-
Thông tin
-
Quiz
Bài tập giữa kỳ môn xử lí điểm nóng chính trị - xã hội | Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Phân tích đặc điểm các thế hệ Đảng viên trong quá trình chuyển giao quyền lãnh đạo trong ĐCS VN. Yêu cầu của việc chuyển giao quyền lãnh đạo các cấp trong nội bộ Đảng cầm quyền. Công việc bồi dưỡng, lựa chọn và chuyển tiếp vững vàng giữa các thế hệ lãnh đạo ở bất cứ thời đại nào, thể chế chính trị nào cũng đều có tầm quan trọng đặc biệt đối với sự thịnh suy của một quốc gia, dân tộc. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Kĩ năng xử lý điểm nóng chính trị - xã hội 2 tài liệu
Học viện Báo chí và Tuyên truyền 1.6 K tài liệu
Bài tập giữa kỳ môn xử lí điểm nóng chính trị - xã hội | Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Phân tích đặc điểm các thế hệ Đảng viên trong quá trình chuyển giao quyền lãnh đạo trong ĐCS VN. Yêu cầu của việc chuyển giao quyền lãnh đạo các cấp trong nội bộ Đảng cầm quyền. Công việc bồi dưỡng, lựa chọn và chuyển tiếp vững vàng giữa các thế hệ lãnh đạo ở bất cứ thời đại nào, thể chế chính trị nào cũng đều có tầm quan trọng đặc biệt đối với sự thịnh suy của một quốc gia, dân tộc. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Môn: Kĩ năng xử lý điểm nóng chính trị - xã hội 2 tài liệu
Trường: Học viện Báo chí và Tuyên truyền 1.6 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
Tài liệu khác của Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Preview text:
ĐỀ BÀI
Câu 1. Phân tích đặc điểm các thế hệ Đảng viên trong quá trình chuyển giao
quyền lãnh đạo trong ĐCS VN
Câu 2. Yêu cầu của việc chuyển giao quyền lãnh đạo các cấp trong nội bộ Đảng cầm quyền BÀI LÀM
Câu 1. Phân tích đặc điểm các thế hệ Đảng viên trong quá trình chuyển giao
quyền lãnh đạo trong ĐCS VN
Công việc bồi dưỡng, lựa chọn và chuyển tiếp vững vàng giữa các thế hệ
lãnh đạo ở bất cứ thời đại nào, thể chế chính trị nào cũng đều có tầm quan trọng
đặc biệt đối với sự thịnh suy của một quốc gia, dân tộc. Thực tiễn chứng minh, lựa
chọn cán bộ lãnh đạo đúng đắn thì quốc gia đó phát triển, thịnh vượng, ngược lại,
nếu lựa chọn sai lầm thì phải trả giá rất đắt, thậm chí là sụp đổ cả một thể chế
chính trị và phải mất rất nhiều thời gian sau đó để sửa chữa. Vì thế, trong từng giai
đoạn cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn quan tâm đến công tác bồi
dưỡng, lựa chọn, chuyển tiếp vững vàng giữa các thế hệ lãnh đạo với những tiêu
chuẩn cụ thể, bảo đảm đất nước luôn phát triển đi lên.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến công tác bồi dưỡng thế hệ cách
mạng cho đời sau. Người cho rằng đây là một việc rất quan trọng và rất cần đào
tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo để tạo nên một thế hệ lãnh đạo và việc
chuyển giao giữa các thế hệ lãnh đạo là quy luật tất yếu của tất cả các đảng cầm
quyền trên thế giới. Ở các thể chế chính trị khác nhau thì mục tiêu, phương thức,
tiêu chuẩn, cách thức tiến hành chuyển giao thế hệ lãnh đạo sẽ khác nhau. Trải qua
hơn 91 năm lãnh đạo, trong đó có hơn 76 năm cầm quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh
và Đảng ta luôn quan tâm đến công tác bồi dưỡng, lựa chọn đội ngũ lãnh đạo,
chuyển tiếp thế hệ lãnh đạo theo hướng bảo đảm sự kế thừa và phát triển, để luôn
có đội ngũ cán bộ kế tiếp đủ tâm, đủ tầm gánh vác sứ mệnh lịch sử mà nhân dân
giao phó. Đó không chỉ là sự chuyển tiếp đơn thuần về độ tuổi mà là sự chuyển
tiếp tầm nhìn, mục tiêu, khát vọng, nhiệm vụ cách mạng của thế hệ trước cho thế
hệ sau. Đó còn là sự gửi gắm niềm tin, khát vọng vào tương lai của dân tộc. Nhiều
tầm nhìn, khát vọng kéo dài mấy chục năm hoặc hàng trăm năm mới trở thành hiện
thực. Vì vậy, chuyển tiếp thế hệ lãnh đạo là một quá trình cần sự ổn định, lâu dài,
biết kế thừa, xây đắp những truyền thống, kinh nghiệm, tinh hoa của thế hệ lãnh
đạo đi trước cùng với sự sáng tạo, linh hoạt, sức bật của thế hệ đi sau trong bối
cảnh mới, bảo đảm sự ổn định chính trị và phát triển bền vững đất nước. Lựa chọn
và chuyển tiếp thế hệ lãnh đạo, đặc biệt là lãnh đạo cao cấp đủ tầm, đủ tâm trong
điều kiện một đảng cầm quyền đóng vai trò quyết định đối với duy trì chế độ chính
trị ổn định và phát triển, bảo đảm đoàn kết chặt chẽ trong Đảng, trên dưới đồng
thuận, nhân dân tin tưởng. Đó là điều mong ước của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của
toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta.
Qua các thời kỳ cách mạng, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban
Bí thư các khóa đã ban hành nhiều chỉ thị, nghị quyết, quyết định, quy định, kết
luận quan trọng liên quan đến vấn đề cán bộ nói chung và vấn đề cán bộ, công tác
cán bộ cấp cao của đất nước, của một số ngành, cơ quan, lĩnh vực cụ thể nói riêng.
Mỗi một thế hệ lãnh đạo thường mang những dấu ấn của điều kiện lịch sử cụ thể
với phương thức, tố chất, điều kiện, phong cách lãnh đạo khác nhau. Sự chuyển
tiếp giữa thế hệ lãnh đạo này sang thế hệ lãnh đạo khác là một đòi hỏi khách quan.
Hệ thống quan điểm, chủ trương, đường lối, các giải pháp về công tác cán bộ và
các khâu: đánh giá, tuyển chọn, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí,
sử dụng cán bộ, luôn được đổi mới về nội dung, phương pháp và cách làm. Trên
thực tế đã xuất hiện nhiều thế hệ lãnh đạo ưu tú, dẫn dắt nhân dân ta đi từ thắng lợi
này đến thắng lợi khác trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng đất nước và xây dựng,
bảo vệ Tổ quốc. Đó là sự chuyển tiếp từ thế hệ lãnh đạo trưởng thành, tôi luyện từ
thực tiễn đấu tranh gian khổ, không tiếc máu xương để giành độc lập cho dân tộc;
“lớp cán bộ sinh ra, lớn lên, được rèn luyện, trưởng thành trong những năm tháng
kháng chiến, chủ yếu được đào tạo ở trong nước và tại các nước xã hội chủ nghĩa
trước đây, sang lớp cán bộ sinh ra, lớn lên, trưởng thành trong hòa bình và được
đào tạo từ nhiều nguồn, nhiều nước có thể chế chính trị khác nhau”.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo đảm sự chuyển tiếp vững vàng giữa
các thế hệ lãnh đạo
Chủ tịch Hồ Chí Minh dành sự quan tâm rất lớn đến việc lựa chọn, đào tạo,
bồi dưỡng, chuyển tiếp các thế hệ lãnh đạo, để bảo đảm luôn có đội ngũ cán bộ
lãnh đạo đủ tài, đủ đức hoàn thành tốt các nhiệm vụ cách mạng trong từng giai
đoạn; vì lợi ích lâu dài của cách mạng, vì sự trường tồn của Đảng, của chế độ và
của dân tộc. Thấu hiểu quy luật tự nhiên, xã hội và toàn cục cách mạng, Chủ tịch
Hồ Chí Minh chỉ rõ việc chuyển tiếp thế hệ lãnh đạo là một quy luật tất yếu “tre
già măng mọc”. “Trong lãnh đạo cần có già, có trẻ. Công việc ngày càng mới.
Càng về sau này, càng nhiều cái mới, càng ít cái cũ. Con người ta đẻ ra, ai cũng lớn
lên, già đi, rồi chết”. Bởi vì, “công việc ngày càng nhiều, càng mới”, cho nên,
Người khuyên các cán bộ, đảng viên hoạt động lâu năm rằng: “Đảng nói: Cần cán
bộ già, đồng thời rất cần nhiều cán bộ trẻ. Các đồng chí già đánh Tây. Đánh Tây là
dọn đường. Nhưng không thể nạnh kẹ: Chúng tôi vác cuốc, vác cào làm đường, già
rồi mà chưa được đi xe, các anh mới lớn lên đã được đi xe. Thế là nạnh người đi
xe. Có đúng không? Sau này đến chủ nghĩa cộng sản, bọn trẻ còn đi xe sướng hơn
nữa kia. Già có việc già, trẻ có việc trẻ. Tục ngữ có câu: “Măng mọc quá pheo”.
Măng mọc sau, mà tốt hơn tre đấy. Không lẽ ta ngồi nói: “Măng, sao mày mọc quá
tao?”… Một mặt, Đảng phải đào tạo, dìu dắt đồng chí trẻ. Một mặt, đảng viên già
phải cố gắng mà học”.
Thế hệ cán bộ, đảng viên già là tấm gương về công tác và lối sống, tích lũy
được nhiều kinh nghiệm nên cần phải có trách nhiệm dìu dắt, đào tạo, bồi dưỡng,
giúp đỡ độ lượng đối với cán bộ, đảng viên trẻ. Đó là trách nhiệm và nghĩa vụ đảng
viên, là tiêu chuẩn đạo đức cộng sản chủ nghĩa. Người nhấn mạnh: “Các đồng chí
già là rất quý, là gương bền bỉ đấu tranh, dìu dắt, bồi dưỡng, đào tạo thêm đồng chí
trẻ. Đồng chí già phải giúp đỡ cho đồng chí trẻ tiến bộ. Như thế đòi hỏi ở đồng chí
già phải có thái độ độ lượng, dìu dắt đồng chí trẻ”. Mặt khác, không phải cái gì thế
hệ già cũng giỏi hơn thế hệ trẻ mà ngược lại, có nhiều cái thế hệ trẻ phải giỏi hơn
thì mới đúng quy luật. Bác nói: “Chúng ta là đảng viên già, hiểu biết của chúng ta
hồi 30 tuổi so với sự hiểu biết của lớp trẻ bây giờ, kể cả ở Liên Xô, Trung Quốc thì
chúng mình dốt lắm… Nếu thế hệ già khôn hơn thế hệ trẻ thì không tốt. Thế hệ già
thua thế hệ trẻ mới là tốt. Các cháu không hơn là bệt. Bệt là không tốt. Người ta
thường nói: “Con hơn cha là nhà có phúc”. Ta hiểu như thế, nhưng không có tư
tưởng thụt lùi, nạnh kẹ: Tao làm cách mạng già đời không được gì. Nó mới vào mà
Bộ trưởng, Thứ trưởng, Chủ tịch, Chủ nhiệm, v.v..”. Bởi vì “Đảng rất quý, rất trọng
các đồng chí già, nhưng Đảng cũng rất cần nhiều cán bộ trẻ để làm những việc mà
đảng viên già không làm được”. Bác cũng phê phán bệnh công thần ở một số cán
bộ lãnh đạo “cho rằng không ai giỏi bằng ta, không ai làm bằng ta”. “Cũng có một
số đồng chí hoạt động không tích cực, nói mình già, yếu, mệt, nhưng lại trách
Đảng, trách nhân dân, trách phong trào sao lại không đưa mình lên. Cái đó là
không nên. Đó là mắc bệnh công thần. Mình mới làm nên một chút đã cho bằng
trời rồi”. Để rồi “Đảng không đưa mình lên thì mình tìm cách dìm đảng viên trẻ
mới đề bạt lên”. Qua thực tiễn lãnh đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu
ra hiện tượng: “Lối làm việc trong Đảng hiện nay mắc hai khuyết điểm: Cán bộ cũ
làm việc theo lối thủ công nghiệp. Cán bộ mới làm việc theo lối khoa học nhưng
lại quá trớn, không hợp với hoàn cảnh kháng chiến”. Người đã chỉ ra phương
hướng khắc phục vấn đề khác biệt giữa các thế hệ cán bộ (khi ấy được gọi là cán
bộ cũ, cán bộ mới hoặc cán bộ già, cán bộ trẻ) là: “Phải sửa chữa lối làm việc cho
hợp lý, vừa với điều kiện của ta, đừng phạm vào hình thức, máy móc”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, việc đào tạo một đội ngũ cán bộ có đủ tài,
đức là một công việc công phu, lâu dài. Trong Di chúc, Người nhấn mạnh: “Bồi
dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”.
Cần đào tạo họ thành những người tiếp tục sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa
vừa “hồng” vừa “chuyên”. Bởi vì Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên
và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là
người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân, cho nên cả hệ thống
chính trị cần có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ kế cận một cách bài
bản, có trọng tâm, trọng điểm, phù hợp với năng lực, sở trường của mỗi cán bộ. Do
đó, các thế hệ cán bộ và nhất là cán bộ cao tuổi cần nêu cao tinh thần cách mạng.
Cán bộ già cần “Đào tạo thanh niên cho họ làm việc hơn mình, không nên nạnh kẹ.
Mặt khác, thanh niên phải biết công lao các đồng chí già, phải thấy các đồng chí
già đã trải qua phong ba bão táp, có kinh nghiệm, thanh niên phải học tập. Có số
thanh niên tưởng xây dựng chủ nghĩa xã hội ngày nay là trên trời rơi xuống, không
biết sự gian nan, cực khổ cũ. Các đồng chí già phải kể lại cho họ nghe. Đó là một
cách giáo dục thanh niên. Cố gắng mà dìu dắt thanh niên”. Bởi vì: “Có người nay
còn lãnh đạo đó, nhưng sau này tiến lên máy móc, nếu không biết kỹ thuật, có lãnh
đạo được không? Nếu không biết, phải mời anh ra, cho người khác giỏi hơn vào
làm… chớ không phải như ngày xưa mà tưởng rằng: “Sống lâu lên lão làng”.
Trong công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ kế cận hiện nay, phải chú
trọng đến tinh thần cách mạng, phẩm chất đạo đức chí công vô tư. Chủ tịch Hồ Chí
Minh chỉ rõ: “Có đồng chí nói thế này: đưa lớp trẻ vào mới làm được việc. Nhưng
thâm tâm lại mong muốn là con cháu của mình kia. Con cháu mình là ai? Con cháu
mình là tất cả, là thanh niên Việt Nam. Chứ không phải như thời phong kiến: cha
làm quan, con là cậu ấm. Con mình xấu thì đề bạt sao được. Đảng là Đảng của giai
cấp, của nhân dân, của thế giới, chứ không riêng cho con cháu mình”. Bởi vì,
“Không phải hễ cứ bố là cán bộ thì con là “cậu ấm”. Bố có việc của bố, con có việc
của con. Cố nhiên, con của những đồng chí đã mất đi, Đảng phải lo. Nhưng nếu bố
mẹ nó đang còn, nó xấu, mà đòi hỏi đặc biệt chú ý, thì chú ý cái gì?”. Đồng thời,
Người nhấn mạnh: “Nhưng bất kỳ ai, có khả năng, đủ tiêu chuẩn, cần cho nhu cầu
của cách mạng là phải dùng. Thí dụ: giữa hai đứa con của người trong Đảng và
người ngoài Đảng, con của đồng chí mình thì kém, dốt hơn, con của người ngoài
Đảng thì thông minh, ngoan ngoãn hơn. Vậy thì ta nên đưa ai đi? Con của người
ngoài Đảng hay con của người trong Đảng? Đảng ta là Đảng của giai cấp, đồng
thời cũng là của dân tộc, không thiên tư, thiên vị. Đảng không lo riêng cho một
đồng chí nào hết. Đảng lo việc cho cả nước. Đó là chính sách cán bộ”.
Để xây dựng được đội ngũ cán bộ lãnh đạo các cấp đủ đức, đủ tài, ngang
tầm nhiệm vụ, các cấp ủy, chính quyền, đoàn thể, nhất là người đứng đầu cấp ủy,
cơ quan, đơn vị cần quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ
cán bộ: “Mình phải có độ lượng vĩ đại thì mới có thể đối với cán bộ một cách chí
công vô tư, không có thành kiến, khiến cho cán bộ khỏi bị bỏ rơi. Phải có tinh thần
rộng rãi, mới có thể gần gụi những người mình không ưa. Phải có tính chịu khó
dạy bảo, mới có thể nâng đỡ những đồng chí còn kém, giúp cho họ tiến bộ. Phải
sáng suốt, mới khỏi bị bọn vu vơ bao vây, mà cách xa cán bộ tốt. Phải có thái độ
vui vẻ, thân mật, các đồng chí mới vui lòng gần gụi mình”.
Có thể khẳng định, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về chuyển tiếp thế
hệ lãnh đạo là sự kết hợp và kế thừa tinh hoa "nghệ thuật" dùng người của cả hai
nền văn hóa Đông, Tây và phát triển lên một tầm cao mới, phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo đảm sự chuyển tiếp vững vàng
giữa các thế hệ lãnh đạo trong thực tiễn cách mạng Việt Nam
Trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và
Đảng ta đặc biệt coi trọng việc lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng và chuyển tiếp các thế
hệ lãnh đạo. Thực tiễn đấu tranh cách mạng đầy gian khổ trước đây cũng như thực
tiễn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay với những mục tiêu lớn, nhiệm vụ nặng
nề là “lửa thử vàng, gian nan thử sức”, thước đo chính xác nhất, cụ thể nhất để
đánh giá, sàng lọc, thay thế kịp thời hoặc tuyển chọn người lãnh đạo. Mỗi thế hệ
lãnh đạo có những tiêu chuẩn, nguyên tắc lựa chọn, mang dấu ấn riêng, đáp ứng
yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng của từng giai đoạn lịch sử nhất định.
Thứ nhất, thế hệ lãnh đạo thời kỳ hoạt động bí mật, đấu tranh giành chính quyền (1930 - 1945).
Đây là thế hệ lãnh đạo đầu tiên do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trực tiếp hoặc
gián tiếp tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, dìu dắt. Thế hệ lãnh đạo này được lựa
chọn từ phong trào yêu nước những người ưu tú để đào tạo, bồi dưỡng từ chủ
nghĩa yêu nước đến lập trường chủ nghĩa cộng sản thông qua các lớp học do lãnh
tụ Nguyễn Ái Quốc trực tiếp tổ chức ở Quảng Châu, Trung Quốc hoặc gửi đi đào
tạo ở Liên Xô. Tiêu chuẩn cơ bản của người lãnh đạo là “tư cách của người cách
mệnh”, đó là lòng yêu nước, gắn bó chặt chẽ với nhân dân, tuyệt đối trung thành
với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, đứng vững trên lập trường của
chủ nghĩa Mác - Lê-nin, các nguyên tắc của Đảng. Thành phần tuyển chọn bao
gồm: Nhóm tinh hoa có trình độ học vấn nhất định, kể cả xuất thân từ địa chủ, tư
sản, trí thức..., được đào tạo, bồi dưỡng lập trường giai cấp công nhân, thông qua
rèn luyện thực tiễn để thử thách và trưởng thành; những người xuất thân từ công
nhân, nông dân, người lao động được đào tạo, bồi dưỡng, thử thách qua thực tiễn
cách mạng trở thành lãnh đạo. Môi trường thử thách, rèn luyện, đào thải và lựa
chọn cán bộ chính là thực tiễn cách mạng khắc nghiệt; là năng lực hoạt động bí
mật, đấu tranh cách mạng khôn ngoan để vượt qua mọi thủ đoạn đàn áp, khủng bố
tàn bạo, nham hiểm của kẻ thù, nhờ đó duy trì sự sống còn của tổ chức đảng; là
khả năng biến nhà tù thành trường học, tôi luyện cán bộ. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “T
rong thời kỳ cách mạng bí mật, thời kỳ kháng chiến, có nhiều đồng
chí hy sinh cực kỳ anh dũng. Có đồng chí phải xa nhà xa cửa, xa vợ xa con, bị địch
bắt, ít ra cũng bị tù đày, thường bị xử tử là khác. Có đồng chí theo đuổi cách mạng
hoạt động từ đầu đến cuối, khi Đảng giao việc gì, bảo việc gì đều làm nấy, không
kể sang hèn, địa vị cao thấp; không có việc gì khó Đảng giao mà không làm. Đó là
những anh hùng… Có đồng chí từ năm 1930 đến nay vẫn cứ đeo đuổi cách mạng,
không đòi hỏi gì cho gia đình và cho cá nhân cả. Đó là những người con ưu tú của
Đảng, của cách mạng”. Có thể nói, thế hệ lãnh đạo thời kỳ hoạt động bí mật được
trui rèn, sàng lọc qua thực tiễn đấu tranh cách mạng đầy khắc nghiệt, đã lựa chọn
được những cán bộ bản lĩnh, can trường, hội đủ năng lực, tố chất, phẩm chất để
gánh vác sự nghiệp giải phóng dân tộc
Thứ hai, thế hệ lãnh đạo khi Đảng trở thành Đảng cầm quyền, lãnh đạo đấu
tranh cách mạng, giải phóng dân tộc (1945 - 1975).
Thời kỳ này vẫn do thế hệ lãnh đạo thứ nhất đảm nhiệm, tiếp nối những
nhiệm vụ của giai đoạn cách mạng trước, nhưng trong điều kiện đã có chính quyền
và phải tiến hành chiến tranh cách mạng, giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc.
Cách mạng Tháng Tám thắng lợi, Đảng trở thành đảng cầm quyền, nên cán bộ lãnh
đạo bao gồm cán bộ lãnh đạo Đảng, chính quyền và Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể nhân dân. Phương thức lựa chọn thế hệ cán bộ lãnh đạo thời kỳ này dựa trên
nguyên tắc tập trung dân chủ nhưng vận dụng vào hoàn cảnh chiến tranh bao , gồm
thông qua bầu cử trong Đảng và bầu cử của Nhà nước. Các hình thức đào tạo, bồi
dưỡng ngày càng cơ bản hơn, bao gồm cả đào tạo trong nước và gửi đi đào tạo ở
các nước xã hội chủ nghĩa; rèn luyện qua thực tiễn được xem là thước đo quan
trọng làm cơ sở cho sàng lọc và tuyển chọn cán bộ. Đánh giá cán bộ để tuyển chọn
vẫn chủ yếu là qua năng lực thực tế, chưa bị tiêu chuẩn bằng cấp giới hạn. Có thể
khẳng định, việc chuyển tiếp thế hệ lãnh đạo trong thời kỳ chiến tranh cách mạng,
đã giành được chính quyền, bắt đầu đặt nền móng cho định hình đội ngũ cán bộ
lãnh đạo của cả hệ thống chính trị, hình thành nên một thế hệ lãnh đạo đủ năng lực,
phẩm chất để lãnh đạo cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân thắng lợi trên cả
hai miền Nam - Bắc, được nhân dân tin yêu, khẳng định dấu ấn lãnh đạo của Đảng trong lòng dân tộc.
Thứ ba, thế hệ lãnh đạo thời kỳ từ khi đất nước thống nhất đến trước đổi mới (1975 - 1986).
Sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc kéo dài tới 30 năm, hầu hết những
nhà lãnh đạo cao cấp đều là những chiến sĩ cách mạng trưởng thành, trải qua một
quá trình đấu tranh gian khổ, phức tạp, lâu dài. Đất nước hòa bình, thống nhất, non
sông liền một dải, thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
thế hệ lãnh đạo bao gồm cán bộ trưởng thành từ chiến trường và một số được đào
tạo cơ bản, có bằng cấp, học hàm, học vị, nhưng chủ yếu vẫn là thế hệ cán bộ
trưởng thành từ 2 cuộc kháng chiến. Thế hệ lãnh đạo trưởng thành từ chiến tranh
có bản lĩnh chính trị vững vàng, nhưng lại thiếu kiến thức và kinh nghiệm lãnh
đạo, quản lý trong lĩnh vực kinh tế. Điều này để lại bài học lớn trong công tác cán
bộ về sự kết hợp, gối đầu giữa các thế hệ lãnh đạo, giữa các nguồn cán bộ không
chỉ về độ tuổi mà cả về chuyên môn, nghiệp vụ để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách
mạng trong từng giai đoạn.
Thứ tư, thế hệ lãnh đạo thời kỳ đổi mới đến nay.
Bước sang thời kỳ đổi mới, Đảng ta nhận thức rằng không xây dựng tiêu
chuẩn cán bộ cụ thể sẽ thiếu cơ sở cho đào tạo, tuyển chọn, đánh giá, bố trí, sử
dụng và quản lý đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý; không tạo được một đội ngũ
lãnh đạo, quản lý kế cận đủ sức, đủ tài, ngang tầm nhiệm vụ để chuyển giao nhiệm
vụ cách mạng. Đại hội VI xác định đổi mới cán bộ lãnh đạo là mắt xích quan trọng
nhất, “then chốt của then chốt” và cần phải “xác định tiêu chuẩn cụ thể” làm cơ sở
cho đánh giá, sắp xếp, kiện toàn các tổ chức, cơ quan của hệ thống chính trị, các
chức vụ chủ chốt; đào tạo, bồi dưỡng để cán bộ có đủ tiêu chuẩn về phẩm chất và
năng lực lãnh đạo, quản lý ngang tầm nhiệm vụ. Phải lấy hiệu quả thực hiện nhiệm
vụ chính trị làm thước đo phẩm chất và năng lực, lấy nhu cầu nhiệm vụ làm căn cứ
để bố trí cán bộ, chuyển giao nhiệm vụ. Đại hội VII của Đảng và Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) đều nhấn
mạnh, phải sớm xây dựng tiêu chuẩn cán bộ. Tuy vậy, phải đến Đại hội VIII mới
xác định cụ thể hơn các tiêu chuẩn của cán bộ, được đề ra trong Nghị quyết Hội
nghị Trung ương 3 khóa VIII, “Về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Đây là lần đầu tiên Đảng ta đề ra các tiêu
chuẩn cán bộ từ tiêu chuẩn chung đến tiêu chuẩn riêng đối với cán bộ lãnh đạo
Đảng, Nhà nước, đoàn thể nhân dân. Tiếp sau đó là các nghị quyết, chỉ thị, quy
chế, quy định, kết luận của Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương từ khóa IX
đến khóa XIII được ban hành về chế độ kiểm tra, giám sát công tác cán bộ; phân
cấp quản lý cán bộ; quy chế bổ nhiệm cán bộ và giới thiệu cán bộ ứng cử; công tác
quy hoạch và luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp; nâng cao chất lượng
công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ lãnh đạo, quản lý; tập
trung xây dựng đội ngũ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực, uy
tín, ngang tầm nhiệm vụ; khung tiêu chuẩn chức danh, tiêu chí đánh giá cán bộ
thuộc diện Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý; xây
dựng cơ chế khuyến khích và bảo vệ cán bộ có tư duy đổi mới, dám nghĩ, dám làm,
dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung… là hệ thống những định
hướng, căn cứ, giải pháp căn cơ đối với công tác cán bộ, qua đó thúc đẩy sự phát triển đất nước.
Như vậy, ở mỗi giai đoạn phát triển của lịch sử, việc chuyển tiếp thế hệ lãnh
đạo được thực hiện một cách chủ động, bài bản, nhằm giữ được sự kế thừa, ổn
định, phát triển. Đó là sự chuyển tiếp được chuẩn bị từ sớm, bài bản, công phu, lựa
chọn được đội ngũ cán bộ lãnh đạo các cấp, nhất là cấp chiến lược, thực sự có tố
chất, có tâm, có tầm, có bản lĩnh, vì lợi ích của quốc gia. Đó là sự chuyển tiếp chủ
động, mang tính kế thừa, bảo đảm ổn định và phát triển, không chỉ là chuyển tiếp
quyền lực chính trị đơn thuần mà còn là sự gửi gắm niềm tin và khát vọng cống
hiến của thế hệ đi trước cho thế hệ sau, là chuyển tiếp mục tiêu, lý tưởng, cách
thức, con đường đi mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn.
Sau hơn 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới và sau hơn 20 năm thực hiện
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 khóa VIII, đội ngũ cán bộ các cấp ở nước ta có
bước trưởng thành, phát triển về mọi mặt. “Công tác cán bộ là “then chốt của then
chốt” có nhiều đổi mới, đạt một số kết quả quan trọng. Việc chống chạy chức, chạy
quyền được coi trọng”. Công tác chuyển tiếp thế hệ lãnh đạo đã có một số tìm tòi,
cải tiến, đổi mới quy trình, nội dung, phương thức. Đó là chuyển tiếp mục tiêu, lý
tưởng, khát vọng chung gắn với chuyển giao những nhiệm vụ cụ thể. Chuyển tiếp
mang tính kế thừa, ổn định, phát triển. Chuyển tiếp một cách chủ động giữa bên
chuyển tiếp và bên nhận chuyển tiếp. Thực hiện chặt chẽ quy trình, hướng dẫn của
Đảng về công tác cán bộ trước các kỳ đại hội đảng bộ các cấp và toàn quốc. Theo
đó, Đảng ta đã ban hành và thực hiện các quy trình quy hoạch, thi tuyển, bổ nhiệm,
luân chuyển, đánh giá, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo quản lý các cấp, nhất là
cấp chiến lược ngang tầm nhiệm vụ đạt được một số kết quả nhất định. Tiêu chuẩn
cán bộ, lãnh đạo, quản lý được xây dựng ngày càng cụ thể hơn, kể cả đối với cán
bộ cấp chiến lược. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ngày càng hoàn thiện các
loại hình, phương thức, cách làm bài bản, nhất là mở các lớp bồi dưỡng dự nguồn
cán bộ cao cấp, bồi dưỡng cán bộ dự nguồn cấp tỉnh. “Tính từ đầu nhiệm kỳ đến
ngày 3-9-2020, Trung ương đã tổ chức 3 lớp cập nhật kiến thức mới cho các đồng
chí Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, 5 lớp bồi dưỡng cho 222 đồng
chí diện quy hoạch cán bộ cấp chiến lược khóa XIII và có nhiều đổi mới so với
nhiệm kỳ trước; tổ chức 258 đoàn với 5.570 cán bộ được đào tạo, bồi dưỡng ở
nước ngoài”. Đội ngũ cán bộ ngày càng năng động, sáng tạo, thích ứng với xu thế
hội nhập, có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, công tác chuyển tiếp, đào tạo, bồi
dưỡng thế hệ lãnh đạo còn không ít hạn chế, lúng túng, chưa thực sự có đột phá.
“Việc thể chế hóa, cụ thể hóa chủ trương của Đảng về một số nội dung trong công
tác cán bộ còn chậm, có nội dung chưa thống nhất giữa pháp luật của Nhà nước và
quy định của Đảng; chính sách cán bộ chưa thực sự tạo động lực để cán bộ toàn
tâm, toàn ý với công việc”. Chưa
có cơ chế cụ thể, chính sách thu hút người tài
trong Đảng và người tài ngoài Đảng. Tình trạng dân chủ hình thức hoặc hình thức
hóa các quy trình trong công tác cán bộ vẫn còn tồn tại ở một số đơn vị, địa phương...
Câu 2. Yêu cầu của việc chuyển giao quyền lãnh đạo các cấp trong nội bộ Đảng cầm quyền
Để bảo đảm sự chuyển tiếp vững vàng giữa các thế hệ lãnh đạo, đáp ứng yêu
cầu phát triển đất nước trong tình hình mới
Một là, trong việc chuyển tiếp nhiệm vụ cách mạng giữa hai thế hệ, công tác
xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo các cấp, nhất là cán bộ cấp chiến lược, cần có sự
kế thừa và phát triển, đan xen những ưu điểm, đặc tính tốt đẹp của thế hệ trước với
những phẩm chất nổi trội, đổi mới, sáng tạo của thế hệ lãnh đạo trẻ hiện nay. “Vì
vậy, cán bộ cũ phải hoan nghênh, dạy bảo, dìu dắt, yêu mến cán bộ mới. Cố nhiên
cán bộ mới, vì công tác chưa lâu, kinh nghiệm còn ít, có nhiều khuyết điểm. Nhưng
họ lại có những ưu điểm hơn cán bộ cũ: họ nhanh nhẹn hơn, thường giàu sáng kiến
hơn. Vì vậy, hai bên phải tôn trọng nhau, giúp đỡ nhau, học lẫn nhau, đoàn kết chặt chẽ với nhau”.
Hai là, bổ sung, hoàn thiện các quy định về công tác cán bộ và chuyển tiếp
thế hệ lãnh đạo có chiến lược và bài bản, tránh tình trạng “cầm đuốc soi tìm cán
bộ”, bị động trong chuẩn bị và chuyển tiếp. Chuyển tiếp nhiệm vụ cách mạng giữa
các thế hệ trên cơ sở thực hiện đầy đủ quy trình đánh giá, lựa chọn, đề bạt cán bộ
một cách dân chủ, công khai, minh bạch. “Hoàn thiện thể chế, quy định về công
tác cán bộ, tiêu chuẩn chức danh, tiêu chí, cơ chế đánh giá cán bộ… Xây dựng quy
định về thẩm quyền, trách nhiệm của người đứng đầu trong công tác cán bộ và quản lý cán bộ”.
Ba là, kiên quyết không để lọt những người không xứng đáng, cơ hội, thực
dụng, những người “chạy chức”, “chạy quyền” vào đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là
cấp chiến lược. Chống lợi dụng thân quen, “cánh hẩu”, “cục bộ địa phương” trong
quá trình chuẩn bị, lựa chọn nhân sự. Thực hiện nghiêm các quy định về chế độ
kiểm tra, giám sát và kiểm soát quyền lực công tác cán bộ theo Quy định số 179-
QĐ/TW, ngày 25-2-2019, của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, “Về chế độ kiểm
tra, giám sát công tác cán bộ”. Đồng thời “Xử lý nghiêm minh, đồng bộ kỷ luật
đảng, kỷ luật hành chính và xử lý bằng pháp luật đối với cán bộ có vi phạm, kể cả
khi đã chuyển công tác hoặc nghỉ hưu”. Đẩy
mạnh công tác kiểm tra, giám sát,
thanh tra định kỳ, đột xuất, theo chuyên đề, chuyên ngành; của cấp trên đối với cấp
dưới; cấp dưới giám sát cấp trên. Hủy bỏ, thu hồi các quyết định không đúng về
công tác cán bộ, đồng thời xử lý nghiêm những tổ chức, cán bộ sai phạm, không có “vùng cấm”.
Bốn là, phát huy vai trò giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và
các tổ chức chính trị - xã hội, tăng cường cơ chế chất vấn, giải trình trong công tác
cán bộ. Trong đó, cần mở rộng các hình thức lấy ý kiến đánh giá sự hài lòng của
người dân đối với từng đối tượng cán bộ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị
một cách phù hợp. Nâng cao chất lượng công tác tiếp nhận và xử lý những ý kiến
phản ánh, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo về cán bộ với các hình thức phù hợp, hiệu quả.
Năm là, tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đáp
ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn mới theo tinh thần Kết luận
số 21-KL/TW, ngày 25-10-2021, của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, “Về đẩy
mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy
lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; Quy định số 37-QĐ/TW, ngày
25-10-2021, của Ban Chấp hành Trung ương, “Về những điều đảng viên không
được làm” gắn với việc thực hiện Kết luận số 01-KL/TW, ngày 18-5-2021, của Bộ
Chính trị khóa XIII, “Về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016
của Bộ Chính trị khóa XII “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh”, qua đó, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp,
nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, tạo
cơ sở cho việc chuyển tiếp thế hệ lãnh đạo một cách vững vàng, bài bản./.