, Cà Mau. Hiện đại hóa ngành khai thác than và khoáng sản.
Tiếp tục phát triển công nghiệp gang thép, cơ khí. Phát triển công nghệ thông tin và viễn thông.
Nâng cấp hệ thống đường giao thông. Xây mới các cầu hiện đại: Mỹ Thuận, Cần Thơ, các cầu ở
Đà Nẵng, cầu Thanh Trì, Vĩnh Tuy ở Hà Nội và nhiều cầu hiện đại khác. Hiện đại hóa các sân
bay, cảng biển. Phát triển hàng trăm khu công nghiệp và chế xuất, hình thành những trung tâm
công nghiệp, khu vực kinh tế trọng điểm của đất nước.
Công nghiệp Việt Nam có sự phát triển, song vẫn chủ yếu là khai thác tài nguyên và gia
công, “Công nghiệp chế tạo, chế biến phát triển chậm, gia công, lắp ráp còn chiếm tỷ trọng lớn”(9).
Trải qua nhiều năm đổi mới, CNH, HĐH lực lượng sản xuất đã có những bước phát triển rất
quan trọng. Song, việc xây dựng quan hệ sản xuất mới - hình thức xã hội của sản xuất - vẫn chưa
hết lúng túng và còn những hạn chế, thiếu đồng bộ. Chế độ sở hữu đã được xác định: sở hữu toàn
dân mà Nhà nước thay mặt toàn dân làm chủ sở hữu; sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân. Chế độ
và cơ chế quản lý được xác định nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước theo định hướng XHCN. Chính sách phân phối theo lao động và các nguồn đóng góp
khác. Trên thực tế, quản lý còn nhiều lúng túng, yếu kém trong tổng thể nền kinh tế cũng như
trong từng tổ chức thuộc các thành phần kinh tế, nhất là trong khu vực kinh tế nhà nước. Đại hội
XI của Đảng (1-2011) cho rằng: “Một số tập đoàn kinh tế và doanh nghiệp nhà nước kinh doanh
thua lỗ, gây bức xúc trong xã hội. Chỉ đạo đổi mới, phát triển kinh tế tập thể, các nông, lâm
trường quốc doanh chậm, lúng túng. Chất lượng xây dựng và thực hiện quy hoạch, kế hoạch phát
triển một số ngành, vùng, nhất là quy hoạch sử dụng đất đai, tài nguyên khoáng sản còn yếu, gây
lãng phí, thất thoát lớn. Quản lý thị trường, nhất là thị trường bất động sản, thị trường tài chính,
có lúc còn lúng túng, sơ hở, thiếu chặt chẽ dẫn đến tình trạng đầu cơ, làm giàu bất chính cho một
số người; chính sách phân phối còn nhiều bất hợp lý”(10).
Thực tiễn đổi mới, CNH, HĐH theo con đường XHCN đòi hỏi không chỉ chú trọng phát
triển lực lượng sản xuất mà phải chú trọng hơn nữa xây dựng quan hệ sản xuất mới. Trong
Cương lĩnh 1991, phần các phương hướng cơ bản, quan hệ sản xuất được nhấn mạnh ở phương
hướng thứ ba: Phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thiết lập từng bước quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về sở hữu.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát
triển năm 2011), xác định đặc trưng thứ ba trong mô hình xã hội XHCN ở Việt Nam là: “có nền
kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ, phù
hợp”(11). Cương lĩnh nhấn mạnh việc nắm vững và giải quyết tốt các mối quan hệ , trong đó có lớn
quan hệ “giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa”(12).
Phát triển mạnh mẽ hơn nữa lực lượng sản xuất với trình độ khoa học công nghệ cao là
vấn đề bức thiết để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững và phát triển kinh tế tri thức. Khi 12
công nghiệp vẫn chủ yếu là khai thác tài nguyên, gia công, lắp ráp, công nghiệp chế tạo, chế biến
còn phát triển chậm thì định hướng đúng đắn trong phát triển khoa học, công nghệ thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển có tầm quan trọng đặc biệt. Đại hội XI của Đảng nêu rõ: “Ưu tiên phát
triển và hoàn thành những công trình then chốt về cơ khí chế tạo, sản xuất máy móc, thiết bị thay
thế nhập khẩu cho công nghiệp, nông nghiệp, xây dựng; công nghiệp công nghệ cao sản xuất
linh kiện điện tử, máy tính, công nghiệp dầu khí, điện, than, khai khoáng, hóa chất, luyện thép, xi
măng, phân đạm… công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp quốc phòng, an ninh với trình độ công nghệ
ngày càng cao, sạch, tiêu tốn ít nguyên liệu, năng lượng, tăng sức cạnh tranh và giá trị gia tăng”(13).
Ưu tiên phát triển công nghiệp phục vụ nông nghiệp và nông thôn, đặc biệt là công
nghiệp sản xuất trang thiết bị, máy móc làm đất, thu hoạch, bảo quản, chế biến nông sản. Phát
triển mạnh công nghiệp xây dựng và phát triển hợp lý công nghiệp sử dụng nhiều lao động, góp
phần chuyển dịch cơ cấu lao động. Phát triển năng lực nghiên cứu, thiết kế, chế tạo các sản phẩm
công nghiệp có công nghệ tiên tiến, giá trị gia tăng cao, nhất là các máy điều khiển kỹ thuật số,
hệ thống tự động hóa. Phấn đấu đến năm 2020, “Giá trị sản phẩm công nghệ cao và sản phẩm
ứng dụng công nghệ cao đạt khoảng 45% trong tổng GDP. Giá trị sản phẩm công nghiệp chế tạo
chiếm khoảng 40% trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp”(14).
Với sự phát triển lực lượng sản xuất như đã xác định, phải xây dựng quan hệ sản xuất tiến
bộ, phù hợp. Quan hệ sản xuất XHCN cần được nhận thức rõ mới có thể xây dựng và phát huy
trong thực tế. Thế nào là quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất hiện
đại cũng cần được nghiên cứu và xác định rõ. Trong quan hệ sản xuất, vấn đề rất quan trọng là
tìm ra được loại hình tổ chức sản xuất, kinh doanh thích hợp, có hiệu quả với chế độ quản lý phát
huy tối đa năng lực sản xuất, mang lại lợi ích xã hội cao và lợi ích thiết thực của người lao động.
Hiện nay, thực hiện quan điểm của Đại hội XI về cơ cấu lại nền kinh tế, chú trọng cơ cấu
lại và điều chỉnh chiến lược phát triển doanh nghiệp nhà nước, nâng cao chất lượng, hiệu quả bảo
đảm phát triển kinh tế nhanh, bền vững và đúng định hướng XHCN. Phát triển nông nghiệp theo
hướng CNH, HĐH, giải quyết đồng bộ vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn gắn với xây
dựng nông thôn mới. Xây dựng mô hình mới trong sản xuất nông nghiệp khi kinh tế hộ manh
mún, phân tán đã hoàn thành vai trò, để thúc đẩy sản xuất hàng hóa quy mô lớn, chất lượng, hiệu
quả cao. Đổi mới và tái cơ cấu các ngành dịch vụ, nhất là tài chính, ngân hàng, thương mại, du
lịch và các dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Thực hiện các đột phá chiến lược: hoàn thiện thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; phát triển nhanh nguồn nhân lực; xây dựng hệ
thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, với một số công trình hiện đại. Quá trình đổi mới, tái cơ cấu và
thực hiện các đột phá đó cũng chính là thúc đẩy hơn nữa sự phát triển lực lượng sản xuất và xây
dựng quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp.
Phải tuỳ theo trình độ phát triển của LLSX mà thiết lập hình thức QHSX sao cho phù
hợp. Phải chống tư tưởng nóng vội muốn xoá bỏ ngay chế độ tư hữu và xác lập ngay chế độ công
hữu về TLSX với hình thức và quy mô quá lớn. Xuất phát từ một nền kinh tế lạc hậu, chúng ta
phải thừa nhận sự tồn tại lâu dài của nhiều thành phần kinh tế, phải phát huy tích cực cơ cấu kinh
tế nhiều thành phần kể cả thành phần kinh tế tư nhân TBCN nhưng phải xây dựng kinh tế quốc
doanh và kinh tế tập thể ngày càng lớn mạnh để trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân.
Phải phát triển kinh tế hàng hoá theo định hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của nhà nước. Phải thực hiện hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động
và hiệu quả kinh tế làm chủ yếu. 13
kinh tế phù hợp, không còn lợi ích hoàn toàn TBCN, nhưng cũng chưa phải lợi ích XHCN đầy
đủ; qua đó, tạo động lực hợp lý thúc đẩy phát triển kinh tế. Trong hình thức KTQĐ, CNTB
không chống lại CNXH; mà nó tích cực “cày trên luống cày của CNXH”; còn CNXH sử dụng
một số mặt hợp lý của CNTB để phát triển kinh tế, thậm chí người lao động có cơ hội học cách
quản lý có hiệu quả của các chuyên gia tư sản. Những hình thức KTQĐ là những nấc thang tạo
nên sự chín muồi dần của CNXH cả về phương diện LLSX và QHSX. Hình thức KTQĐ cũng là
biểu hiện dân chủ có lãnh đạo trên lĩnh vực kinh tế, giúp nhân dân từng bước tiếp thu, giác ngộ
XHCN một cách vững chắc. Mục lục
A, Phần mở đầu:................................................................................................1 B, Phần nội dung:
Chương I: Lý luận hình thái kinh tế - xã hội :
1. Khái niệm hình thái kinh tế xã hội...............................................................2
2. Sự phát triển của các hình thái kinh tế xã hội .............................................2
Chương II Sự lựa chon con đường xây dựng CNXH ở Việt Nam
1. Quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN ở nước ta................................4
2. Sự lựa chọn con đường xây dựng CNXH ở nước ta...............................5
Định hướng xây dựng CNXH ở nước ta: Đúng hay chệch?
Có người lo ngại rằng: hiện nay ở nhiều nước, chế độ XHCN bị sụp đổ, liệu chúng
ta có thể đi lên CNXH được không?
Đi lên CNXH ở nước ta là một tất yếu khách quan
Chương III: Quá trình đi lên CNXH ở nước ta thực trạng và giải pháp
2. Thực trạng quá trình đi lên CNXH ở nước ta.........................................8
3. Từng bước khắc phục khó khăn trong trong quá trình đi lên CNXH
ở nước ta.......................................................................................................9
Thiết lập từng bước QHSX XHCN từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu
C, Kết luận.......................................................................................................12
(1) Mác-Ăngghen Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.4, tr.603.
(2), (3) Lênin Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M, 1977, t.39, tr.25, 25.
(4), (5) ĐCSVN: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t.47, tr. 348, 390.
(6 ), (7) ĐCSVN: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, t.53, tr.554, 558.
(8) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.65.
(9), (10), (11), (12), (13), (14) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.165, 166-167, 70, 73, 193, 103-104. 15
[9] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, NXB chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr. 25 - 26
[10] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.47, tr.374.
[11] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.51, tr.133
[12] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.60, tr.179
[13] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.37, tr.523-524.
[14] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.47, tr.550 16