Bài tập chủ nghĩa Xã Hội học Câu 1: Trình bày đối tương, phương pháp và ý nghĩa việc nghiên cứu môn chủ nghĩa xã hội khoa học?

Bài tập chủ nghĩa Xã Hội học Câu 1: Trình bày đối tương, phương pháp và ý nghĩa việc nghiên cứu môn chủ nghĩa xã hội khoa học? được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

Bài tập chủ nghĩa Xã Hội học
Câu 1: Trình y đối tương, phương pháp ý nghĩa việc nghiên
cứu môn chủ nghĩa xã hội khoa học?
*Đối tượng nghiên cứu :
Đối tượng nghiên cứu của triết học kinh tế học chính trị Mác-
Lênin là cơ sở lý luận của chủ nghĩa xã hội khoa học
Triết học Mác-Lênincó đối tượng nghiên cứu những quy luật chung nhất
của tự nhiên, xã hội và tư duy. Triết học, dù theo trường phái nào, thì cũng
đều thế giới quan nhân sinh quan của con người; khi hội giai
cấp thì thế giới quan, nhân sinh quan mang tính giai cấp. Triết học Mác-
Lênin là thế giới quan, nhân sinh quan của giai cấp công nhân hiện đại, đại
biểu cho toàn thể nhân dân lao động trong thời đại hiện nay. Triết học
Mác-Lênin thế trở thành sở luận phương pháp luận chung
cho chủ nghĩa hội khoa học (và nhiều khoa học khác). Đặc biệt khi
luận giải về quy luật chung nhất của sự phát triển hội là do mâu thuẫn
giữa lực lượng sản xuất quan hệ sản xuất, triết học Mác-Lênin khẳng
định hội loài người sự kế tiếp của các hình thái kinh tế - hội như
“một quá trình lịch sử tự nhiên”. Quá trình đó tất yếu dẫn đến hình thái
kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa tất cả các nước với những hình thức,
bước đi và thời gian khác nhau.
Kinh tế học chính trị Mác-Lênin đối tượng nghiên cứu những quy
luật của các quan hệ hội hình thành phát triển trong quá trình sản
xuất và tái sản xuất của cải vật chất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng những
của cải đó trong những trình độ nhất định của sự phát triển hội loài
người; đặc biệt những quy luật trong chế độ bản chủ nghĩa quá
trình của cả thời đại ngày nay.chuyển biến tất yếu lên chủ nghĩa xã hội
Chủ nghĩa xã hội khoa học cũng phải dựa trên những sở lý luận bản
của kinh tế học chính trị Mác-Lênin mới thể làm những quy luật,
những vấn đề mà chủ nghĩa xã hội khoa học nghiên cứu của mỗi nước và
của thời đại ngày nay thời đại quá độ từ chủ nghĩabản lên chủ nghĩa
xã hội trên phạm vi toàn thế giới.
Đối tượng nghiên cứu của chủ nghĩa xã hội khoa học
Chủ nghĩa xã hội khoa học có đối tượng nghiên cứu là: những quy luật
tính quy luật chính trị - xã hội của quá trình phát sinh, hình thành và phát
triển hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa; những nguyên tắc
bản, những điều kiện, con đường, hình thức phương pháp đấu tranh
cách mạng của giai cấp công nhân để thực hiện sự chuyển biến từ chủ
nghĩa tư bản (và các chế độ hữu) lên chủ nghĩahội, chủ nghĩa cộng
sản.
Sự chuyển biến từ các chế độ tư hữu, từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội... mang tính quy luật khách quan của lịch sử nhân loại. Nhưng vì đó là
vấn đề xã hội, quy luật xã hội cho nên nó không tự diễn ra như quy luật tự
nhiên đều . Nhân tố thông qua những hoạt động của con người Người
ở đây lại trước hết là giai cấp công nhân hiện đại. Với ý nghĩa đó, các nhà
kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin khái quát rằng: “Chủ nghĩa cộng sản...
sự biểu hiện luận của lập trường của giai cấp sản”, 2. C.Mác
Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Nội, 1995, t.4, tr.399.,
“sự khái quát luận về những điều kiện giải phóng của giai cấp
sản
2
gắn với giải phóng con người, giải phóng xã hội.
Những nội dung luận khoa học chung nhất của chủ nghĩa hội khoa
học chủ nghĩa Mác-Lênin nêu ra cần được vận dụng cụ thể, đúng đắn
phát triển sáng tạo mỗi nước, trong những giai đoạn hoàn cảnh
lịch sử cụ thể. Nếu đâu biến những luận của chủ nghĩa hội khoa
học thành những công thức giáo điều thì ở đó đã làm mất tính biện chứng
- khoa học cách mạng cũng như giá tr sức sống của chủ nghĩa
hội khoa học.
Trong hệ thống nội dung luận của chủ nghĩa hội khoa học những
phạm trù, khái niệm, vấn đề mang tính quy luật rất cơ bản sau đây: “giai
cấp công nhân “sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân (gắn với
đảng cộng sản”); “hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa” (trong đó
đặc biệt là “xã hội xã hội chủ nghĩa”); “cách mạng xã hội chủ nghĩa”; “nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa và nhà nước hội chủ nghĩa”; “cơ cấu xã hội -
giai cấp, liên minh công nông các tầng lớp lao động...”; "vấn đề tôn
giáo trong quá trình xây dựng chủ nghĩa hội", “vấn đề dân tộc trong
quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội”; “vấn đề gia đình trong quá trình xây
dựng chủ nghĩa hội”; “vấn đề nguồn lực con người trong quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội”; “thời đại ngày nay”...
*Phương pháp nghiên cứu
Chủ nghĩa xã hội khoa học là bộ phận thứ ba của chủ nghĩa Mác-Lênin,
quan hệ chặt chẽ với hai bộ phận kia là triết học Mác-Lênin và kinh tế học
chính trị Mác-Lênin.
Phương pháp luận chung của chủ nghĩa xã hội khoa học
Chủ nghĩa xã hội khoa học sử dụng phương pháp luận chung nhất của chủ
nghĩa duy vật biện chứng chủ nghĩa duy vật lịch sử của triết học Mác-
Lênin: Chỉ có dựa trên phương pháp luận khoa học đó thì chủ nghĩa xã hội
khoa học mới luận giải đúng đắn, khoa học về sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân, về quá trình phát sinh, hình thành, phát triển của hình thái
kinh tế - hội cộng sản chủ nghĩa các khái niệm, phạm trù, các nội
dung khác của chủ nghĩa xã hội khoa học.
Trên sở phương pháp luận chung đó, chủ nghĩa hội khoa học cũng
đặc biệt chú trọng sử dụng những phương pháp khác, cụ thể hơn
những phương pháp có tính liên ngành, tổng hợp.
Các phương pháp đặc trưng của chủ nghĩa xã hội khoa học
Phương pháp kết hợp lịch sử - lôgíc. Đây cũng là một nội dung của phương
pháp luận triết học Mác-Lênin, nhưng càng đặc biệt quan trọng đối với
chủ nghĩa xã hội khoa học. Phải trên cơ sở những tư liệu thực tiễn của các
sự thật lịch sử phân tích để rút ra những nhận định, những khái quát
về lý luận kết cấu chặt chẽ, khoa học – tức là rút ra được lôgíc của lịch
sử (chứ không dừng lại ở sự kể lể về sự thật lịch sử). Các nhà kinh điển của
chủ nghĩa Mác-Lênin đã những tấm gương mẫu mực về việc sử dụng
phương pháp này khi phân tích lịch sử nhân loại, đặc biệt về sự phát
triển các phương thức sản xuất... để rút ra được lôgíc của quá trình lịch sử,
căn bản quy luật mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất quan hệ sản
xuất, giữa giai cấp bóc lột bị bóc lột, quy luật đấu tranh giai cấp dẫn
đến các cuộc cách mạng hội do đó, cuối cùng đấu tranh giai cấp
tất yếu dẫn đến chuyên chính sản", dẫn đến chủ nghĩa hội chủ
nghĩa cộng sản. Sau này, chính cái kết luận lôgíc khoa học đó đã vừa được
chứng minh vừa là nhân tố dẫn dắt tiến hành thắng lợi của Cách mạng xã
hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga (1917) sau đó hệ thống hội chủ
nghĩa thế giới ra đời với rất nhiều thành tựu mới cho nhân loại tiến bộ. Còn
sự sụp đổ của chế độ hội chủ nghĩa Đông Âu và Liên không phải
do cái tất yếu lôgíc của chủ nghĩa xã hội, mà trái lại, do các đảng cộng sản
ở các nước đó xa rời, phản bội cái tất yếu đã được luận giải khoa học trên
lập trường chủ nghĩa Mác-Lênin.
- Phương pháp khảo sát và phân tích về mặt chính trị - xã hội dựa trên các
điều kiện kinh tế - hội cụ thể phương pháp tính đặc thù của chủ
nghĩa xã hội khoa học. Khi nghiên cứu, khảo sát thực tế, thực tiễn một xã
hội cụ thể, đặc biệt là trong điều kiện của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
hội, những người nghiên cứu, khảo sát... phải luôn sự nhạy bén về
chính trị - xã hội trước tất cả các hoạt động và quan hệ xã hội, trong nước
quốc tế. Thường là, trong thời đại còn giai cấp đấu tranh giai cấp,
còn chính trị thì mọi hoạt động, mọi quan hệ hội các lĩnh vực, kể cả
khoa học công nghệ, tri thức sử dụng tri thức, các nguồn lực, các lợi
ích... đều chi phối mạnh nhất, nhưng lại vẻnhân tố chính trị
“đứng đằng sau hậu trường” (thậm chí cố tình che đậy như trong các đảng
chính phủ sản cầm quyền). Không chú ý phương pháp khảo sát
phân tích về mặt chính trị - hội, không nhạy bén chính trị lập
trường – bản lĩnh chính trị vững vàng, khoa học thì dễhồ, lầm lẫn, sai
lệch khôn lường.
- Các phương pháp tính liên ngành: Chủ nghĩa hội khoa học một
môn khoa học xã hội nói chung và khoa học chính trị - xã hội nói riêng, do
đó cần thiết phải sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu cụ thể của
các khoa học xã hội khác: như phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê,
so sánh, điều tra hội học, đồ hoá, hình hoá, v.v. để nghiên cứu
những khía cạnh chính trị - xã hội của các mặt hoạt động trong một xã hội
còn giai cấp, đặc biệt trong chủ nghĩa tư bảntrong chủ nghĩa hội
(kể cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội).
Có thể đề cập đến một phương pháp nghiên cứu có tính khái quát mà chủ
nghĩa xã hội khoa học cần sử dụng đó phương pháp tổng kết lý luận từ
thực tiễn, nhất là thực tiễn về chính trị - xã hội.
*Chức ng , nhiệm vụ của chủ nghĩa hội khoa học ý nghĩa việc
nghiên cứu chủ nghĩa xã hội khoa học
Chức năng và nhiệm vụ của chủ nghĩa xã hội khoa học
Thứ nhất, chủ nghĩa hội khoa học chức năng nhiệm vụ trang bị
những tri thức khoa học, đó hệ thống luận chính trị - hội
phương pháp luận khoa học chủ nghĩa Mác-Lênin đã phát hiện ra
luận giải quá trình tất yếu lịch sử dẫn đến hình thành, phát triển hình thái
kinh tế - hội cộng sản, giải phóng hội, giải phóng con người. Chức
năng này cũng thống nhất với chức năng của triết học Mác-Lênin kinh
tế chính trị học Mác-Lênin, nhưng trực tiếp nhất trang bị luận nhận
thức về cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Không làm được chức năng này, chủ nghĩa hội khoa học sẽ không thể
cung cấp cơ sở lý luận và phương pháp nhận thức về chính trị - xã hội cho
người nghiên cứu hoạt động thực tiễn trong cách mạng hội chủ
nghĩa xây dựng chủ nghĩa hội, đặc biệt cho các đảng cộng sản,
nhà nước xã hội chủ nghĩa với chức năng lãnh đạo và quản lý xã hội.
Thứ hai, chủ nghĩa hội khoa học chức năng nhiệm vụ trực tiếp
nhất giáo dục, trang bị lập trường tưởng chính trị của giai cấp công
nhân cho đảng cộng sản, giai cấp công nhân nhân dân lao động lập
trường hội chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa. Chính các nhà sáng lập ra
chủ nghĩa hội khoa học đã công lớn xây dựng hệ thống luận
phản ánh sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân rồi tuyên truyền, giáo
dục trở lại cho giai cấp công nhân hiện đại hiểu về sứ mệnh lịch sử và bản
chất của chính mình. Hệ thống luận đó đã trở thành hệ tưởng của
giai cấp công nhân hiện đại.
Không có hệ tư tưởng cách mạng và khoa học, không có lập trường và bản
lĩnh chính trị xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa thì giai cấp công nhân,
đảng của nhân dân lao động không thể tiến tới giành chính quyền
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản; không thể
đấu tranh với các hệ tưởng và các hoạt động thù địch chống chủ nghĩa
xã hội, chống nhân dân lao động.
Thứ ba định hướng, chủ nghĩa hội khoa học có chức năng và nhiệm vụ
về chính trị - hội cho mọi hoạt động của giai cấp công nhân, của đảng
cộng sản, của nhà nước của nhân dân lao động trên mọi lĩnh vực, sao
cho sự ổn định phát triển của hội luôn luôn đúng với bản chất, mục
tiêu xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa; tức là qua từng nấc thang phát
triển, tính chất xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa thuộc mọi lĩnh vực
của xã hội thể hiện ngày càng rõ hơn và hoàn thiện hơn.
Ý nghĩa của việc nghiên cứu, học tập chủ nghĩa xã hội khoa học
Về mặt luận: Việc nghiên cứu, học tập, vận dụng và phát triển luận
chủ nghĩa Mác-Lênin phải chú ý cả ba bộ phận hợp thành của nó. Nếu
không chú ý nghiên cứu, học tập, vận dụng, phát triển chủ nghĩa hội
khoa học sẽ làm cho triết học, kinh tế chính trị học Mác-Lênin dễ chệch
hướng chính trị - hội, trước hết chủ yếu chệch hướng bản chất,
mục tiêu xây dựng chủ nghĩa hội, chủ nghĩa cộng sản, giải phóng
hoàn toàn hội con người khỏi các chế độ hữu, áp bức, bất công,
chiến tranh, nghèo nàn lạc hậu mọi tai họa hội khác... thực tế
lịch sử nhân loại đã từng chứng kiến.
Nghiên cứu, học tập chủ nghĩahội khoa học còn ý nghĩa luận là:
trang bị những nhận thức chính trị - hội (như đối tượng, chức năng,
nhiệm vụ và phương pháp của chủ nghĩa xã hội khoa học đã nêu trên) cho
đảng cộng sản, nhà nước và nhân dân lao động trong quá trình bảo vệ
xây dựng chủ nghĩahội... Vì thế, các nhà kinh điển Mác-Lênin có khi
xác định rằng, chủ nghĩa hội khoa học khí luận của giai cấp
công nhân hiện đại và đảng của nó để thực hiện quá trình giải phóng nhân
loại giải phóng bản thân mình. Cũng như triết học kinh tế chính trị
học Mác-Lênin, chủ nghĩa xã hội khoa học không chỉ giải thích thế giới mà
căn bản chỗ (cả tự nhiên, hội bản thân concải tạo thế giới
người) theo hướng tiến bộ, văn minh.
Đội ngũ trí thức thế hệ trẻ nước ta hiện nay những lực lượng hội
trí tuệ, nhiều khả năngtâm huyết trong quá trình cải tạo xây
dựng hội hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Nếu chỉ thuần tuý chú trọng về
khoa học và công nghệ, phi chính trị, hoặchồ về chính trị vi phạm
pháp luật, họ càng không thể góp tài góp sức xây dựng Tổ quốc của mình.
Nghiên cứu, học tập chủ nghĩa xã hội khoa học chính là việc được trang bị
trực tiếp nhất về ý thức chính trị - xã hội, lập trườngtưởng chính trị
bản lĩnh cho mỗi cán bộ, đảng viên mọi công dân Việt Nam góp phần
thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, định hướng hội chủ nghĩa do
Đảng đề ra.
Nghiên cứu, học tập chủ nghĩa xã hội khoa học cũng làm cho ta có căn cứ
nhận thức khoa học để luôn cảnh giác, phân tích đúng và đấu tranh chống
lại những nhận thức sai lệch, những tuyên truyền chống phá của chủ
nghĩa đế quốc bọn phản động đối với Đảng ta, Nhà nước, chế đ ta;
chống chủ nghĩa hội, đi ngược lại xu thế lợi ích của nhân dân, dân
tộc và nhân loại tiến bộ.
Về mặt thực tiễn, bất kỳ một lý thuyết khoa học nào, đặc biệt là các khoa
học hội, bao giờ cũng khoảng cách nhất định so với thực tiễn, nhất
có tính quy luật. Nghiên cứu, học tập chủ nghĩanhững dự báo khoa học
hội khoa học lại càng thấynhững khoảng cách đó, bởi chủ nghĩa
xã hội trên , chưa có nước nào xây dựng hoàn chỉnh. Sau khi chế độthực tế
xã hội chủ nghĩa ở Đông ÂuLiên Xô sụp đổ, cùng với thoái trào của hệ
thống xã hội chủ nghĩa thế giới, lòng tin vào chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa
hội khoa học, chủ nghĩa Mác-Lênin của nhiều người có giảm sút. Đó
một thực tế dễ hiểu. thế, nghiên cứu, giảng dạy chủ nghĩa hội khoa
học càng khó khăn trong tình hình hiện nay cũng ý nghĩa chính trị
cấp bách.
Chỉ bình tĩnh sáng suốt, kiên định chủ động sáng tạo tìm ra
những nguyên nhânbản bản chất của những sai lầm, khuyết điểm,
khủng hoảng, đổ vỡ của những thành tựu to lớn trước đây cũng như
của những thành quả đổi mới, cải cách ở các nước xã hội chủ nghĩa, chúng
ta mới thể đi tới kết luận chuẩn xác rằng: do chủ nghĩakhông phải
hội một xu thế hội hoá mọi mặt của nhân loại; docũng không phải
chủ nghĩa Mác-Lênin, chủ nghĩa xã hội khoa học... làm các nước xã hội chủ
nghĩa khủng hoảng. Trái lại, chính là do các nước xã hội chủ nghĩa đã nhận
thức hành động trên nhiều vấn đề trái với chủ nghĩa hội, chủ nghĩa
Mác-Lênin... đã giáo điều, chủ quan duy ý chí, bảo thủ, kể cả việc đố kỵ,
xem nhẹ những thành quả chung của nhân loại, trong đóchủ nghĩa
bản; đồng thời do xuất hiện chủ nghĩa cơ hội – phản bội trong một số đảng
cộng sản sự phá hoại của chủ nghĩa đế quốc thực hiện âm mưu diễn
biến hoà bình đã làm cho chủ nghĩa xã hội thế giới lâm vào thoái trào.
Thấy rõ những vấn đề đó một cách khách quan, khoa học; đồngthực chất
thời được minh chứng bởi thành tựu rực rỡ của sự nghiệp đổi mới, cải cách
của các nước xã hội chủ nghĩa, trong đó có Việt Nam, chúng ta càng củng
cố bản lĩnh kiên định, tự tin tiếp tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa
chọn.
Do đó, việc nghiên cứu học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tưởng Hồ Chí
Minh nói chung, lý luận chính trị - xã hội nói riêng và các khoa học khác...
càng vấn đề thực tiễn bản cấp thiết. Xây dựng, chỉnh đốn Đảng,
chống mọi biểu hiện hội chủ nghĩa, dao động, thoái hoá, biến chất
trong đảng và cả xã hội, giáo dục lý luận chính trị - xã hội một cách cơ bản
khoa học tức là ta tiến hành củng cố niềm tin thật sự đối với chủ nghĩa xã
hội... cho cán bộ, học sinh, sinh viên, thanh thiếu niên và nhân dân. Tất
nhiên đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nướcmở rộng hợp
tác quốc tế; tiến hành hội nhập quốc tế, toàn cầu hoá về kinh tế; xây dựng
"kinh tế tri thức", thực hiện chế kinh tế thị trường định hướng hội
chủ nghĩa... đang những vận hội lớn, đồng thời cũng những thách
thức lớn đối với nhân dân ta, dân tộc ta. Đó cũng là trách nhiệm lịch sử rất
nặng nề và vẻ vang của cả thế hệ trẻ đối với sự nghiệp xây dựng xã hội xã
hội chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa trên đất nước ta.
Câu 2 : Phân tích những điều kiện quy định thực hiện sứ mệnh
lịch sử của giai cấp công nhân trên thế giới?
Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Theo chủ nghĩa Mác Lênin giai cấp công nhân giai cấp tiên tiến nhất
và cách mạng nhất, là lực lượng xã hội duy nhất có sứ mệnh lịch sử
Sứ mệnh lịch sử sự tổng quát của giai cấp công nhân thông qua chính
đảng tiền phong, giai cấp công nhân tổ chức, lãnh đạo nhân dân lao động
đấu tranh xóa bỏ các chế độ người bóc lột người, xóa bỏ chủ nghĩa tư bản,
giải phóng giai cấp công nhân nhân dân lao động khỏi mọi sự áp bức,
nghèo nàn, lạc hậu xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa văn minh
Theo quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen, việc thực hiện sứ mệnh lịch s
của giai cấp công nhân cần phải trải qua hai bước. Bước thứ nhất: giai cấp
công nhân biến thành giai cấp thống trị giành lấy chính quyền nhà
nước vào tay giai cấp mình. Bước thứ hai: giai cấp công nhân dùng sự
thống trị của mình để từng bước đoạt lấy toàn bộ tư bản trong tay giai cấp
tư sản để tập trung tất cả những công cụ sản xuất vào trong tay nhà nước
từ đó tiến hành tổ chức xây dựnghội mới - hội chủ nghĩa. Hai bước
này quan hệ chặt chẽ với nhau, giai cấp công nhân không thực hiện được
bước thứ nhất thì cũng không thực hiện được bước thứ hai nhưng bước thứ
hai là quan trọng nhất để giai cấp công nhân hoàn thành smệnh lịch sử
của mình.
Sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công nhân bắt nguồn từ địa vị kinh
tế-xã hội khách quan:
– Giai cấp công nhân ra đời và phát triển dưới chủ nghĩa tư bản, là bộ phận
quan trọng nhất, cách mạng nhất của lực lượng sản xuất có trình độ xã hội
hóa cao.
– Giai cấp công nhân không có tư liệu sản xuất nên buộc bán sức lao động
của mình cho nhà bản để sống. Họ bị giai cấp sản bóc lột giá trị
thặng dư mà họ đã tạo ra trong thời gian lao động.
– Địa vị kinh tếhội giúp cho giai cấp công nhân trở thành giai cấp cách
mạng triệt để khả năng thực hiện sứ mệnh lịch sử, đó khả năng
đoàn kết toàn thể giai cấp công nhân các dân tộc bị áp bức trên quy
mô quốc tế chống chủ nghĩa đế quốc.
Trong suốt những năm qua, giai cấp công nhân Việt Nam đã khẳng định
được vai trò của mình, xứng đáng bộ phận của giai cấp công nhân thế
giới, tiếp tục lấy chủ nghĩa Mác Lênin tưởng Hồ Chí Minh nền
tảng tưởng. Ngày nay, công nhân Việt Nam chủ động tham gia giải
quyết các vấn đề là thu hút sự quan tâm hàng đầu của Việt Nam nói riêng
thế giới nói chung. Các vấn đề đó tính thời sự cao như dân số, môi
trường, văn hóa, năng lượng, lương thực,…
Giai cấp công nhân lực lượng kiên định bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ
hội chủ nghĩa, không chấp nhận chế độ đa đảng, đa nguyên chính trị.
Giai cấp công nhân tham gia đông đảo vào các thành phần kinh tế, lấy
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, hội công bằng dân chủ văn minh để
phấn đấu.
Giai cấp công nhân lực lượng tiên phong trong đấu tranh phòng chống
tiêu cực, tham nhũng, tệ nạn hội, lực lượng chính trị hội quan
trọng trong việc bảo vệ tổ quốc, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự hội,
xây dựng nền quốc phòng toàn dân.
Kết luận: Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam là xóa bỏ chế
độ tư bản chủ nghĩa, xóa bỏ chế độ bóc lột, tự giải phóng, giải phóng nhân
dân lao động toàn thể nhân loại khỏi sự áp bức, bóc lột, xây dựng
thành công xã hội cộng sản chủ nghĩa. Và
Phát triển về số lượng chất lượng, nâng cao giác ngộbản lĩnh chính
trị, trình đ học vấn nghề nghiệp thực hiện “tri thức hóa công nhân”,
nâng cao năng lực ứng dụng công nghệ vào sản xuất nhằm tăng năng
suất, chất lượng và hiệu quả làm việc, xứng đáng với vai trò lãnh đạo cách
mạng trong thời kỳ mới.
Những điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch scủa giai cấp
công nhân
Giai cấp công nhân những nội dung s mệnh lịch sử nêu trên
donhững điều kiện khách quan sau đây quy định:
Địa vị kinh tế hội của giai cấp công nhân trong chủ
nghĩa tư bản
Trong mỗi hình thái kinh tế – xã hội, lực lượng sản xuất là yếu tố động nhất
luôn vận động phát triển do sự thay đổi không ngừng của công cụ lao
động ở trình độ ngày càng cao. Nhưng trình độ của công cụ lao động thay
đổi được là kết quả của hoạt động sáng tạo của con người.Trong chủ nghĩa
bản chủ nghĩa hội với nền sản xuất đại công nghiệp ngày càng
phát triển, giai cấp công nhân trở thành bộ phận quan trọng nhất, cách
mạng nhất trong các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất. Lao động sống
của giai cấp công nhân tạo ra phần lớn của cải vật chất cho hội
đóng vai trò ý nghĩa quyết định đối với sự tồn tại phát triển của
hội.
Trong chủ nghĩa bản, do không hoặc rất ít liệu sản xuất, giai
cấp công nhân buộc phải bán sức lao động trở thành người làm thuê cho
giai cấp sản bị giai cấp sản bóc lột nặng nề. Trong chủ nghĩa
bản, giai cấp tư sản chỉ có thể bóc lột được giai cấp công nhân khi họ nắm
giữ, chi phối tư liệu sản xuất của xã hội. Do vậy, bằng mọi giá, giai cấp tư
sản phải duy trì chế độ sở hữu tư nhân vềliệu sản xuất. Mặt khác, giai
cấp công nhân cũng chỉ được giải phóng khỏi mọi sự áp bức, bóc lột khi
xoá bỏ được chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuấtthay thế vào đó
là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất.
Giai cấp tư sản bóc lột, song giai cấp công nhân là đối tượng bị bóc lột trực
tiếp và nặng nề nhất. Do vậy, lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân đối lập
trực tiếp với lợi ích cơ bản của giai cấp tư sản.Giai cấp công nhân có lợi ích
cơ bản thống nhất với lợi ích của đại đa số nhân dân lao động, bởi vì muốn
giải phóng mình khỏi mọi sự áp bức, bóc lột, giai cấp công nhân phải đấu
tranh xoá bỏ chế độ sở hữu nhân về liệu sản xuất. Nếu điều này trở
thành hiện thực thì giai cấp công nhân không chỉ giải phóng mình mà còn
giải phóng toàn hội khỏi mọi sự áp bức, bóc lột. Hơn nữa, do điều kiện
làm việc và điều kiện sống chủ yếu là ở các khu công nghiệp tập trung
các thành phố lớn, nên giai cấp công nhân khả năng tập hợp lực
lượng, đoàn kết với các giai cấp, tầng lớp nhân dân lao động khác trong
cuộc đấu tranh chống lại giai cấp tư sản để giải phóng mình và giải phóng
toàn xã hội.
Đặc điểm chính trị – xã hội của giai cấp công nhân
Do địa vị kinh tế - xã hội quy định khiến cho giai cấp công nhânnhững
đặc điểm chính trị –hội mà những giai cấp tầng lớp khác không thể
có được. Đó là những đặc điểm sau:
Thứ nhất: Giai cấp công nhân tính tiên phong tinh thần cách mạng
triệt để nhất. Tính tiên phong của giai cấp công nhân thể hiện việc
đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến của thời đại. Do yêu cầu
khách quan của việc đổi mới liên tục công nghệ của sản xuất công nghiệp,
nên giai cấp công nhân phải không ngừng học tập, rèn luyện trau dồi tri
thức chuyên môn kỹ thuật, nâng cao tay nghề trình độ ngày càng
cao.Giai cấp công nhân hệ tưởng độc lập, được trang bị bởi luận
tiền phong là chủ nghĩa Mác-Lênin là lực lượng đi đầu trong mọi phong
trào cách mạng x bỏ áp bức, bóc lột, xây dựng hội mới tiến bộ
hạnh phúc của con người.Giai cấp công nhân có tinh thần cách mạng triệt
để nhất bởi vì lợi ích của họ mâu thuẫn trực tiếp với lợi ích của giai cấp
sản. Lợi ích của giai cấp công nhân chỉ thực sự được đảm bảo khi x bỏ
triệt để chế độ sở hữu nhân bản chủ nghĩa các hình thức hữu
khác. Trong điều kiện của chủ nghĩa bản, giai cấp công nhân chỉ được
giải phóng khi đồng thời giải phóng toàn hội khỏi mọi sự áp bức, bóc
lột. Tính triệt để cách mạng của giai cấp công nhân còn được thể hiện
trong tiến trình cách mạng không ngừng cho tới khi xây dựng thành công
chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản trên phạm vi thế giới.
Thứ hai: Giai cấp công nhân giai cấp ý thức tổ chức kỷ luật cao.Sản
xuất công nghiệp hiện đại theo dây chuyền tính chuyên môn hoá cao
độ đã khách quan rèn luyện cho giai cấp công nhân có tính tổ chức kỷ luật
cao trong quá trình lao động sản xuất. Đồng thời, bản thân cuộc đấu tranh
một mất một còn của giai cấp công nhân chống lại giai cấpsản đã tôi
luyện cho giai cấp công nhân phải có ý thức tổ chức cao.
Thứ ba: Giai cấp công nhân có bản chất quốc tế. Bản chất quốc tế của giai
cấp công nhân thể hiện địa vị kinh tế xã hội, nội dung sứ mệnh lịch
sử của họ giống nhau trên toàn thế giới. Bản chất quốc tế của giai cấp
công nhân được còn xuất phát từ yêucầu khách quan của sản xuất
công nghiệp hiện đại ngày nay đã mang tính quốc tế hoá và toàn cầu hoá
rộng rãi. Hơn nữa, mục tiêu lợi nhuận, giai cấp sản các nước phải
liên kết với nhau trên phạm vi quốc tế. Do vậy, muốn chiến thắng giai cấp
sản chủ nghĩa bản, giai cấp công nhân ở các nước phải đoàn kết
lại tạo thành phong trào đấu tranh mạnh mẽ trở thành lực lượng quốc
tế hùng mạnh.
Câu 3: Phân tích nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Việt Nam hiện nay?
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời và phát triển gắn liền với chính sách
khai thác thuộc địa của thực dân Pháp Việt Nam. Bên cạnh những đặc
điểm của giai cấp công nhân nói chung, giai cấp công nhân Việt Nam
những đặc điểm riêng. Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trước giai cấp
| 1/14

Preview text:

Bài tập chủ nghĩa Xã Hội học
Câu 1: Trình bày đối tương, phương pháp và ý nghĩa việc nghiên
cứu môn chủ nghĩa xã hội khoa học?

*Đối tượng nghiên cứu :
Đối tượng nghiên cứu của triết học và kinh tế học chính trị Mác-
Lênin là cơ sở lý luận của chủ nghĩa xã hội khoa học
Triết học Mác-Lênincó đối tượng nghiên cứu là những quy luật chung nhất
của tự nhiên, xã hội và tư duy. Triết học, dù theo trường phái nào, thì cũng
đều là thế giới quan và nhân sinh quan của con người; khi xã hội có giai
cấp thì thế giới quan, nhân sinh quan mang tính giai cấp. Triết học Mác-
Lênin là thế giới quan, nhân sinh quan của giai cấp công nhân hiện đại, đại
biểu cho toàn thể nhân dân lao động trong thời đại hiện nay. Triết học
Mác-Lênin vì thế mà trở thành cơ sở lý luận và phương pháp luận chung
cho chủ nghĩa xã hội khoa học
(và nhiều khoa học khác). Đặc biệt là khi
luận giải về quy luật chung nhất của sự phát triển xã hội là do mâu thuẫn
giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, triết học Mác-Lênin khẳng
định xã hội loài người có sự kế tiếp của các hình thái kinh tế - xã hội như
“một quá trình lịch sử tự nhiên”. Quá trình đó tất yếu dẫn đến hình thái
kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa
ở tất cả các nước với những hình thức,
bước đi và thời gian khác nhau.
Kinh tế học chính trị Mác-Lênincó đối tượng nghiên cứu là những quy
luật của các quan hệ xã hội hình thành và phát triển trong quá trình sản
xuất và tái sản xuất của cải vật chất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng những
của cải đó trong những trình độ nhất định của sự phát triển xã hội loài
người; đặc biệt là những quy luật trong chế độ tư bản chủ nghĩa và quá
trình chuyển biến tất yếu lên chủ nghĩa xã hội của cả thời đại ngày nay.
Chủ nghĩa xã hội khoa học cũng phải dựa trên những cơ sở lý luận cơ bản
của kinh tế học chính trị Mác-Lênin mới có thể làm rõ những quy luật,
những vấn đề mà chủ nghĩa xã hội khoa học nghiên cứu của mỗi nước và
của thời đại ngày nay – thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa
xã hội trên phạm vi toàn thế giới. 
Đối tượng nghiên cứu của chủ nghĩa xã hội khoa học
Chủ nghĩa xã hội khoa học có đối tượng nghiên cứu là: những quy luật và
tính quy luật chính trị - xã hội
của quá trình phát sinh, hình thành và phát
triển hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa; những nguyên tắc cơ
bản, những điều kiện, con đường, hình thức và phương pháp đấu tranh
cách mạng của giai cấp công nhân để thực hiện sự chuyển biến từ chủ
nghĩa tư bản (và các chế độ tư hữu) lên chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
Sự chuyển biến từ các chế độ tư hữu, từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội... mang tính quy luật khách quan của lịch sử nhân loại. Nhưng vì đó là
vấn đề xã hội, quy luật xã hội cho nên nó không tự diễn ra như quy luật tự
nhiên mà đều thông qua những hoạt động của con người. Nhân tố Người
ở đây lại trước hết là giai cấp công nhân hiện đại. Với ý nghĩa đó, các nhà
kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin khái quát rằng: “Chủ nghĩa cộng sản...
là sự biểu hiện lý luận của lập trường của giai cấp vô sản”, 2. C.Mác và
Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.4, tr.399.,
là “sự khái quát lý luận về những điều kiện giải phóng của giai cấp vô
sản”2 gắn với giải phóng con người, giải phóng xã hội.
Những nội dung lý luận khoa học chung nhất của chủ nghĩa xã hội khoa
học mà chủ nghĩa Mác-Lênin nêu ra cần được vận dụng cụ thể, đúng đắn
và phát triển sáng tạo ở mỗi nước, trong những giai đoạn và hoàn cảnh
lịch sử cụ thể. Nếu ở đâu biến những lý luận của chủ nghĩa xã hội khoa
học thành những công thức giáo điều thì ở đó đã làm mất tính biện chứng
- khoa học và cách mạng cũng như giá trị và sức sống của chủ nghĩa xã hội khoa học.
Trong hệ thống nội dung lý luận của chủ nghĩa xã hội khoa học có những
phạm trù, khái niệm, vấn đề mang tính quy luật rất cơ bản sau đây: “giai
cấp công nhân” và “sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân” (gắn với
đảng cộng sản”); “hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa” (trong đó
đặc biệt là “xã hội xã hội chủ nghĩa”); “cách mạng xã hội chủ nghĩa”; “nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa và nhà nước xã hội chủ nghĩa”; “cơ cấu xã hội -
giai cấp, liên minh công nông và các tầng lớp lao động...”; "vấn đề tôn
giáo trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội", “vấn đề dân tộc trong
quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội”; “vấn đề gia đình trong quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội”; “vấn đề nguồn lực con người trong quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội”; “thời đại ngày nay”...
*Phương pháp nghiên cứu
Chủ nghĩa xã hội khoa học là bộ phận thứ ba của chủ nghĩa Mác-Lênin, có
quan hệ chặt chẽ với hai bộ phận kia là triết học Mác-Lênin và kinh tế học chính trị Mác-Lênin. 
Phương pháp luận chung của chủ nghĩa xã hội khoa học
Chủ nghĩa xã hội khoa học sử dụng phương pháp luận chung nhất của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của triết học Mác-
Lênin: Chỉ có dựa trên phương pháp luận khoa học đó thì chủ nghĩa xã hội
khoa học mới luận giải đúng đắn, khoa học về sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân, về quá trình phát sinh, hình thành, phát triển của hình thái
kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa và các khái niệm, phạm trù, các nội
dung khác của chủ nghĩa xã hội khoa học.
Trên cơ sở phương pháp luận chung đó, chủ nghĩa xã hội khoa học cũng
đặc biệt chú trọng sử dụng những phương pháp khác, cụ thể hơn và
những phương pháp có tính liên ngành, tổng hợp. 
Các phương pháp đặc trưng của chủ nghĩa xã hội khoa học
Phương pháp kết hợp lịch sử - lôgíc. Đây cũng là một nội dung của phương
pháp luận triết học Mác-Lênin, nhưng nó càng đặc biệt quan trọng đối với
chủ nghĩa xã hội khoa học. Phải trên cơ sở những tư liệu thực tiễn của các
sự thật lịch sử mà phân tích để rút ra những nhận định, những khái quát
về lý luận có kết cấu chặt chẽ, khoa học – tức là rút ra được lôgíc của lịch
sử (chứ không dừng lại ở sự kể lể về sự thật lịch sử). Các nhà kinh điển của
chủ nghĩa Mác-Lênin đã là những tấm gương mẫu mực về việc sử dụng
phương pháp này khi phân tích lịch sử nhân loại, đặc biệt là về sự phát
triển các phương thức sản xuất... để rút ra được lôgíc của quá trình lịch sử,
căn bản là quy luật mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất
, giữa giai cấp bóc lột và bị bóc lột, quy luật đấu tranh giai cấp dẫn
đến các cuộc cách mạng xã hội và do đó, cuối cùng “đấu tranh giai cấp
tất yếu dẫn đến chuyên chính vô sản"
, dẫn đến chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa cộng sản. Sau này, chính cái kết luận lôgíc khoa học đó đã vừa được
chứng minh vừa là nhân tố dẫn dắt tiến hành thắng lợi của Cách mạng xã
hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga (1917) và sau đó là hệ thống xã hội chủ
nghĩa thế giới ra đời với rất nhiều thành tựu mới cho nhân loại tiến bộ. Còn
sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô không phải
do cái tất yếu lôgíc của chủ nghĩa xã hội, mà trái lại, do các đảng cộng sản
ở các nước đó xa rời, phản bội cái tất yếu đã được luận giải khoa học trên
lập trường chủ nghĩa Mác-Lênin.
- Phương pháp khảo sát và phân tích về mặt chính trị - xã hội dựa trên các
điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể
là phương pháp có tính đặc thù của chủ
nghĩa xã hội khoa học. Khi nghiên cứu, khảo sát thực tế, thực tiễn một xã
hội cụ thể, đặc biệt là trong điều kiện của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, những người nghiên cứu, khảo sát... phải luôn có sự nhạy bén về
chính trị - xã hội
trước tất cả các hoạt động và quan hệ xã hội, trong nước
và quốc tế. Thường là, trong thời đại còn giai cấp và đấu tranh giai cấp,
còn chính trị thì mọi hoạt động, mọi quan hệ xã hội ở các lĩnh vực, kể cả
khoa học công nghệ, tri thức và sử dụng tri thức, các nguồn lực, các lợi
ích... đều có nhân tố chính trị chi phối mạnh nhất, nhưng nó lại có vẻ
“đứng đằng sau hậu trường” (thậm chí cố tình che đậy như trong các đảng
và chính phủ tư sản cầm quyền). Không chú ý phương pháp khảo sát và
phân tích về mặt chính trị - xã hội, không có nhạy bén chính trị và lập
trường – bản lĩnh chính trị vững vàng, khoa học thì dễ mơ hồ, lầm lẫn, sai lệch khôn lường.
- Các phương pháp có tính liên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học là một
môn khoa học xã hội nói chung và khoa học chính trị - xã hội nói riêng, do
đó nó cần thiết phải sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu cụ thể của
các khoa học xã hội khác: như phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê,
so sánh, điều tra xã hội học, sơ đồ hoá, mô hình hoá, v.v. để nghiên cứu
những khía cạnh chính trị - xã hội của các mặt hoạt động trong một xã hội
còn giai cấp, đặc biệt là trong chủ nghĩa tư bản và trong chủ nghĩa xã hội
(kể cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội).
Có thể đề cập đến một phương pháp nghiên cứu có tính khái quát mà chủ
nghĩa xã hội khoa học cần sử dụng đó là phương pháp tổng kết lý luận từ
thực tiễn
, nhất là thực tiễn về chính trị - xã hội.
*Chức năng , nhiệm vụ của chủ nghĩa xã hội khoa học và ý nghĩa việc
nghiên cứu chủ nghĩa xã hội khoa học

Chức năng và nhiệm vụ của chủ nghĩa xã hội khoa học
Thứ nhất, chủ nghĩa xã hội khoa học có chức năng và nhiệm vụ trang bị
những tri thức khoa học, đó là hệ thống lý luận chính trị - xã hội và
phương pháp luận khoa học mà chủ nghĩa Mác-Lênin đã phát hiện ra và
luận giải quá trình tất yếu lịch sử dẫn đến hình thành, phát triển hình thái
kinh tế - xã hội cộng sản, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Chức
năng này cũng thống nhất với chức năng của triết học Mác-Lênin và kinh
tế chính trị học Mác-Lênin, nhưng trực tiếp nhất là trang bị lý luận nhận
thức về cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Không làm được chức năng này, chủ nghĩa xã hội khoa học sẽ không thể
cung cấp cơ sở lý luận và phương pháp nhận thức về chính trị - xã hội cho
người nghiên cứu và hoạt động thực tiễn trong cách mạng xã hội chủ
nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là cho các đảng cộng sản,
nhà nước xã hội chủ nghĩa với chức năng lãnh đạo và quản lý xã hội.
Thứ hai, chủ nghĩa xã hội khoa học có chức năng và nhiệm vụ trực tiếp
nhất là giáo dục, trang bị lập trường tư tưởng chính trị của giai cấp công
nhân
cho đảng cộng sản, giai cấp công nhân và nhân dân lao động – lập
trường xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa. Chính các nhà sáng lập ra
chủ nghĩa xã hội khoa học đã có công lớn là xây dựng hệ thống lý luận
phản ánh sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân rồi tuyên truyền, giáo
dục trở lại cho giai cấp công nhân hiện đại hiểu về sứ mệnh lịch sử và bản
chất của chính mình. Hệ thống lý luận đó đã trở thành hệ tư tưởng của
giai cấp công nhân hiện đại
.
Không có hệ tư tưởng cách mạng và khoa học, không có lập trường và bản
lĩnh chính trị xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa thì giai cấp công nhân,
đảng của nó và nhân dân lao động không thể tiến tới giành chính quyền
và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản; không thể
đấu tranh với các hệ tư tưởng và các hoạt động thù địch chống chủ nghĩa
xã hội, chống nhân dân lao động.
Thứ ba, chủ nghĩa xã hội khoa học có chức năng và nhiệm vụ định hướng
về chính trị - xã hội
cho mọi hoạt động của giai cấp công nhân, của đảng
cộng sản, của nhà nước và của nhân dân lao động trên mọi lĩnh vực, sao
cho sự ổn định và phát triển của xã hội luôn luôn đúng với bản chất, mục
tiêu xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa; tức là qua từng nấc thang phát
triển, tính chất xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa thuộc mọi lĩnh vực
của xã hội thể hiện ngày càng rõ hơn và hoàn thiện hơn. 
Ý nghĩa của việc nghiên cứu, học tập chủ nghĩa xã hội khoa học
Về mặt lý luận: Việc nghiên cứu, học tập, vận dụng và phát triển lý luận
chủ nghĩa Mác-Lênin là phải chú ý cả ba bộ phận hợp thành của nó. Nếu
không chú ý nghiên cứu, học tập, vận dụng, phát triển chủ nghĩa xã hội
khoa học sẽ làm cho triết học, kinh tế chính trị học Mác-Lênin dễ chệch
hướng chính trị - xã hội, trước hết và chủ yếu là chệch hướng bản chất,
mục tiêu là xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản, giải phóng
hoàn toàn xã hội và con người khỏi các chế độ tư hữu, áp bức, bất công,
chiến tranh, nghèo nàn lạc hậu và mọi tai họa xã hội khác... mà thực tế
lịch sử nhân loại đã từng chứng kiến.
Nghiên cứu, học tập chủ nghĩa xã hội khoa học còn có ý nghĩa lý luận là:
trang bị những nhận thức chính trị - xã hội (như đối tượng, chức năng,
nhiệm vụ và phương pháp của chủ nghĩa xã hội khoa học đã nêu trên) cho
đảng cộng sản, nhà nước và nhân dân lao động trong quá trình bảo vệ và
xây dựng chủ nghĩa xã hội... Vì thế, các nhà kinh điển Mác-Lênin có lý khi
xác định rằng, chủ nghĩa xã hội khoa học là vũ khí lý luận của giai cấp
công nhân hiện đại và đảng của nó để thực hiện quá trình giải phóng nhân
loại và giải phóng bản thân mình. Cũng như triết học và kinh tế chính trị
học Mác-Lênin, chủ nghĩa xã hội khoa học không chỉ giải thích thế giới mà
căn bản là ở chỗ cải tạo thế giới (cả tự nhiên, xã hội và bản thân con
người) theo hướng tiến bộ, văn minh.
Đội ngũ trí thức và thế hệ trẻ nước ta hiện nay là những lực lượng xã hội
có trí tuệ, có nhiều khả năng và tâm huyết trong quá trình cải tạo và xây
dựng xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Nếu chỉ thuần tuý chú trọng về
khoa học và công nghệ, phi chính trị, hoặc mơ hồ về chính trị và vi phạm
pháp luật, họ càng không thể góp tài góp sức xây dựng Tổ quốc của mình.
Nghiên cứu, học tập chủ nghĩa xã hội khoa học chính là việc được trang bị
trực tiếp nhất
về ý thức chính trị - xã hội, lập trường tư tưởng chính trị và
bản lĩnh cho mỗi cán bộ, đảng viên và mọi công dân Việt Nam góp phần
thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, định hướng xã hội chủ nghĩa do Đảng đề ra.
Nghiên cứu, học tập chủ nghĩa xã hội khoa học cũng làm cho ta có căn cứ
nhận thức khoa học để luôn cảnh giác, phân tích đúng và đấu tranh chống
lại những nhận thức sai lệch, những tuyên truyền chống phá của chủ
nghĩa đế quốc và bọn phản động đối với Đảng ta, Nhà nước, chế độ ta;
chống chủ nghĩa xã hội, đi ngược lại xu thế và lợi ích của nhân dân, dân
tộc và nhân loại tiến bộ.
Về mặt thực tiễn, bất kỳ một lý thuyết khoa học nào, đặc biệt là các khoa
học xã hội, bao giờ cũng có khoảng cách nhất định so với thực tiễn, nhất
những dự báo khoa học có tính quy luật. Nghiên cứu, học tập chủ nghĩa
xã hội khoa học lại càng thấy rõ những khoảng cách đó, bởi vì chủ nghĩa
xã hội trên thực tế, chưa có nước nào xây dựng hoàn chỉnh. Sau khi chế độ
xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, cùng với thoái trào của hệ
thống xã hội chủ nghĩa thế giới, lòng tin vào chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa
xã hội khoa học, chủ nghĩa Mác-Lênin của nhiều người có giảm sút. Đó là
một thực tế dễ hiểu. Vì thế, nghiên cứu, giảng dạy chủ nghĩa xã hội khoa
học càng khó khăn trong tình hình hiện nay và cũng có ý nghĩa chính trị cấp bách.
Chỉ có bình tĩnh và sáng suốt, kiên định và chủ động sáng tạo tìm ra
những nguyên nhân cơ bảnbản chất của những sai lầm, khuyết điểm,
khủng hoảng, đổ vỡ và của những thành tựu to lớn trước đây cũng như
của những thành quả đổi mới, cải cách ở các nước xã hội chủ nghĩa, chúng
ta mới có thể đi tới kết luận chuẩn xác rằng: không phải do chủ nghĩa xã
hội – một xu thế xã hội hoá mọi mặt của nhân loại; cũng không phải do
chủ nghĩa Mác-Lênin, chủ nghĩa xã hội khoa học... làm các nước xã hội chủ
nghĩa khủng hoảng. Trái lại, chính là do các nước xã hội chủ nghĩa đã nhận
thức và hành động trên nhiều vấn đề trái với chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa
Mác-Lênin... đã giáo điều, chủ quan duy ý chí, bảo thủ, kể cả việc đố kỵ,
xem nhẹ những thành quả chung của nhân loại, trong đó có chủ nghĩa tư
bản; đồng thời do xuất hiện chủ nghĩa cơ hội – phản bội trong một số đảng
cộng sản và sự phá hoại của chủ nghĩa đế quốc thực hiện âm mưu diễn
biến hoà bình đã làm cho chủ nghĩa xã hội thế giới lâm vào thoái trào.
Thấy rõ thực chất những vấn đề đó một cách khách quan, khoa học; đồng
thời được minh chứng bởi thành tựu rực rỡ của sự nghiệp đổi mới, cải cách
của các nước xã hội chủ nghĩa, trong đó có Việt Nam, chúng ta càng củng
cố bản lĩnh kiên định, tự tin tiếp tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn.
Do đó, việc nghiên cứu học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh nói chung, lý luận chính trị - xã hội nói riêng và các khoa học khác...
càng là vấn đề thực tiễn cơ bản và cấp thiết. Xây dựng, chỉnh đốn Đảng,
chống mọi biểu hiện cơ hội chủ nghĩa, dao động, thoái hoá, biến chất
trong đảng và cả xã hội, giáo dục lý luận chính trị - xã hội một cách cơ bản
khoa học tức là ta tiến hành củng cố niềm tin thật sự đối với chủ nghĩa xã
hội
... cho cán bộ, học sinh, sinh viên, thanh thiếu niên và nhân dân. Tất
nhiên đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và mở rộng hợp
tác quốc tế; tiến hành hội nhập quốc tế, toàn cầu hoá về kinh tế; xây dựng
"kinh tế tri thức", thực hiện cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa... đang là những vận hội lớn, đồng thời cũng có những thách
thức lớn đối với nhân dân ta, dân tộc ta. Đó cũng là trách nhiệm lịch sử rất
nặng nề và vẻ vang của cả thế hệ trẻ đối với sự nghiệp xây dựng xã hội xã
hội chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa trên đất nước ta.

Câu 2 : Phân tích những điều kiện quy định và thực hiện sứ mệnh
lịch sử của giai cấp công nhân trên thế giới?

Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Theo chủ nghĩa Mác – Lênin giai cấp công nhân là giai cấp tiên tiến nhất
và cách mạng nhất, là lực lượng xã hội duy nhất có sứ mệnh lịch sử
Sứ mệnh lịch sử là sự tổng quát của giai cấp công nhân thông qua chính
đảng tiền phong, giai cấp công nhân tổ chức, lãnh đạo nhân dân lao động
đấu tranh xóa bỏ các chế độ người bóc lột người, xóa bỏ chủ nghĩa tư bản,
giải phóng giai cấp công nhân nhân dân lao động khỏi mọi sự áp bức,
nghèo nàn, lạc hậu xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa văn minh
Theo quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen, việc thực hiện sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân cần phải trải qua hai bước. Bước thứ nhất: giai cấp
công nhân biến thành giai cấp thống trị và giành lấy chính quyền nhà
nước vào tay giai cấp mình. Bước thứ hai: giai cấp công nhân dùng sự
thống trị của mình để từng bước đoạt lấy toàn bộ tư bản trong tay giai cấp
tư sản để tập trung tất cả những công cụ sản xuất vào trong tay nhà nước
từ đó tiến hành tổ chức xây dựng xã hội mới - xã hội chủ nghĩa. Hai bước
này quan hệ chặt chẽ với nhau, giai cấp công nhân không thực hiện được
bước thứ nhất thì cũng không thực hiện được bước thứ hai nhưng bước thứ
hai là quan trọng nhất để giai cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình.
Sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công nhân bắt nguồn từ địa vị kinh tế-xã hội khách quan:
– Giai cấp công nhân ra đời và phát triển dưới chủ nghĩa tư bản, là bộ phận
quan trọng nhất, cách mạng nhất của lực lượng sản xuất có trình độ xã hội hóa cao.
– Giai cấp công nhân không có tư liệu sản xuất nên buộc bán sức lao động
của mình cho nhà tư bản để sống. Họ bị giai cấp tư sản bóc lột giá trị
thặng dư mà họ đã tạo ra trong thời gian lao động.
– Địa vị kinh tế xã hội giúp cho giai cấp công nhân trở thành giai cấp cách
mạng triệt để và có khả năng thực hiện sứ mệnh lịch sử, đó là khả năng
đoàn kết toàn thể giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức trên quy
mô quốc tế chống chủ nghĩa đế quốc.
Trong suốt những năm qua, giai cấp công nhân Việt Nam đã khẳng định
được vai trò của mình, xứng đáng là bộ phận của giai cấp công nhân thế
giới, tiếp tục lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền
tảng tư tưởng. Ngày nay, công nhân Việt Nam chủ động tham gia giải
quyết các vấn đề là thu hút sự quan tâm hàng đầu của Việt Nam nói riêng
và thế giới nói chung. Các vấn đề đó có tính thời sự cao như dân số, môi
trường, văn hóa, năng lượng, lương thực,…
Giai cấp công nhân là lực lượng kiên định bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã
hội chủ nghĩa, không chấp nhận chế độ đa đảng, đa nguyên chính trị.
Giai cấp công nhân tham gia đông đảo vào các thành phần kinh tế, lấy
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh để phấn đấu.
Giai cấp công nhân là lực lượng tiên phong trong đấu tranh phòng chống
tiêu cực, tham nhũng, tệ nạn xã hội, là lực lượng chính trị – xã hội quan
trọng trong việc bảo vệ tổ quốc, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự xã hội,
xây dựng nền quốc phòng toàn dân.
Kết luận: Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam là xóa bỏ chế
độ tư bản chủ nghĩa, xóa bỏ chế độ bóc lột, tự giải phóng, giải phóng nhân
dân lao động và toàn thể nhân loại khỏi sự áp bức, bóc lột, xây dựng
thành công xã hội cộng sản chủ nghĩa. Và
Phát triển về số lượng và chất lượng, nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính
trị, trình độ học vấn và nghề nghiệp thực hiện “tri thức hóa công nhân”,
nâng cao năng lực ứng dụng công nghệ vào sản xuất nhằm tăng năng
suất, chất lượng và hiệu quả làm việc, xứng đáng với vai trò lãnh đạo cách
mạng trong thời kỳ mới. 
Những điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Giai cấp công nhân có những nội dung sứ mệnh lịch sử nêu trên là
donhững điều kiện khách quan sau đây quy định:
 Địa vị kinh tế – xã hội của giai cấp công nhân trong chủ nghĩa tư bản
Trong mỗi hình thái kinh tế – xã hội, lực lượng sản xuất là yếu tố động nhất
và luôn vận động phát triển do sự thay đổi không ngừng của công cụ lao
động ở trình độ ngày càng cao. Nhưng trình độ của công cụ lao động thay
đổi được là kết quả của hoạt động sáng tạo của con người.Trong chủ nghĩa
tư bản và chủ nghĩa xã hội với nền sản xuất đại công nghiệp ngày càng
phát triển, giai cấp công nhân trở thành bộ phận quan trọng nhất, cách
mạng nhất trong các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất. Lao động sống
của giai cấp công nhân tạo ra phần lớn của cải vật chất cho xã hội và
đóng vai trò có ý nghĩa quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội.
Trong chủ nghĩa tư bản, do không có hoặc có rất ít tư liệu sản xuất, giai
cấp công nhân buộc phải bán sức lao động trở thành người làm thuê cho
giai cấp tư sản và bị giai cấp tư sản bóc lột nặng nề. Trong chủ nghĩa tư
bản, giai cấp tư sản chỉ có thể bóc lột được giai cấp công nhân khi họ nắm
giữ, chi phối tư liệu sản xuất của xã hội. Do vậy, bằng mọi giá, giai cấp tư
sản phải duy trì chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Mặt khác, giai
cấp công nhân cũng chỉ được giải phóng khỏi mọi sự áp bức, bóc lột khi
xoá bỏ được chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và thay thế vào đó
là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất.
Giai cấp tư sản bóc lột, song giai cấp công nhân là đối tượng bị bóc lột trực
tiếp và nặng nề nhất. Do vậy, lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân đối lập
trực tiếp với lợi ích cơ bản của giai cấp tư sản.Giai cấp công nhân có lợi ích
cơ bản thống nhất với lợi ích của đại đa số nhân dân lao động, bởi vì muốn
giải phóng mình khỏi mọi sự áp bức, bóc lột, giai cấp công nhân phải đấu
tranh xoá bỏ chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Nếu điều này trở
thành hiện thực thì giai cấp công nhân không chỉ giải phóng mình mà còn
giải phóng toàn xã hội khỏi mọi sự áp bức, bóc lột. Hơn nữa, do điều kiện
làm việc và điều kiện sống chủ yếu là ở các khu công nghiệp tập trung và
ở các thành phố lớn, nên giai cấp công nhân có khả năng tập hợp lực
lượng, đoàn kết với các giai cấp, tầng lớp nhân dân lao động khác trong
cuộc đấu tranh chống lại giai cấp tư sản để giải phóng mình và giải phóng toàn xã hội.
 Đặc điểm chính trị – xã hội của giai cấp công nhân
Do địa vị kinh tế - xã hội quy định khiến cho giai cấp công nhân có những
đặc điểm chính trị – xã hội mà những giai cấp và tầng lớp khác không thể
có được. Đó là những đặc điểm sau:
Thứ nhất: Giai cấp công nhân có tính tiên phong và tinh thần cách mạng
triệt để nhất. Tính tiên phong của giai cấp công nhân thể hiện ở việc nó
đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến của thời đại. Do yêu cầu
khách quan của việc đổi mới liên tục công nghệ của sản xuất công nghiệp,
nên giai cấp công nhân phải không ngừng học tập, rèn luyện trau dồi tri
thức chuyên môn kỹ thuật, nâng cao tay nghề ở trình độ ngày càng
cao.Giai cấp công nhân có hệ tư tưởng độc lập, được trang bị bởi lý luận
tiền phong là chủ nghĩa Mác-Lênin và là lực lượng đi đầu trong mọi phong
trào cách mạng xoá bỏ áp bức, bóc lột, xây dựng xã hội mới tiến bộ vì
hạnh phúc của con người.Giai cấp công nhân có tinh thần cách mạng triệt
để nhất bởi vì lợi ích của họ mâu thuẫn trực tiếp với lợi ích của giai cấp tư
sản. Lợi ích của giai cấp công nhân chỉ thực sự được đảm bảo khi xoá bỏ
triệt để chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa và các hình thức tư hữu
khác. Trong điều kiện của chủ nghĩa tư bản, giai cấp công nhân chỉ được
giải phóng khi đồng thời giải phóng toàn xã hội khỏi mọi sự áp bức, bóc
lột. Tính triệt để cách mạng của giai cấp công nhân còn được thể hiện
trong tiến trình cách mạng không ngừng cho tới khi xây dựng thành công
chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản trên phạm vi thế giới.
Thứ hai: Giai cấp công nhân là giai cấp có ý thức tổ chức kỷ luật cao.Sản
xuất công nghiệp hiện đại theo dây chuyền và tính chuyên môn hoá cao
độ đã khách quan rèn luyện cho giai cấp công nhân có tính tổ chức kỷ luật
cao trong quá trình lao động sản xuất. Đồng thời, bản thân cuộc đấu tranh
một mất một còn của giai cấp công nhân chống lại giai cấp tư sản đã tôi
luyện cho giai cấp công nhân phải có ý thức tổ chức cao.
Thứ ba: Giai cấp công nhân có bản chất quốc tế. Bản chất quốc tế của giai
cấp công nhân thể hiện ở địa vị kinh tế – xã hội, ở nội dung sứ mệnh lịch
sử của họ giống nhau trên toàn thế giới. Bản chất quốc tế của giai cấp
công nhân có được còn xuất phát từ yêucầu khách quan của sản xuất
công nghiệp hiện đại ngày nay đã mang tính quốc tế hoá và toàn cầu hoá
rộng rãi. Hơn nữa, vì mục tiêu lợi nhuận, giai cấp tư sản ở các nước phải
liên kết với nhau trên phạm vi quốc tế. Do vậy, muốn chiến thắng giai cấp
tư sản và chủ nghĩa tư bản, giai cấp công nhân ở các nước phải đoàn kết
lại tạo thành phong trào đấu tranh mạnh mẽ và trở thành lực lượng quốc tế hùng mạnh.
Câu 3: Phân tích nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay?
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời và phát triển gắn liền với chính sách
khai thác thuộc địa của thực dân Pháp ở Việt Nam. Bên cạnh những đặc
điểm của giai cấp công nhân nói chung, giai cấp công nhân Việt Nam có
những đặc điểm riêng. Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trước giai cấp