Bài tập lớn Kinh tế chính trị| Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tối và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới
Môn: Kinh tế chính trị Mác-Lênin (KTCT2D02)
Trường: Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN -------***------- BÀI TẬP LỚN
HỌC PHẦN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC-LÊNIN
ĐỀ TÀI: HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM Họ và tên sinh viên: Lớp:
Hà Nội, tháng 4 năm 2021 MỤC LỤC Lời mở đầu 3 Nội dung I. Cơ sở lý luận 4 II.
Tính tất yếu khách quan của hội nhập kinh tế quốc tế 4 III.
Tổng quan lịch sử quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam từ khi mở cửa tới nay 6 IV.
Những tác động của hội nhập kinh tế quốc tế tới Việt Nam ………………………………… 8 1. Tác động tích cực 8
2. Một số hạn chế và nguyên nhân 10
3. Thành tựu hội nhập và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập Kinh tế quốc tế ở Việt Nam 11 Kết luận 14
Tài liệu tham khảo 15 LỜI MỞ ĐẦU 2
Hội nhập quốc tế là một quá trình phát triển tất yếu, do bản chất xã hội của lao
động và quan hệ giữa con người. Đó là quá trình mỗ quốc gia thực hiện gắn kết nền
kinh tế của mình với nền kinh tế thế giới dựa trên sự chia sẻ lợi ích đồng thời tuân thủ
các chuẩn mực quốc tế chung. Sự ra đời và phát triển của kinh tế thị trường cũng là
động lực hàng đầu thúc đẩy quá trình hội nhập. Hội nhập đã trở thành một xu thế lớn
của thế giới hiện đại, tác động mạnh mẽ đến quan hệ quốc tế và đời sống của từng quốc gia.
Trong công cuộc phát triển đất nước, Việt Nam đẩy mạnh quá trình toàn cầu
hóa, hội nhập sâu rộng với khu vực và thế giới. Hiện nay, tiến trình hội nhập kinh tế
quốc tế của Việt Nam đang được triển khai tích cực trong bối cảnh mới của thế giới có
nhiều biến động. Hội nhập kinh tế quốc tế đã có tác động không nhỏ đối với nền kinh
tế Việt Nam kể từ khi đổi mới đến nay giúp chúng ta dần phát triển theo kịp các nền
kinh tế tiên tiến trên thế giới và cạnh tranh với những quốc gia trong khu vực.
Xuất phát từ thực tiễn của vấn đề đó cùng niềm yêu thích đối với môn học, em
đã quyết định lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam ”.
Với kiến thức bản thân có hạn nên bài tiểu luận của em không tránh khỏi
những thiếu sót và hạn chế, em rất mong nhận được sự góp ý của cô để bài làm của em hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn ! NỘI DUNG 3 I- CƠ SỞ LÝ LUẬN
Theo quan điểm Triết học Mác – Lênin, phép biện chứng đã khẳng định: các sự
vật, hiện tượng có mối liên hệ qua lại, tác động ảnh hưởng lẫn nhau và cũng đồng thời
khẳng định tính thống nhất vật chất của thế giới là cơ sở của các mối liên hệ đó. Các
sự vật, hiện tượng khác nhau tạo thành thế giới. Dù mang những đặc điểm, tính chất
khác nhau, song tất cả đều vẫn thống nhất theo một khía cạnh nào đó. Chính bởi tính
thống nhất đó, chúng không thể tồn tại biệt lập, độc lập, tách biệt nhau mà tồn tại
trong sự tác động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau theo những quan hệ xác định.
Triết học duy vật biện chứng ra đời nhằm khẳng định sự quy định, chuyển hóa
lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của sự vật, hiện tượng. Mối liên
hệ không chỉ mang tính khách quan mà còn phổ biến bởi bất kì sự vật, hiện tượng nào
cũng có mối liên hệ với sự vật, hiện tượng khác. Thực tế ngày nay, giữa các quốc gia
trên Thế giới cũng đều có sự liên kết, hợp tác lẫn nhau. Từ đó hình thành nên xu
hướng toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Đây là phương thức tồn tại và phát
triển đem lại nhiều lợi ích, quyền lợi kinh tế cho mỗi quốc gia, đặc biệt là giải quyết
được nhiều vấn đề kinh tế xã hội, hình thành sự thống nhất đa quốc gia, phát triển và
hoàn thiện lẫn nhau giữa các quốc gia và vùng lãnh thổ. Chính vì vậy, có thể thấy hội
nhập kinh tế quốc tế đã, đang và sẽ trở thành xu hướng phát triển rộng khắp Thế giới
bởi tính khách quan, thực tiễn của nó. II-
TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN CỦA ĐỀ TÀI
Hội nhập kinh tế quốc tế từ đó trở thành xu thế tất yếu, tác động mạnh mẽ vào
quá trình hình thành và phát triển kinh tế của mỗi quốc gia trên thế giới.
Thứ nhất, do xu thế khách quan trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế. Toàn cầu
hóa là khái niệm dùng để miêu tả thay đổi trong xã hội và trong nền kinh tế thế giới,
tạo ra bởi mối liên kết giữa các quốc gia. Toàn cầu hóa kinh tế được hiểu là sự gia
tăng nhanh chóng các hoạt động phát triển kinh tế vượt qua mọi biên giới quốc gia, 4
tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế trong sự vận động phát triển hướng
tới một nền kinh tế thống nhất. Trong điều kiện toàn cầu hóa kinh tế, hội nhập kinh tế
quốc tế trở thành tất yếu khách quan. Đó là điều kiện thuận lợi để các nước giải quyết
vấn đề toàn cầu đã và đang xuất hiện ngày càng nhiều, tạo động lực cho sự phát triển lâu dài, bền vững.
Thứ hai, hội nhập kinh tế quốc tế là phương thức phát triển phổ biến của các
nước, nhất là các nước đang và kém phát triển. Đối với các nước đang và kém phát
triển, hội nhập kinh tế quốc tế là cơ hội để tiếp cận và sử dụng được các nguồn lực
bên ngoài như tài chính, khoa học công nghệ, kinh nghiệm của các nước phát triển đi
trước mình, từ đó vận dụng linh động, sáng tạo vào phát triển kinh tế trong quốc gia.
Hội nhập kinh tế quốc tế mở ra con đường giúp các nước đang kém phát triển tận
dụng được thời cơ phát triển để rút ngắn, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo với các
nước tiên tiến. Tuy nhiên, điều này mang lại một số rủi ro, thách thức đối với các quốc
gia kém phát triển. Đó là sự gia tăng sự phụ thuộc do nợ nước ngoài, tình trạng bất
bình đẳng trong trao đổi hàng hóa với các nước đang phát triển và phát triển. Bởi vậy,
để hội nhập kinh tế quốc tế phát huy tối đa lợi ích, các nước cần tìm kiếm chiến lược
hợp lý, hiệu quả cùng với những chính sách cụ thể để kịp thời bắt kịp xu thế, thích
ứng được với quá trình toàn cầu hóa, kinh tế hóa vô cùng năng động ngày nay.
Từ lợi ích mang tính hai chiều này, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã diễn
ra ở nhiều cấp độ và ngày càng sâu sắc, toàn diện hơn với sự tham gia của hầu hết các
quốc gia trên thế giới. Rõ ràng, hội nhập kinh tế đã trở thành một xu thế lớn và một
đặc trưng quan trọng của thế giới hiện nay. Xu thế này chi phối toàn bộ các mối quan
hệ quốc tế và làm thay đổi to lớn cấu trúc của hệ thống thế giới cũng như bản thân các
chủ thể và mối quan hệ giữa chúng. III-
TỔNG QUAN LỊCH SỬ QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
CỦA VIỆT NAM TỪ KHI MỞ CỬA TỚI NAY 5
1. Quá trình nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về hội nhập kinh tế quốc tế.
Việt Nam không chỉ biết đến là một đất nước mạnh mẽ, vững vàng đứng lên
sau 2 cuộc kháng chiến giành độc lập mà còn là hình ảnh của một đất nước chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế. Trong gần 30 năm đổi mới vừa qua, các chủ trương cơ bản
về hội nhập kinh tế quốc tế được nêu tại các kỳ Đại hội Đảng; Bộ Chính trị và Ban
Chấp hành Trung ương đã ban hành ba Nghị quyết chuyên đề về hội nhập kinh tế
quốc tế. Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (1986) mở ra bước ngoặt trong tư
duy và thực tiễn hội nhập quốc tế của Đảng, của Việt Nam. Đại hội chỉ rõ: “Muốn kết
hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, nước ta phải tham gia sự phân
công lao động quốc tế; trước hết và chủ yếu là với Liên Xô, Lào và Campuchia, với
các nước khác trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa; đồng thời tranh thủ mở mang quan
hệ kinh tế và khoa học - kỹ thuật với các nước thế giới thứ ba, các nước công nghiệp
phát triển, các tổ chức quốc tế và tư nhân nước ngoài trên nguyên tắc bình đẳng cùng
có lợi”. Đại hội Đảng lần thứ VII (năm 1991) đã xác định rõ chủ trương “độc lập tự
chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại” với phương châm “Việt Nam
muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc
lập và phát triển”, đánh dấu bước khởi đầu tiến trình hội nhập trong giai đoạn mới của nước ta.
Bước vào thế kỷ mới, Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng
sản Việt Nam khẳng định: "Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ,
rộng mở đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Việt Nam sẵn sàng là bạn,
là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập
và phát triển. Sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào
tháng 1 năm 2007, Ban chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết 08-
NQ/TW ngày 5 tháng 2 năm 2007 về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế
phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của WTO. Tháng 01-2011,
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra đường lối 6
đối ngoại của Việt Nam trong thời kỳ phát triển mới, trong đó có chủ trương “chủ
động và tích cực hội nhập quốc tế”. Đến Văn kiện Đại hội lần thứ XII của Đảng đã
nêu rõ những quan điểm chỉ đạo cụ thể về hội nhập quốc tế, trong đó khẳng định hội
nhập kinh tế quốc tế là trọng tâm và định hướng rõ trong 5 năm tới, hội nhập kinh tế
quốc tế tập trung vào quá trình triển khai các cam kết đã ký kết.
Như vậy, đường lối, chính sách hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay được Đảng ta
khởi xướng từ khi bắt đầu thời kỳ Đổi mới. Qua mỗi kỳ Đại hội, những nhận định,
đánh giá, định hướng chính sách luôn có sự bổ sung, phát triển mới.
2. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
Việt Nam gia nhập ASEAN vào tháng 7/1995 đã mở đầu cho tiến trình hội
nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Sự kiện Việt Nam chính thức trở thành thành viên
của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) vào ngày 11 tháng 1 năm 2007 sau 11 năm
đàm phán là sự kiện đánh dấu bước hội nhập toàn diện của Việt Nam với nền kinh tế thế giới.
Tính đến tháng 04/2019, Việt Nam đã tham gia thiết lập 16 Hiệp định thương
mại tự do với 56 quốc gia và nền kinh tế trên thế giới. Chia sẻ về quá trình tham gia
hội nhập, ông Lương Hoàng Thái, Vụ trưởng Vụ Chính sách thương mại đa biên (Bộ
Công Thương) cho biết gia nhập ASEAN từ năm 1995, Việt Nam đã chính thức mở
cửa hội nhập và bắt đầu tham gia các FTA. Tuy nhiên, ban đầu mới chỉ tham gia FTA
với tư cách là thành viên khối ASEAN. Hơn nữa, giai đoạn này chủ yếu Việt Nam
tham gia là các FTA thế hệ cũ, tập trung biện pháp ở biên giới, ít đi sâu vào quy định
trong khuôn khổ chính sách quốc gia. Không những thế, Việt Nam tham gia vào các
FTA này đều ở góc độ bị động bởi tất cả quy định của ASEAN đều có sẵn, Việt Nam
không được đàm phán bất kỳ quy định nào và lợi ích khi đó hầu như không có, bởi
các đối tác trên đều là đối tượng cạnh tranh sát sườn. Thế nhưng, với chủ trương đúng
đắn của Đảng và sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, đến nay Việt Nam tham gia ở
thế chủ động hơn trong việc lựa chọn đối tác. Đặc biệt, Việt Nam có sự chuyển đổi về 7
chất trong quá trình hội nhập nền kinh tế toàn cầu, tham gia FTA thế hệ mới với tiêu chuẩn cao hơn.
Như vậy, sau hơn 3 thập kỉ mở cửa thị trường và hội nhập quốc tế, Việt Nam đã
và đang từng bước chủ động hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế quốc tế
theo các thang bậc: Từ hẹp đến rộng về đối tác và lĩnh vực cam kết, từ thấp tới cao về
mức độ cam kết. Về hội nhập đa phương, Việt Nam đã có mối quan hệ tích cực với
các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế như Ngân hàng Phát triển Á Châu, Quỹ Tiền tệ
thế giới, Ngân hàng thế giới. IV-
NHỮNG TÁC ĐỘNG CỦA HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ ĐẾN VIỆT NAM.
Đối với Việt Nam, hội nhập kinh tế quốc tế là xu thế tất yếu để phát triển, hợp
tác toàn diện, song phương, với các nước trong khu vực và trên Thế giới. Do đó, một
mặt, quá trình hội nhập sẽ đem đến nhiều tác động tích cực đối với quá trình phát triển
kinh tế của nước ta, mặt khác cũng đồng thời đem đến những rủi ro, thách thức, khó
khăn và cả sự đánh đổi đòi hỏi phải vượt qua để thu về được nhiều lợi ích to lớn từ
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Trong phần IV của bài tiểu luận sẽ lựa chọn nghiên
cứu và chỉ ra tác động tích cực, tiêu cực mà hội nhập kinh tế quốc tế mang lại cho lĩnh
vực xuất – nhập khẩu Việt Nam.
1. Tác động tích cực của hội nhập kinh tế quốc tế.
Hội nhập kinh tế quốc tế mang lại nhiều tác động tích cực cho thị trường Việt
Nam, bên cạnh đó phải kể đến ảnh hưởng to lớn tới quá trình xuất, nhập khẩu hàng
hóa, mở ra nhiều cơ hội cho việc quảng bá thị trường hàng hóa Việt Nam.
Quá trình thực hiện các cam kết cắt giảm thuế quan trong hội nhập kinh tế
quốc tế, hoàn thiện hệ thống quản lý hải quan theo tiêu chuẩn quốc tế và cắt giảm
hàng rào thuế quan đã tạo ra tác động tích cực đến hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam. 8
Cơ hội lớn nhất là mở rộng thị trường nhờ cắt giảm thuế và dỡ bỏ rào cản
thương mại để tham gia sâu hơn vào chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu. Kết quả
cho thấy, nếu như năm 2007, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam là 111,3 tỷ
USD (trong đó xuất khẩu là 48,5 tỷ USD và nhập khẩu là 62,7 tỷ USD), thì tới năm
2015 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam đã tăng khoảng 3 lần đạt 328 tỷ
USD (trong đó nhập khẩu là 165,6 tỷ USD và xuất khẩu là 162,4 tỷ USD). Đến năm
2018, tổng kim ngạch xuất nhập đạt 480,17 tỷ USD lập kỉ lục về kim ngạch xuất nhập
khẩu. Cán cân thương mại của Việt Nam năm 2018 đạt thặng dư 6,8 tỷ USD, cao gấp
3,2 lần mức thặng dư năm 2017 (trong đó xuất khẩu đạt 243,48 tỷ USD, nhập khẩu
đạt 236,69 tỷ USD, tăng 11,1% (Theo vneconomy.vn). Trong đó, các đối tác FTA của
Việt Nam đều là các đối tác thương mại quan trọng, thể hiện ở giá trị thương mại lớn
và tỉ trọng cao trên tổng số liệu thương mại với thế giới của Việt Nam hàng năm.
Thương mại của Việt Nam với các đối tác đã và đang đàm phán luôn chiếm trên 80%
tổng kim ngạch thương mại của Việt Nam. Cụ thể :
Về xuất khẩu, quá trình tích cực, chủ động tham gia hội nhập kinh tế quốc tế
trong thời gian qua đã giúp Việt Nam có điều kiện mở rộng thị trường xuất khẩu dựa
trên những lợi thế cạnh tranh: nguồn tài nguyên phong phú, nguồn lực lao động dồi
dào, giá rẻ và sự ổn định chính trị và kinh tế - xã hội… Nhờ đó, hoạt động xuất khẩu
đã không ngừng tăng trưởng cả về quy mô và tốc độ, cũng như mặt hàng xuất khẩu
chủ lực và trở thành động lực chính, quan trọng cho sự phát triển của nền kinh tế quốc dân.
Về nhập khẩu, Việt Nam đã chuyển vị thế từ nước nhập siêu lớn sang xuất siêu.
Năm 1976, Việt Nam nhập siêu 801,4 triệu USD; tỷ lệ nhập siêu so với xuất khẩu lên
đến 360%. Từ năm 2012 đến nay, Việt Nam đã xuất siêu hàng hóa (năm 2012 là 780
triệu USD, năm 2013 là 9 triệu USD). Năm 2014, xuất siêu khoảng 2 tỷ USD. Cán
cân thương mại được cải thiện, cùng một số yếu tố khác đã góp phần cải thiện cán cân
thanh toán, tăng dự trữ ngoại hối, tăng an toàn tài chính và thanh khoản của quốc gia. 9
Thị trường xuất, nhập khẩu thuận lợi cũng tạo điều kiện cho doanh nghiệp Việt
Nam và các nhà sản xuất gia tăng năng suất lao động, đầu tư cho thị trường hàng hóa
sâu rộng hơn và có cơ hội đem hàng hóa trong nước cạnh tranh với các hàng hóa quốc
tế. Từ đó dần cải thiện chất lượng hàng hóa và xuất khẩu ra các thị trường lớn trên thế
giới, khẳng định vị trí, vai trò của nền kinh tế Việt Nam trên trường quốc tế.
2. Một số hạn chế và nguyên nhân của hội nhập kinh tế quốc tế.
Bên cạnh nhiều lợi ích quý báu mà Việt Nam có được từ việc tham gia hội
nhập kinh tế quốc tế, chúng ta không tránh khỏi một số hạn chế, thách thức, đôi khi là
sự đánh đổi từ quá trình hội nhập. Xét về tổng thể, hội nhập kinh tế quốc tế đã và
đang đem lại nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp và nền kinh tế của Việt Nam. Tuy
nhiên, với 96% tổng số doanh nghiệp đang hoạt động là doanh nghiệp nhỏ và siêu
nhỏ, áp lực cạnh tranh đối với nền kinh tế Việt Nam là rất lớn. Trong đó phải nói tới
lĩnh vực xuất nhập khẩu.
Hội nhập làm tăng sự phụ thuộc của nền kinh tế quốc gia vào thị trường bên
ngoài và, do vậy, khiến nền kinh tế dễ bị tổn thương trước những biến động của thị trường quốc tế. Hơn
thế, dù hàng rào thuế quan được dỡ bỏ, song việc có tận dụng
được các ưu đãi về thuế quan để mở rộng thị trường hay không lại phụ thuộc vào việc
đáp ứng các yêu cầu về quy tắc xuất xứ cũng như các yêu cầu khác (an toàn thực
phẩm, vệ sinh dịch tễ...). Với năng lực tự sản xuất và cung ứng nguyên phụ liệu còn
hạn chế, thì những yêu cầu về quy tắc xuất xứ hàng hóa lại đang đặt ra thách thức và
mối lo ngại cho các doanh nghiệp Việt Nam.
Ngoài ra, khi hàng rào thuế quan được gỡ bỏ nhưng các hàng rào kỹ thuật
không hiệu quả, Việt Nam sẽ trở thành thị trường tiêu thụ các sản phẩm chất lượng
kém, ảnh hưởng tới sức khỏe người tiêu dùng trong khi lại không bảo vệ được sản
xuất trong nước. Đặc biệt, sản phẩm nông nghiệp và các doanh nghiệp, nông dân Việt
Nam đứng trước sự cạnh tranh gay gắt, trong khi đó hàng hóa nông sản và nông dân là
những đối tượng dễ bị tổn thương nhất trong hội nhập. 10
3. Thành tựu hội nhập và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập Kinh tế quốc tế ở Việt Nam. a. Thành tựu.
Một trong những thành tựu nổi bật mà Việt Nam có được từ việc tham gia hội
nhập kinh tế quốc tế không thể không nhắc đến là thu hút vốn đầu tư nước ngoài FDI.
Thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam đạt được nhiều kết quả khởi sắc. Kể từ khi
Luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài có hiệu lực (năm 1988), FDI vào Việt Nam ngày
càng tăng cả về dự án, vốn đăng ký và số nước, vùng lãnh thổ. Việc thực hiện các cam
kết hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là cam kết gia nhập WTO đã giúp hoàn thiện và
làm minh bạch hệ thống pháp luật, nâng cao sức hấp dẫn của Việt Nam đối với nhà
đầu tư nước ngoài. Năm 2020, số liệu từ Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho thấy, mặc dù tác
động của dịch Covid-19 song thu hút vốn FDI năm 2020 đã đạt 28,5 tỷ USD và có
gần 300 doanh nghiệp từ các nước trên thế giới có kế hoạch mở rộng đầu tư/đầu tư
mới hoặc đang nghiên cứu, tìm hiều đầu tư tại Việt Nam. Điều này chứng tỏ, Việt
Nam vẫn là điểm đến đầu tư an toàn của các nhà đầu tư.
Trong năm 2020, các nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư vào 19 ngành, lĩnh vực,
trong đó lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo dẫn đầu với tổng vốn đầu tư đạt 13,6
tỷ USD, chiếm 47,7% tổng vốn đầu tư đăng ký; tiếp theo là lĩnh vực sản xuất, phân
phối điện, với tổng vốn đầu tư trên 5,1 tỷ USD, chiếm 18%; sau đó lần lượt là các lĩnh
vực hoạt động kinh doanh bất động sản, bán buôn bán lẻ với tổng vốn đăng ký tương
ứng gần 4,2 tỷ USD và trên 1,6 tỷ USD.
Trong bối cảnh dịch bệnh Covid – 19 năm 2020, nước ta vẫn vinh dự được một
số dự án lớn đầu tư có thể kể đến như Dự án Nhà máy điện khí tự nhiên hóa lỏng
(LNG) Bạc Liêu thuộc Trung tâm nhiệt điện LNG Bạc Liêu (Singapore), vốn đầu tư
đăng ký 4 tỷ USD; Dự án Tổ hợp hoá dầu miền Nam Việt Nam (Thái Lan) tại Bà Rịa
- Vũng Tàu, điều chỉnh tăng vốn đầu tư 1,386 tỷ USD; Dự án Khu trung tâm đô thị
Tây hồ Tây (Hàn Quốc) tại Hà Nội, điều chỉnh tăng vốn đầu tư thêm hơn 774 triệu 11
USD… Ngoài ra, còn có thể kể đến Dự án Pegatron Việt Nam (Đài Loan), vốn đầu tư
481 triệu USD, ở Hải Phòng; Dự án Nhà máy sản xuất lốp xe Radian Jinyu (Trung
Quốc), tổng vốn đầu tư 300 triệu USD ở Tây Ninh…Trong đó, đứng đầu là đầu tư từ
Hàn Quốc với tổng vốn đăng ký trên 70,6 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 18,4% tổng số vốn
đăng ký. Tiếp theo là Nhật Bản 60,3 tỷ USD, chiếm 15,7%; sau đó là Singapore, Đài
Loan và Hồng Kông. Cũng trong năm 2020, các nhà đầu tư nước ngoài đã "rót" vốn
vào 60 tỉnh, thành phố trên cả nước trong năm 2020, trong đó, thành phố Hồ Chí
Minh vươn lên dẫn đầu với tổng vốn đăng ký đạt 4,36 tỷ USD, chiếm 15,3% tổng vốn
đầu tư. Tỉnh Bạc Liêu đứng thứ hai với 01 dự án lớn có vốn đầu tư 4 tỷ USD, chiếm
14% tổng vốn đầu tư đăng ký. Thành phố Hà Nội đứng thứ ba với gần 3,6 tỷ USD,
chiếm 12,6% tổng vốn đầu tư. Tiếp theo lần lượt là tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình
Dương, TP. Hải Phòng,… Đặc biệt, năm 2019 là năm bản lề trong tiến trình hội nhập
kinh tế khu vực và quốc tế khi chuyển sang giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế mới,
Việt Nam đã chính thức ký kết và tham gia hai FTA thế hệ mới. Cụ thể, Việt Nam
chính thức đưa vào thực thi Hiệp định Đối
tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình
Dương (CPTPP) vào ngày 14 tháng 1 năm 2019 và ký kết Hiệp định Thương mại tự
do (EVFTA) và Hiệp định Bảo hộ Đầu tư (EVIPA) giữa Việt Nam và Liên minh châu
Âu vào ngày 30 tháng 6 năm 2019. Đây là thành quả tích cực sau nhiều năm Việt
Nam kiên trì tham gia đàm phán với các đối tác thương mại hàng đầu thế giới. Điều
này cũng thể hiện quyết tâm và ý chí chính trị của Việt Nam trong tiến trình hội nhập
kinh tế khu vực và quốc tế, được các nước đánh giá cao, nhất là trong bối cảnh bức
tranh kinh tế của thế giới chưa có nhiều biến chuyển tích cực.
b. Một số giải pháp thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam.
Mặc dù, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế tại Việt Nam đã đạt được những kết
quả tích cực, song trong bối cảnh thế giới diễn biến khó lường như hiện nay, Việt Nam
cần chủ động triển khai hội nhập kinh tế quốc tế lên mức toàn diện, sâu rộng, đổi mới
sáng tạo và hiệu quả hơn. Trước mắt, cần chú trọng vào một số nội dung trọng tâm
sau, nhất là trong bối cảnh hiện tại khi dịch bệnh Covid – 19 vẫn diễn biến khó lường: 12
Đối với cơ quan quản lý nhà nước
Nâng cao năng lực giám sát thị trường tài chính nhằm kịp thời đối phó với
những biến động của dòng vốn, những ảnh hưởng lây lan từ khủng hoảng tài chính
của một nước trong khu vực. Đồng thời tăng cường tuyên truyền cho các doanh
nghiệp các thông tin về lộ trình và các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam;
cần có những chính sách hỗ trợ hợp lý để thúc đẩy phát triển những ngành có lợi thế
so sánh, nhằm tăng năng suất và tăng sức cạnh tranh của hàng hóa trong nước và đẩy
mạnh xuất khẩu; cần hỗ trợ doanh nghiệp đáp ứng tốt các điều kiện về xuất xứ, rào
cản kỹ thuật, vệ sinh dịch tễ từ các thị trường nhập khẩu. Nhà nước cần nắm bắt cơ
hội và nhận diện rõ những thách thức của các FTA để có hội nhập phù hợp song
không để bị lệ thuộc và bị cuốn theo các trào lưu ngắn hạn, các xu hướng loại trừ và
hình thành những liên kết khép kín trong làn sóng FTA.
Đối với lĩnh vực đầu tư
Việc gia tăng dòng vốn nước ngoài vào Việt Nam cũng đặt ra yêu cầu về tăng
cường năng lực của cơ quan quản lý trong việc giám sát dòng vốn ra vào, tránh nguy
cơ bong bóng hoặc rút vốn ồ ạt, để nền kinh tế có thể hấp thụ vốn đầu tư hiệu quả. Đối với doanh nghiệp
Doanh nghiệp người dân phải chủ động hơn, thực thi đầy đủ, nghiêm túc các
cơ chế, chính sách, quy định pháp luật về hội nhập, không để tình trạng vi phạm quy
định pháp luật xảy ra, ảnh hưởng đến uy tín và hình ảnh đất nước, con người Việt
Nam. Chủ động tìm hiểu và nghiên cứu về thông tin, kiến thức về hội nhập kinh tế
quốc tế, pháp luật quốc tế; Chủ động đầu tư và đổi mới trang thiết bị công nghệ theo
chiều sâu nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, bởi nếu không đáp ứng được các tiêu
chuẩn quốc tế thì sản phẩm của doanh nghiệp không thể cạnh tranh với các nước
khác. Như vậy, dù hiệp định có mở ra cơ hội, doanh nghiệp cũng không thể tiếp cận
thị trường và tham gia vào chuỗi cung ứng. 13
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đặc biệt là lao động có tay nghề và nhân
lực trình độ cao. Bên cạnh đó, cần chủ động tạo sự liên kết gắn bó giữa các doanh
nghiệp, cùng xây dựng chiến lược phát triển thị trường nội địa và nước ngoài. KẾT LUẬN
Chủ động và đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế là đòi hỏi thực tiễn khách quan
trong xu hướng hội nhập quốc tế hiện nay. Thời gian qua, Việt Nam đã đạt được nhiều
thành tựu trong hội nhập, đã trở thành quốc gia có vị trí cao trên trường quốc tế. Hình
ảnh một Việt Nam chủ động và tích cực hội nhập quốc tế đã liên tục được củng cố
nhờ chủ trương đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa. Từ bước chập
chững ban đầu khi gia nhập ASEAN năm 1995, chúng ta đã có những bước tiến lớn,
trở thành thành viên có đóng góp tích cực của Diễn đàn hợp tác Á-Âu ASEM, Diễn
đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) và vai trò to lớn đối với Tổ
chức Thương mại Thế giới (WTO). Việt Nam hiện giờ là đối tác chiến lược và đối tác
toàn diện của 30 nước, trong đó có tất cả các nước lớn ở châu Á - Thái Bình Dương
và 5 nước Ủy viên thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc; được tín nhiệm lựa
chọn là nơi tổ chức nhiều hội nghị quan trọng có tầm cỡ khu vực và toàn cầu như
Diễn đàn Kinh tế thế giới về ASEAN hay gần đây nhất là Thượng đỉnh Mỹ - Triều Tiên (năm 2019).
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được vẫn còn tồn tại một số hạn chế,
thách thức làm cản trở đến tiến trình hội nhập. Trong xu thế hội nhập quốc tế sâu rộng
trong thời gian tới, Việt Nam cần xác định quan điểm tiếp tục thực hiện chính sách
nhằm chủ động hội nhập một cách có hiệu quả nhất.
Hi vọng những giải pháp em đề xuất trên có thể phần nào giúp thúc đẩy quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam để từ đó xây dựng một nền kinh tế Việt
Nam phát triển, hội nhập sâu rộng và gặt hái được nhiều thành tựu to lớn trong tương lai. 14 TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nghị quyết số 22-NQ/TW của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế
2. Chỉ thị số 25-CT/TW về đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương đến năm 2030
3. Quyết định số 596/QĐ-TTg ngày 23/4/2014 của Thủ tướng Chính phủ thành
lập Ban Chỉ đạo quốc gia về hội nhập quốc tế
4. Quyết định số 27/QĐ-BCĐHNQT ngày 26/4/2014 của Ban Chỉ đạo quốc gia
về hội nhập quốc tế ban hành Quy chế hoạt động của Ban Chỉ đạo quốc gia về hội nhập quốc tế
5. Quyết định số 04/QĐ-BCĐLNKT ngày 09/1/2015 của Ban Chỉ đạo liên ngành
kinh tế ban hành Quy chế tổ chức, hoạt động của Ban Chỉ đạo liên ngành hội
nhập quốc tế về kinh tế
6. http://lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet .aspx?tintucid=207068 7. https://vtv
.vn/chinh-tri/viet-nam-tich-cuc-chu-dong-hoi-nhap-quoc-te- 20200902065844707.htm
8. Tổng cục Thống kê (2014). Niên giám thống kê, NXB Thống kê. Lê Xuân
Sang, Vũ Hoàng Dương (2015). Nhìn lại luồng vốn FDI vào Việt Nam sau
gần 30 năm Đổi mới: Kết quả, vấn đề và định hướng chính sách, Kỷ yếu hội
thảo 30 kinh tế Việt Nam. 9. https://vneconomy .vn/ 15