-
Thông tin
-
Quiz
Bài phân tích Câu cá mùa thu chọn lọc hay nhất - Ngữ Văn 10
Phân tích bài thơ Câu cá mùa thu của Nguyễn Khuyến giúp các bạn học sinh cảm nhận được bức tranh mùa thu đặc trưng nơi làng quê Bắc Bộ Việt Nam với nét vẽ đầy dung dị, mộc mạc và thấy được tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước sâu sắc của nhà thơ. Tài liệu được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Văn mẫu 10 232 tài liệu
Ngữ Văn 10 1.3 K tài liệu
Bài phân tích Câu cá mùa thu chọn lọc hay nhất - Ngữ Văn 10
Phân tích bài thơ Câu cá mùa thu của Nguyễn Khuyến giúp các bạn học sinh cảm nhận được bức tranh mùa thu đặc trưng nơi làng quê Bắc Bộ Việt Nam với nét vẽ đầy dung dị, mộc mạc và thấy được tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước sâu sắc của nhà thơ. Tài liệu được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Chủ đề: Văn mẫu 10 232 tài liệu
Môn: Ngữ Văn 10 1.3 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:



Tài liệu khác của Ngữ Văn 10
Preview text:
Bài phân tích Câu cá mùa thu (Thu điếu) chọn lọc hay nhất
“Câu cá mùa thu” hay còn gọi là Thu Điếu là một tác phẩm hay và ý nghĩa trong chương trình Ngữ Văn lớp
11. Để cảm nhận bài thơ đầy hình tượng này, cùng Luật Minh Khuê theo dõi bài viết sau.
Nguyễn Khuyến nổi tiếng với tập thơ mùa thu gồm ba bài thơ bằng chữ Nôm, một trong số đó là bài “Câu
cá mùa thu”. Xuyên suốt bài thơ là vẻ đẹp tĩnh lặng của cảnh quê xưa, thể hiện nét cô đơn trong tâm hồn
của một nhà Nho yêu quê hương lúc bấy giờ. Sau một thời gian ông từ quan trở về, hàng loạt tác phẩm ra
đời như “ Thu điếu”, “ Thu ẩm” , “ Thu vịnh”. Với kết câu thơ thất ngôn bát cú, bài thơ mở đầu với hai câu đề:
“ Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”
Chỉ cần đọc hai câu thơ, ta có thể hình dung ra khung cảnh mùa thu, một không gian nghệ thuật bao trùm
lấy ta. Ao thu là một hình tượng đặc trưng của làng quê vùng đồng bằng Bắc Bộ. Mỗi khi nhìn thấy ao làng,
lòng người lại bồi hồi nhớ về quê hương. Nước ao trong vắt giúp ta có thể nhìn xuyên qua mặt ao, hơi lạnh
đang lan tỏa khắp không gian. Không còn cái se lạnh của chớm thu mà đã là tiết thu phân, trời đã sang thu
nên se lạnh đến nao lòng. Không biết từ lúc nào, giữa không gian bao la của mặt nước ao hiện ra một chiếc
thuyền câu như thể nỗi cô đơn của con thuyền lan tỏa khắp không gian. "Bé tẻo teo" có nghĩa là rất nhỏ,
cách sử dụng tính từ như khiến sự bé bỏng của chiếc thuyền càng thêm cô đơn, nhỏ nhoi. Âm điệu của bài
thơ cũng gợi lên sự hun hút của cảnh vật quanh ao ("trong veo" - "bé tẻo teo"). Đó là một mùa thu đẹp và
yên bình, làm bản lề cho thế giới nghệ thuật mà người đọc sắp sửa bước vào từ hai câu thực:
“ Sóng nước theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo”
Hai câu thơ miêu tả cảnh vật xung quanh trong một không gian hai chiều mà mắt có thể nhìn thấy sóng gợn
li ti, tai có thể nghe thấy tiếng lá xào xạc trong gió. Sự rung cảm trước cảnh vật của người thi sĩ vô cùng
giản dị và mộc mạc nhưng cũng có thể cho người ta thấy sự hài hòa về màu sắc được tác giả miêu tả với
sóng xanh và lá vàng. Làn gió hiu hiu đủ để lay nhẹ những chiếc lá thu vàng, cuốn những con sóng xanh lăn
tăn từng đợt. Trong câu thơ chỉ vỏn vẹn 7 chữ của mình, nhà thơ còn kết hợp sử dụng phép tương phản
một cách rất tài tình giúp nhấn mạnh vào trọng tâm để người đọc có thể hình dung ra không gian mà tác giả
đang miêu tả như hiện ra trước mắt mình, rất chân thực và rõ ràng. Phải công nhận rằng ngòi bút của
Nguyễn Khuyến vô cùng tinh tế trong cách dùng từ và cảm nhận, lấy cái lăn tăn của sóng "hơi gợn tí" phối
cảnh với độ bay xoay xoay "khẽ đưa vèo" của chiếc lá thu. Chữ "vèo" là một nhân tự mà sau này thi sĩ Tản
Đà rất khâm phục và tâm đắc. Ông thổ lộ một đời thơ mới có được một câu vừa ý: vèo trông lá rụng đầy
sân (cảm thu, tiễn thu). Không dừng lại ở đó, Nguyễn Khuyến còn giúp ta mở rộng tầm mắt hơn ở hai câu luận của bài thơ:
“ Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”
Bên cạnh ao thu hoài niềm, ngõ trúc lại một lần nữa khắc khoải nỗi niềm của làng quê nơi tác giả, nơi khung
cảnh. Một màu xanh bao la của bầu trời xanh, rộng lớn và xanh thẳm, hòa quyện với màu xanh của sóng
nước bao trùm không gian nơi đây. Mây lặng lẽ trôi trên bầu trời bao la như nhấn mạnh thêm sự bao la của
không gian nơi đây. Thoáng mát, yên tĩnh, êm đềm và mềm mại. Đường làng qua các ngõ không một bóng
người qua lại: Ngõ trúc quanh co vắng vẻ không bóng người. "Vắng teo" là một tính từ giản dị, gần gũi, đời
thường tưởng chừng vô vị nhưng lại được biến hóa khôn lường trong thơ của Nguyễn Khuyến. Nó gợi cho
người ta cái yên lặng vô cùng của cảnh vật, lại cũng gợi sự cô đơn, trống trải của lòng người. Ngõ trúc trong
thơ Tam Nguyên Yên Đổ luôn gợi lên một nỗi niềm da diết, không thể chối từ về tình quê:
Dặm thế, ngõ đâu từng trúc ấy
Thuyền ai khách đợi bến đâu đây? (Nhớ núi Đọi)
Trong thơ về tình làng quên, có lẽ người đọc sẽ nhận ra một trong những sự vật quen thuộc với hình ảnh
làng quê đó là ngõ trúc và tầng mây. Đây là nhưng sự vật từng xuất hiện rất nhiều trong các tác phẩm văn
thơ nghệ thuật. Có vẻ như tác giả đang tự hòa mình và đắm chìm vào trong cảnh sắc nơi đây nên mới có
thể miêu tả một cách vô cùng chân thực được như vậy. Đến hai câu kết thì bức tranh thu mới xuất hiện một đối tượng khác:
“ Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo”
Thu điếu nghĩa là câu cá vào mùa thu. Sáu câu đầu chỉ có cảnh sắc: ao thu, thuyền câu, sóng biếc, lá vàng,
tầng mây, ngõ trúc … Hình ảnh người câu cá đến tận đoạn cuối cùng mới hiện lên với tư thế tựa vào chiếc
gối, trấn tĩnh và nhàn nhã. Đợi một lúc lâu, tác giả chợt tỉnh giấc khi nghe tiếng cá đớp mồi dưới chân bèo.
Sự chờ đợi bấy lâu nay đã được đền đáp phần nào. Người câu cá dường như thờ ơ với mọi phiền nhiễu,
chỉ tập trung hòa mình vào cảnh sắc mùa thu, bỗng chợt tỉnh giấc mộng của mình để quay về hiện thực.
Nhưng không! Nguyễn Khuyến đâu có còn chờ thời. Khi thả hồn ngồi chờ câ cá, nhà thờ đã chỉ muốn hòa
mình vào thiên cảm nhận được hết không khí ở chính nơi thôn quê mình đang sinh sống. Có thể thấy, toàn
bộ hình tượng thơ “Thu điếu” đã sửa soạn cho thái độ này.
Ba chữ “đ” (đâu, đớp, dộng) miêu tả một chút xao động trong làn ao và rất nhiều xao động trong lòng thật là
tài tình khiến cho người khác phải ngã mũ thán phục. Kết hợp nghệ thuật lấy động tả tĩnh như khiến mạch
suy nghĩ của nhân vật lại càng thêm khắc khoải vì luyến tiếc. Ngụ ý của câu thơ muốn ta hiểu được cái cảm
giác nao nòng của người câu cá khi đi câu mà lòng lại xao xuyến không nguôi vì cảnh vật. Người đọc liên
tưởng đến một Lã Vọng câu cá chờ thời bên bờ sông Vị cách đây mấy nghìn năm. Sau tiếng lá thu chỉ còn
một tiếng cá đập, đó là tiếng thu của làng cũ. Âm thanh ấy hòa với âm thanh trong không trung, như đưa
hồn ta về với mùa thu của quê hương. Người đánh cá sống trong một tâm trạng buồn cô đơn và lặng lẽ.
Một cuộc đời thanh bạch, một tâm hồn thanh cao đáng quý.
Thu Điếu là một trong những tác phẩm lớn của tác giả Nguyễn Khuyến. Xuân Diệu từng tâm sự rằng ở bài
thơ của Nguyễn Khuyến có một nét xanh tuyệt vời mà miêu tả không thể hiểu hết vẻ đẹp, sự tinh túy. Nào là
xanh ao, xanh sóng, xanh trời, xanh trúc, xanh tre, bèo… và chỉ có một màu vàng của những chiếc lá mùa
thu "khẽ đưa vèo". Tuy nhiên, ẩn sâu dưới đáy khoảng lặng này lại ẩn chứa một nỗi buồn miên man của tác
giả. Tâm hồn thư thái, quý phái gắn bó với mùa thu quê hương, với tình yêu tha thiết. Mỗi nét của mùa thu
là một màu thu, âm thanh của mùa thu gợi lên hồn quê tiết trời thu, vần: veo - teo - vo - teo - bèo, tương
phản tạo nên sự hài hòa cân đối, giàu sức biểu lộ lại tạo nhạc điệu thơ nhẹ nhàng, trầm bổng. .thể hiện một
phong cách nghệ thuật vô cùng điêu luyện và hồn nhiên - thực sự xuất sắc trong các chương. Thu điếu lá
xứng đáng là một tác phẩm tả cảnh ngụ tình tiêu biểu xuất sắc trong chương trình ngữ văn lớp 11.