-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Bài lý thuyết ôn tập - Giáo dục quốc phòng | Trường Đại học Tôn Đức Thắng
Khi đánh giá về tình hình khu vực châu Á - Thái Bình Dương hiện nay, Đảng ta nhận định: “Đông Nam Á có vị trí chiến lược ngày càng quan trọng, là khu vực cạnh tranh gay gắt giữa các cường quốc, tiềm ẩn nhiều bất ổn. Tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo diễn ra căng thẳng, phức tạp, quyết liệt hơn.Tài liệu được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Giáo dục Quốc phòng và An ninh (HP123) 118 tài liệu
Đại học Tôn Đức Thắng 3.5 K tài liệu
Bài lý thuyết ôn tập - Giáo dục quốc phòng | Trường Đại học Tôn Đức Thắng
Khi đánh giá về tình hình khu vực châu Á - Thái Bình Dương hiện nay, Đảng ta nhận định: “Đông Nam Á có vị trí chiến lược ngày càng quan trọng, là khu vực cạnh tranh gay gắt giữa các cường quốc, tiềm ẩn nhiều bất ổn. Tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo diễn ra căng thẳng, phức tạp, quyết liệt hơn.Tài liệu được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Giáo dục Quốc phòng và An ninh (HP123) 118 tài liệu
Trường: Đại học Tôn Đức Thắng 3.5 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
Tài liệu khác của Đại học Tôn Đức Thắng
Preview text:
BÀI 2
QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
CHIẾN TRANH, QUÂN ĐỘI VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Khi đánh giá về tình hình khu vực châu Á - Thái Bình Dương hiện nay, Đảng ta nhận định:
“Đông Nam Á có vị trí chiến lược ngày càng quan trọng, là khu vực cạnh tranh gay gắt giữa các
cường quốc, tiềm ẩn nhiều bất ổn. Tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo diễn ra
căng thẳng, phức tạp, quyết liệt hơn. Hòa bình, ổn định, tự do, an ninh, an toàn hàng hải, hàng
không trên Biển Đông đứng trước thách thức lớn, tiềm ẩn nguy cơ xung đột”1. Do đó, việc chuẩn
bị mọi mặt cho đất nước nhất là đường lối lãnh đạo sự nghiệp quốc phòng và an ninh là nhân tố
quan trọng góp phần bảo vệ vững chắc tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, nghiên cứu
quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh, quân đội, bảo vệ tổ quốc
góp phần làm rõ cơ sở lý luận và khẳng định tính đúng đắn, sáng tạo của đường lối quốc phòng và
an ninh của Đảng Cộng sản Việt Nam, từ đó xây dựng niềm tin tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng
trong giai đoạn cách mạng mới.
A. GIỚI THIỆU I. M , Y ỤC ĐÍCH ÊU CẦU 1. Mục đích
Sinh viên nắm vững những quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
về chiến tranh, quân đội và bảo vệ Tổ Quốc. 2. Yêu cầu
- Về kiến thức: Hiểu rõ những quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
về chiến tranh, quân đội và bảo vệ Tổ quốc.
- Về kỹ năng: Phân biệt được đâu là quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về chiến tranh, quân đội và bảo vệ Tổ quốc.
- Về thái độ: Sinh viên có nhận thức đúng đắn về về chiến tranh, quân đội và bảo vệ Tổ
quốc. Từ đó phát huy trí tuệ, sự sáng tạo của tuổi trẻ trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
II. NỘI DUNG BÀI HỌC
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh.
2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về quân đội.
3. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
* Nội dung trọng tâm: Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa .
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 1, Nxb.CTQG-ST, 2021, Tr.100-101 B. NỘI DUNG
I. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ CHIẾN TRANH
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về chiến tranh
a) Chiến tranh là một hiện tượng chính trị - xã hội
- Chiến tranh là một trong những vấn đề phức tạp, trước Mác đã có nhiều nhà tư tưởng đề
cập đến vấn đề này nhưng đều phiến diện hoặc rơi vào chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo; đáng chú ý
nhất là tư tưởng của C.Ph.Claudơvít (1780 – 1831), ông quan niệm: Chiến tranh là một hành vi
bạo lực để buộc đối phương phục tùng ý chí của mình và là sự huy động s
ức mạnh không hạn độ,
sức mạnh đến tột cùng của các bên tham chiến. Ở đây, C.Ph.Claudơvít đã chỉ ra được đặc trưng
cơ bản của chiến tranh là sử dụng bạo lực. Tuy nhiên, C.Ph.Claudơvít chưa luận giải được bản
chất của hành vi bạo lực ấy.
Kế thừa có phê phán các quan niệm về chiến tranh trong lịch sử chủ nghĩa Mác - Lênin
khẳng định: Chiến tranh là hiện tượng chính trị xã hội có tính lịch sử, đó là cuộc đấu tranh vũ
trang có tổ chức giữa các giai cấp, nhà nước (hoặc liên minh giữa các nước) nhằm đạt mục đích
chính trị nhất định. Với quan niệm này chiến tranh có 4 đặc trưng sau :
+ Chiến tranh là một hiện tượng chính trị - xã hội nghĩa là không phải là hiện tượng tự
nhiên bên ngoài xã hội, mà nó là hiện tượng chính trị xã hội, nó gắn với giai cấp, Nhà nước, đảng phái.
+ Trong chiến tranh đấu tranh vũ trang là hình thức đấu tranh cơ bản, lực lượng vũ trang
là công cụ chủ yếu để tiến hành chiến tranh.
+ Chiến tranh bao giờ cũng nhằm thực hiện mục đích chính trị của Nhà nước, của giai cấp nhất định.
+ Chiến tranh có tính lịch sử nghĩa là nó chỉ tồn tại trong những giai đoạn lịch sử nhất định,
nó không tồn tại vĩnh viễn.
Bốn đặc trưng của chiến tranh có quan hệ biện chứng với nhau, một hiện tượng được gọi
là chiến tranh phải có đủ 4 đặc trưng trên nếu thiếu bất cứ đặc trưng nào thì nó không phải là chiến tranh.
b) Nguồn gốc chiến tranh
- Quan điểm ngoài Mác-xít:
+ Chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo cho rằng: Chiến tranh là hiện tượng do thượng đế, chúa trời
sinh ra để trừng phạt loài người vì những hành vi tội ác mà họ đã gây ra ở dưới trần gian.
+ Thuyết quyết định luận kỹ thuật khẳng định: Sự phát triển của KHKT là nguồn gốc, là
thủ phạm gây ra mọi cuộc chiến tranh trong lịch sử .
+ Nhà tâm lý học Sigmund Freud (1856 – 1939) lại quy nguyên nhân chiến tranh và hành
vi hiếu chiến của con người thuộc về bản năng phá hoại hay còn được gọi là bản năng chết (death-
instinct). Bản năng này hướng hành vi phá hoại của con người ra bên ngoài.
+ Chủ nghĩa Darwin xã hội: (Social Darwinism) hay thuyết định mệnh quốc gia, coi quốc
gia có đặc tính sinh học. Nghĩa là, quốc gia cũng có sự cạnh tranh với nhau để tiến hóa giống như
trong giới tự nhiên. Vì thế, chiến tranh trở thành cách thức đấu tranh phổ biến giữa các quốc gia
vì mục đích sinh tồn. Thông qua chiến tranh, những quốc gia “tốt” và mạnh s tồn tại, còn quốc
gia “xấu” và yếu s bị tiêu vong.
Như vậy, dù bằng nhiều cách lí giải khác nhau nhưng các quan điểm trên đều ngụy biện
cho sự tồn tại của chiến tranh, che đậy bản chất xâm lược và tội ác của chiến tranh phi nghĩa đối với nhân loại.
- Quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin:
Kế thừa có phê phán các quan điểm về nguồn gốc chiến tranh trong lịch sử, chủ nghĩa Mác-
Lênin khẳng định: Chiến tranh có nguồn gốc từ chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và
đối kháng giai cấp không thể điều hòa.
+ Nguồn gốc kinh tế: Sự xuất hiện và tồn tại của chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản
xuất là nguồn gốc sâu xa, suy đến cùng đã dẫn đến sự xuất hiện, tồn tại của chiến tranh.
Chế độ tư hữu là nguồn gốc sâu xa dẫn đến sự xuất hiện và tồn tại của chiến tranh. Nó chính
là nguồn gốc kinh tế, cơ bản nhất của mọi xung đột xã hội.
C.Mác và Ph.Ăngghen khẳng định chiến tranh gắn với bạo lực, nó ra đời trong một giai đoạn
lịch sử nhất định khi sản xuất phát triển đến một mức độ nhất định để tạo ra năng suất lao động cao có
sản phẩm dư thừa đủ để người ta chiếm đoạt của nhau. Điều này lý giải tại sao trong xã hội cộng sản
nguyên thủy chưa có chiến tranh.
Trải qua hàng vạn năm trong chế độ cộng sản nguyên thủy, khi chưa có chế độ tư hữu, chưa
có giai cấp đối kháng thì chiến tranh với tính cách là một hiện tượng chính trị xã hội cũng chưa xuất
hiện. Mặc dù ở thời kì này đã xuất hiện những cuộc xung đột vũ trang. Nhưng đó không phải là một
cuộc chiến tranh mà chỉ là một dạng “lao động thời cổ”. Bởi vì, xét về mặt xã hội, xã hội cộng sản
nguyên thuỷ là một xã hội không có giai cấp, bình đẳng, không có tình trạng phân chia thành kẻ
giàu, người nghèo, kẻ đi áp bức bóc lột và người bị áp bức bóc lột.
Về kinh tế, không có của “dư thừa tương đối” để người này có thể chiếm đoạt lao động
của người khác, mục tiêu các cuộc xung đột đó chỉ để tranh giành các điều kiện tự nhiên thuận lợi
để tồn tại như: nguồn nước, bãi cỏ, vùng săn bắn hay hang động,...
Về mặt kỹ thuật quân sự, trong các cuộc xung đột này, tất cả các bên tham gia đều không
có lực lượng vũ trang chuyên nghiệp, cũng như vũ khí chuyên dùng. Tất cả các thành viên của bộ
lạc với mọi công cụ lao động thường ngày đều tham gia vào cuộc xung đột đó. Do đó, các cuộc
xung đột vũ trang này hoàn toàn mang tính ngẫu nhiên tự phát.
+ Nguồn gốc xã hội: Sự xuất hiện của giai cấp và đối kháng giai cấp trong xã hội là nguồn
gốc trực tiếp dẫn đến chiến tranh.
Ph. Ăngghen chỉ rõ, khi chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất xuất hiện và cùng
với nó là sự ra đời của giai cấp, tầng lớp áp bức bóc lột thì chiến tranh ra đời và tồn tại như một
tất yếu khách quan. Chế độ áp bức bóc lột càng hoàn thiện thì chiến tranh càng phát triển. Chiến
tranh trở thành “ ạn đường” của mọi chế độ tư hữu. b
Như vậy, chiến tranh có nguồn gốc từ chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuấ t và đối
kháng giai cấp trong xã hội. Trong đó, chế độ tư hữu là nguồn gốc sâu xa còn đối kháng giai cấp
là nguồn gốc nguồn gốc trực tiếp của chiến tranh nên muốn xóa bỏ chiến tranh phải xóa bỏ nguồn gốc sinh ra nó.
c) Bản chất của chiến tranh
- Trong lịch sử đã có nhiều nhà tư tưởng, nhà quân sự khái quát về bản chất chiến tranh tiêu biểu như:
+ Thời cổ đại, Arixtốt (384-322 TCN) đã khái quát bản chất chiến tranh là nghệ thuật chính trị.
+ G. Hêghen quan niệm chiến tranh là công cụ thực hiện mục đích chính trị.
+ C.Ph.Claudơvít nhà lý luận quân sự của nước Phổ cho rằng: “Chiến tranh của một cộng
đồng tiến hành bao giờ cũng là một hành vi chính trị, một sự kế tục của c
ác quan hệ chính trị, một
sự thực hiện các quan hệ chính trị bằng các biện pháp khác (thủ đoạn bạo lực)” 2. Quan điểm này
đã có bước tiến nhất định về bản chất chiến tranh, nhưng cũng không tránh khỏi sai lầm. Do hạn
chế về tư duy chính trị, vì Ông cho rằng chính trị không phải là quan hệ giai cấp, dân tộc và nếu
có thì chỉ đơn thuần ở đường lối đối ngoại, không đề cập đến đối nội.
- Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đánh giá cao quan điểm của các nhà tư
tưởng trên, kế thừa, phát triển và vạch ra bản chất chiến tranh. V.I.Lênin khẳng định: “Chiến
tranh là sự tiếp tục của chính trị bằng những biện pháp khác (cụ thể là bằng bạo lực)”3. Về hình
thức khái quát của C.Ph.Claudơvít và V.I. Lênin như nhau, nhưng bản chất lại khác nhau căn bản.
Đối với C.Ph.Claudơvít, chính trị chỉ đơn thuần là quan hệ đối ngoại, không đề cập đến
chính trị từ quan hệ đối nội, quan hệ giai cấp trong một nước, mà quan hệ đối nội còn quyết định
quan hệ đối ngoại. Khi giải thích chính trị sai lầm thì giải thích bản chất chiến tranh cũng s không khoa học. Bản chất
chiến tranh trong quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin thể hiện trên hai mặt cơ bản.
+ Chiến tranh là một hiện tượng chính trị xã hội. Chiến tranh thuộc phạm trù xã hội, đồng
thời là phạm trù chính trị. Chiến tranh không đồng nhất với mọi hiện tượng xã hội, mọi hiện
tượng chính trị, nhưng đã là chiến tranh phải thuộc phạm trù xã hội, chính trị.
+ Chiến tranh không đồng nhất với chính trị, nó chỉ là kế tục chính trị bằng thủ đoạn đặc
thù, thủ đoạn bạo lực vũ trang. Chính trị là mục đích, là nội dung của chiến tranh, còn chiến
tranh chỉ là một trong những phương thức tiến hành, thực hiện chính trị.
Trong các phương thức tiến hành, thực hiện chính trị, chiến tranh là phương thức đặc
biệt. Trước khi chiến tranh nổ ra, các phương thức phi chiến tranh đã được vận dụng nếu tiến
hành không có hiệu lực thì phương thức chiến tranh mới được thực hiện. Tiếp cận bản chất chiến
tranh trong sự thống nhất giữa hai mặt của chiến tranh. Mặt chính trị và mặt phương thức bạo
lực vũ trang không tách rời. Như vậy, những xung đột vũ trang trong xã hội cộng sản nguyên
thuỷ không có nội dung chính trị, không phải là chiến tranh. Trong xã hội có giai cấp, những
phương thức thực hiện chính trị không sử dụng bạo lực vũ trang không phải là chiến tranh.
Trong lịch sử, các thế lực tiến hành chiến tranh xâm lược, phản động thường tìm cách
che đậy nội dung chính trị để xuyên tạc bản chất chiến tranh. Những quan điểm cho tiến hành
2 C.Ph.Claudơvít, Bàn về chiến tranh, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1976, tr.55.
3. V.I.Lênin, Toàn tập, tập 40, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1978, tr.164.
chiến tranh là thực hiện ý nguyện của chúa, giương ngọn cờ tôn giáo…là tìm cách che đậy nội
dung chính trị, xuyên tạc bản chất chiến tranh. Hiện nay, các thế lực phản động cũng đưa ra lý
do lật đổ một chế độ độc tài, gia đình trị hoặc bảo vệ thế giới tự do…đều tìm cách che đậy nội
dung chính trị phản động trong tiến hành chiến tranh xâm lược.
- Mối quan hệ giữa chính trị và chiến tranh.
Chiến tranh và chính trị là những hiện tượng chính trị xã hội khác nhau, nhưng quan hệ
hữu cơ với nhau. Quan hệ giữa chính trị và chiến tranh là một phương diện quan trọng của bản
chất chiến tranh. Trong mối quan hệ giữa chính trị và chiến tranh, chính trị quyết định chiến tranh
trên mọi phương diện.
+ Chính trị quyết định mục đích chiến tranh .
Bất kỳ một cuộc chiến tranh nào đều hướng tới một mục đích chính trị nhất định. Mục
đích chính trị của chiến tranh biểu hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau. Mỗi giai cấp trong một dân
tộc tiến hành chiến tranh với nhau có mục đích chính trị khác nhau. Trước sức mạnh của quần
chúng trong đấu tranh giành chính quyền, bạo lực phản cách mạng mà giai cấp thống trị sử dụng
là nhằm mục đích giữ vững địa vị, lợi ích, chế độ chính trị hiện tại. Ngược lại, quần chúng nhân
dân dưới sự lãnh đạo của lực lượng tiên tiến, tiến hành chiến tranh cách mạng có mục đích lật đổ
chế độ chính trị hiện tại, thiết lập chế độ mới. Những cuộc chiến tranh giữa các dân tộc, mục đích
chính trị của mỗi bên tham chiến cũng khác nhau. Với các nước xâm lược, mục đích là áp đặt
một chế độ chính trị bù nhìn, tay sai cho chúng; với các dân tộc chống lại chiến tranh xâm lược,
mục đích là giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền đất nước.
+ Chính trị quy định tiến trình và kết cục chiến tranh.
Tiến trình, diễn biến của chiến tranh rất phức tạp, nhưng cái chung nhất là do chính trị
quy định. Mỗi giai đoạn của tiến trình phát triển chiến tranh đều có mục đích chính trị cụ thể,
nhưng thống nhất với mục đích chung. Tiến trình và kết cục của chiến tranh được chỉ đạo bởi
mục đích chính trị của giai cấp, nhà nước thống trị, do lợi ích của giai cấp thống trị quyết định. Ở
một thời đại cụ thể, chế độ chính trị nào tiến bộ thì chiến tranh do nó tiến hành thường có xu hướng
phát triển ngày càng mạnh và giành thắng lợi. Ngược lại, những cuộc chiến tranh của chế độ chính
trị đã lỗi thời thường đi vào bế tắc, ngõ cụt, sa lầy. Đây là xu hướng chung của lịch sử phát triển chiến
tranh. V.I.Lênin cho rằng: “Mọi cuộc chiến tranh đều gắn với chế độ chính trị đã sinh ra nó”4. Tuy
nhiên, trong thời điểm cụ thể không hẳn mọi cuộc chiến tranh của chế độ chính trị tiến bộ tiến hành
đều thắng lợi. Bởi chiến tranh còn bị chi phối bởi nhiều nhân tố khác.
+ Chính trị quyết định bản chất và tính chất chính trị xã hội của chiến tranh.
Chiến tranh là chính trị từ đầu đến cuối, thậm chí trước khi nổ ra chiến tranh, trong
giai đoạn chuẩn bị đã có chính trị, do chính trị quyết định. Bản chất tiến bộ cách mạng của
chế độ chính trị s quyết định bản chất và tính chất chính nghĩa, tiến bộ của chiến tranh.
Ngược lại, chế độ chính trị đã lỗi thời thì những cuộc chiến tranh mang tính chất phi nghĩa, phản động.
+ Chiến tranh tác động trở lại chính trị. Đây là tác động của một phương thức thực hiện
đến mục đích, nội dung của nó là chính trị. Biểu hiện tác động của chiến tranh đến chính trị cũng
4 V.I.Lênin, Toàn tập, tập 40, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1978, tr. 192.
rất da dạng. Chiến tranh có thể thúc đẩy nhanh hay chậm thực hiện mục đích chính trị, thậm chí
làm thất bại hoàn toàn mục đích chính trị. Thắng lợi hay thất bại của chiến tranh s kết thúc mục
đích chính trị ở một giai đoạn cụ thể, là những nấc thang phát triển tiến tới mục đích chung của
toàn bộ cuộc chiến tranh.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh
a) Hồ Chí Minh đã sớm đánh giá đúng đắn bản chất, quy luật, tác động của chiến tranh
đến đời sống xã hội
Nói về mục đích cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Người khẳng định: “Ta chỉ giữ
gìn non sông, đất nước của ta. Chỉ chiến đấu cho quyền thống nhất và độc lập của Tổ Quốc. Còn
thực dân phản động Pháp thì mong ăn cướp nước ta, mong bắt dân ta làm nô lệ”5.
Như vậy, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, cuộc chiến tranh do thực dân Pháp tiến hành ở nước ta là
cuộc chiến tranh xâm lược. Ngược lại, cuộc chiến tranh của nhân dân ta chống thực dân Pháp xâm
lược là cuộc chiến tranh nhằm bảo vệ độc lập chủ quyền và thống nhất đất nước.
b) Hồ Chí Minh xác định tính chất xã hội của chiến tranh
Trên cơ sở mục đích chính trị của chiến tranh, Hồ Chí Minh đã xác định tính chất xã hội
của chiến tranh, chiến tranh xâm lược là phi nghĩa, chiến tranh chống xâm lược là chính nghĩa, từ
đó xác định thái độ của chúng ta là ủng hộ chiến tranh chính nghĩa, phản đối chiến tranh phi nghĩa.
- Kế thừa và phát triển tư tưởng của chủ nghĩa Mác- Lênin về bạo lực cách mạng, Hồ Chí
Minh đã vận dụng sáng tạo vào thực tiễn chiến tranh cách mạng Việt Nam. Người khẳng định:
“Chế độ thực dân, tự bản nó đã là một hành động bạo lực, độc lập tự do không thể cầu xin mà có
được, phải dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng, giành lấy chính quyền và
bảo vệ chính quyền” 6
- Bạo lực cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh được tạo bởi sức mạnh của toàn dân, bằng
cả lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, kết hợp chặt ch giữa
đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang.
- Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đánh giặc phải bằng sức mạnh của toàn dân, trong đó phải
có lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt. Kháng chiến toàn dân phải đi đôi với kháng chiến
toàn diện, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân, đánh địch trên tất cả các mặt trận: quân sự,
chính trị, kinh tế, văn hóa, …
c) Hồ Chí Minh khẳng định: Chiến tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta là chiến
tranh nhân dân đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi con người là nhân tố quyết định thắng lợi trong chiến tranh.
Người chủ trương phải dựa vào dân, coi dân là gốc, là cội nguồn của sức mạnh để “xây dựng lầu
thắng lợi”. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh nhân dân là một trong những di sản quý báu của
Người. Tư tưởng này được Hồ Chí Minh trình bày một cách giản dị, dễ hiểu song vô cùng sinh động và sâu sắc.
- Chiến tranh nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng là cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện,
phải động viên toàn dân, vũ trang toàn dân và đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
5 Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb CTQG-ST, Hà Nội, 1995, tr. 150.
6 Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 304.
Tư tưởng của Người được thể hiện rõ nét trong lời kêu gọi toàn Quốc kháng chiến chống
thực dân Pháp ngày 19/12/1946: “Bất kì đàn ông, đàn bà, bất kì người già, người trẻ, không chia
tôn giáo, đảng phái, dân tộc... hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu
Tổ Quốc. Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc thuổng,
gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”.7
Để đánh thắng giặc Mĩ xâm lược, Người tiếp tục khẳng định: “Ba mươi mốt triệu đồng bào
ta ở cả hai miền, bất kì già trẻ, gái trai, phải là ba mươi mốt triệu chiến sĩ anh dũng diệt Mĩ cứu
nước, quyết giành thắng lợi cuối cùng”.8
- Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đánh giặc phải bằng sức mạnh của toàn dân, trong đó phải
có lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt. Kháng chiến toàn dân phải đi đôi với kháng chiến
toàn diện, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân, đánh địch trên tất cả các mặt trận: quân sự, chính
trị, kinh tế, văn hoá... Kháng chiến toàn dân nhưng phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam, đây là nhân tố quyết định thắng lợi của chiến tranh chống xâm lược.
II. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ QUÂN ĐỘI
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về quân đội
a) Khái niệm quân đội
Trên cơ sở những đặc điểm, đặc trưng cơ bản của quân đội, Chủ nghĩa Mác-Lênin cho
rằng: quân đội là tập đoàn người có vũ trang do nhà nước, hoặc tập đoàn chính trị có chức năng
nhà nước tổ chức, nuôi dưỡng và sử dụng nhằm bảo vệ lợi ích cơ bản của mình bằng bạo lực vũ
trang, kể cả tiến hành chiến tranh. Như vậy, so với các tổ chức xã hội khác uân q đội có các đặc trưng sau:
Quân đội là tổ chức của một nhà nước nhất định, do nhà nước tổ chức, xây dựng và nuôi
dưỡng. Đây là đặc trưng cơ bản của quân đội, để phân biệt tổ chức quân đội với các tổ chức xã
hội khác và tổ chức vũ trang trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ. Tuy nhiên, trong một số trường
hợp cụ thể cũng có những quân đội là công cụ bạo lực vũ trang của một tập đoàn chính trị đại
diện cho một giai cấp nhất định, đang thực hiện chức năng nhà nước. Về thực chất, đây là tổ
chức tiền thân của một chính quyền nhà nước mới đang ra đời trên thực tế.
Quân đội là tổ chức của những người có vũ trang và thực hiện chức năng của nó bằng các
vũ khí chuyên dùng. Đây là đặc trưng cơ bản, biểu hiện mối quan hệ đặc thù giữa con người và vũ
khí của tổ chức quân đội, quan hệ này luôn ảnh hưởng trực tiếp đến sức mạnh chiến đấu và khả
năng chiến đấu của quân đội. Đây là dấu hiệu đặc thù để phân biệt quân đội với các tổ chức khác trong xã hội.
Quân đội là tổ chức bạo lực vũ trang được nhà nước sử dụng để tiến hành chiến tranh.
Chiến tranh và quân đội luôn gắn liền với nhau. Quân đội xuất hiện và tồn tại với tính cách là công
cụ tiến hành chiến tranh của nhà nước. Quân đội s mất đi cùng với sự tiêu vong của nhà nước,
khi hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa được xây dựng thành công và chiến tranh đã được
loại trừ khỏi đời sống nhân loại.
7 Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 480
8 Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 12, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 323
Ba đặc trưng cơ bản trên của quân đội có quan hệ biện chứng với nhau, phản ánh các mối
liên hệ tất yếu của một tổ chức đặc thù trong xã hội có giai cấp và nhà nước.
b) Nguồn gốc ra đời của quân đội
- Chủ nghĩa Mác – Lênin đã chứng minh một cách khoa học về nguồn gốc ra đời của quân
đội từ sự phân tích cơ sở kinh tế - xã hội và khẳng định: quân đội là một hiện tượng lịch sử, ra đời
trong giai đoạn phát triển nhất định của xã hội loài người, khi xuất hiện chế độ tư hữu về tư liệu
sản xuất và sự đối kháng giai cấp trong xã hội. Chính chế độ tư hữu và đối kháng giai cấp đã làm
nảy sinh nhà nước thống trị bóc lột. Để bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị và đàn áp quần chúng
nhân dân lao động, giai cấp thống trị đã tổ chức ra lực lượng vũ trang thường trực làm công cụ bạo lực của nhà nước.
Như vậy, chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và sự phân chia xã hội thành giai cấp đối kháng
là nguồn gốc ra đời của quân đội. Chừng nào còn chế độ tư hữu, còn chế độ áp bức bóc lột thì quân
đội vẫn còn tồn tại. Quân đội chỉ mất đi khi giai cấp, nhà nước và những điều kiện sinh ra nó tiêu vong.
c) Bản chất giai cấp của quân đội
Bản chất của quân đội được xác định bởi quân đội đó do giai cấp nào tổ chức ra, công cụ
bạo lực đó nằm trong tay ai và nó phục vụ trước hết cho lợi ích của giai cấp nào trong xã hội. Từ
cách tiếp cận khoa học trên, các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định bản chất quân
đội là công cụ bạo lực vũ trang của một giai cấp, một nhà nước nhất định nhằm phục vụ cho giai
cấp và nhà nước tổ chức, nuôi dưỡng nó. Ở phương diện này, quân đội của các giai cấp và nhà
nước thống trị, bóc lột trong lịch sử bao giờ cũng là công cụ bạo lực vũ trang để tiến hành chiến
tranh và đàn áp nhân dân lao động. V.I.Lênin chỉ rõ: “Không phải chỉ dưới chính thể quân chủ,
quân đội mới là công cụ đàn áp. Nó vẫn là công cụ đàn áp trong tất cả các chính thể cộng hoà tư
sản, kể cả những chính thể cộng hoà dân chủ nhất"9.
- Với tính cách là một hiện tượng chính trị - xã hội, bất cứ quân đội nào trong lịch sử
cũng mang bản chất giai cấp sâu sắc. Cái quyết định bản chất giai cấp của một quân đội là ở chỗ,
quân đội đó là chỗ dựa của chế độ chính trị xã hội nào; hoạt động của quân đội đó bảo vệ lợi ích
cho giai cấp nào và bản chất giai cấp của nó phụ thuộc một cách trực tiếp vào bản chất giai cấp
của nhà nước đã tổ chức ra quân đội. Bản chất giai cấp của quân đội còn được thể hiện trong quá
trình xây dựng và tổ chức quân đội. Giai cấp thống trị bảo đảm sự vững mạnh về chính trị của
quân đội, bảo đảm phương hướng phát triển và hoạt động của quân đội phù hợp với lợi ích của
giai cấp đó. Trong lịch sử chưa có một quân đội nào chiến đấu vì lợi ích chung của tất cả các giai
cấp, vì nó là công cụ bạo lực vũ trang của một giai cấp, một nhà nước nhất định. Để giữ vững
phương hướng chính trị và tăng cường bản chất giai cấp cho quân đội, giai cấp thống trị tiến
hành truyền bá hệ tư tưởng của nó cho quân đội bằng hệ thống giáo dục về tư tưởng cho binh
lính; thực hiện triệt để đường lối tổ chức, phương hướng hoạt động và kiểm soát mọi hoạt động của quân đội.
- Trong tình hình hiện nay, các học giả tư sản thường đề cao luận điểm “phi chính trị hóa
quân đội”, cho rằng quân đội phải đứng ngoài chính trị, quân đội là công cụ bạo lực của toàn xã
9 V.I.Lênin, Toàn tập, tập 37, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1978, tr. 610.
hội, không mang bản chất giai cấp. Thực chất quan điểm “phi chính trị hóa quân đội” của các học
giả tư sản nhằm làm suy yếu sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, làm giảm sức mạnh chiến đấu, từng
bước làm thoái hóa về chính trị tư tưởng, phai nhạt bản chất cách mạng của quân đội. Đó là một
mục tiêu quan trọng trong chiến lược “ iễn d
biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch.
d) Sức mạnh chiến đấu của quân đội
- Khái niệm sức mạnh chiến đấu của quân đội:
Theo quan điểm Mác - Lênin, sức mạnh chiến đấu của quân đội là tổng thể các yếu tố vật
chất, tinh thần và sự tương tác giữa các yếu tố đó quy định trạng thái, khả năng thực hiện nhiệm
vụ chiến đấu của quân đội nhằm thực hiện mục đích chính trị của nhà nước, giai cấp nhất định.
Sức mạnh chiến đấu của quân đội được biểu hiện cụ thể ở trình độ, khả năng sẵn sàng
chiến đấu và chiến đấu của quân đội. Trong điều kiện hoà bình là trình độ huấn luyện, khả
năng sẵn sàng chiến đấu. Trong điều kiện chiến tranh là khả năng hoàn thành nhiệm vụ chiến
đấu với hiệu suất chiến đấu cao. Sức mạnh chiến đấu của quân đội được biểu hiện ở hiệu lực
chiến lược, ở khả năng răn đe, làm nhụt ý chí xâm lược của kẻ thù. Sức mạnh chiến đấu của
quân đội cũng được thể hiện trong tương quan so sánh với sức mạnh chiến đấu của đối tượng
tác chiến cụ thể gắn với những điều kiện lịch sử cụ thể.
- Các yếu tố tạo thành sức mạnh chiến đấu của quân đội: Sức mạnh chiến đấu của quân
đội là sức mạnh tổng hợp của nhiều yếu tố, trong đó có các yếu tố cơ bản như: quân số, cơ cấu tổ
chức biên chế; chính trị - ti
nh thần và kỷ luật; số lượng, chất lượng vũ khí, trang bị kỹ thuật quân
sự; trình độ khoa học và nghệ thuật quân sự; bản lĩnh lãnh đạo, trình độ tổ chức, chỉ huy, quản lý
của đội ngũ sỹ quan. Giữa các yếu tố trên có mối quan hệ biện chứng với nhau. Tuy nhiên, vị trí,
vai trò của từng yếu tố là không ngang bằng nhau, trong những điều kiện xác định, yếu tố chính
trị tinh thần giữ vai trò quyết định đến sức mạnh chiến đấu của quân đội. V.I. Lênin khẳng định:
“Trong mọi cuộc chiến tranh rốt cuộc thắng lợi đều tuỳ thuộc vào tinh thần của quần chúng đang
đổ máu trên chiến trường”10. Trong xây dựng sức mạnh chiến đấu cho quân đội, các ông rất chú
trọng đến khâu đào tạo đội ngũ cán bộ, đánh giá và nhận xét về tài năng của các tướng lĩnh quân
sự, đồng thời phê phán sự yếu kém của đội ngũ này.
e) Nguyên tắc xây dựng quân đội kiểu mới của Lênin
- V.I. Lênin kế thừa, bảo vệ và phát triển lý luận của C.Mác, Ph.Ăngghen về quân đội và
vận dụng thành công trong xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp vô sản.
Ngay sau khi Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, các thế lực thù địch điên cuồng
chống phá nước Nga Xô viết. Để bảo vệ thành quả cách mạng, V.I. Lênin yêu cầu phải giải tán
quân đội cũ và thành lập quân đội kiểu mới ( ồng h
quân) của giai cấp vô sản. V.I. Lênin đã chỉ ra
những nguyên tắc cơ bản trong xây dựng quân đội kiểu mới: Đảng cộng sản lãnh đạo Hồng quân
tăng cường bản chất giai cấp công nhân; đoàn kết thống nhất quân đội với nhân dân; trung thành
với chủ nghĩa Quốc tế vô sản; xây dựng chính quy; không ngừng hoàn thiện cơ cấu tổ chức; phát
triển hài hòa các quân chủng, binh chủng; sẵn sàng chiến đấu. Trong đó sự lãnh đạo của Đảng cộng
sản là nguyên tắc quan trọng nhất quyết định đến sức mạnh, sự tồn tại, phát triển, chiến đấu, chiến thắng của Hồng quân.
10 V.I. Lênin, Toàn tập, tập 41, Bản tiếng Việt, NXB Tiến Bộ, Mátxcơva, 1977, tr. 147.
- Ngày nay, những nguyên tắc cơ bản về xây dựng quân đội kiểu mới của V.I. Lênin vẫn
giữ nguyên giá trị; là cơ sở lý luận khoa học cho các Đảng cộng sản xác định phương hướng tổ
chức xây dựng quân đội của mình.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quân đội
a) Hồ Chí Minh khẳng định sự ra đời của quân đội là một tất yếu, là vấn đề có tính quy
luật trong đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc ở Việt Nam
- Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ mối quan hệ biện chứng giữa sự ra đời của quân đội với sự
nghiệp giải phóng giai cấp và giải phóng dân tộc. Người viết: “Dân tộc Việt Nam nhất định phải
được giải phóng. Muốn đánh chúng phải có lực lượng quân sự, phải có tổ chức”11
- Ngay từ khi ra đời (03/02/1930), Đảng ta đã quán triệt sâu sắc học thuyết Mác – Lênin về
bạo lực cách mạng của giai cấp vô sản. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã khẳng định con
đường đấu tranh giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc là bạo lực cách mạng để giành chính
quyền và yêu cầu phải tổ chức lực lượng vũ trang để làm nòng cốt cho toàn dân tiến hành đấu tranh cách mạng.
+ Trong Chính cương vắn tắt của Đảng (02/1930) do Chủ tịch Hồ Chí Minh khởi thảo đã
đề cập đến việc “Tổ chức ra quân đội công nông”.
+ Luận cương chính trị của Đảng (10/1930) cũng chỉ rõ nhiệm vụ: “Vũ trang cho công
nông”, “Lập quân đội công nông
“Tổ chức ra đội tự vệ công nông” ” và .
+ Trong phong trào cách mạng 1930-1931, mà đỉnh cao là Xô viết Nghệ Tĩnh, từ lực lượng
khởi nghĩa của công - nông, Đội tự vệ công nông (Tự vệ Đỏ) đã ra đời. Đó là mầm mống đầu tiên
của lực lượng vũ trang cách mạng Việt Nam.
+ Hàng loạt tổ chức vũ trang lần lượt được thành lập và phát triển như: Du kích Nam Kỳ
(1940), Đội du kích Bắc Sơn (1941), Cứu Quốc quân (1941),... Phong trào đấu tranh cách mạng
của quần chúng phát triển mạnh m, rộng khắp và sự trưởng thành nhanh chóng của các tổ chức
vũ trang quần chúng đòi hỏi cách mạng Việt Nam phải có một đội quân chủ lực thống nhất về mặt
tổ chức để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng giải phóng dân tộc.
+ Sau một thời gian gấp rút chuẩn bị, ngày 22 tháng 12 năm 1944, tại khu rừng giữa hai
tổng Hoàng Hoa Thám và Trần Hưng Đạo thuộc châu Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng (nay là xóm
Nà Sang, xã Tam Kim, huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng), Đội Việt Nam tuyên truyền giải
phóng quân được thành lập theo chỉ thị của Lãnh tụ Hồ Chí Minh.
- Thực tiễn lịch sử cho thấy, kẻ thù sử dụng bạo lực phản cách mạng để áp bức nô dịch dân
tộc ta. Do vậy, muốn giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, chúng ta phải tổ chức bạo lực cách
mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng.
- Để thực hiện được mục tiêu cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Việt
Nam đã tổ chức ra quân đội nhân dân Việt Nam là lực lượng vũ trang cách mạng của giai cấp công
nhân và quần chúng lao động, đấu tranh với kẻ thù giai cấp và kẻ thù dân tộc.
b) Quân đội nhân dân Việt Nam mang bản chất của giai cấp công nhân
- Với cương vị là người tổ chức, lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện quân đội ta, Chủ tịch Hồ
Chí Minh thường xuyên coi trọng bản chất giai cấp công nhân cho quân đội. Bản chất giai cấp
11 Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 6, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.71,72.
công nhân liên hệ mật thiết với tính nhân dân trong tiến hành chiến tranh nhân dân chống thực dân, đế Quốc xâm lược.
- Trong xây dựng bản chất giai cấp công nhân cho quân đội, Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức
quan tâm đến giáo dục, nuôi dưỡng các phẩm chất cách mạng, bản lĩnh chính trị và coi đó là cơ
sở, nền tảng để xây dựng quân đội vững mạnh toàn diện.
- Quân đội nhân dân Việt Nam được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp tổ chức lãnh
đạo, giáo dục và rèn luyện, được nhân dân hết lòng yêu thương, đùm bọc, đồng thời được kế thừa
những truyền thống tốt đẹp của một dân tộc có hàng ngàn năm văn hiến và lịch sử đấu tranh dựng
nước gắn liền với giữ nước oanh liệt. Do đó, ngay từ khi ra đời và trong suốt quá trình phát triển,
quân đội ta luôn thực sự là một quân đội kiểu mới mang bản chất cách mạng của giai cấp công
nhân, đồng thời có tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc.
c) Khẳng định quân đội ta từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu
- Đây là một trong những cống hiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong phát triển lý luận về
quân đội. Người lập luận: bản chất giai cấp công nhân và tính nhân dân của quân đội ta là một thể
thống nhất, xem đó như là biểu hiện tính quy luật của quá trình hình thành, phát triển quân đội
kiểu mới, quân đội của giai cấp vô sản.
- Trong bài “Tình đoàn kết quân dân ngày càng thêm bền chặt” ngày 3/3/1952, Người viết:
Quân đội ta là quân đội nhân dân. Nghĩa là con em ruột thịt của nhân dân. Đánh giặc để giành lại
độc lập thống nhất cho Tổ Quốc, để bảo vệ tự do, hạnh phúc của nhân dân. Ngoài lợi ích của nhân
dân, quân đội ta không có lợi ích nào khác12
d) Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với quân đội
Theo Hồ Chí Minh, quân đội nhân dân Việt Nam phải do Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức và
lãnh đạo, sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội là tuyệt đối, trực tiếp và đối với mọi mặt công tác của
quân đội. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc bất di bất dịch trong tổ chức và xây dựng Quân đội nhân dân
Việt Nam, Người nói: quyền lãnh đạo quân đội ta thuộc về một Đảng duy nhất, đó là Đảng Cộng sản
Việt Nam; quyền lãnh đạo đó luôn được giữ vững và tăng cường cùng với quá trình trưởng thành chiến
thắng của quân đội; quân đội phải chấp hành nghiêm chỉnh sự lãnh đạo của Đảng. Sự lãnh đạo của
Đảng là nhân tố tạo nên sức mạnh vô địch của quân đội, về điều này khi nói c huyện tại buổi chiêu đãi mừng uân q
đội nhân dân Việt Nam tròn 20 tuổi, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Quân đội ta
có sức mạnh vô địch, vì đó là quân đội nhân dân do Đảng ta xây dựng, Đảng ta lãnh đạo và giáo dục”13
Từ tư tưởng đó của Hồ Chí Minh, ngay từ khi còn là các đội tự vệ, đội du kích đầu tiên:
Bên cạnh chánh phó đội trưởng phải có đại biểu của Đảng cộng sản lãnh đạo đến ngày 22/12/1944
thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân, đồng thời lập chi bộ đội (13 đảng viên). - Giai đoạn -
1945 1954: Thành lập Quân uỷ trung ương tháng 1/1946; tháng 2/1947, hệ
thống tổ chức Đảng trong quân đội được kiện toàn từ trung ương đến chi bộ.
- Giai đoạn 1946 - 1948: Thực hiện lãnh đạo của tập thể cấp uỷ Đảng theo hệ thống dọc và ngang.
12 Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị Quốc gia-Sự thật, Hà Nội, 1995, tr.426-427.
13 Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị Quốc gia-Sự thật, Hà Nội, 2002, tr.350
- Giai đoạn 1948 - 1952: Thực hiện chế độ chính uỷ tối hậu quyết định.
- Tháng 5/1952: Thực hiện chế độ tập thể Đảng uỷ lãnh đạo thủ trưởng quân sự chính trị
phân công tổ chức thực hiện.
- Giai đoạn sau 1954: Tiếp tục thực hiện tập thể Đảng uỷ lãnh đạo thủ trưởng chính trị
quân sự phân công phụ trách.
e) Nhiệm vụ và chức năng cơ bản của quân đội
- Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Hiện nay quân đội ta có hai nhiệm vụ chính. Một là,
xây dựng một đội quân ngày càng vững mạnh và sẵn sàng chiến đấu. Hai là, thiết thực tham gia
lao động sản xuất góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội”14
- Quân đội ta có ba chức năng: Ba chức năng đó phản ánh cả mặt đối nội, đối ngoại của quân đội.
+ Là quân đội chiến đấu: Với tư cách là đội quân chiến đấu, quân đội luôn sẵn sàng chiến
đấu và chiến đấu chống xâm lược, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, góp phần bảo vệ trật tự an
toàn xã hội, tham gia vào cuộc tiến công địch trên mặt trận lý luận, chính trị - tư tưởng, văn hóa.
+ Là đội quân công tác: quân đội tham gia vận động quần chúng nhân dân xây dựng cơ sở
chính trị - xã hội vững mạnh, góp phần tăng cường sự đoàn kết giữa Đảng với nhân dân, quân đội
với nhân dân; giúp dân chống thiên tai, giải quyết khó khăn trong sản xuất và đời sống, tuyên
truyền vận động nhân dân hiểu rõ và chấp hành đúng đường lối, quan điểm, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước.
+ Là đội quân sản xuất: quân đội tăng gia sản xuất cải thiện đời sống, xây dựng kinh tế,
góp phần xây dựng, phát triển đất nước. Trong điều kiện hiện nay, quân đội còn là lực lượng nòng
cốt và xung kích trong xây dựng kinh tế - Quốc phòng ở các địa bàn chiến lược, nhất là ở biên
giới, biển đảo, vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn gian khổ và ở những địa bàn có những tình
huống phức tạp nảy sinh.
III. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ BẢO VỆ TỔ QUỐC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa
a) Bảo vệ Tổ quốc XHCN là một tất yếu khách quan
- Xuất phát từ yêu cầu bảo vệ thành quả cách mạng của giai cấp công nhân.
- Xuất phát từ quy luật xây dựng chủ nghĩa xã hội phải đi đôi với bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
- Xuất phát từ quy luật phát triển không đều của chủ nghĩa đế quốc.
- Xuất phát từ bản chất, âm mưu của kẻ thù và thực tiễn cách mạng thế giới.
b) Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là nghĩa vụ, trách nhiệm của toàn dân tộc, toàn thể
giai cấp công nhân và nhân dân lao động
- V.I. Lênin chỉ rõ: Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ, là trách nhiệm của toàn
Đảng, toàn dân, của giai cấp vô sản trong nước, nhân dân lao động và giai cấp vô sản thế giới có
nghĩa vụ ủng hộ sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Người khẳng định: “Không bao giờ
người ta có thể chiến thắng được một dân tộc mà đa số công nhân và nông dân đã biết, đã cảm và
14 Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị Quốc gia-Sự thật, Hà Nội, 1986, tr.143.
trông thấy rằng họ bảo vệ chính quyền của mình, chính quyền Xô Viết, chính quyền của những
người lao động, rằng họ bảo vệ sự nghiệp mà một khi thắng lợi s đảm bảo cho họ cũng như con
cái họ có khả năng hưởng thụ mọi thành quả văn hóa, mọi thành quả lao động của con người” 15
c) Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, phải thường xuyên tăng cường tiềm lực Quốc phòng
gắn với phát triển kinh tế - xã hội
- Học thuyết Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của V.I. Lênin đã khẳng định: Bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp thiêng liêng, cao cả, mang tính cách mạng, chính nghĩa và có
ý nghĩa Quốc tế sâu sắc; sự nghiệp đó phải được quan tâm, chuẩn bị chu đáo và kiên quyết.
- V.I. Lênin cùng Đảng Bônsêvích Nga lãnh đạo nhân dân, tranh thủ thời gian hòa bình,
xây dựng đất nước mạnh lên về mọi mặt, từng bước biến các tiềm lực thành sức mạnh hiện thực
của nền Quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
d) Đảng cộng sản lãnh đạo mọi mặt sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa
V.I. Lênin chỉ ra rằng: Đảng cộng sản phải lãnh đạo mọi mặt sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc
- Đảng phải đề ra chủ trương, chính sách phù hợp với tình hình, có sáng kiến để lôi kéo
quần chúng và phải có đội ngũ đảng viên gương mẫu hi sinh.
- Trong quân đội, chế độ chính ủy được thực hiện, cán bộ chính trị được lấy từ đại biểu ưu
tú của công nông, thực chất đó là đại diện của Đảng, để thực hiện sự lãnh đạo của Đảng trong quân đội.
- Đảng hướng dẫn, giám sát các hoạt động của các cấp, các ngành, các tổ chức xã hội, các
đoàn thể nhân dân lao động. Sự lãnh đạo của Đảng là nguyên tắc cao nhất, là nguồn gốc sức mạnh
vững chắc bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa
a) Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là một tất yếu khách quan
Tính tất yếu khách quan của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa được
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau
giữ lấy nước”16. Ý chí giữ nước của Người rất sâu sắc và kiên quyết. Trong lời kêu gọi toàn Quốc
kháng chiến ngày 19/12/1946, Người nói: “Chúng ta thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu
mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ… Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên!”.
Trước khi đi xa, trong i chúc d
Người căn dặn: “Cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước có
thể còn kéo dài, đồng bào ta có thể phải hy sinh nhiều của nhiều người. Dù sao chúng ta phải quyết
tâm đánh giặc Mĩ đến thắng lợi hoàn toàn”
Trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra một chân lý
rằng: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta, thì ta còn
phải tiếp tục chiến đấu quét sạch nó đi.
Ý chí quyết tâm giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc là tư tưởng xuyên suốt trong cuộc đời
hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
b) Mục tiêu bảo vệ Tổ quốc là độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, là nghĩa vụ và trách
nhiệm của mọi công dân
15 V.I. Lênin, Toàn tập, tập 38, Bản tiếng Việt, Nxb Tiến Bộ, Mátxcơva, 1978, tr.378.
16 Hồ Chí Minh, Biên niên tiểu sử, tập 5, Nxb Chính trị Quốc gia-Sự thật, Hà Nội, 1995, tr.553.
- Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là mục tiêu xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí M inh.
Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là trách nhiệm, nghĩa vụ của mỗi công dân Việt Nam.
Người đã từng nói rõ quan điểm về độc lập dân tộc: “Nếu nước độc lập mà dân không
hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”.
Trong tư duy và nhận thức của mình, Hồ Chí Minh luôn xác định độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội, độc lập dân tộc trên nền tảng xã hội chủ nghĩa. Độc lập dân tộc là mục tiêu
trực tiếp trước mắt, có tính cấp bách; muốn hoàn thành được mục tiêu cuối cùng, giải phóng hoàn
toàn các tầng lớp nhân dân lao động khỏi áp bức bóc lột thì phải đi tới cách mạng xã hội chủ nghĩa,
phải đi theo con đường xã hội chủ nghĩa. Theo Người, chủ nghĩa xã hội là một đảm bảo cho độc
lập dân tộc bền vững.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là luận điểm cơ bản, trọng tâm trong toàn bộ
quan điểm của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc.
c) Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhất quán quan điểm phát huy sức mạnh tổng hợp trong nhiệm
vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đó là sức mạnh của toàn dân tộc, toàn dân, của từng người
dân, của các cấp, các ngành từ trung ương đến cơ sở; là sức mạnh của các nhân tố chính trị, quân
sự, kinh tế văn hóa - xã hội, sức mạnh truyền thống với hiện đại, sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
So sánh về sức mạnh giữa chúng ta với quân xâm lược trong cuộc kháng chiến chống Mĩ,
Người phân tích: Chúng ta có chính nghĩa, có sức mạnh đoàn kết toàn dân từ Bắc đến Nam, có
truyền thống đấu tranh bất khuất, lại có sự đồng tình ủng hộ rộng lớn của các nước xã hội chủ
nghĩa và nhân dân tiến bộ trên thế giới, chúng ta nhất định thắng.
Người căn dặn: Chúng ta phải xây dựng quân đội ngày càng mạnh, sẵn sàng chiến đấu để
giữ gìn hòa bình, bảo vệ đất nước, bảo vệ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
d) Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
Đảng ta là người lãnh đạo và tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Sự nghiệp
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa do Đảng lãnh đạo.
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ Tổ Quốc, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta
đang thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng trong giai
đoạn mới, chúng ta cần thực hiện tốt một số nội dung chiến lược sau đây:
- Một là, xây dựng tiềm lực toàn diện của đất nước, đặc biệt tiềm lực kinh tế, tạo ra thế và
lực mới cho sự nghiệp bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
- Hai là, xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân vững mạnh, xây dựng
quân đội nhân dân và công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.
- Ba là, quán triệt tư tưởng cách mạng tiến công, chủ động đánh thắng địch trong mọi hoàn
cảnh, tình huống chiến tranh.
- Bốn là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với sự nghiệp quốc
phòng và an ninh, bảo vệ Tổ quốc. C. KẾT LUẬN
Học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh, quân đội và bảo vệ tổ quốc
xã hội chủ nghĩa mang tính cách mạng và khoa học sâu sắc. Đó là cơ sở lý luận để các Đảng Cộng
sản đề ra chủ trương, đường lối chiến lược xây dựng nền quốc phòng, an ninh, xây dựng lực lượng
vũ trang và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Trong thời đại hiện nay tình hình thế giới, khu vực
và trong nước đang có nhiều biến đổi và diễn biến phức tạp. Tuy nhiên cho đến ngày nay những
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác -Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh, quân đội và
bảo vệ tổ quốc vẫn còn nguyên giá trị. Vì vậy, nghiên cứu và nắm vững những nội dung cơ bản
trên, vận dụng sáng tạo vào thực tiễn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong
giai đoạn hiện nay đang đặt ra có tính cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn.
Sinh viên là lớp trí thức trẻ, cần nghiên cứu nhận thức đúng đắn nội dung trên, xây dựng
thế giới quan khoa học, niềm tin và trách nhiệm của mình để góp phần tích cực vào bảo vệ, phát
triển những nội dung đó trong bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay.
D. CÂU HỎI ÔN TẬP
Câu 1: Trình bày quan điểm cơ bản của Chủ nghĩa Mác-Lênin về chiến tranh? Hồ Chí Minh
đã vận dụng những quan điểm này như thế nào trong chỉ đạo cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp và Đế quốc Mỹ bảo vệ nền độc lập tự do của Tổ quốc?
Câu 2: Trình bày quan điểm cơ bản của Chủ nghĩa Mác-Lênin về quân đội? Hồ Chí Minh
đã vận dụng những quan điểm này như thế nào trong xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam ?
Câu 3: Trình bày quan điểm cơ bản của Chủ nghĩa Mác-Lênin về bảo vệ Tổ quốc? Hồ Chí
Minh đã vận dụng những quan điểm này như thế nào trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa?
Câu 4: Trách nhiệm của sinh viên trong tham gia xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân và
sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa?