Bài tập lớn Kinh tế Chính trị Mác-Lênin| Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tối và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới
Môn: Kinh tế chính trị Mác-Lênin (KTCT2D02)
Trường: Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN ĐÀO TẠO TIÊN TIẾN, CHẤT LƯỢNG CAO VÀ POHE
BỘ MÔN KINH TẾ CHÍNH TRỊ ---oOo--- BÀI TẬP LỚN Đề bài:
Lý luận về hàng hóa sức lao động của C.Mác.
Liên hệ thực tiễn Việt Nam
Họ và tên sinh viên: Đặng Lê Thanh Mai Mã sinh viên: 11213623
Lớp tín chỉ: LLNL1106(221)POHE_02 Hà Nội, 2022 1 MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..............................................................................................................3
I. Sức lao động và điều kiện để sức lao động trở thành hàng hoá........................4
II. Hai thuộc tính của hàng hoá sức lao động.......................................................5
PHẦN LIÊN HỆ...................................................................................................7
KẾT LUẬN.........................................................................................................11
TƯ LIỆU THAM KHẢO....................................................................................12 2 MỞ ĐẦU
Nguồn lao động là tài sản quý giá và to lớn đối với một quốc gia, đó vừa
là tiền đề, vừa là động lực và là mục tiêu để thực hiện chiến lược phát triển kinh
tế xã hội của đất nước. Quan tâm đến nguồn lao động tức là quan tâm đến mọi
mặt vấn đề liên quan đến người lao động, từ đó bộc lộ bản chất, tính ưu việt của
chế độ. Trên cơ sở của chủ nghĩa Mác – Lênin về hàng hoá sức lao động cùng
với thực trạng thị trường sức lao động của nước ta thì việc hoàn thiện thị trường
sức lao động không chỉ mang tính kinh tế mà còn mang ý nghĩa chính trị, là một vấn đề cấp thiết.
Trong những năm vừa qua, nền kinh tế nước ta đang dần dần chuyển từ
nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường, nhiều thị trường khắp cả nước
đã từng bước được hình thành và phát triển nhưng trình độ phát triển còn thấp so
với các nước và sự phát triển của các thị trường đó còn thiếu đồng bộ. Một trong
số những thị trường được hình thành đó là thị trường sức lao động (hay còn gọi
là thị trường lao động). Trước thời kỳ đổi mới, chúng ta hầu như không hề thừa
nhận thị trường sức lao động. Thế nhưng trong điều kiện hiện nay, việc thừa
nhận nó là tất yếu. Vào ngày 23/06/1994, nhà nước ta đã ban hành Bộ luật Lao
động, tiếp sau đó là một loạt nghị định của Chính phủ hướng dẫn, thi hành Bộ
luật Lao động đã có những tác động tích cực đến việc hình thành khuôn khổ
pháp lý cho thị trường này. Sức lao động được coi là một hàng hoá đặc biệt, tiền
lương được coi là mức giá của sức lao động và được quyết định bảo sự thoả thuận giữa hai bên.
Vậy hàng hoá sức lao động là gì? Chúng có những đặc điểm, vai trò và
giá trị ra sao đối với nền kinh tế? Thị trường hàng hoá sức lao động tại Việt Nam
hiện nay diễn ra như thế nào từ sau năm 1986? Để hiểu rõ hơn vấn đề này, tôi
lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Lí luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về hàng hoá sức
lao động và hoạt động thực tiễn tại Việt Nam.” 3
I. Sức lao động và điều kiện để sức lao động trở thành hàng hoá:
1. Sức lao động là gì?
Theo C.Mác, “Sức lao động đó là toàn bộ các thể lực và trí lực ở trong thân
thể một con người, thể lực và trí lực mà con người phải làm cho hoạt động để
sản xuất ra những vật có ích.”
2. Những điều kiện biến sức lao động trở thành hàng hoá:
Trong bất cứ xã hội nào, sức lao động cũng là điều kiện cơ bản của sản xuất.
Nhưng không phải trong bất cứ điều kiện nào, sức lao động cũng là hàng hoá.
Sức lao động chỉ có thể trở thành hàng hoá trong những điều kiện lịch sử nhất định sau đây:
- Thứ nhất: Người có sức lao động phải được tự do về thân thể, làm chủ được
sức lao động của mình và có quyền bán sức lao động của mình như một hàng
hoá. Sức lao động chỉ xuất hiện trên thị trường với tư cách là hàng hoá, nếu
nó do bản thân con người có sức lao động đưa ra bán. Muốn vậy, người có
sức lao động phải có quyền sở hữu năng lực của mình. Việc biến sức lao
động trở thành hàng hoá đòi hỏi phải thủ tiêu chế độ chiếm hữu nô lệ và chế độ phong kiến.
- Thứ hai: Người có sức lao động phải bị tước đoạt hết mọi tư liệu sản xuất để
không thể tự tiến hành lao động sản xuất. Chỉ trong điều kiện ấy , người lao
động mới buộc phải bán sức lao động của mình vì không còn cách nào để sinh sống.
Dưới chủ nghĩa tư bản đã xuất hiện đầy đủ hai điều kiện đó. Cách mạng tư
sản đã giải phóng người lao động khỏi sự lệ thuộc về thân thể vào chủ nô và
chúa phong kiến. Thêm vào đó, do tác động của quy luật giá trị và các biện pháp
tích luỹ nguyên thuỷ của tư bản đã làm phá sản những người sản xuất nhỏ, biến
họ trở thành vô sản và tập trung tư liệu sản xuất vào trong tay một số ít người.
Việc mua bán sức lao động được thực hiện dưới hình thức thuê mướn.
Trong các hình thái trước tư bản chủ nghĩa, chỉ có sản phẩm của lao động
mới là hàng hoá. Chỉ đến khi sản xuất hàng hoá phát triển đến một mức độ nhất
định nào đó, các hình thái sản xuất xã hội cũ bị phá vỡ thì mới xuất hiện điều
kiện để sức lao động trở thành hàng hoá. Chính sự xuất hiện của hàng hoá sức
lao động đã làm cho sản xuất hàng hoá trở nên có tính phổ biến và đã báo hiệu 4
sự ra đời của một thời đại mới trong lịch sử xã hội – thời đại của chủ nghĩa tư bản.
Sức lao động trở thành hàng hoá là điều kiện tiên quyết quyết định để biến tiền thành tư bản.
II. Hai thuộc tính của hàng hoá sức lao động:
1. Giá trị hàng hoá sức lao động:
Giá trị hàng hoá cũng giống như các hàng hoá khác được quy định bởi số
lượng thời gian lao động xã hội cần thiệt để sản xuất ra và tái sản xuất ra sức lao
động. Nhưng sức lao động chỉ tồn tại như năng lực sống của con người. Để sản
xuất ra và tái sản xuất ra năng lực đó, người công nhân phải tiêu dùng một số
lượng tư liệu sinh hoạt nhất định. Ngoài ra, người lao động còn phải thoả mãn
những nhu cầu của gia đình và con cái. Chỉ có như vậy thì sức lao động mới
được sản xuất và tái sản xuất liên tục.
Vậy thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra sức lao động sẽ quy
thành thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt
ấy. Hay nói một cách khác, số lượng giá trị sức lao động được xác định bằng giá
trị của những tư liệu sinh hoạt để tái sản xuất ra sức lao động.
Khác với hàng hóa thông thường, giá trị hàng hóa sức lao động bao hàm cả
yếu tố tinh thần và lịch sử. Điều đó thể hiện ở chỗ nhu cầu của công nhân không
chỉ có nhu cầu về vật chất mà còn gồm cả những nhu cầu về tinh thần (giải trí,
học tập,…). Nhu cầu đó cả về khối lượng lẫn cơ cấu những tư liệu sinh hoạt cần
thiết cho công nhân không phải lúc nào và ở đâu cũng giống nhau. Nó tùy thuộc
vào hoàn cảnh lịch sử của từng nước, từng thời kỳ, phụ thuộc vào trình độ văn
minh đã đạt được của mỗi nước. Ngoài ra còn phụ thuộc vào tập quán, điều kiện
địa lý và khí hậu, điều kiện hình thành giai cấp công nhân.
Nhưng đối với một nước nhất định và trong một thời kỳ nhất định thì quy mô
những tư liệu sinh hoạt cần thiết cho người lao động là một đại lượng nhất định.
Do đó có thể xác định do những bộ phận sau đây hợp thành:
Một là, giá trị những tư liệu sinh hoạt về vật chất và tinh thần cần thiết để tái
sản xuất sức lao động, duy trì đời sống của bản thân người công nhân.
Hai là, phí tổn đào tạo người công nhân.
Ba là, giá trị những tư liệu sinh hoạt cần thiết cho gia đình người công nhân.
Để nêu ra được sự biến đổi của giá trị sức lao động trong một thời kỳ nhất
định, cần nghiên cứu sự tác động lẫn nhau của hai xu hướng đối lập nhau. Một 5
mặt là sự tăng nhu cầu trung bình xã hội về hàng hóa và dịch vụ, về học tập và
trình độ lành nghề, do đó làm tăng giá trị sức lao động. Mặt khác là sự tăng năng
suất lao động xã hội, do đó làm giảm giá trị sức lao động. Trong điều kiện tư
bản hiện đại, dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật và những
điều kiện khác, sự khác biệt của công nhân về trình độ lành nghề, về sự phức tạp
của lao động và mức độ sử dụng năng lực trí óc và tinh thần của họ tăng lên. Tất
cả những iều kiện đó không thể không ảnh hưởng đến các giá trị sức lao động.
Không thể không dẫn đến sự khác biệt theo ngành và theo lĩnh vực của nền kinh
tế bị che lấp đằng sau đại lượng trung bình của giá trị sức lao động.
2. Giá trị sử dụng hàng hóa sức lao động:
Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động cũng giống như các hàng hóa khác
chỉ thể hiện ra trong quá trình tiêu dùng lao động, tức là quá trình người công
nhân tiến hành lao động sản xuất.
Những tính chất đặc biệt của hàng hóa sức lao động được thể hiện đó là:
Thứ nhất, sự khác biệt giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động so với giá trị
sử dụng của các hàng hóa khác là ở chỗ: hàng hóa thông thường sau quá trình
tiêu dùng hay sử dụng thì cả giá trị và giá trị sử dụng của nó đều biến mất theo
thời gian. Trái lại, quá trình tiêu dùng hàng hóa sức lao động lại là quá trình sản
xuất ra một loại hàng hóa nào đó, đồng thời là quá trình tạo ra giá trị mới lớn
hơn giá trị của thân giá trị sức lao động. Phần lớn hơn đó chính là giá trị thặng
dư. Như vậy, hàng hóa sức lao động có thuộc tính là nguồn gốc sinh ra giá trị.
Đó là đặc điểm cơ bản nhất của giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động so với
các hàng hóa khác. Nó là chìa khóa để giải quyết mâu thuẫn của công thức
chung của tư bản. Như vậy, tiền chỉ thành tư bản khi sức lao động trở thành hàng hóa.
Thứ hai, con người là chủ thể của hàng hóa sức lao động. Vì vậy, việc cung
ứng sức lao động phụ thuộc vào những đặc điểm về tâm lý, kinh tế, xã hội của
người lao động. Đối với hầu hết các thị trường khác thì cầu phụ thuộc vào con
người với những đặc điểm của họ, nhưng đối với thị trường lao động thì con
người lại có ảnh hưởng quyết định tới cung. 6 PHẦN LIÊN HỆ
VẤN ĐỀ LAO ĐỘNG VÀ VIỆC LÀM TẠI VIỆT NAM
A - Thực trạng thị trường lao động ở Việt Nam hiện nay
I - Nguồn lao động - cung của thị trường lao động
1. Về số lượng:
Việt Nam hiện nay đang sở hữu một thế hệ dân số vàng. Do đó mà nguồn lao
động của nước ta rất dồi dào trong hiện tại và cả tương lai. Hiện nay, số lượng
người lao động chiếm khoảng 60% dân số. Hằng năm, nước ta lại được bổ sung
thêm khoảng hơn 1 triệu lao động mới. Nguyên nhân của sự gia tăng nhanh
chóng về số lượng lao động ở nước ta là do tốc đ ộ
d tăng dân số cũng như hậu
quả từ cuộc bùng nổ dân số trước đây và xu hướng trẻ hóa dân số đang diễn ra.
Năm 2013, dân số Việt Nam đã đạt khoảng 90 triệu người, trong đó nhóm dân
số có độ tuổi từ 15-64 chiếm 69% tổng số dân.
2. Về chất lượng:
Người lao động nước ta cần cù, có kinh nghiệm trong sản xuất gắn với truyền
thống của dân tộc được tích lũy qua nhiều thế hệ, đặc biệt là trong các ngành
nông nghiệp, ngư nghiệp, thủ công nghiệp. Nguồn lao động trẻ đang có xu
hướng tăng, có khả năng ứng dụng nhanh chóng các thành tựu khoa học-kĩ thuật vào sản xuất.
Tuy nhiên, chất lượng nguồn lao động của nước ta còn thấp. Năm 2012, số
người lao ộng đã qua đào tạo chỉ chiếm 17.6%. Nguyên nhân chủ yếu khiến chất
lượng nguồn lao động của nước ta còn hạn chế là do cơ cấu đào tạo chưa hợp lý
(thừa thầy thiếu thợ), chất lượng đào tạo chưa đạt tiêu chuẩn. Người lao động đã
qua đào tạo còn mỏng về số lượng, một số lượng lớn người lao động có trình độ
lại đang có thiên hướng ra nước ngoài làm ăn,…
3. Sự phân bố nguồn lao động:
Hiện nay, thị trường lao động đang có sự phát triển không đồng đều, dẫn tới
sự chênh lệch về tỷ suất cung – cầu trong thị trường lao động ở mỗi ngành nghề
và mỗi vùng miền khác nhau. Trong các ngành kinh tế, tỉ trọng người lao động
hoạt động trong ngành nông lâm - ngư nghiệp vẫn chiếm phần lớn với trên 50%.
Trong khu vực nông thôn – thành thị, tỉ trọng người lao động ở nông thôn chiếm
tới khoảng 70% nhưng người lao động đã qua đào tạo lại tập trung chủ yếu ở 7
thành thị. Điều này làm cho thị trường lao động của nước ta phát triển không
đồng đều giữa các ngành và các vùng với nhau, khiến nhịp độ phát triển kinh tế
đất nước cũng trở nên không đồng bộ, thống nhất.
II - Vấn đề việc làm và sự mâu thuẫn cung - cầu trong thị trường lao động:
Với nguồn lao động đông đảo về số lượng nhưng chất lượng lại hạn chế, tình
trạng thất nghiệp và thiếu việc làm hoặc phải làm trái ngành nghề đào tạo đang
diễn ra phổ biến và dần trở thành một vấn nạn của xã hội ở nước ta, gây lãng phí nguồn lao động.
Theo số liệu điều tra của Tổng cục thống kê, sáu tháng đầu năm 2013, tỷ lệ
thất nghiệp của lao động trong độ tuổi ước tính là 2.28% (tăng 0.32% so với năm
2012), còn tỷ lệ thiếu việc làm là 2.95% (tăng 0.21% so với năm 2012). Như
vậy, tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm ở nước ta đang có xu hướng gia tăng.
Điều này đồng nghĩa với hiện nay trong thị trường lao động, cung đang lớn hơn cầu.
Mặt khác, hằng năm, nước ta lại được bổ sung thêm khoảng 1 triệu lao động
mới, trong đó có khoảng trên 200 nghìn sinh viên đại học, cao đẳng tốt nghiệp,
cung cấp một lượng lớn nguồn nhân lực cho xã hội nhưng các công ty, doanh
nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nước ngoài vẫn kêu ca “khan hiếm nguồn lực”
dẫn đến tình trạng “vừa thiếu vừa thừa” nguồn lao động. Nguyên nhân của tình
trạng này là do sự mất cân đối về cung – cầu lao động. Nguồn lao động quá lớn
trong điều kiện các ngành sản xuất chưa thể tạo ra đủ việc làm. Thêm nữa, người
lao động chưa qua đào tạo hoặc có tay nghề thấp quá nhiều, trong khi số người
lao động có trình độ, chuyên môn lại quá ít.
Ngoài ra còn do nền kinh tế nước ta trong một vài năm trở lại đây gặp phải
nhiều biến động bất lợi, các công ty, doanh nghiệp nhà nước cơ cấu lại tổ chức,
sa thải bớt nhân viên, các doanh nghiệp nhỏ làm ăn thua lỗ, phá sản. Chính vì
thế, mặc dù đã đạt được khá nhiều thành tích trong công tác kiểm soát và điều
tiết tỷ lệ tăng lao động nhưng vấn đề việc làm vẫn diễn biến rất khó khăn, phức tạp.
III - Tiền công
Trong thị trường lao động, giá cả của hàng hóa sức lao động được thể hiện dưới dạng tiền công.
Ở nước ta, tiền công cho người lao động được nhà nước quy định trong các
văn bản quy phạm pháp luật. Các doanh nghiệp trên cơ sở quy định của pháp
luật về mức lương tối thiểu cho người lao động, có thể tự xây dựng hệ thống tiền 8
công riêng sao cho phù hợp với tình hình kinh tế của doanh nghiệp và sự đóng
góp sức lực của người lao ộng.
Trên thực tế, chính sách tiền lương của nước ta hiện nay chỉ bằng khoảng
40% giá trị sức lao ộng mà người lao động bỏ ra. Các cán bộ, công chức, viên
chức nhà nước được hưởng mức lương còn thấp, vì vậy khó tránh khỏi nạn tham
nhũng và tình trạng khan hiếm nhân tài. Ví dụ: do mức lương trung bình của
giáo viên quá thấp, ra trường xin việc làm lại vô cùng khó khăn nên chưa thu hút
được người có năng lực, dẫn đến chất lượng đầu vào của các trường đào tạo
ngành sư phạm ngày càng giảm. Ở các doanh nghiệp tư nhân, đặc biệt là doanh
nghiệp nước ngoài, người lao động vẫn có mức lương chưa thỏa áng. Điều này
đã làm nảy sinh tình trạng làm thêm giờ, thậm chí làm thêm giờ vượt quá quy
định của pháp luật, đặc biệt đối với những ngành như dệt may, chế biến nông
sản... đã làm ảnh hưởng tới sức khỏe người lao động và gây ra sự tranh chấp
giữa người lao động với doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, do mức lương thấp, người lao động buộc phải tự cứu lấy mình
bằng một số “nghề tay trái”. Chế độ tiền lương thấp còn làm mất đi sức hút ối
với những người lao ộng có trình độ, tay nghề cao, dẫn đến tình trạng “chảy máu
chất xám”. Ngược lại, có những trường hợp người lao động lại được hưởng mức
lương quá cao so với sức lực mà họ bỏ ra. Chính vì thế, hiện nay chế độ tiền
công trong thị trường lao động nước ta còn nhiều bất hợp lý, còn mang tính bình
quân cao, cần được khắc phục để đáp ứng đúng, đủ sức lao động mà người lao động đã bỏ ra.
Nguyên nhân của thực trạng tiền công cho người lao động ở nước ta hiện nay
chưa hợp lý là do chính sách tiền công của nhà nước còn hạn chế, mức lương tối
thiểu đặt ra quá thấp, cơ chế quản lý tiền công cho người lao động ở các doanh
nghiệp tư nhân còn lỏng lẻo. Ngoài ra còn do nền kinh tế trong nước phát triển
chưa bền vững, thường xuyên biến động, gây ảnh hưởng tới mức lương của người lao động.
B - Giải pháp phát triển thị trường lao động Việt Nam:
Thứ nhất, cần vận dụng linh hoạt lý luận hàng hoá sức lao động phù hợp với
điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, đồng thời chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Thứ hai, cần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành, theo thành
phần kinh tế và giữa các vùng miền để thị trường lao động có sự phát triển đồng
đều, thống nhất, tránh tình trạng có nơi thì dư thừa, có nơi lại khan hiếm nguồn lực. 9
Thứ ba, để giảm tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm, cần tiếp tục kiềm chế tốc
độ gia tăng dân số nhằm thu hẹp cung của thị trường lao động; nâng cao chất
lượng đào tạo bằng cách cơ cấu lại chỉ tiêu đào tạo đối với từng ngành, từng
nghề sao cho phù hợp với nhu cầu sử dụng nguồn lực của xã hội, cải tiến chế độ
ưu đãi đối với đội ngũ giáo viên, giảm học phí, đầu tư trang thiết bị học tập hiện
đại; đa dạng hóa các loại hình đào tạo; khuyến khích phát triển các ngành thủ
công, làng nghề truyền thống tại các địa phương để giải quyết số lao động dư
thừa tại chỗ; chú trọng sử dụng người lao động trẻ tuổi có năng lực để tránh gây
lãng phí nguồn lực. Đồng thời, nên đầu tư xây dựng các dự án khu công nghiệp,
khu chế xuất, khu trung tâm thương mại,… để giải quyết nguồn lực dư thừa.
Thứ tư, cần có chế độ tiền công hợp lý, thỏa đáng so với sức lực mà người lao
động đã bỏ ra. Đặc biệt, cần có chính sách ưu đãi ối với những người có trình độ, tay nghề cao.
Thứ năm, nhà nước cần tăng cường bảo vệ quyền lợi cho người lao động qua
việc điều tra, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước cũng như các doanh
nghiệp tư nhân; nâng cao hiểu biết của người lao động về luật lao động và
những quy định về chế độ tiền lương; đẩy mạnh chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế… 10 KẾT LUẬN
Qua chủ đề trên, ta có thể thấy được tầm quan trọng của hàng hóa sức lao
động. Đối với Việt Nam ta hiện nay, việc phát triển nền kinh tế tri thức cần có
một nguồn lao động với chất lượng cao. Và việc xác định đúng hàng hóa sức lao
động là một điều hết sức quan trọng.
Trong thời gian tới, chúng ta cần phải có những giải pháp hoàn thiện cơ chế
chính sách đi đôi với nâng cao chất lượng nguồn lao động tạo điều kiện thuận lợi
cho người lao động nhằm phát huy hết tiềm năng nguồn lực lao động nước ta
với mục đích xây dựng một thị trường lao động sôi động, ổn định và có hiệu
quả, tác động tích cực đến sự phát triển kinh tế.
Trong quá trình làm bài, em còn gặp phải nhiều sai sót, mong nhận được sự
bổ khuyết từ phía cô giáo phụ trách bộ môn lớp LLNL1106(221)POHE_02 để
em có điều kiện hoàn thiện hiểu biết về cả lý luận và thực tiễn, rút kinh nghiệm
cho những bài làm tiếp theo. Em xin chân thành cảm ơn! 11 TƯ LIỆU THAM KHẢO
1, Giáo trình Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lê nin (dành
cho sinh viên đại học, cao đẳng khối không chuyên ngành Mác-Lê nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh) – NXB Chính trị Quốc gia Sự Thật.
2, SGK Địa Lý 12 – NXB Giáo dục
3, http://futurelink.net.vn/tin-tuc-s - u kien/thu%CC%A3c-
tra%CC%A3ngnguo%CC%80n-nhan-lu%CC%A3c-vie%CC%A3t-nam-
va%CC%80mo%CC%A3t-so%CC%81-gia%CC%89i-pha%CC%81p-
ve%CC%80da%CC%80o-ta%CC%A3o.html
4, http://www.tapchicongthuong.vn/bai-viet/tinh-hinh-nhan-luc-viet-
namhien-nay-va-cac-giai-phap-nang-cao-chat-luong-nguon-nhan-luc- 53860.htm
5, http://vnresource.vn/hrmblog/thuc-trang-nguon-nhan-luc-cua-vietnam- hien-nay/
6, https://vov.vn/tin-24h/chat-luong-lao-dong-viet-nam-dang-o-dau- 729777.vov
7, https://voer.edu.vn/m/khai-quat-ve-thuc-trang-nguon-lao-don - g o- vietnam/3224d27e 12