Bài tập lớn: Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội | Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tối và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới
Môn: Kinh tế chính trị Mác-Lênin (KTCT2D02)
Trường: Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN NĂM HỌC 2019 – 2020 BÀI TẬP LỚN
Đề tài: Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội và sự vận dụng
của Đảng ta trong quá trình xây dựng và phát triển nền
kinh tế thị trường ở Việt Nam.
Sinh viên: Nguyễn Minh Nguyệt Mã sinh viên: 11193920
Lớp học phần: Triết học Mác-Lênin (119)_19 Hà Nội, tháng 10 năm 2019 MỤC LỤC Trang
Lời nói đầu......................................................................................................................... 2
PHẦN A:........................................................................................................................... 3
HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI.........................................................3 I.
HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI LÀ GÌ?....................................3 II.
CÁC NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI 3
1. Sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại và phát triển xã hội................................3
2. Biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.....................................4
3. Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội.....................5
4. Sự phát triển các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên......7
5. Ý nghĩa học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của Mác..........................................7
PHẦN B............................................................................................................................ 8
SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TA TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG VÀ PHÁT
TRIỂN NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM...................................................8 I.
Nền kinh tế thị trường là gì?.....................................................................................8 II.
Vai trò quản lý của Nhà nước với nền kinh tế thị trường......................................8 III.
Tại sao phải xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường?.................................9 IV.
Đảng ta đã và đang xây dựng, phát triển nền kinh tế thị trường như thế nào?.....11
1. Định hướng của Đảng trong chủ trương xây dựng kinh tế thị trường.................11
2. Thành tựu và hạn chế trong kinh tế thị trường nước ta hiện nay........................12
3. Phát huy thành tựu và khắc phục hạn chế trong xây dựng và phát triển nền kinh
tế thị trường...............................................................................................................15
V. Kết luận........................................................................................................................17
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................18 1
Lời nói đầu
Triết học là một bộ phận không thể thiếu trong đời sống xã hội của bất kỳ
quốc gia nào. Triết học không chỉ tác động đến sự phát triển trong tư tưởng của con
người mà nó còn tham gia vào quá trình phát triển kinh tế của nhiều quốc gia trên
thế giới, trong đó có Việt Nam. Triết học là nền tảng, cơ sở của mọi đường lối quan
điểm của Đảng và chính sách của Nhà nước, ngay cả trong thời đại hội nhập ngày nay.
Một trong những vấn đề lớn của Triết học Mác – Lênin là học thuyết hình
thái kinh tế - xã hội – là nội dung cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử, được coi là
một trong những phát minh vĩ đạt nhất của C. Mác, đem lại một cuộc cách mạng
trong triết học về xã hội. Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội bao gồm một hệ
thống các quan điểm, chúng tồn tại không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau
một cách biện chứng. Hiểu được mối quan hệ biện chứng này sẽ giúp cho quá trình
phát triển của xã hội trở nên dễ dàng hơn. Ở nước ta, trước thời kỳ Đổi mới, học
thuyết hình thái kinh tế - xã hội đã không được nhận thức một cách đầy đủ, cụ thể
là quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, sự phù hợp giữa quan hệ
sản xuất và lực lượng sản xuất, vì vậy cơ chế quan liêu,bao cấp kéo dài khiến nền
kinh tế trở nên trì trệ. Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) đã đưa nước ta chính thức
bước vào thời kỳ Đổi mới. Từ đây, Đảng đã không ngừng nâng cao về nhận thức
và lý luận, áp dụng linh hoạt vào việc Đổi mới đất nước, phát triển nền kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Mục tiêu là đưa Việt Nam trở thành một
nước công nghiệp hiện đại, khoa học kỹ thuật phát triển, được ứng dụng rộng rãi
trong xã hội, năng suất lao động không ngừng tăng lên, đời sống nhân dân được cải thiện.
Bài viết của em dưới đây sẽ làm sáng tỏ học thuyết hình thái kinh tế - xã hội
và sự vận dụng của Đảng ta trong việc xây dựng và phát triển nền kinh tế thị
trường. Trong quá trình thực hiện bài viết, chắc chắn không thể tránh khỏi những
thiếu sót do kiến thức của em còn hạn hẹp, em mong nhận được sự góp ý, chỉ bảo
của thầy để bài viết của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! 2 PHẦN A:
HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI I.
HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI LÀ GÌ?
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là nội dung cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch
sử, vạch ra những quy luật cơ bản của sự vận động, phát triển của xã hội; mà chủ
nghĩa duy vật lịch sử là sự vận dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng để giải quyết
những vấn đề xã hội vậy nên học thuyết hình thái kinh tế xã hội là phương pháp
luận khoa học để nhận thức, cải tạo và phát triển xã hội.
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của Chủ nghĩa Mác – Lê nin bao gồm một hệ
thống các quan điểm cơ bản:
+ Sản xuất vật chất là cơ sở của sự phát triển xã hội
+ Quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
+ Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
+ Sự phát triển các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên II.
CÁC NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI
1. Sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại và phát triển xã hội
Trước hết, sản xuất vật chất là quá trình con người sử dụng công cụ lao
động, tác động trực tiếp hoặc gián tiếp vào giới tự nhiên nhằm biến các dạng vật
chất của giới tự nhiên thành sản phẩm thỏa mãn nhu cầu của con người.
Sản xuất vật chất là việc làm luôn có tính mục đích, gắn liền với việc chế tạo
và sử dụng công cụ lao động; biến đổi thế giới xung quanh theo cả hai hướng tích
cực và tiêu cực. Quá trình sản xuất vật chất bao giờ cũng bao gồm 3 yếu tố: người
lao động, tư liệu sản xuất và đối tượng lao động.
Có thể nói, sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại và phát triển xã hội loài
người, vì sản xuất vật chất là tiền đề trực tiếp tạo ra “tư liệu sinh hoạt của con
người” nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển của con người cũng như của xã hội. Nó
giúp hình thành nên các quan hệ kinh tế - vật chất giữa người với người, từ đó hình
thành các quan hệ xã hội khác như: quan hệ về chính trị, đạo đức, pháp luật, tôn giáo,…
Sản xuất vật chất có vai trò to lớn, không chỉ là cơ sở của sự tồn tại của xã
hội mà còn là cơ sở cho mọi tiến bộ xã hội.
Nhờ hoạt động sản xuất vật chất mà con người hình thành nên ngôn ngữ,
nhận thức, tư duy,.. Phải khẳng định rằng, nhờ có hoạt động sản xuất vật chất mà 3
con người vừa tách khỏi tự nhiên, vừa hòa nhập với tự nhiên, cải tạo tự nhiên, sáng
tạo ra mọi giá trị vật chất và tinh thần, đồng thời sáng tạo ra chính bản thân con người.
2. Biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
a, Phương thức sản xuất
Phương thức sản xuất là cách thức con người tiến hành quá trình sản xuất vật chất
ở những giai đoạn lịch sử nhất định. Phương thức sản xuất quyết định đặc điểm của
một chế độ xã hội, vì vậy khi phương thức sản xuất thay đổi thì chế độ xã hội cũng
thay đổi theo. Phương thức sản xuất, xét về mặt tổ chức kết cấu, đó là sự thống
nhất giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa người lao động với tư liệu sản xuất,
tạo ra sức mạnh tổng hợp làm biến đổi các đối tượng vật chất của giới tự nhiên
theo nhu cầu của con người và xã hội. Lực lượng sản xuất thể hiện mặt tự nhiên
của sản xuất, trong đó người lao động là con người có tri thức, kinh nghiệm, kỹ
năng và năng lực sáng tạo là yếu tố quan trọng nhất của lực lượng sản xuất, vì trình
độ của con người sẽ quyết định trình độ của tư liệu sản xuất; trình độ của con
người càng cao thì tư liệu sản xuất càng phát triển.
Đáng chú ý trong lực lượng sản xuất nói chung và tư liệu sản xuất nói riêng
đó là công cụ lao động. Công cụ lao động là những phương tiện vật chất mà con
người trực tiếp sử dụng để tác động vào đối tượng lao động nhằm biến đổi chúng
để tạo ra của cải vật chất phục vụ nhu cầu của con người và xã hội. Công cụ lao
động đóng vai trò rất quan trọng trong tư liệu lao động do nó là bộ phận thường
xuyên biến đổi nhất, biến đổi theo những nhu cầu ngày càng gia tăng của con
người. Sự biến đổi của công cụ lao động mang đến sự biến đổi mang tính cách
mạng, khoa học của xã hội. (Ví dụ: Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất diễn
ra do sự ra đời của máy hơi nước.)
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất.
Quan hệ sản xuất được thể hiện trên 3 khía cạnh: quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất,
quan hệ về tổ chức, quản lý tư liệu sản xuất và quan hệ về phân phối sản xuất.
b, Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
Quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất có mối quan hệ biện chứng với
nhau. Lực lượng sản xuất như thế nào thì quan hệ sản xuất như thế ấy, lực lượng
sản xuất biến đổi thì quan hệ sản xuất cũng biến đổi theo. Tương ứng với một lực
lượng sản xuất nhất định thì có quan hệ sản xuất nhất định phù hợp với nó về tính chất và trình độ. 4
Quan hệ sản xuất cũng tác động ngược trở lại quan hệ sản xuất theo hai
hướng: Nếu phù hợp thì thúc đấy lực lượng sản xuất phát triển, còn nếu không phù
hợp thì sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Quy luật này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc vận dụng và phát triển
quan điểm, chính sách, đường lối của Đảng trong việc xây dựng và phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
3. Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội.
a, Các khái niệm
Cơ sở hạ tầng là tổng hợp các quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của
một xã hội nhất định. Cơ sở hạ tầng của một xã hội gồm: Quan hệ sản xuất của xã
hội cũ tàn dư, quan hệ sản xuất của xã hội thống trị và quan hệ sản xuất mầm mống.
Kiến trúc thượng tầng: là toàn bộ các quan điểm, tư tưởng về chính trị, pháp
luật, đạo đức, … cùng các tiết chế xã hội tương ứng như đảng phải, nhà nước, giáo hồi,…
b, Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
Cơ sở hạ tầng có vai trò quyết định đối với kiến trúc thượng tầng, được thể
hiện ở chỗ: Cơ sở hạ tầng thế nào thì kiến trúc thượng tầng thế ấy, cơ sở hạ tầng
biến đổi thì kiến trúc thượng tầng biến đổi theo. Cơ sở hạ tầng quyết định nội
dung, bản chất, tổ chức, kết cấu và khuynh hướng vận đông, phát triển của kiến trúc thượng tầng.
Có thể nói, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của một xã hội nhất định
thay đổi, xét cho cùng là do sự biến đổi của lực lượng sản xuất. Nhưng đối với sự
biến đổi của kiến trúc thượng tầng thì nguyên nhân trực tiếp không phải là do biến
đổi của lực lượng sản xuất, mà do sự biến đổi của cơ sở hạ tầng.
Sự biến đổi của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng diễn ra là một quá
trình. Có bộ phận diễn ra nhanh chóng, tức thì, nhưng cũng có bộ phận diễn ra từ
từ, những hình thức cũ còn tồn tại lâu dài, có tính chất tàn dư.
Nguyên lý cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng có ý nghĩa vô
cùng quan trọng trong thực tiễn. Nó chỉ ra rằng, trong đời sống hằng ngày, phải coi
trọng đời sống sinh hoạt vật chất cũng như đời sống tinh thần của con người (ăn, ở,
đi lại) một cách đúng mức trong điều kiện cho phép. Phải có chính sách xã hội thỏa
đáng để động viên, khuyến khích sức lực, trí tuệ người lao động trên các lĩnh vực.
Nhưng cũng cần phê phán chủ nghĩa thực dụng quá nhấn mạnh vào lợi ích vật chất
mà không chú ý tới lợi ích tinh thần. 5
Kiến trúc thượng tầng cũng tác động ngược trở lại cơ sở hạ tầng theo 2
hướng: Nếu kiến trúc thượng tầng phù hợp với cơ sở hạ tầng thì sẽ thúc đấy cơ sở
hạ tầng phát triển, còn nếu không phù hợp thì sẽ kìm hãm sự phát triển của cơ sở
hạ tầng. Mà cơ sở hạ tầng thể hiện mặt kinh tế của xã hội, kiến trúc thượng tầng
thể hiện mặt chính trị của xã hội. Nghĩa là, khi kiến trúc thượng tầng phản ánh
đúng tính tất yếu kinh tế, các quy luật kinh tế khách quan sẽ thúc đẩy kinh tế phát
triển. Và ngược lại, khi kiến trúc thượng tầng không phản ánh đúng tính tất yếu
kinh tế, các quy luật kinh tế khách quan sẽ kìm hãm sự phát triển của kinh tế và đời sống xã hội.
Vì kiến trúc thượng tầng có vị trí, vai trò quan trọng trong việc tác động trở
lại cơ sở hạ tầng như vậy (đặc biệt là nhà nước và quan điểm tư tưởng, chính trị)
nên các giai cấp thống trị mới lên cầm quyền bao giờ cũng phải thường xuyên
chăm lo đến việc củng cố và kiện toàn bộ máy nhà nước, hệ thống pháp luật và hệ
thống tư tưởng, chính trị của mình.
Trong điều kiện nhà nước ta hiện nay, để phát huy vai trò của Nhà nước
trong việc quản lý kinh tế - xã hội, phải sớm xây dựng được một thống pháp luật
tương đối hoàn chỉnh sớm, yêu cầu mọi người sống và làm theo pháp luật. Trước
mắt là cải cách phương thức hoạt động và tổ chức bộ máy hành chính cho phù hợp
với nền kinh tế thị trường.
* Thực tiễn áp dụng mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
trong việc xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường
Quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng là cơ sở khoa học cho việc nhận thức một cách đúng đắn mối quan hệ giữa
kinh tế và chính trị. Nếu tách rời hoặc tuyệt đối hóa một yếu tố nào giữa kinh tế và
chính trị là một sai lầm. Tuyệt đối hóa kinh tế, hạ thấp hoặc phủ nhận yếu tố chính
trị là rơi vào quan điểm duy vật tầm thường, duy vật kinh tế sẽ dẫn đến vô chính
phủ, bất chấp kỉ cương, pháp luật và không tránh khỏi thất bại, đổ vỡ. Nếu tuyệt
đối hóa về chính trị, hạ thấp hoặc phủ định vai trò về kinh tế sẽ dẫn đến duy tâm,
chủ quan, đốt cháy giai đoạn và cũng không tránh khỏi thất bại.
Để giải quyết những vấn đề nêu trên, chúng ta phải chủ động nhận thức và
giải quyết bằng các chính sách mới cho phù hợp. Trải qua hơn 10 năm đổi mới đất
nước, chúng ta đang thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần có sự quản lý
của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa và đã đạt được nhiều thắng lợi to
lớn. Kiến trúc thượng tầng ở nước ta hiện nay cũng được đổi mới theo hướng: đổi
mới cả về cơ cấu tổ chức, bộ máy, con người, đổi mới phong cách quản lý lãnh
đạo, mở rộng dân chủ để quy tụ quần chúng dưới sự lãnh đạo của Đảng, tạo nên
sức mạnh thúc đẩy xã hội và nền kinh tế phát triển một cách bền vững. 6 7
4. Sự phát triển các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên.
a, Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội
Hình thái kinh tế - xã hội là một xã hội cụ thể tồn tại trong một giai đoạn
phát triển nhất định của lịch sử, với kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng, phù hợp với
trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất, với kiến trúc thượng tầng được
dựng lên trên quan hệ sản xuất đó.
Mỗi hình thái kinh tế - xã hội đều có 3 bộ phận cơ bản hợp thành đó là: quan
hệ sản xuất, lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Mỗi bộ phận đều có một
vị trí, vai trò nhất định trong tổ chức, kết cấu của mỗi hình thái kinh tế - xã hội.
Lịch sử xã hội loài người đã và đang trải qua 5 hình thái kinh tế - xã hội, đó
là: cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội từ thấp đến cao là một quá
trình lịch sử tự nhiên. Đó là do sự phát triển này tuần theo quy luật khách quan, mà
trước hết và quan trọng nhất là quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với lực
lượng sản xuất. Suy cho cùng, nguyên nhân sâu xa dẫn đến sự phát triển của xã hội
là do lực lượng sản xuất, mà trước hết là do công cụ lao động biến đổi. Thông
thường, sự phát triển các hình thái kinh tế - xã hội diễn ra tuần tự từ thấp đến cao.
Tuy nhiên, một số quốc gia có thể phát triển nhảy vọt bằng việc bỏ qua một vài
hình thái để lên hình thái cao hơn. Để phát triển nhảy vọt, đòi hỏi quốc qua đó phải
có đủ điều kiện chủ quan, khách quan của thời đại và cả nhân tố chủ quan của mỗi quốc gia, dân tộc.
5. Ý nghĩa học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của Mác
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là cơ sở khoa học cho việc xác định con
đường phát triển của Việt Nam là quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa. Con đường phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa ở Việt Nam là phù hợp với tính quy luật của việc “bỏ qua” một hay
vài hình thái kinh tế - xã hội trong sự phát triển lịch sử.
Ngày nay, Đảng ta chủ trương tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa là để
phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất. Trên cơ sở đó xác lập quan hệ sản xuất mới
và xây dựng kiến trúc thượng tầng mới để xác lập hình thái kinh tế xã hội mới.
Đây cũng là cơ sở khoa học và cách mạng trong cuộc đấu tranh tư tưởng
chống lại các quan điểm phiến diện, sai lầm, phản động hòng phủ định mục tiêu, lý
tưởng, phủ nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. 8 PHẦN B
SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TA TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG VÀ
PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM I.
Nền kinh tế thị trường là gì?
Kinh tế thị trường không phải là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản mà nó
là sản phẩm của nền văn minh nhân loại. Sự ra đời và phát triển của nó trải qua
nhiều giai đoạn: từ nền kinh tế hang hóa đến thị trường tự do cạnh tranh và ngày
nay là nền kinh tế thị trường hiện đại. Ở nước ta, sản xuất hàng hóa nhỏ còn là phổ
biến và trong quá trình vận động theo cơ chế thị trường, định hướng xã hội chủ
nghĩa. Theo nghĩa rộng, kinh tế thị trường được hiểu là tổng hợp các quan hệ kinh
tế hình thành trong lĩnh vực mua – bán. II.
Vai trò quản lý của Nhà nước với nền kinh tế thị trường
Sự nhận thức đầy đủ các yếu tố của các quy luật khách quan, vận dụng
chúng để điều khiển sự vận động của thị trường phù hợp với yêu cầu phát triển
kinh tế và các mục tiêu công bằng xã hội khác, cho phép con người có thể điều tiết
được thị trường; kết hợp cơ chế thị trường với sự điều tiết, quản lý của nhà nước
tạo ra cơ chế vận hành của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Quản lý kinh tế của nhà
nước trong nền kinh tế thị trường thể hiện ở sự tác động của nhà nước đối với các
hoạt động kinh tế, đối với thị trường nhằm phát huy những mặt tích cực và hạn chế
những mặt tiêu cực, khắc phục những khuyết điểm của nền kinh tế thị trường.
Sự quản lý của nhà nước đối với nền kinh tế thị trường được thể hiện bằng
luật pháp và các chính sách kinh tế vĩ mô. Các công cụ chủ yếu của nhà nước để
xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường là:
Pháp luật: Pháp luật có vai trò cực kì quan trọng trong quản lý kinh tế. Việc xây
dựng và ban hành một hệ thống luật dân sự và luật kinh tế là nhằm đảm bảo điều
chỉnh đồng bộ và thống nhất các quan hệ hang hóa – tiền tệ trong nền kinh tế.
Kế hoạch hóa: Kế hoạch hóa sự phát triển kinh tế - xã hội là rất quan trọng và cần
thiết. Trước kia, kế hoạch chủ yếu mang tính pháp lệnh; hiện nay, kế hoạch chủ yếu
mang tính định hướng. Trong việc đổi mới kế hoạch cần lấy thị trường làm đối
trượng quan trọng hàng đầu của công tác kết hoạch. Kế hoạch phải biết tác động
vào thị trường, tạo ra sự ổn định, hình thành và duy trì môi trường lành mạnh cho
các hoạt động sản xuất – kinh doanh.
Củng cố các tổ chức kinh tế nhà nước: Các doanh nghiệp nhà nước là một lực
lượng kinh tế, một phương tiện không thể thiếu được để nhà nước điều tiết và định
hướng nền kinh tế. Thông thường, các doanh nghiệp nhà nước chỉ hoạt động trong 9
các lĩnh vực trọng điểm yếu của nền kinh tế, giữ vai trò chủ đạo, mở đường và hỗ
trợ cho các thành phần kinh tế khác, nhưng không nhất thiết phải chiếm tỷ trọng
cao trong thành phần kinh tế. Vấn đề đặt ra là, cần phải chấn chỉnh và xây dựng
khu vực kinh tế này hoạt động có hiệu quả, vươn lên đảm nhiệm được vai trò chủ
đạo trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Sử dụng các công cụ đòn bẩy tài chính, tín dụng, ổn định và điều tiết lưu thông
tiền tệ: Các công cụ tài chính, tiền tệ, tín dụng có vai trò rất quan trọng trong điều
kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường. Chỉ khi nhà nước kiểm soát được tài chính
và tiền tệ thì nhà nước mới có thể kiểm soát, điều tiết đươc thị trường. Các công cụ
quan trọng nhất để nhà nước kiểm soát và điều tiết vốn và tiền tệ là thuế và lãi suất ngân hang.
Ban hành các chính sách xã hội: Nhằm hạn chế các tác động tiêu cực của nền kinh
tế thị trường (như cạnh tranh không lành mạnh, phân hóa giàu nghèo, ô nhiễm môi
trường,…) nhà nước nhất thiết phải ban hành các chính sách xã hội.
III. Tại sao phải xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường?
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt cấu thành của phương
thức sản xuất. Theo quy luật khách quan, quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất. Phù hợp ở đây có nghĩa quan hệ sản xuất phải
là “hình thức phát triển” tất yếu của lực lượng sản xuất, tạo địa bàn, động lực thúc
đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Cần quan niệm sự phù hợp một cách biện chứng,
lịch sử - cụ thể, trong quá trình, trong trạng thái động. Do bản tính của mình, lực
lượng sản xuất là yếu tố động, biến đổi nhanh hơn, còn quan hệ sản xuất là yếu tố
tương đối ổn định, biến đổi chậm hơn. Vì vậy lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất là hai mặt đối lập biện chứng trong phương thức sản xuất. C.Mác đã chứng
minh vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất đồng thời
cũng chỉ ra tính độc lập tương đối của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất, quy định mục đích xã hội của
sản xuất, tác động đến lợi ích của người sản xuất, từ đó hình thành một hệ thống
những yếu tố hoặc thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất nói riêng phải phù hợp với điều kiện thực tiễn cụ thể của từng quốc
gia dân tộc, từng giai đoạn phát triển của đất nước và sự biến đổi của tình hình
quốc tế. Chẳng hạn như nước Nga sau Cách mạng tháng Mười năm 1917, một
nước tuy đã trải qua giai đoạn phát triển trung bình của chủ nghĩa tư bản, trong thời
kỳ nội chiến, chống thù trong giặc ngoài, V.I. Lê-nin và những người bôn-sê-vích
cũng đã tưởng rằng có thể bằng “chính sách cộng sản thời chiến” tiến nhanh lên
chủ nghĩa cộng sản. Nhưng cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội mùa xuân năm 1921 10
đã cho thấy sai lầm đó. V.I. Lê-nin viết: “Chúng ta chưa tính toán đầy đủ mà đã
tưởng là - có thể trực tiếp dùng pháp lệnh của nhà nước vô sản, để tổ chức theo
kiểu cộng sản chủ nghĩa, trong một nước tiểu nông, việc nhà nước sản xuất và phân
phối sản phẩm. Đời sống thực tế đã vạch rõ sai lầm của chúng ta”. V.I. Lê-nin đã
phê phán bệnh ảo tưởng lúc bấy giờ vì không sát thực tiễn trong việc vận dụng quy
luật. Người đã quyết định chuyển sang chính sách kinh tế mới (NEP) thay thế chế
độ trưng thu lương thực bằng chế độ thuế lương thực, khuyến khích phát triển
quan hệ hàng hóa - tiền tệ, quan hệ thị trường, cho phép phát triển kinh tế tư nhân,
cá thể, tư bản tư nhân, chính sách tô nhượng, cho phép sử dụng chuyên gia tư sản...
Còn Ở nước ta trong thời kỳ từ Đại hội IV (năm 1976) đến trước Đại hội VI
(năm 1986) của Đảng, chúng ta đã mắc phải bệnh chủ quan duy ý chí, nóng vội và
bệnh bảo thủ trì trệ do vi phạm các quy luật khách quan, đặc biệt là quy luật quan
hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Chúng ta đã
thoát ly khỏi điều kiện thực tiễn của một đất nước kinh tế kém phát triển, còn
nghèo nàn lạc hậu nhưng lại muốn tạo ra một quan hệ sản xuất tiên tiến đi trước để
mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Nhưng hậu quả thì ngược lại, chúng
ta phải đối mặt với khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng: Sản xuất nông - công
nghiệp đình đốn, lưu thông, phân phối ách tắc, lạm phát ở mức ba con số,… Đúng
như văn kiện Đại hội VI đã khẳng định: “Kinh nghiệm thực tế chỉ rõ: lực lượng sản
xuất bị kìm hãm không chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu, mà cả khi
quan hệ sản xuất phát triển không đồng bộ, có những yếu tố đi quá xa so với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất”. Nói cách khác, thứ nhất, chúng ta đã không
hiểu đúng quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất, tách
rời quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất, cường điệu quan hệ sản xuất mà coi
nhẹ lực lượng sản xuất, coi nhẹ việc phát triển, giải phóng lực lượng sản xuất,
muốn tạo ra quan hệ sản xuất tiên tiến đi trước mở đường cho lực lượng sản xuất,
muốn nhanh chóng thực hiện nhiều mục tiêu của chủ nghĩa xã hội trong điều kiện
kinh tế còn lạc hậu, mới giành được chính quyền.
Thứ hai, chúng ta nhận thức quan hệ sản xuất không trong chỉnh thể, cường điệu
chế độ sở hữu, nhất là muốn nhanh chóng thiết lập chế độ công hữu với bất kỳ giá
nào, coi sở hữu tư nhân nằm ngoài bản chất của chủ nghĩa xã hội cần phải nhanh
chóng xóa bỏ; coi nhẹ quan hệ tổ chức - quản lý và phân phối; coi nhẹ động lực lợi
ích cá nhân của người lao động.
Thứ ba, duy trì quá lâu cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, coi nhẹ quy luật giá trị,
quan hệ hàng hóa - tiền tệ, cơ chế thị trường, từ đó tạo thành cơ chế kìm hãm sự
phát triển của lực lượng sản xuất. 11
Thứ tư, ta muốn tạo ra một quan hệ sản xuất nhất loạt như nhau trong những ngành
sản xuất khác nhau, những vùng miền, địa bàn khác nhau (vùng đồng bằng, miền
núi, vùng sâu, vùng xa...) với những trình độ lực lượng sản xuất rất khác nhau, chênh lệch.
Tóm lại, những sai lầm có tính phổ biến trên đây chính là do nhận thức không đúng
bản chất quy luật quan hệ sản xuất phù hợp trình độ lực lượng sản xuất, những điều
kiện tác động của nó, không tính đến điều kiện thực tiễn khi vận dụng, kết cục
không tránh khỏi rơi vào thất bại.
Vì vậy, công cuộc đổi mới là quá trình ngày càng nhận thức và vận dụng
đúng đắn hơn quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển lực lượng
sản xuất trong điều kiện thực tiễn Việt Nam và quốc tế.
Tại Đại hội VI - Đại hội khởi đầu công cuộc đổi mới, Đảng ta đã phê phán
bệnh chủ quan duy ý chí do vi phạm quy luật khách quan mà trước hết và chủ
yếu là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất. Từ đó Đại hội đã rút ra bài học quan trọng là “Đảng phải luôn luôn xuất phát
từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan”, phải “làm cho quan
hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, luôn luôn có
tác dụng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất”. Công cuộc đổi mới xét về
thực chất chính là quay trở về với quy luật, với những nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác - Lê-nin phù hợp với thực tiễn đất nước và thời đại. IV.
Đảng ta đã và đang xây dựng, phát triển nền kinh tế thị trường như thế nào?
1. Định hướng của Đảng trong chủ trương xây dựng kinh tế thị trường
Đại hội lần thứ IX của Đảng (năm 2001) khẳng định: "... thực hiện nhất quán
và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động
theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa; đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa".
Đại hội lần thứ X (năm 2006) Đảng tiếp tục khẳng định: "Để đi lên chủ
nghĩa xã hội, chúng ta phải phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc làm nền tảng tinh thần của xã hội; xây dựng nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết dân tộc; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng trong sạch,
vững mạnh; bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia; chủ động và tích
cực hội nhập kinh tế quốc tế". Đại hội X tiếp tục làm sáng rõ hơn những vấn đề lý
luận liên quan đến xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa với 4 nội dung cơ bản là: 12
+ Nắm vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay.
+ Nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý của Nhà nước.
+ Phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành của các loại thị
trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh.
+ Phát triển mạnh các thành phần kinh tế, các loại hình tổ chức kinh doanh.
Như vậy, trải qua các kỳ Đại hội, chúng ta luôn khẳng định con đường mà chúng ta
lựa chọn đó là chủ nghĩa xã hội và để đi lên chủ nghĩa xã hội chúng ta phải phát
triển kinh tế thị trường. Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta được Đảng khẳng định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên CNXH (năm 1991) với 6 đặc trưng cơ bản và đến nay Đại
hội Đảng X tiếp tục khẳng định ngày càng sáng tỏ hơn với 8 đặc trưng cơ bản là:
+ Là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh. + Do nhân dân làm chủ.
+ Có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan
hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
+ Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
+ Con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự
do, hạnh phúc, phát triển toàn diện.
+ Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ và
giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
+ Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
+ Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.
2. Thành tựu và hạn chế trong kinh tế thị trường nước ta hiện nay a, Thành tựu
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, phù hợp hơn với quy luật khách
quan, trong gần 30 năm qua nhân dân ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên
con đường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong đó có thành tựu
về nhận thức và vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất ở nước ta.
Chúng ta đã nhận thức rõ hơn quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất, sự phù hợp và mâu thuẫn giữa chúng trong từng giai đoạn
phát triển. Về đặc trưng kinh tế trong xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây
dựng, đã chuyển từ công thức “có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản 13
xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu” (Cương lĩnh năm
1991) sang công thức “có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất
hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp” (Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm
2011). Sự “phù hợp” ở đây trước hết là phù hợp với trình độ phát triển lực lượng
sản xuất, phù hợp với thực tiễn Việt Nam và định hướng xã hội chủ nghĩa.
Không ngừng hoàn thiện chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình
thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối. Các thành phần kinh tế hoạt động
theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng
trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh.
Đảng và Nhà nước cũng đã ban hành nhiều chính sách và pháp luật để hoàn
thiện các mặt của quan hệ sản xuất mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa về sở
hữu, tổ chức - quản lý và phân phối. Nhà nước đã ban hành Luật Đất đai (sửa đổi
năm 2013), quy định về sở hữu và đại diện chủ sở hữu, phân định quyền của người
sở hữu, quyền của người sử dụng tư liệu sản xuất và quyền quản lý của Nhà nước
trong lĩnh vực kinh tế; xác định vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước thông qua
định hướng, điều tiết, kế hoạch, quy hoạch, chiến lược, chính sách, chương trình
phát triển và các lực lượng vật chất. Thực hiện đa dạng hóa các hình thức phân
phối theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn, trí
tuệ và các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội.
Đảng và Nhà nước có nhiều chủ trương, biện pháp để đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nhằm phát triển lực lượng sản xuất, tạo “cốt vật chất” cho quan
hệ sản xuất mới. Đã đầu tư để xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ với một số công
trình hiện đại, tập trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị lớn, chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; phát triển một số ngành
công nghiệp cơ khí, đóng tàu, vận tải, khai thác vật liệu, xây dựng, chế biến; ứng
dụng những thành tựu khoa học - công nghệ hiện đại, nhất là công nghệ thông tin;
phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao... Thực hiện đổi
mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế,
doanh nghiệp và hàng hóa dịch vụ.
Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế để phát huy cao độ nội lực, tranh thủ
ngoại lực, tiếp thu những thành tựu về khoa học - công nghệ, về kinh tế tri thức,
văn minh của thế giới; kinh nghiệm quốc tế... để phát triển, hiện đại hóa lực lượng
sản xuất và củng cố, hoàn thiện quan hệ sản xuất mới. Trong những năm đổi mới,
Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách, biện pháp để tăng cường, 14
mở rộng hợp tác quốc tế, tham gia các quan hệ song phương và tổ chức đa phương,
như ASEAN, APEC, ASEM, WTO..., thu hút mạnh mẽ vốn đầu tư nước ngoài
(FDI, ODA...), xúc tiến mạnh thương mại và đầu tư, mở rộng thị trường xuất nhập
khẩu, khai thác hiệu quả các cơ chế hợp tác quốc tế, các nguồn lực về vốn, khoa
học - công nghệ, trình độ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến. Việt Nam đã thiết lập
quan hệ ngoại giao với 170 nước, quan hệ thương mại với 230 nước và vùng lãnh
thổ, ký trên 90 hiệp định thương mại song phương, gần 60 hiệp định khuyến khích
và bảo hộ đầu tư. Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam ngày càng sâu rộng.
Cụ thể, trong hơn 30 năm qua (1986-2017), tốc độ tăng trưởng kinh tế nước
ta, tuy có sự dao động nhất định, song vẫn ở mức cao hơn trung bình khu vực và
thế giới với mức tăng bình quân cả thời kỳ gần 7%/năm. Nếu như giai đoạn 1986-
1990, tốc độ tăng trưởng kinh tế nước ta chỉ đạt 4,4%/năm, thì đến giai đoạn năm
2016 là 6,21% và năm 2017 là 6,81% 10.
Vấn đề lao động việc làm, năng suất lao động và tỷ lệ thất nghiệp đều phát
triển theo hướng tích cực. Cụ thể: Số lượng lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm
việc trong các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế, tăng từ 37.975 nghìn người vào
năm 2000, lên 53.718 nghìn người vào năm 2017 tăng 41,4%, bình quân mỗi năm
tăng 2,4%/năm; năng suất lao động xã hội năm 2005 đạt 21,4 triệu đồng/người,
đến năm 2017 đạt 93,2 triệu đồng/người. Như vậy, trong vòng 12 năm, năng suất
lao động xã hội tăng 3,35 lần, bình quân tăng 27,9%/năm; tỷ lệ thất nghiệp ở nước
ta thấp và có xu hướng giảm dần từ 2,88% năm 2010, xuống 2,24% vào năm 201714.
Tất cả những thành tựu và phát triển nói trên đều nhờ Đảng ta đã áp dụng
đúng đắn học thuyết hình thái kinh tế - xã hội trong việc xây dựng và phát triển nền
kinh tế thị trường ở Việt Nam. b, Hạn chế:
Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đạt được cũng bộc lộ nhiều hạn chế,
yếu kém, xuất hiện những mâu thuẫn mới, sự không phù hợp mới giữa lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất, làm cản trở sự phát triển của cả lực lượng sản xuất và cả quan hệ sản xuất.
Mặc dù đất nước đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nước có thu
nhập trung bình thấp, song thực chất vẫn là nước nghèo, kinh tế còn lạc hậu, nguy
cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với thế giới và khu vực ngày càng lớn. Mục tiêu
đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại
khó có thể đạt được. Hiện nay các ngành công nghiệp cơ khí, chế tạo, chế tác, phụ
trợ... còn kém phát triển, chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong GDP. Năng suất lao động, hiệu
quả, chất lượng, sức cạnh tranh thấp, yếu tố năng suất tổng hợp (TFP) rất thấp. Lực 15
lượng sản xuất yếu kém như vậy sẽ quy định trình độ, chất lượng của quan hệ sản
xuất mà chúng ta gọi là quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa cũng không thể hoàn thiện được.
Chúng ta chưa chú ý toàn diện, đồng bộ trong xây dựng, hoàn thiện các mặt
của quan hệ sản xuất. Vẫn còn xu hướng nặng về thay đổi chế độ sở hữu hơn là cải
tiến, đổi mới quan hệ quản lý và phân phối sản phẩm. Chưa thể gọi quan hệ sản
xuất hiện nay ở nước ta là (theo đúng nghĩa của
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa
từ đó) bởi vì nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đang thực
hiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chưa có lực lượng sản xuất
công nghiệp hiện đại làm cơ sở cho quan hệ sản xuất mới. Vì vậy không nên nóng
vội trong xây dựng quan hệ sản xuất, song cũng không được coi nhẹ việc xây dựng
quan hệ sản xuất từng bước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và trong Hiến pháp năm 2013 đều xác định vai
trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Tuy nhiên trong thực tế hiện nay kinh tế nhà
nước chưa thực sự giữ vai trò chủ đạo, bởi vì nhìn chung năng suất, chất lượng,
hiệu quả thấp, chưa làm gương để dẫn dắt các thành phần kinh tế khác, nhiều
doanh nghiệp nhà nước rơi vào tình trạng sản xuất, kinh doanh thua lỗ, tham
nhũng, lãng phí, tiêu cực, làm thất thoát tài sản nhà nước, gây nhiều bức xúc trong
dư luận xã hội. Doanh nghiệp nhà nước hiện chiếm tới 70% vốn đầu tư toàn xã hội,
50% vốn đầu tư nhà nước, 60% tín dụng các ngân hàng thương mại và 70% vốn
ODA,... nhưng khu vực này chỉ đóng góp 37% - 38% GDP.
Quản lý doanh nghiệp nhà nước còn nhiều lỏng lẻo, phân định không rõ
thẩm quyền và trách nhiệm của chủ sở hữu và đại diện chủ sở hữu, nhất là trong
quản lý vốn, do đó thời gian qua nhiều doanh nghiệp đầu tư tràn lan, ngoài ngành
nhiều, bị “lợi ích nhóm” chi phối, vi phạm pháp luật, nợ xấu tăng lên (tính đến cuối
năm 2012, nợ xấu của doanh nghiệp nhà nước chiếm 11,82% tổng nợ xấu của các
tổ chức hệ thống tín dụng và 5,05% dư nợ đối với doanh nghiệp nhà nước).
3. Phát huy thành tựu và khắc phục hạn chế trong xây dựng và phát triển
nền kinh tế thị trường
Thứ nhất, tiếp tục đổi mới tư duy và quan điểm phát triển hài hòa cả về lực
lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, chính trị, văn hóa, xã hội. Xây dựng tư duy mới
về mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, về mở cửa, hội nhập,
về phương thức phát triển kinh tế. Làm rõ vai trò của Nhà nước trong kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa; quan hệ giữa Nhà nước và thị trường, giữa 16
Nhà nước và doanh nghiệp. Đẩy mạnh cải cách toàn diện thể chế nhằm huy động
và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực; thực hiện cơ chế thị trường và giải quyết hài
hòa quan hệ giữa Nhà nước và thị trường trong phân phối các tư liệu sản xuất; bảo
đảm bình đẳng thực sự giữa các thành phần kinh tế. Đẩy mạnh xã hội hóa các tổ
chức trong cung ứng các dịch vụ công (giáo dục, y tế, khoa học - công nghệ). Thực
hiện đổi mới đồng bộ, phù hợp về kinh tế và chính trị. Tiếp tục xây dựng, hoàn
thiện luật pháp và chính sách kinh tế để kiến tạo sự phát triển bền vững. Xây dựng
nguồn nhân lực, trọng dụng nhân tài, nhất là trong bộ máy quản lý nhà nước. Đổi
mới thể chế nhằm tăng cường hiệu lực thực thi pháp luật và chính sách; phát huy
dân chủ, tăng cường kỷ luật, kỷ cương. Xây dựng và hoàn thiện đồng bộ các loại
thị trường, bảo đảm nguyên tắc thị trường trong sự vận hành nền kinh tế, hoàn
thiện cơ chế vận hành các loại thị trường.
Thứ hai, tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế: hoàn
thiện chế độ sở hữu và các thành phần kinh tế; xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ
trong quá trình chủ động, tích cực hội nhập quốc tế; gắn kết chặt chẽ 5 trụ cột: kinh
tế - chính trị - văn hóa - xã hội - môi trường trong phát triển bền vững; tiếp tục đổi
mới chế độ phân phối; thực hiện quyền làm chủ của nhân dân và nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần của nhân dân
Thứ ba, để rút ngắn khoảng cách giữa các vùng, lãnh thổ; giữa đồng bằng
với Trung du miền núi; giữa thành phố và nông thôn để có sự thống nhất giữa trình
độ phát triển của các vùng, Nhà nước cần có các chính sách, cơ chế quản lý phù
hợp để thu hút các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài đầu tư vào các vùng sâu,
vùng xa, vùng có kết cấu hạ tầng kỹ thuật yếu kém, nhưng họ vẫn thu được lợi
nhuận ít nhất là bằng đầu tư vào các nơi gần đô thị có điều kiện thuận lợi hơn. Khi
các công trình công nghiệp được hình thành sẽ thu hút nhiều lao động, việc làm
cho người dân, tạo thu nhập cho địa phương, các cụm dân cư đô thị được hình
thành, từng bước được cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của dân cư trong vùng
và sẽ rút ngắn dần khoảng cách với vùng đồng bằng. Đồng thời, cũng làm giảm
khoảng cách về bất bình đẳng về thu nhập giữa các nhóm dân cư. Đó cũng là một
trong các nội dung của tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội, bảo vệ môi trường.
Thứ tư, Nhà nước cần thay đổi toàn diện chương trình, nội dung, phương
pháp dạy và học, gắn dạy và học với sự vận động phát triển của kinh tế, xã hội.
Phương châm là dạy cho học sinh biết làm người, dạy cho sinh viên biết làm việc,
giảm bớt kinh viện, sách vở. Song, Nhà nước cũng cần đầu tư cho giáo dục và chỉ
đạo thực hiện có hiệu quả xã hội hóa giáo dục, nhưng vẫn có thể hỗ trợ, giúp đỡ
con em người nghèo được đi học. Nghiên cứu tiến tới xóa bỏ học phí cho hệ mầm
non, tiểu học, phổ thông cơ sở trên phạm vi cả nước để mọi người đều được đi học, 17
đi học không chỉ là quyền lợi, mà còn là nghĩa vụ, từng bước thực hiện mục tiêu xã
hội học tập và học tập suốt đời. V. Kết luận
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là học thuyết mang tính cơ sở, nền tảng
trong toàn tiến trình lịch sử của nhân loại. Sau chặng đường ba mươi năm thực
hiện Đổi mới vừa qua, Đảng ta đã không ngừng tìm tòi, phát triển nhận thức về học
thuyết hình thái kinh tế - xã hội, cụ thế là mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất,
quan hệ sản xuất trên tổng thể và đối với từng yếu tố cấu thành nên quan hệ sản
xuất, mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng,… Thực tiễn cho
thấy con đường chúng ta đang đi là đúng đắn và đạt nhiều thành tựu quan trọng,
vượt qua nhiều giai đoạn lịch sử khó khăn. Về con đường và cách thức xây dựng
và phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta có nhiều vấn đề đã được làm sáng tỏ
nhưng cũng có nhiều vấn đề cần phải phát triển thêm. Có thể nói việc xây dựng và
hoàn thiện quan hệ sản xuất trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta là một vấn đề như thế.
Mặt khác cần đi đôi với việc phát triển công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất
nước và đi tắt đón đầu, chú trọng các ngành nhiều thế mạnh trở thành ngành công
nghiệp mũi nhọn, phù hợp với sựu phát triển nền khoa học công nghệ nước nhà.
Việc phát triển công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước và phát triển nền kinh tế
thị trường phải được thực hiện đồng thời, thúc đẩy hỗ trợ nhau cùng phát triển. Bởi
lẽ nếu công nghiệp hóa – hiện đại hóa tạo nên lực lượng sản xuất cần thiết cho sự
phát triển xã hội thì việc phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần có sự điều
tiết của nhà nước và theo định hướng xã hội chủ nghĩa chính là để xây dựng hệ
thống quan hệ sản xuất phù hợp. Nước ta cần xác lập và hoàn thiện một quan hệ
sản xuất tiến bộ và phù hợp với lực lượng sản xuất hiện nay để đất nước phát triển
hơn nữa, mà trước hết là phát triển kinh tế một cách bền vững. 18
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Triết học Mác – Lênin (sử dụng trong các trường Đại học – hệ
không chuyên lý luận chính trị) – xuất bản Đại học Kinh tế quốc dân.
2. Giáo trình Triết học Mác – Lênin (Học viện báo chí và tuyên truyền Khoa
Triết học) – Nhà xuất bản chính trị - hành chính.
3. Kinh tế chính trị Mác- Lênin – Giáo trình kinh tế chính trị đại cương (Học
viện báo chí và tuyên truyền Khoa kinh tế) – Nxb chính trị hành chính.
4. http://triethoc.hcmussh.edu.vn/
5. https://www.facebook.com/DuongloiCachMangVN
6. http://tapchicongthuong.vn/bai-viet/thanh-tuu-hon-30-nam-doi-moi-tu-duy-
kinh-te-cua-dang-ve-xay-dung-nen-kinh-te-thi-truong-dinh-huong-xa-hoi- chu-nghia-58999.htm 19 BÀI THẢO LUẬN
Câu hỏi: Con người là gì? Còn người được xem xét trên mấy phương diện?
Phương diện nào thể hiện rõ nhất bản chất của con người?
Các chính sách phát triển con người ở Việt Nam như thế nào? Bài làm
Theo C. Mác, con người là một sinh vật có tính xã hội ở trình độ phát triển
cao nhất của giới tự nhiên và của lịch sử xã hội, là chủ thể của lịch sử, sáng tạo nên
tất cả các thành tựu văn minh và văn hóa.
Con người được xem xét trên 3 phương diện:
- Phương diện sinh học: con người là một thực thể sinh vật, là sản phẩm của
giới tự nhiên, là một động vật xã hội.
- Phương diện xã hội: con người là một thực thể xã hội có các hoạt động xã
hội, trong đó quan trọng nhất là hoạt động sản xuất.
- Phương diện lịch sử: con người vừa là sản phẩm của lịch sử tự nhiên và lịch
sử xã hội, nhưng đồng thời, lại là chủ thể của lịch sử bởi lao động và sáng tạo
là thuộc tính xã hội tối cao của con người.
Trong đó, phương diện xã hội thể hiện rõ nhất bản chất của con người. Bởi:
Bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội. Các quan hệ xã hội
tạo nên bản chất của con người, mỗi quan hệ xã hội có vị trí, vai trò khác nhau, có
tác động qua lại, không tách rời nhau. Các quan hệ xã hội có nhiều loại: quan hệ
quá khứ, quan hệ hiện tại, quan hệ vật chất, quan hệ tinh thần, quan hệ kinh tế,…tất
cả các quan hệ đó đều góp phần hình thành lên bản chất của con người.
Các quan hệ xã hội thay đổi, bản chất của con người cũng sẽ thay đổi theo.
Trong các quan hệ xã hội cụ thể, con người mới có thể bộc lộ bản chất thực
sự của mình. Và cũng trong những quan hệ xã hội đó thì bản chất của con người mới được phát triển.
*Các chính sách phát triển con người ở Việt Nam:
Hội nghị lần thứ 9 của Ban Chấp hành trung ương Đảng khóa XI nhấn mạnh
và bổ sung: “Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện,
hướng đến chân, thiện, mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và
khoa học… hoàn thiện các chuẩn mực giá trị văn hóa và con người Việt Nam, tạo
môi trường và điều kiện để phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng
tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp 20
luật; đề cao tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc, lương tâm, trách nhiệm của mỗi
người với bản thân mình, với gia đình, cộng đồng, xã hội và đất nước”
“Chăm lo xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, trọng tâm là
bồi dưỡng tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, đạo đức, lối sống, nhân cách.
Tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, ý thức tôn trọng pháp luật, mọi người Việt
Nam đều hiểu biết sâu sắc, tự hào, tôn vinh lịch sử dân tộc, văn hóa dân tộc,… xây
dựng con người có thế giới quan khoa học, hướng tới chân, thiện, mỹ. Gắn xây
dựng, rèn luyện đạo đức với thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản
của công dân. Nâng cao trí lực, bồi dưỡng tri thức cho con người Việt Nam… Xây
dựng và phát huy lối sống mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người,…”
Một số chính sách phát triển giáo dục đã được ban hành: Chiến lược Phát
triển giáo dục, ban hành kèm theo Quyết định số 711/QĐ-TTg ngày 13-6-2012 của
Thủ tướng Chính phủ cũng như trong Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 9-6-2014
của Hội nghị Trung ương 9 khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam
Phát triển đội ngũ đảng viên: “tăng cường rèn luyện phẩm chất đạo đức cách
mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng”(10), “chống suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa”, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, bè phái, “lợi ích nhóm”, nói không đi đôi
với làm”(11). ( (10), (11) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016) 21