Bài tập lớn Kinh tế Chính trị| Đại học Kinh Tế Quốc Dân

Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tối và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
BÀI TẬP LỚN
HỌC PHẦN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC-LÊNIN
ĐỀ TÀI: Trình bày luận của Chủ nghĩa Mác Lênin về khủng
hoảng kinh tế và liên hệ với thực tiễn ở Việt Nam.
Họ và tên:
MSV:
Lớp:
Hà Nội, tháng 5/2021
0
MỤC LỤC
Nội dung Trang
Lời nói đầu 2
I. Lý luận của Chủ nghĩa Mác Lênin về khủng hoảng kinh tế 2
1. Khái niệm 2
2. Biểu hiện 3
3. Nguyên nhân 5
4. Hậu quả 7
5. Tính chu kỳ của khủng hoảng kinh tế 9
6. Giải pháp 10
II. Liên hệ thực tiễn ở Việt Nam 12
Tài liệu tham khảo 15
Năm 2020, đại dịch COVID-19 đã gây ra cuộc khủng hoảng kinh tế nghiêm
trọng, ảnh hưởng sâu sắc tới đời sống con người trên phạm vi toàn cầu. Trong đó,
1
nền kinh tế thế giới đã phải trải qua đợt suy thoái tồi tệ nhất kể từ cuộc Đại suy
thoái năm 2008.
Đó chỉ một dụ cho những cuộc khủng hoảng kinh tế trên thế giới mặt
trái không thể tránh khỏi của sự phát triển trong phương thức sản xuất chủ nghĩa tư
bản. Song hành với những ưu điểm đột phá nhằm thúc đẩy sản xuất, trao đổi và lưu
thông hàng hóa,… thì khủng hoảng kinh tế cũng dần trở thành một mối nguy hại
dễ dàng bùng phát những lúc không ai ngờ đến.
Với mong muốn tìm hiểu thêm về khủng hoảng kinh tế, em đã chọn đề tài
“Trình bày lý luận của Chủ nghĩa Mác Lênin về khủng hoảng kinh tế và liên hệ với
thực tiễn ở Việt Nam” để phần nào làm sáng tỏ nội dung đó.
I. Lý luận của Chủ nghĩa Mác Lênin về khủng hoảng kinh tế
1. Khái niệm
Khủng hoảng kinh tế khái niệm dùng để chỉ những hiện tượng kinh tế mất
ổn định kéo dài không điều chỉnh được của quá trình tái sản xuất trong nền
kinh tế gây ra những chấn động hậu quả kinh tếhội trong quy rộng hoặc
hẹp. Khủng hoảng kinh tế diễn ra trên mọi lĩnh vực của nền sản xuất hội trong
tất cả các khẩu của quá trình tái sản xuất tính chu kỳ, xảy ra cứ 8 12 năm
một lần.
Hình thức đầu tiên và phổ biến của khủng hoảng kinh tế trong nền sản xuất
bản chủ nghĩa khủng hoảng sản xuất “thừa”. Khi khủng hoảng nổ ra, hàng hoá
không tiêu thụ được, sản xuất bị thu hẹp, nhiều doanh nghiệp bị vỡ nợ, phá sản, lao
động thất nghiệp, thị trường bị rối loạn. Tình trạng thừa hàng hoá không phải là so
với nhu cầu của hội, “thừa” so với sức mua hạn của quần chúng lao
2
động. Trong lúc khủng hoảng thừa đang nổ ra, hàng hóa đang bị phá hủy thì hàng
triệu người lao động lại lâm vào tình trạng đói khổ vì họ không có khả năng thanh
toán.
Quan điểm của Mác Lênin về khủng hoàng kinh tế như sau: khủng hoảng
đặc trưng của riêng chế độbản chủ nghĩa do mâu thuẫn giữa tính chất hội
của sản xuất (được chính chủ nghĩa bản hội hóa) phương thức chiếm hữu
tư nhân, cá nhân về tư liệu sản xuất. Đó là sự rối loạn trong sản xuất, lưu thông hay
phân phối.
Cụ thể, trong hơn 1 thể kỷ (133 năm) kể từ 1825 tới 1958, nước Anh đã phải
chịu 7 cơn khủng hoảng kinh tế vào những năm 1825-1836, 1890-1900, 1907-
1920, 1920-1929, 1929-1937, 1938-1949, 1949-1958,... Còn sau Thế chiến II,
đã rơi vào cuộc khủng hoảng lần thứ 9 với những hậu quả to lớn như sản xuất công
nghiệp giảm 5.3%, GDP giảm 2.2%, thất nghiệp tăng 7.8%, lạm phát tăng 4.6%,…
2. Biểu hiện
Một: trắc trở trong việc mua và bán.
Không bán được hàng hóa hoặc phải bán rẻ, không đủ tiền thanh toán nợ đến
hạn. Giá nguyên liệu lên không đủ tiền mua, nếu không vay được thì phải giảm
quy mô sản xuất, sa thải công nhân, không tận dụng được công suất của máy móc,
thiết bị,…
Hai: mất cân đối trong sản xuất.
Mác đã phát hiện những quan hệ tỷ lệ cân đối giữa các bộ phận tổng sản phẩm
hàng năm dành cho tái sản xuất tư bản và cho tiêu dùng cá nhân. Nếu một nước
không tự đảm bảo được những tỷ lệ cân đối đó thì sẽ lâm vào khủng hoảng. Ngoại
3
thương có thể tạm thời góp phần giải quyết những mất cân đối đó, nhưng ngoại
thương chỉ đẩy mâu thuẫn ra một trường rộng rãi hơn, chứ không giải quyết được
mâu thuẫn, khiến cho khủng hoảng mang tính chất toàn thế giới.
Ba: rối loạn hệ thống tín dụng.
Trong hệ thống tín dụng, các doanh nghiệp vay nợ lẫn nhau nên khả năng
thanh toán của người này lại do khả năng thanh toán của người kia quyết định.
Chừng nào quá trình tái sản xuất còn tiếp tục thì tín dụng vẫn được duy trì. Nhưng
nếu do thị trường đình trệ, giá cả giảm sút, hàng hóa tồn đọng, không còn nhu cầu
buôn bán,… thì sẽ dẫn đến tình trạng khan hiếm tín dụng. Việc không có khả năng
thanh toán không chỉ xuất hiện ở một điểm mà ở nhiều điểm, do đó nảy sinh khủng
hoảng.
Bốn: vi phạm quy luật về lưu thông tiền tệ.
Việc phát hành giấy thông qua số lượng cần thiết để lưu thông sẽ gây ra lạm
phát. Nhưng phát hành không đủ giấy bạc cũng gây khủng hoảng. Năm 1844, Đạo
luật Ngân hàng Anh đã hạn chế số lượng giấy được phát hành vào năm 1847 và
1857. Đến khi Chính phủ Anh xóa bỏ sự hạn chế đó vào tháng 10/1847 và tháng
11/1857, khủng hoảng đã dần được đẩy lùi. Từ đó, đạo luật đã được bãi bỏ.
Năm: mất cân đối giữa sản xuất và nhu cầu có khả năng thanh toán.
Hệ thống tín dụng và ngoại thương ngày càng mở rộng, tình trạng đầu cơ tích
trữ,… đã tạo ra những nhu cầu giả vượt quá khả năng thanh toán thực tế, dẫn đến
quy mô sản xuất mở rộng quá mức và hiện tượng sản xuất thừa thêm trầm trọng.
Mức tiêu dùng của quần chúng nhân dân nói chung và năng suất lao động không
tăng theo cùng tỷ lệ thuận.
4
Sáu: xây dựng nhà ở chạy theo thị trường và mang tính chất đầu cơ.
Nhà thầu vay vốn ngân hàng thông qua việc thế chấp bất động sản. Ngân hàng
chỉ giải ngân dần dần theo tiến độ xây dựng. Nếu xảy ra sự cố mà nhà thầu không
trả được nợ đúng hạn thì khoản vay sẽ bị đình chỉ, còn nếu phải bán nhà theo giá
thấp để thanh toán thì sẽ lỗ, thậm chí phá sản.
Bảy: những chứng khoán không đại biểu cho tư bản thực tế, không có bảo
đảm ngày càng được phát hành nhiều hơn.
C.Mác đã dẫn ra các tài liệu liên quan đến những khoản tín dụng giả được tạo
ra bằng phương pháp kỹ thuật. Ví dụ, một ngân hàng địa phương đã cho người môi
giới chứng khoán đem đi chiết khấu ở thị trường London sau khi chiết khấu kỳ
phiếu. Điều này hoàn toàn dựa trên mức độ tín nhiệm của ngân hàng mà không
xem xét các phẩm chất khác của kỳ phiếu, cộng thêm những trường hợp đầu cơ
chứng khoán, cổ phiếu.
3. Nguyên nhân
Nguyên nhân của khủng hoảng kinh tế bản chủ nghĩa bắt nguồn từ chính
mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản. Đó là mâu thuẫn giữa tính chất và trình độ
xã hội hoá cao của lực lượng sản xuất với chế độ sở hữu tư nhân bản chủ nghĩa
về liệu sản xuất chủ yếu của xã hội. Mâu thuẫn này biểu hiện ra thành các mâu
thuẫn sau:
a. Mâu thuẫn giữa tính tổ chức, tính kế hoạch trong từng xí nghiệp rất chặt chẽ
khoa học với khuynh hướng tự phát vào chính phủ trong toàn hội.
Trong các nghiệp, khi các nhà bản tiến hành sản xuất không nắm
được nhu cầu củahội thì quan hệ giữa cung cầu sẽ bị rối loạn, quan hệ tỉ lệ
5
giữa các ngành sản xuất sẽ bị phá hoại nghiêm trọng. Đến một mức độ nào đó,
khủng hoảng kinh tế sẽ nổ ra.
Điển hình cho sự mâu thuẫn này cuộc khủng hoảng cuối những năm 70.
Trọng tải hạ thủy của các nước công nghiệp 34.4 triệu tấn, trong đó Nhật Bản
17.7 triệu tấn, khối EEC 8.1 triệu tấn, 8.6 triệu tấn. Ngành luyện thép cũng
tình trạng tương tự. Sản lượng thép của thế giới 490.7 triệu tấn. Các con số này
vượt xa nhu cầu về sắt thép của thế giới chính nguyên nhân gây nên cuộc
khủng hoảng 1974-1975.
b. Mâu thuẫn giữa khuynh hướng tích lũy, mở rộng không có giới hạn của
bản với sức mua ngày càng eo hẹp của quần chúng do bị bần cùng hoá.
Để theo đuổi lợi nhuận siêu ngạch, các nhà bản ra sức mở rộng sản xuất,
cải tiến thuật, cạnh tranh gay gắt đã tạo ra những nhu cầu giả tạo vượt quá nhu
cầu có khả năng thanh toán thực sự, khiến cho quy mô sản xuất mở rộng quá mức,
dẫn tới sản xuất thừa thêm trầm trọng. Song song với đó lại là quá trình bần cùng
hoá nhân dân lao động, làm giảm bớt một cách tương đối sức mua của quần chúng.
Sự tiêu dùng của người lao động không tăng lên một cách tương ứng với sự tăng
lên của năng suất lao động khiến sức mua lạc hậu so với sự phát triển của sản xuất.
Cung cầu trong hội mất cân đối nghiêm trọng, dẫn đến khủng hoảng
thừa hàng hóa trên thị trường. Đó điều tất yếu để xảy ra khủng hoảng: hàng hóa
thì nhiều nhưng người tiêu dùng lại không đủ tiền mua hàng. Các nghiệp buộc
phải hạ giá hàng, chịu lỗ vốn và có khi là mất trắng. Điều đó diễn ra khiến sản xuất
bị thu hẹp dần, các xí nghiệp đóng cửa, công nhân thất nghiệp.
c. Mâu thuẫn đối kháng giữa giai cấp tư sản và giai cấp lao động làm thuê.
6
Đặc điểm của chủ nghĩa tư bản là hai yếu tố của sản xuất tách rời nhau: tư liệu
sản xuất tách rời người trực tiếp sản xuất. Sự tách rời đó biểu hiện r• nhất trong
khủng hoảng kinh tế.
Trong khi liệu sản xuất bị xếp lại, han gỉ, mục nát thì người lao động lại
không việc làm. Một khi liệu sản xuất và sức lao động không kết hợp được
với nhau thì guồng máy sản xuất tư bản chủ nghĩa tất nhiên bị tê liệt.
Phân công lao động hội phát triển hết sức rộng rãi khiến cho việc sản xuất
không còn là hành động cá nhân, phân tán nữa mà trở thành một sợi dây chuyền xã
hội thống nhất.
mâu thuẫn đối kháng giữa giai cấp sản giai cấp lao động làm thuê
này là mâu thuẫn không thể tách rời khỏi xã hội tư bản, ngay từ khi ra đời đã mang
sẵn mâu thuẫn cơ bản này trong nội tại của nó.
4. Hậu quả
Mỗi lần khủng hoảng kinh tế qua đi đều để lại những hậu quả to lớn với nền
sản xuất nói riêng và thế giới nói chung.
Hậu quả đầu tiên: sự tàn phá lực lượng sản xuất rối loạn lĩnh vực lưu
thông.
Cuộc khủng hoảng 1929-1933 một dụ r• ràng nhất: 13.000 công ty phá
sản, sản xuất thép giảm 76%, sản xuất sắt giảm 19.4%, sản xuất ô giảm 80%,
các nhà bản đã phá hủy một số lượng lớn liệu sản xuất hàng tiêu dùng.
Mỹ, năm 1931, họ phá những cao khả năng sản xuất 1 triệu tấn thép/năm,
đánh chìm 124 tàu biển, phá bỏ 1/4 diện tích bông, giết tiêu hủy 6.4 triệu con
lợn.
7
Hậu quả thứ 2: đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung tư bản là điều kiện dẫn
tới độc quyền.
Khủng hoảng cùng sự phá sản của các nhà tư bản nhỏsự lớn mạnh của các
công ty khổng lồ. Các cuộc khủng hoảng và phá sản của các nhà tư bản nhỏ đã góp
phần vào sự lớn mạnh của các công ty lớn. Với khả năng tài chính thực lực
mạnh, trong thời kỳ này, các nhà bản đã thu được nhiều lợi ích. Việc phá sản
sáp nhập các công ty liên doanh, công ty và tập đoàn đã làm tăng mức độ tập trung
vốn cho bản. Nếu như trước cuộc khủng hoảng 29-33, tại Hoa Kỳ chỉ 49
công ty có quy mô từ 10.000 người trở lên, thì sau khủng hoảng, con số này đã lên
tới 343. Cũng tại đây, đầu thế kỷ 20 chỉ có 1 công ty đạt 1 tỷ đô la Mỹ, thì đến đầu
năm 1950 2 công ty. Nhưng đến năm 1974, 24 trong tổng số 49 công ty
vốn là 59 tỷ.
Hậu quả thứ 3: sự gia tăng khoảng cách giàu nghèo ngày càng lớn mâu
thuẫn giữa tư bản và người lao động ngày càng tăng.
Một khi liệu sản xuất hoàn toàn nằm trong tay chủ bản thì sự bóc lột
người lao động bần cùng hóa công nhân sẽ diễn ra một cách triệt để hơn, gay
gắt hơn. Theo thống chưa đầy đủ, 20% người giàu chiếm 75% GDP toàn cầu,
trong khi 20% người nghèo chỉ chiếm 1.5% GDP toàn cầu. Trong khi hàng
nghìn người đang chịu cảnh đói rét thì các chủ bản lại sẵn sàng chi trả cho
những khoản ăn chơi xa hoa không có mục đích. Thực tế ở các nước tư bản lớn cho
thấy trung bình một ngày các nhà bản thể kiếm được trên dưới 1 triệu USD,
còn các công nhân nghèo chỉ thể kiếm được xấp xỉ 2 USD. Khoảng cách chênh
lệch quá lớn ấy dường như không thể xóa bỏ đã khiến các cuộc khủng hoảng
diễn ra nhanh chóng hơn.
8
Hậu quả thứ 4: làm cho mâu thuẫn cơ bản của tư bản chủ nghĩa ngày càng gay
gắt hơn.
Trong khi lực lượng sản xuất ngày càng mang tính xã hội hóa thì quan hệ sản
xuất vẫn không thay đổi, vẫn quan hệ chiếm hữu liệu sản xuất. Khi khủng
hoảng xảy ra, quần chúng nhân dân lao động càng bức xúc, càng ý thức đấu
tranh để thoát khỏi đói nghèo, tiêu diệt chế độ. Còn giai cấp bản các nước
bản thì chỉ biết bất lực trước thảm họa do mình gây ra. vậy khủng hoảng làm
cho đấu tranh giai cấp diễn ra mạnh mẽ hơn. Mặt khác, cuộc khủng hoảng kéo theo
sự tập trung cao độ của tư liệu sản xuất vào tay tư bản, do đó làm gia tăng xung đột
lợi ích. Chủ nghĩa bản càng nhiều quần chúng nhân dân càng ít thì khoảng
cách xã hội càng lớn.
5. Tính chu kỳ của khủng hoảng kinh tế
Khủng hoảng kinh tế xuất hiện làm cho quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa
mang tính chu kỳ. Trong thời kỳ chủ nghĩa bản tự do cạnh tranh, cứ 8 đến 12
năm thì nền kinh tế tư bản lại trải qua một cuộc khủng hoảng kinh tế. Chu kỳ kinh
tế của chủ nghĩabản khoảng thời gian nền kinh tế bản chủ nghĩa vận động
từ đầu cuộc khủng hoảng này đến đầu cuộc khủng hoảng sau. Chu kỳ kinh tế gồm
bốn giai đoạn: khủng hoảng, tiêu điều, phục hồi và hưng thịnh.
Khủng hoảng: giai đoạn khởi điểm của chu kỳ kinh tế mới. Trong thời kỳ
này, hàng hoá dư thừa, ứ đọng, giá cả giảm mạnh, sản xuất đình trệ, xí nghiệp đóng
cửa, công nhân thất nghiệp hàng loạt, tiền lương giảm sút. bản mất khả năng
thanh toán các khoản nợ, phá sản, lực lượng sản xuất bị phá hoại nghiêm trọng.
Đây là giai đoạn mà các mâu thuẫn biểu hiện dưới hình thức xung đột gay gắt.
Tiêu điều: đặc điểm của giai đoạn này sản xuất đình trệ, không giảm nữa
nhưng không tăng lên, thương nghiệp vẫn đình đốn, hàng hoá được đem bán hạ
9
giá, tư bản để rỗi nhiều không có nơi đầu tư. Trong giai đoạn này, để thoát khỏi
tình trạng bế tắc, các nhà bản còn trụ lại được tìm cách giảm chi phí bằng cách
hạ thấp tiền công, tăng cường độ thời gian lao động của công nhân, đổi mới
bản cố định làm cho sản xuất vẫn còn lãi trong tình trạng hạ giá. Việc đổi mới
bản cố định làm tăng nhu cầu về tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng, tạo điều kiện
cho sự phục hồi chung của nền kinh tế.
Phục hồi: thời kỳ khôi phục nghiệp mở rộng sản xuất. Công nhân lại
được thu hút vào làm việc, mức sản xuất đạt đến quy cũ, vật giá tăng lên, lợi
nhuận của tư bản do đó cũng tăng lên.
Hưng thịnh: giai đoạn sản xuất phát triển vượt quá điểm cao nhất chu
kỳ trước đã đạt được. Nhu cầu khả năng tiêu thụ hàng hoá tăng cao, nghiệp
được mở rộng xây dựng thêm. Nhu cầu tín dụng tăng, ngân hàng tung tiền cho
vay, năng lực sản xuất lại vượt quá sức mua của xã hội. Do đó lại tạo điều kiện cho
một cuộc khủng hoảng kinh tế mới.
Khủng hoảng kinh tế không chỉ diễn ra trong công nghiệp mà trong cả nông
nghiệp. Tuy nhiên khủng hoảng trong nông nghiệp thường kéo dài hơn khủng
hoảng trong công nghiệp. Đó do chế độ độc quyền hữu về ruộng đất đã ngăn
cản việc đổi mới tư bản cố định để thoát khỏi khủng hoảng. Mặt khác, vẫn còn một
số lượng lớn nông dân sản xuất nông nghiệp nhỏ lẻ và điều kiện sống duy nhất của
họ trồng cây thương phẩm trên diện tích đất canh tác của họ. vậy, ngay cả
trong thời kỳ khủng hoảng, họ vẫn phải duy trì sản xuất.
6. Giải pháp
Thứ nhất: tiếp tục thực hiện các nhóm giải pháp chống lạm phát, nhất tiếp
tục chính sách tiền tệ chặt chẽ nhưng linh hoạt, thận trọng theo chế thị trường.
Sử dụng hiệu quả các công cụ tiền tệ với việc điều chỉnh linh hoạt theo diễn biến
10
của thị trường. Bên cạnh đó đổi mới cấu lại hệ thống ngân hàng, tránh tác
động của khủng hoảng kinh tế thế giới.
Thứ hai: tăng cường sự giám sát của Chính phủ đối với hệ thống tài chính,
ngân hàng thị trường chứng khoán. Kiểm tra chất lượng tín dụng của các ngân
hàng thương mại, đặc biệt tín dụng dành cho các lĩnh vực nhiều rủi ro như bất
động sản, chứng khoán. Xây dựng hệ thống cảnh báo sớm với các tiêu chí cụ thể
để có phương án, giải pháp dự phòng đối với biến động xấu từ hệ thống ngân hàng,
tài chính.
Thứ ba: đẩy mạnh sản xuất kinh doanh, chính sách hỗ trợ với những đối
tượng khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi đến các doanh nghiệp làm ănhiệu quả.
chính sách miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp hợp lý. Tập trung tháo gỡ
khó khăn, tạo điều kiện đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh trong các tháng
cuối năm.
Thứ tư: tiếp tục các chính sách về chặt chẽ chi tiêu Chính phủ đầu khu
vực công nhằm tránh xảy ra nguy thâm hụt ngân sách. Việc thắt chặt chi tiêu
Chính phủ chuyển các khoản đầu công sang cho nhân sẽ góp phần vào
việc giảm thuế cho khu vực doanh nghiệp và thuế thu nhập cá nhân. Đẩy mạnh đầu
cho các dự án sở hạ tầng kỹ thuật lớn, quan trọng để kích thích kinh tế phát
triển.
Thứ năm: cải cách tháo gỡ các vướng mắc về thủ tục hành chính, giải
phóng mặt bằng, phê duyệt dự án giải ngân để tạo điều kiện các dự án được
triển khai nhanh, đặc biệt đối với các công ty xây dựng. Đối với kinh doanh bất
động sản thì bên cạnh đẩy mạnh khuyến khích đầu xây dựng nhà giá rẻ
cho người nghèo, các đối tượng chính sách, nhà cho người lao động các khu
kinh tế, khu công nghiệp tập trung, nhà cho sinh viên, học sinh, cần hạn chế
đánh thuế cao vào các trường hợp đầu cơ bất động sản.
11
Thứ sáu: đa dạng hóa các thị trường xuất khẩu, để tránh bớt tác động từ việc
giảm nhập khẩu từ một số nước tăng cường các thị trường mới, chuyển hướng
tới mở rộng thị trường trong nước. Áp dụng các biện pháp chính sách để khuyến
khích phát triển sản xuất hàng xuất khẩu, tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu và giảm
bớt nhập siêu. Thực hiện chế độ tỷ giá linh hoạt hỗ trợ xuất khẩu tăng mức tín
dụng ưu đãi cho sản xuất hàng xuất khẩu. Ngoài ra, tăng cường đẩy mạnh phát
triển thị trường trong nước, nhất trong các khâu thu mua nguyên liệu nông sản
bảo đảm gắn kết chặt chẽ giữa phát triển vùng sản xuất nguyên liệu với công
nghiệp chế biến xuất khẩu, phát triển hệ thống phân phối các vật quan trọng
hệ thống bán lẻ, nâng cao chất lượng dịch vụ bảo đảm vệ sinh an toàn thực
phẩm.
Thứ bảy: theo d•i chặt chẽ các nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào nước ta, tiếp
tục cải thiện môi trường đầu tư, đẩy mạnh công tác xúc tiến đầu nước ngoài,
trong đó theo d•i việc triển khai các dự án đầu trực tiếp nước ngoài từ Mỹ
các nước Châu Âu để có thể hỗ trợ khi cần thiết.
Thứ tám: tổ chức, điều hành giám sát tốt việc bảo đảm sự thông suốt của
sở bán lẻ trong nước, không gây đầu cơ, tắc nghẽn, khan hiếm hàng hoá. Đồng
thời khuyến khích tiêu dùng hợp tăng lương tối thiểu sớm cho cán bộ, công
chức nhà nước và công nhân ở các doanh nghiệp.
Thứ chín: tăng cường công tác thông tin, quan hệ công chúng. Bám sát
thường xuyên, cập nhật thông tin trong ngoài nước để những đánh giá đúng
về diễn biến tình hình, qua đó có những chính sách thích hợp và kịp thời nhất.
II. Liên hệ thực tiễn ở Việt Nam
Các cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới nổ ra đều khiến mọi thứ mất cân bằng.
Những hậu quả gây ra cùng nặng nề, ảnh hưởng đến nhiều ngành sản
12
xuất, dịch vụ,… Việt Nam cũng không nằm ngoại lệ. Đất nước ta cũng những
cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới mà chịu những tác động, thiệt hại nhất định.
Cụ thể, đại dịch COVID-19 đã, đang sẽ khiến cho nền kinh tế thế giới nói
chung nền kinh tế Việt Nam nói riêng “chao đảo”. Mặc Việt Nam một
trong những nước kiểm soát dịch rất tốt, song vẫn không thể tránh khỏi những tác
động nghiêm trọng do dịch gây ra. Quý I năm 2020, tốc độ tăng trưởng đạt 3.82%,
quý II giảm còn 0.39%, quý III tăng trở lại đạt 2.62%, đưa con số tăng trưởng của
9 tháng đầu năm 2020 lên 2.12%. Mặc tăng trưởng vẫn một con số dương,
nhưng đây mức tăng thấp nhất so với cùng kỳ các năm trong giai đoạn 2011-
2020 và là một trong số ít các quốc gia có tăng trưởng dương.
Theo kết quả điều tra đột xuất của Tổng cục Thống về tác động của dịch
COVID-19 tới doanh nghiệp (lần 1) cho thấy tới 85.7% số doanh nghiệp bị tác
động bởi dịch. Trong đó, khu vực công nghiệp – xây dựng và khu vực dịch vụ chịu
nhiều tác động nhất với tỷ lệ doanh nghiệp bị tác động lần lượt là 86.1% và 85.9%,
khu vực nông, lâm, thủy sản chịu ảnh hưởng ít hơn với 78.7%. Một số ngành kinh
tế có tỷ lệ doanh nghiệp chịu tác động tiêu cực cao, điển hình như các ngành: hàng
không 100%, dịch vụ lưu trú 97.1%, dịch vụ ăn uống 95.5%, hoạt động của các đại
du lịch 95.7%, giáo dục đào tạo 93.9%, các ngành dệt may, sản xuất da, các
sản phẩm từ da, sản xuất các sản phẩm điện tử, sản xuất ô tô đều có tỷ lệ trên 90%.
Trong quý III, các khu vực kinh tế đều có dấu hiệu phục hồi và khởi sắc hơn,
bước vào trạng thái hoạt động trong điều kiện bình thường mới. Tính chung 9
tháng năm 2020, GDP ước tăng 2.12% so với cùng kỳ năm 2019, là mức tăng thấp
nhất so cùng kỳ trong giai đoạn 2011-2020. Trong mức tăng chung của toàn nền
kinh tế, nông lâm nghiệp thủy sản tăng 1.84%, đóng góp 13.62% vào mức tăng
trưởng chung; công nghiệp xây dựng tăng 3.08%, đóng góp 58.35%; khu vực
dịch vụ tăng 1.37%, đóng góp 28.03%. Mặc gặp nhiều khó khăn do dịch làm
đứt gãy thương mại toàn cầu, nhưng cán cân thương mại tháng 9 tiếp tục thặng dư
13
3,5 tỷ USD, đưa giá trị xuất siêu 9 tháng đạt gần 17 tỷ USD, tăng gần gấp đôi so
cùng kỳ năm 2019. Kinh tế trong nước đã trở thành động lực tăng trưởng xuất khẩu
với kim ngạch hàng hóa xuất khẩu 9 tháng tăng 20,2% chiếm 35,4% tổng kim
ngạch xuất khẩu của cả nước. Hoạt động thương mại, vận tải trong nước cũng
dấu hiệu tăng trở lại ngay khi đợt bùng phát thứ hai được khống chế (tháng
7/2020).
“Điều không ngờ Việt Nam đạt thặng tài khoản vãng lai trong năm
2020. Việt Nam đang ghi nhận kỷ lục về thặng dư thương mại hàng hóa và tích lũy
được gần 100 tỷ USD dự trữ ngoại hối. Tài khoản vãng lai đạt thặng ngay cả
khi ngành du lịch bị ảnh hưởng nặng nề do hạn chế nhập cảnh với du khách nước
ngoài, và kiều hối của người Việt Nam ở nước ngoài dự kiến giảm khoảng gần 8%
trong năm 2020 so với năm trước. Đó những điều rất ấn tượng.” Dorati
H.Madani, chuyên gia kinh tế cao cấp của Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam.
Hiện tại, nền kinh tế Việt Nam vẫn khá ổn định trước những thách thức của
đại dịch Covid-19. Tuy nhiên, nguy lớn vẫn còn tiềm ẩn nhiều bất ổn nếu
dịch bùng phát trở lại. Đại dịch Covid-19 kéo dài trên toàn cầu vẫn nguy lớn
nhất đối với triển vọng tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững.
Theo Báo Bưu điện ASEAN dự báo, Việt Nam đang có vị thế tốt để thoát khỏi
bẫy kinh tế của đại dịch nhờ 3 lý do:
Thứ nhất: Chính phủ đã đưa ra các biện pháp giảm thuế, hoãn nộp thuế
miễn phí sử dụng đất đối với các doanh nghiệp.
Thứ hai: Luật Đầu tư được sửa đổi, tạo thuận lợi hơn cho các nhà đầubằng
cách giảm các thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho đầu trực tiếp nước ngoài
(FDI). Đáng chú ý, 4 năm qua, tới gần 1 tỷ USD được đầu cho lĩnh vực
thương mại điện tử tại Việt Nam.
14
Thứ ba: Việt Nam đã phê chuẩn Hiệp định EVFTA. Từ tháng 7/2020, EU đã
dỡ bỏ 85% các thuế quan đối với hàng hóa Việt Nam dần cắt bỏ phần còn lại
trong 7 năm tới.
Ðể đạt mục tiêu kép vừa phòng chống dịch, vừa phục hồi tăng trưởng, bảo
đảm an sinh xã hội, phát triển bền vững, Chính phủ cần thực hiện một số giải pháp
sau:
Thứ nhất: tiếp tục duy trì gói hỗ trợ tài chính đủ lớn hiệu quả để tháo gỡ
khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, phục hồi kinh tế, trong đó tập trung vào đối
tượng doanh nghiệp vì đây khu vực đóng góp lớn cho tăng trưởng GDP (khoảng
60%).
Thứ hai: đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công, đạt tỷ lệ giải ngân cao
nhất, chú trọng đến việc tháo gỡ khó khăn cho các dự án chậm giải ngân, nhất
các dự án trọng điểm, quy lớn, sức lan tỏa rộng, tạo đột phá chiến lược về
kết cấu hạ tầng và tạo động lực cho tăng trưởng kinh tế.
Thứ ba: kích cầu đầu trong khối doanh nghiệp sản xuất phục vụ xuất khẩu
để chủ động nguồn hàng khi thị trường thế giới mở lại bình thường.
Thứ tư: duy trì và tăng quy mô gói hỗ trợ người dân và doanh nghiệp gặp khó
khăn do COVID-19.
Thứ năm: thực hiện tốt việc phòng ngừa lây lan của bệnh dịch để dịch không
bùng phát, tạo điều kiện cho việc mở rộng quan hệ quốc tế, đặc biệt là thương mại.
Sự bùng phát lây lan chưa r• hồi kết của đại dịch COVID-19 đã đang
làm trầm trọng thêm xu hướng suy thoái, khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Nền kinh
tế Việt Nam đang từng bước phục hồi phát triển trong điều kiện bình thường
mới, công tác quản hành chính của Chính phủ đã đạt được những thành công
bước đầu. Khai thác tối đa thị trường trong nước, đồng thời phòng ngừa, ứng phó
15
với các bất ổn từ bên ngoài, giữ vững ổn định kinh tế mô, kiểm soát lạm phát,
bảo đảm an sinh hội, sinh kế, việc làm, đời sống đối với người lao động
những nội dung hết sức cần thiết trong thời gian tới.
Tài liệu tham khảo:
1. Giáo trình Kinh tế Chính trị
2. https://xemtailieu.com/tai-lieu/ly-luan-cua-chu-nghia-mac-le-nin-ve-khung-
hoang-kinh-te-555568.html
3. https://thongtinphapluatdansu.edu.vn/2008/12/23/2130/
4. https://www.academia.edu/9199782/Khung_hoang_kinh_t%E1%BA%BF
5. https://vietnambiz.vn/khung-hoang-kinh-te-tu-ban-chu-nghia-capitalist-
economic-crisis-la-gi-20191024190439993.htm
6. https://vass.gov.vn/nghien-cuu-khoa-hoc-xa-hoi-va-nhan-van/Tac-dong-cua-
dai-dich-Covid-19-den-tang-truong-kinh-te-va-phat-trien-ben-vung-o-Viet-
Nam-104
7. http://thoibaotaichinhvietnam.vn/pages/nhip-song-tai-chinh/2021-02-
06/viet-nam-dang-co-loi-the-rat-lon-trong-khung-hoang-kinh-te-the-gioi-
99479.aspx
16
| 1/17

Preview text:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN BÀI TẬP LỚN
HỌC PHẦN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC-LÊNIN
ĐỀ TÀI: Trình bày lý luận của Chủ nghĩa Mác Lênin về khủng
hoảng kinh tế và liên hệ với thực tiễn ở Việt Nam. Họ và tên: MSV: Lớp:
Hà Nội, tháng 5/2021 0 MỤC LỤC Nội dung Trang Lời nói đầu 2
I. Lý luận của Chủ nghĩa Mác Lênin về khủng hoảng kinh tế 2 1. Khái niệm 2 2. Biểu hiện 3 3. Nguyên nhân 5 4. Hậu quả 7
5. Tính chu kỳ của khủng hoảng kinh tế 9 6. Giải pháp 10
II. Liên hệ thực tiễn ở Việt Nam 12 Tài liệu tham khảo 15
Năm 2020, đại dịch COVID-19 đã gây ra cuộc khủng hoảng kinh tế nghiêm
trọng, ảnh hưởng sâu sắc tới đời sống con người trên phạm vi toàn cầu. Trong đó, 1
nền kinh tế thế giới đã phải trải qua đợt suy thoái tồi tệ nhất kể từ cuộc Đại suy thoái năm 2008.
Đó chỉ là một ví dụ cho những cuộc khủng hoảng kinh tế trên thế giới – mặt
trái không thể tránh khỏi của sự phát triển trong phương thức sản xuất chủ nghĩa tư
bản. Song hành với những ưu điểm đột phá nhằm thúc đẩy sản xuất, trao đổi và lưu
thông hàng hóa,… thì khủng hoảng kinh tế cũng dần trở thành một mối nguy hại
dễ dàng bùng phát những lúc không ai ngờ đến.
Với mong muốn tìm hiểu thêm về khủng hoảng kinh tế, em đã chọn đề tài
“Trình bày lý luận của Chủ nghĩa Mác Lênin về khủng hoảng kinh tế và liên hệ với
thực tiễn ở Việt Nam” để phần nào làm sáng tỏ nội dung đó. I.
Lý luận của Chủ nghĩa Mác Lênin về khủng hoảng kinh tế 1. Khái niệm
Khủng hoảng kinh tế là khái niệm dùng để chỉ những hiện tượng kinh tế mất
ổn định kéo dài mà không điều chỉnh được của quá trình tái sản xuất trong nền
kinh tế gây ra những chấn động và hậu quả kinh tế xã hội trong quy mô rộng hoặc
hẹp. Khủng hoảng kinh tế diễn ra trên mọi lĩnh vực của nền sản xuất xã hội trong
tất cả các khẩu của quá trình tái sản xuất và có tính chu kỳ, xảy ra cứ 8 – 12 năm một lần.
Hình thức đầu tiên và phổ biến của khủng hoảng kinh tế trong nền sản xuất tư
bản chủ nghĩa là khủng hoảng sản xuất “thừa”. Khi khủng hoảng nổ ra, hàng hoá
không tiêu thụ được, sản xuất bị thu hẹp, nhiều doanh nghiệp bị vỡ nợ, phá sản, lao
động thất nghiệp, thị trường bị rối loạn. Tình trạng thừa hàng hoá không phải là so
với nhu cầu của xã hội, mà là “thừa” so với sức mua có hạn của quần chúng lao 2
động. Trong lúc khủng hoảng thừa đang nổ ra, hàng hóa đang bị phá hủy thì hàng
triệu người lao động lại lâm vào tình trạng đói khổ vì họ không có khả năng thanh toán.
Quan điểm của Mác và Lênin về khủng hoàng kinh tế như sau: khủng hoảng
là đặc trưng của riêng chế độ tư bản chủ nghĩa do mâu thuẫn giữa tính chất xã hội
của sản xuất (được chính chủ nghĩa tư bản xã hội hóa) và phương thức chiếm hữu
tư nhân, cá nhân về tư liệu sản xuất. Đó là sự rối loạn trong sản xuất, lưu thông hay phân phối.
Cụ thể, trong hơn 1 thể kỷ (133 năm) kể từ 1825 tới 1958, nước Anh đã phải
chịu 7 cơn khủng hoảng kinh tế vào những năm 1825-1836, 1890-1900, 1907-
1920, 1920-1929, 1929-1937, 1938-1949, 1949-1958,... Còn sau Thế chiến II, Mĩ
đã rơi vào cuộc khủng hoảng lần thứ 9 với những hậu quả to lớn như sản xuất công
nghiệp giảm 5.3%, GDP giảm 2.2%, thất nghiệp tăng 7.8%, lạm phát tăng 4.6%,… 2. Biểu hiện
Một: trắc trở trong việc mua và bán.
Không bán được hàng hóa hoặc phải bán rẻ, không đủ tiền thanh toán nợ đến
hạn. Giá nguyên liệu lên không đủ tiền mua, nếu không vay được thì phải giảm
quy mô sản xuất, sa thải công nhân, không tận dụng được công suất của máy móc, thiết bị,…
Hai: mất cân đối trong sản xuất.
Mác đã phát hiện những quan hệ tỷ lệ cân đối giữa các bộ phận tổng sản phẩm
hàng năm dành cho tái sản xuất tư bản và cho tiêu dùng cá nhân. Nếu một nước
không tự đảm bảo được những tỷ lệ cân đối đó thì sẽ lâm vào khủng hoảng. Ngoại 3
thương có thể tạm thời góp phần giải quyết những mất cân đối đó, nhưng ngoại
thương chỉ đẩy mâu thuẫn ra một trường rộng rãi hơn, chứ không giải quyết được
mâu thuẫn, khiến cho khủng hoảng mang tính chất toàn thế giới.
Ba: rối loạn hệ thống tín dụng.
Trong hệ thống tín dụng, các doanh nghiệp vay nợ lẫn nhau nên khả năng
thanh toán của người này lại do khả năng thanh toán của người kia quyết định.
Chừng nào quá trình tái sản xuất còn tiếp tục thì tín dụng vẫn được duy trì. Nhưng
nếu do thị trường đình trệ, giá cả giảm sút, hàng hóa tồn đọng, không còn nhu cầu
buôn bán,… thì sẽ dẫn đến tình trạng khan hiếm tín dụng. Việc không có khả năng
thanh toán không chỉ xuất hiện ở một điểm mà ở nhiều điểm, do đó nảy sinh khủng hoảng.
Bốn: vi phạm quy luật về lưu thông tiền tệ.
Việc phát hành giấy thông qua số lượng cần thiết để lưu thông sẽ gây ra lạm
phát. Nhưng phát hành không đủ giấy bạc cũng gây khủng hoảng. Năm 1844, Đạo
luật Ngân hàng Anh đã hạn chế số lượng giấy được phát hành vào năm 1847 và
1857. Đến khi Chính phủ Anh xóa bỏ sự hạn chế đó vào tháng 10/1847 và tháng
11/1857, khủng hoảng đã dần được đẩy lùi. Từ đó, đạo luật đã được bãi bỏ.
Năm: mất cân đối giữa sản xuất và nhu cầu có khả năng thanh toán.
Hệ thống tín dụng và ngoại thương ngày càng mở rộng, tình trạng đầu cơ tích
trữ,… đã tạo ra những nhu cầu giả vượt quá khả năng thanh toán thực tế, dẫn đến
quy mô sản xuất mở rộng quá mức và hiện tượng sản xuất thừa thêm trầm trọng.
Mức tiêu dùng của quần chúng nhân dân nói chung và năng suất lao động không
tăng theo cùng tỷ lệ thuận. 4
Sáu: xây dựng nhà ở chạy theo thị trường và mang tính chất đầu cơ.
Nhà thầu vay vốn ngân hàng thông qua việc thế chấp bất động sản. Ngân hàng
chỉ giải ngân dần dần theo tiến độ xây dựng. Nếu xảy ra sự cố mà nhà thầu không
trả được nợ đúng hạn thì khoản vay sẽ bị đình chỉ, còn nếu phải bán nhà theo giá
thấp để thanh toán thì sẽ lỗ, thậm chí phá sản.
Bảy: những chứng khoán không đại biểu cho tư bản thực tế, không có bảo
đảm ngày càng được phát hành nhiều hơn.
C.Mác đã dẫn ra các tài liệu liên quan đến những khoản tín dụng giả được tạo
ra bằng phương pháp kỹ thuật. Ví dụ, một ngân hàng địa phương đã cho người môi
giới chứng khoán đem đi chiết khấu ở thị trường London sau khi chiết khấu kỳ
phiếu. Điều này hoàn toàn dựa trên mức độ tín nhiệm của ngân hàng mà không
xem xét các phẩm chất khác của kỳ phiếu, cộng thêm những trường hợp đầu cơ chứng khoán, cổ phiếu. 3. Nguyên nhân
Nguyên nhân của khủng hoảng kinh tế tư bản chủ nghĩa bắt nguồn từ chính
mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản. Đó là mâu thuẫn giữa tính chất và trình độ
xã hội hoá cao của lực lượng sản xuất với chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa
về tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội. Mâu thuẫn này biểu hiện ra thành các mâu thuẫn sau:
a. Mâu thuẫn giữa tính tổ chức, tính kế hoạch trong từng xí nghiệp rất chặt chẽ
và khoa học với khuynh hướng tự phát vào chính phủ trong toàn xã hội.
Trong các xí nghiệp, khi các nhà tư bản tiến hành sản xuất mà không nắm
được nhu cầu của xã hội thì quan hệ giữa cung và cầu sẽ bị rối loạn, quan hệ tỉ lệ 5
giữa các ngành sản xuất sẽ bị phá hoại nghiêm trọng. Đến một mức độ nào đó,
khủng hoảng kinh tế sẽ nổ ra.
Điển hình cho sự mâu thuẫn này là cuộc khủng hoảng cuối những năm 70.
Trọng tải hạ thủy của các nước công nghiệp là 34.4 triệu tấn, trong đó Nhật Bản
17.7 triệu tấn, khối EEC 8.1 triệu tấn, Mĩ 8.6 triệu tấn. Ngành luyện thép cũng có
tình trạng tương tự. Sản lượng thép của thế giới là 490.7 triệu tấn. Các con số này
vượt xa nhu cầu về sắt thép của thế giới và chính là nguyên nhân gây nên cuộc khủng hoảng 1974-1975.
b. Mâu thuẫn giữa khuynh hướng tích lũy, mở rộng không có giới hạn của tư
bản với sức mua ngày càng eo hẹp của quần chúng do bị bần cùng hoá.
Để theo đuổi lợi nhuận siêu ngạch, các nhà tư bản ra sức mở rộng sản xuất,
cải tiến kĩ thuật, cạnh tranh gay gắt đã tạo ra những nhu cầu giả tạo vượt quá nhu
cầu có khả năng thanh toán thực sự, khiến cho quy mô sản xuất mở rộng quá mức,
dẫn tới sản xuất thừa thêm trầm trọng. Song song với đó lại là quá trình bần cùng
hoá nhân dân lao động, làm giảm bớt một cách tương đối sức mua của quần chúng.
Sự tiêu dùng của người lao động không tăng lên một cách tương ứng với sự tăng
lên của năng suất lao động khiến sức mua lạc hậu so với sự phát triển của sản xuất.
Cung và cầu trong xã hội mất cân đối nghiêm trọng, dẫn đến khủng hoảng
thừa hàng hóa trên thị trường. Đó là điều tất yếu để xảy ra khủng hoảng: hàng hóa
thì nhiều nhưng người tiêu dùng lại không đủ tiền mua hàng. Các xí nghiệp buộc
phải hạ giá hàng, chịu lỗ vốn và có khi là mất trắng. Điều đó diễn ra khiến sản xuất
bị thu hẹp dần, các xí nghiệp đóng cửa, công nhân thất nghiệp.
c. Mâu thuẫn đối kháng giữa giai cấp tư sản và giai cấp lao động làm thuê. 6
Đặc điểm của chủ nghĩa tư bản là hai yếu tố của sản xuất tách rời nhau: tư liệu
sản xuất tách rời người trực tiếp sản xuất. Sự tách rời đó biểu hiện r• nhất trong khủng hoảng kinh tế.
Trong khi tư liệu sản xuất bị xếp lại, han gỉ, mục nát thì người lao động lại
không có việc làm. Một khi tư liệu sản xuất và sức lao động không kết hợp được
với nhau thì guồng máy sản xuất tư bản chủ nghĩa tất nhiên bị tê liệt.
Phân công lao động xã hội phát triển hết sức rộng rãi khiến cho việc sản xuất
không còn là hành động cá nhân, phân tán nữa mà trở thành một sợi dây chuyền xã hội thống nhất.
Và mâu thuẫn đối kháng giữa giai cấp tư sản và giai cấp lao động làm thuê
này là mâu thuẫn không thể tách rời khỏi xã hội tư bản, ngay từ khi ra đời đã mang
sẵn mâu thuẫn cơ bản này trong nội tại của nó. 4. Hậu quả
Mỗi lần khủng hoảng kinh tế qua đi đều để lại những hậu quả to lớn với nền
sản xuất nói riêng và thế giới nói chung.
Hậu quả đầu tiên: sự tàn phá lực lượng sản xuất và rối loạn lĩnh vực lưu thông.
Cuộc khủng hoảng 1929-1933 là một ví dụ r• ràng nhất: 13.000 công ty phá
sản, sản xuất thép giảm 76%, sản xuất sắt giảm 19.4%, sản xuất ô tô giảm 80%,
các nhà tư bản đã phá hủy một số lượng lớn tư liệu sản xuất và hàng tiêu dùng. Ở
Mỹ, năm 1931, họ phá những lò cao có khả năng sản xuất 1 triệu tấn thép/năm,
đánh chìm 124 tàu biển, phá bỏ 1/4 diện tích bông, giết và tiêu hủy 6.4 triệu con lợn. 7
Hậu quả thứ 2: đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung tư bản là điều kiện dẫn tới độc quyền.
Khủng hoảng cùng sự phá sản của các nhà tư bản nhỏ là sự lớn mạnh của các
công ty khổng lồ. Các cuộc khủng hoảng và phá sản của các nhà tư bản nhỏ đã góp
phần vào sự lớn mạnh của các công ty lớn. Với khả năng tài chính và thực lực
mạnh, trong thời kỳ này, các nhà tư bản đã thu được nhiều lợi ích. Việc phá sản và
sáp nhập các công ty liên doanh, công ty và tập đoàn đã làm tăng mức độ tập trung
vốn cho tư bản. Nếu như trước cuộc khủng hoảng 29-33, tại Hoa Kỳ chỉ có 49
công ty có quy mô từ 10.000 người trở lên, thì sau khủng hoảng, con số này đã lên
tới 343. Cũng tại đây, đầu thế kỷ 20 chỉ có 1 công ty đạt 1 tỷ đô la Mỹ, thì đến đầu
năm 1950 là 2 công ty. Nhưng đến năm 1974, có 24 trong tổng số 49 công ty có vốn là 59 tỷ.
Hậu quả thứ 3: sự gia tăng khoảng cách giàu nghèo ngày càng lớn và mâu
thuẫn giữa tư bản và người lao động ngày càng tăng.
Một khi tư liệu sản xuất hoàn toàn nằm trong tay chủ tư bản thì sự bóc lột
người lao động và bần cùng hóa công nhân sẽ diễn ra một cách triệt để hơn, gay
gắt hơn. Theo thống kê chưa đầy đủ, 20% người giàu chiếm 75% GDP toàn cầu,
trong khi 20% người nghèo chỉ chiếm 1.5% GDP toàn cầu. Trong khi có hàng
nghìn người đang chịu cảnh đói rét thì các chủ tư bản lại sẵn sàng chi trả cho
những khoản ăn chơi xa hoa không có mục đích. Thực tế ở các nước tư bản lớn cho
thấy trung bình một ngày các nhà tư bản có thể kiếm được trên dưới 1 triệu USD,
còn các công nhân nghèo chỉ có thể kiếm được xấp xỉ 2 USD. Khoảng cách chênh
lệch quá lớn ấy dường như không thể xóa bỏ và đã khiến các cuộc khủng hoảng diễn ra nhanh chóng hơn. 8
Hậu quả thứ 4: làm cho mâu thuẫn cơ bản của tư bản chủ nghĩa ngày càng gay gắt hơn.
Trong khi lực lượng sản xuất ngày càng mang tính xã hội hóa thì quan hệ sản
xuất vẫn không thay đổi, vẫn là quan hệ chiếm hữu tư liệu sản xuất. Khi khủng
hoảng xảy ra, quần chúng nhân dân lao động càng bức xúc, càng có ý thức đấu
tranh để thoát khỏi đói nghèo, tiêu diệt chế độ. Còn giai cấp tư bản và các nước tư
bản thì chỉ biết bất lực trước thảm họa do mình gây ra. Vì vậy khủng hoảng làm
cho đấu tranh giai cấp diễn ra mạnh mẽ hơn. Mặt khác, cuộc khủng hoảng kéo theo
sự tập trung cao độ của tư liệu sản xuất vào tay tư bản, do đó làm gia tăng xung đột
lợi ích. Chủ nghĩa tư bản càng nhiều và quần chúng nhân dân càng ít thì khoảng cách xã hội càng lớn.
5. Tính chu kỳ của khủng hoảng kinh tế
Khủng hoảng kinh tế xuất hiện làm cho quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa
mang tính chu kỳ. Trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, cứ 8 đến 12
năm thì nền kinh tế tư bản lại trải qua một cuộc khủng hoảng kinh tế. Chu kỳ kinh
tế của chủ nghĩa tư bản là khoảng thời gian nền kinh tế tư bản chủ nghĩa vận động
từ đầu cuộc khủng hoảng này đến đầu cuộc khủng hoảng sau. Chu kỳ kinh tế gồm
bốn giai đoạn: khủng hoảng, tiêu điều, phục hồi và hưng thịnh.
Khủng hoảng: giai đoạn khởi điểm của chu kỳ kinh tế mới. Trong thời kỳ
này, hàng hoá dư thừa, ứ đọng, giá cả giảm mạnh, sản xuất đình trệ, xí nghiệp đóng
cửa, công nhân thất nghiệp hàng loạt, tiền lương giảm sút. Tư bản mất khả năng
thanh toán các khoản nợ, phá sản, lực lượng sản xuất bị phá hoại nghiêm trọng.
Đây là giai đoạn mà các mâu thuẫn biểu hiện dưới hình thức xung đột gay gắt.
Tiêu điều: đặc điểm của giai đoạn này là sản xuất đình trệ, không giảm nữa
nhưng không tăng lên, thương nghiệp vẫn đình đốn, hàng hoá được đem bán hạ 9
giá, tư bản để rỗi nhiều vì không có nơi đầu tư. Trong giai đoạn này, để thoát khỏi
tình trạng bế tắc, các nhà tư bản còn trụ lại được tìm cách giảm chi phí bằng cách
hạ thấp tiền công, tăng cường độ và thời gian lao động của công nhân, đổi mới tư
bản cố định làm cho sản xuất vẫn còn lãi trong tình trạng hạ giá. Việc đổi mới tư
bản cố định làm tăng nhu cầu về tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng, tạo điều kiện
cho sự phục hồi chung của nền kinh tế.
Phục hồi: thời kỳ khôi phục xí nghiệp và mở rộng sản xuất. Công nhân lại
được thu hút vào làm việc, mức sản xuất đạt đến quy mô cũ, vật giá tăng lên, lợi
nhuận của tư bản do đó cũng tăng lên.
Hưng thịnh: là giai đoạn sản xuất phát triển vượt quá điểm cao nhất mà chu
kỳ trước đã đạt được. Nhu cầu và khả năng tiêu thụ hàng hoá tăng cao, xí nghiệp
được mở rộng và xây dựng thêm. Nhu cầu tín dụng tăng, ngân hàng tung tiền cho
vay, năng lực sản xuất lại vượt quá sức mua của xã hội. Do đó lại tạo điều kiện cho
một cuộc khủng hoảng kinh tế mới.
Khủng hoảng kinh tế không chỉ diễn ra trong công nghiệp mà trong cả nông
nghiệp. Tuy nhiên khủng hoảng trong nông nghiệp thường kéo dài hơn khủng
hoảng trong công nghiệp. Đó là do chế độ độc quyền tư hữu về ruộng đất đã ngăn
cản việc đổi mới tư bản cố định để thoát khỏi khủng hoảng. Mặt khác, vẫn còn một
số lượng lớn nông dân sản xuất nông nghiệp nhỏ lẻ và điều kiện sống duy nhất của
họ là trồng cây thương phẩm trên diện tích đất canh tác của họ. Vì vậy, ngay cả
trong thời kỳ khủng hoảng, họ vẫn phải duy trì sản xuất. 6. Giải pháp
Thứ nhất: tiếp tục thực hiện các nhóm giải pháp chống lạm phát, nhất là tiếp
tục chính sách tiền tệ chặt chẽ nhưng linh hoạt, thận trọng theo cơ chế thị trường.
Sử dụng hiệu quả các công cụ tiền tệ với việc điều chỉnh linh hoạt theo diễn biến 10
của thị trường. Bên cạnh đó đổi mới và cơ cấu lại hệ thống ngân hàng, tránh tác
động của khủng hoảng kinh tế thế giới.
Thứ hai: tăng cường sự giám sát của Chính phủ đối với hệ thống tài chính,
ngân hàng và thị trường chứng khoán. Kiểm tra chất lượng tín dụng của các ngân
hàng thương mại, đặc biệt là tín dụng dành cho các lĩnh vực nhiều rủi ro như bất
động sản, chứng khoán. Xây dựng hệ thống cảnh báo sớm với các tiêu chí cụ thể
để có phương án, giải pháp dự phòng đối với biến động xấu từ hệ thống ngân hàng, tài chính.
Thứ ba: đẩy mạnh sản xuất kinh doanh, có chính sách hỗ trợ với những đối
tượng khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi đến các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả.
Có chính sách miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp hợp lý. Tập trung tháo gỡ
khó khăn, tạo điều kiện đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh trong các tháng cuối năm.
Thứ tư: tiếp tục các chính sách về chặt chẽ chi tiêu Chính phủ và đầu tư khu
vực công nhằm tránh xảy ra nguy cơ thâm hụt ngân sách. Việc thắt chặt chi tiêu
Chính phủ và chuyển các khoản đầu tư công sang cho tư nhân sẽ góp phần vào
việc giảm thuế cho khu vực doanh nghiệp và thuế thu nhập cá nhân. Đẩy mạnh đầu
tư cho các dự án cơ sở hạ tầng kỹ thuật lớn, quan trọng để kích thích kinh tế phát triển.
Thứ năm: cải cách và tháo gỡ các vướng mắc về thủ tục hành chính, giải
phóng mặt bằng, phê duyệt dự án và giải ngân để tạo điều kiện các dự án được
triển khai nhanh, đặc biệt là đối với các công ty xây dựng. Đối với kinh doanh bất
động sản thì bên cạnh đẩy mạnh và khuyến khích đầu tư và xây dựng nhà giá rẻ
cho người nghèo, các đối tượng chính sách, nhà ở cho người lao động ở các khu
kinh tế, khu công nghiệp tập trung, nhà ở cho sinh viên, học sinh, cần hạn chế và
đánh thuế cao vào các trường hợp đầu cơ bất động sản. 11
Thứ sáu: đa dạng hóa các thị trường xuất khẩu, để tránh bớt tác động từ việc
giảm nhập khẩu từ một số nước và tăng cường các thị trường mới, chuyển hướng
tới mở rộng thị trường trong nước. Áp dụng các biện pháp chính sách để khuyến
khích phát triển sản xuất hàng xuất khẩu, tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu và giảm
bớt nhập siêu. Thực hiện chế độ tỷ giá linh hoạt hỗ trợ xuất khẩu và tăng mức tín
dụng ưu đãi cho sản xuất hàng xuất khẩu. Ngoài ra, tăng cường và đẩy mạnh phát
triển thị trường trong nước, nhất là trong các khâu thu mua nguyên liệu nông sản
bảo đảm gắn kết chặt chẽ giữa phát triển vùng sản xuất nguyên liệu với công
nghiệp chế biến và xuất khẩu, phát triển hệ thống phân phối các vật tư quan trọng
và hệ thống bán lẻ, nâng cao chất lượng dịch vụ và bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm.
Thứ bảy: theo d•i chặt chẽ các nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào nước ta, tiếp
tục cải thiện môi trường đầu tư, đẩy mạnh công tác xúc tiến đầu tư nước ngoài,
trong đó theo d•i việc triển khai các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài từ Mỹ và
các nước Châu Âu để có thể hỗ trợ khi cần thiết.
Thứ tám: tổ chức, điều hành và giám sát tốt việc bảo đảm sự thông suốt của
cơ sở bán lẻ trong nước, không gây đầu cơ, tắc nghẽn, khan hiếm hàng hoá. Đồng
thời khuyến khích tiêu dùng hợp lý và tăng lương tối thiểu sớm cho cán bộ, công
chức nhà nước và công nhân ở các doanh nghiệp. Thứ chín: tăng
cường công tác thông tin, quan hệ công chúng. Bám sát
thường xuyên, cập nhật thông tin trong và ngoài nước để có những đánh giá đúng
về diễn biến tình hình, qua đó có những chính sách thích hợp và kịp thời nhất. II.
Liên hệ thực tiễn ở Việt Nam
Các cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới nổ ra đều khiến mọi thứ mất cân bằng.
Những hậu quả mà nó gây ra là vô cùng nặng nề, ảnh hưởng đến nhiều ngành sản 12
xuất, dịch vụ,… Việt Nam cũng không nằm ngoại lệ. Đất nước ta cũng vì những
cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới mà chịu những tác động, thiệt hại nhất định.
Cụ thể, đại dịch COVID-19 đã, đang và sẽ khiến cho nền kinh tế thế giới nói
chung và nền kinh tế Việt Nam nói riêng “chao đảo”. Mặc dù Việt Nam là một
trong những nước kiểm soát dịch rất tốt, song vẫn không thể tránh khỏi những tác
động nghiêm trọng do dịch gây ra. Quý I năm 2020, tốc độ tăng trưởng đạt 3.82%,
quý II giảm còn 0.39%, quý III tăng trở lại đạt 2.62%, đưa con số tăng trưởng của
9 tháng đầu năm 2020 lên 2.12%. Mặc dù tăng trưởng vẫn là một con số dương,
nhưng đây là mức tăng thấp nhất so với cùng kỳ các năm trong giai đoạn 2011-
2020 và là một trong số ít các quốc gia có tăng trưởng dương.
Theo kết quả điều tra đột xuất của Tổng cục Thống kê về tác động của dịch
COVID-19 tới doanh nghiệp (lần 1) cho thấy có tới 85.7% số doanh nghiệp bị tác
động bởi dịch. Trong đó, khu vực công nghiệp – xây dựng và khu vực dịch vụ chịu
nhiều tác động nhất với tỷ lệ doanh nghiệp bị tác động lần lượt là 86.1% và 85.9%,
khu vực nông, lâm, thủy sản chịu ảnh hưởng ít hơn với 78.7%. Một số ngành kinh
tế có tỷ lệ doanh nghiệp chịu tác động tiêu cực cao, điển hình như các ngành: hàng
không 100%, dịch vụ lưu trú 97.1%, dịch vụ ăn uống 95.5%, hoạt động của các đại
lý du lịch 95.7%, giáo dục và đào tạo 93.9%, các ngành dệt may, sản xuất da, các
sản phẩm từ da, sản xuất các sản phẩm điện tử, sản xuất ô tô đều có tỷ lệ trên 90%.
Trong quý III, các khu vực kinh tế đều có dấu hiệu phục hồi và khởi sắc hơn,
bước vào trạng thái hoạt động trong điều kiện bình thường mới. Tính chung 9
tháng năm 2020, GDP ước tăng 2.12% so với cùng kỳ năm 2019, là mức tăng thấp
nhất so cùng kỳ trong giai đoạn 2011-2020. Trong mức tăng chung của toàn nền
kinh tế, nông lâm nghiệp và thủy sản tăng 1.84%, đóng góp 13.62% vào mức tăng
trưởng chung; công nghiệp và xây dựng tăng 3.08%, đóng góp 58.35%; khu vực
dịch vụ tăng 1.37%, đóng góp 28.03%. Mặc dù gặp nhiều khó khăn do dịch làm
đứt gãy thương mại toàn cầu, nhưng cán cân thương mại tháng 9 tiếp tục thặng dư 13
3,5 tỷ USD, đưa giá trị xuất siêu 9 tháng đạt gần 17 tỷ USD, tăng gần gấp đôi so
cùng kỳ năm 2019. Kinh tế trong nước đã trở thành động lực tăng trưởng xuất khẩu
với kim ngạch hàng hóa xuất khẩu 9 tháng tăng 20,2% và chiếm 35,4% tổng kim
ngạch xuất khẩu của cả nước. Hoạt động thương mại, vận tải trong nước cũng có
dấu hiệu tăng trở lại ngay khi đợt bùng phát thứ hai được khống chế (tháng 7/2020).
“Điều không ngờ là Việt Nam đạt thặng dư tài khoản vãng lai trong năm
2020. Việt Nam đang ghi nhận kỷ lục về thặng dư thương mại hàng hóa và tích lũy
được gần 100 tỷ USD dự trữ ngoại hối. Tài khoản vãng lai đạt thặng dư ngay cả
khi ngành du lịch bị ảnh hưởng nặng nề do hạn chế nhập cảnh với du khách nước
ngoài, và kiều hối của người Việt Nam ở nước ngoài dự kiến giảm khoảng gần 8%
trong năm 2020 so với năm trước. Đó là những điều rất ấn tượng.” – Bà Dorati
H.Madani, chuyên gia kinh tế cao cấp của Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam.
Hiện tại, nền kinh tế Việt Nam vẫn khá ổn định trước những thách thức của
đại dịch Covid-19. Tuy nhiên, nguy cơ lớn vẫn còn và tiềm ẩn nhiều bất ổn nếu
dịch bùng phát trở lại. Đại dịch Covid-19 kéo dài trên toàn cầu vẫn là nguy cơ lớn
nhất đối với triển vọng tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững.
Theo Báo Bưu điện ASEAN dự báo, Việt Nam đang có vị thế tốt để thoát khỏi
bẫy kinh tế của đại dịch nhờ 3 lý do:
Thứ nhất: Chính phủ đã đưa ra các biện pháp giảm thuế, hoãn nộp thuế và
miễn phí sử dụng đất đối với các doanh nghiệp.
Thứ hai: Luật Đầu tư được sửa đổi, tạo thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư bằng
cách giảm các thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI). Đáng chú ý, 4 năm qua, có tới gần 1 tỷ USD được đầu tư cho lĩnh vực
thương mại điện tử tại Việt Nam. 14
Thứ ba: Việt Nam đã phê chuẩn Hiệp định EVFTA. Từ tháng 7/2020, EU đã
dỡ bỏ 85% các thuế quan đối với hàng hóa Việt Nam và dần cắt bỏ phần còn lại trong 7 năm tới.
Ðể đạt mục tiêu kép vừa phòng chống dịch, vừa phục hồi tăng trưởng, bảo
đảm an sinh xã hội, phát triển bền vững, Chính phủ cần thực hiện một số giải pháp sau:
Thứ nhất: tiếp tục duy trì gói hỗ trợ tài chính đủ lớn và hiệu quả để tháo gỡ
khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, phục hồi kinh tế, trong đó tập trung vào đối
tượng doanh nghiệp vì đây là khu vực đóng góp lớn cho tăng trưởng GDP (khoảng 60%).
Thứ hai: đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công, đạt tỷ lệ giải ngân cao
nhất, chú trọng đến việc tháo gỡ khó khăn cho các dự án chậm giải ngân, nhất là
các dự án trọng điểm, quy mô lớn, có sức lan tỏa rộng, tạo đột phá chiến lược về
kết cấu hạ tầng và tạo động lực cho tăng trưởng kinh tế.
Thứ ba: kích cầu đầu tư trong khối doanh nghiệp sản xuất phục vụ xuất khẩu
để chủ động nguồn hàng khi thị trường thế giới mở lại bình thường.
Thứ tư: duy trì và tăng quy mô gói hỗ trợ người dân và doanh nghiệp gặp khó khăn do COVID-19.
Thứ năm: thực hiện tốt việc phòng ngừa lây lan của bệnh dịch để dịch không
bùng phát, tạo điều kiện cho việc mở rộng quan hệ quốc tế, đặc biệt là thương mại.
Sự bùng phát và lây lan chưa r• hồi kết của đại dịch COVID-19 đã và đang
làm trầm trọng thêm xu hướng suy thoái, khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Nền kinh
tế Việt Nam đang từng bước phục hồi và phát triển trong điều kiện bình thường
mới, công tác quản lý hành chính của Chính phủ đã đạt được những thành công
bước đầu. Khai thác tối đa thị trường trong nước, đồng thời phòng ngừa, ứng phó 15
với các bất ổn từ bên ngoài, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát,
bảo đảm an sinh xã hội, sinh kế, việc làm, đời sống đối với người lao động là
những nội dung hết sức cần thiết trong thời gian tới. Tài liệu tham khảo:
1. Giáo trình Kinh tế Chính trị
2. https://xemtailieu.com/tai-lieu/ly-luan-cua-chu-nghia-mac-le-nin -ve-khung- hoang-kinh-te-555568.html
3. https://thongtinphapluatdansu.edu.vn/2008/12/23/2130/ 4. https://www
.academia.edu/9199782/Khung_hoang_kinh_t%E1%BA%BF
5. https://vietnambiz.vn/khung-hoang-kinh-te-tu-ban-chu-nghia-capitalist-
economic-crisis-la-gi-20191024190439993.htm 6. https://vass.gov
.vn/nghien-cuu-khoa-hoc-xa-hoi-va-nhan-van/Tac-dong-cua-
dai-dich-Covid-19-den-tang-truong-kinh-te-va-phat-trien-ben-vung-o-Viet- Nam-104
7. http://thoibaotaichinhvietnam.vn/pages/nhip-song-tai-chinh/2021-02-
06/viet-nam-dang-co-loi-the-rat-lon-trong-khung-hoang-kinh-te-the-gioi- 99479.aspx 16