Bài tập lớn Kinh tế chính trị Mác-Lênin - Thầy Trần Việt Tiến | Đại học Kinh Tế Quốc Dân

Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tối và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN




BÀI TẬP LỚN MÔN
KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC-LÊNIN
Sinh viên thực hiện : Cao Phương Anh
Lớp tín chỉ
: Kinh tế chính trị Mác-Lênin
(221)_25
STT : 1
Mã sinh viên : 11218301
Hà Nội, 2022
MỤC LỤC
CÂU 1.............................................................................................................................1
I.Phân tích quan điểm của Lênin về vai trò kinh tế của Nhà nước trong giai đoạn
độc quyền nhà nước của CNTB...................................................................................1
II. Ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu đối với Việt Nam hiện nay..................................3
1. Thực trạng nền kinh tế nước ta hiện nay................................................................3
2. Các hình thức chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước vận dụng ở nước ta.........4
3. Điều kiện để vận dụng thành công chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước ở
nước ta............................................................................................................................5
CÂU 2.............................................................................................................................6
I.Khái quát chung về nền kinh tế thị trường..............................................................6
II.Những khuyết tật của nền kinh tế thị trường.........................................................6
III.Những vấn đề cần giải quyết để khắc phục nền kinh tế thị trường....................8
1
CÂU 1: Phân tích quan điểm của Lênin về vai trò kinh tế của Nhà nước trong giai
đoạn độc quyền nhà nước của CNTB. Cho biết ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu đối
với Việt Nam hiện nay?
I.Phân tích quan điểm của Lênin về vai trò kinh tế của Nhà nước trong giai đoạn
độc quyền nhà nước của CNTB
Một trong những hình thức biểu hiện quan trọng của chủ nghĩa tư bản độc
quyền nhà nước là sự tham gia của nhà nước tư sản vào việc điều tiết quá trình kinh tế,
V.I.Lênin viết “Sự tập trung hóa và quốc tế hóa của tư bản ngày càng có quy mô rất
lớn. Chủ nghĩa tư bản độc quyền biến thành chủ nghĩa tư bản độc quyền Nhà nước; do
tình thế thúc bách nên trong nhiều nước đã phải thi hành việc điều tiết xã hội đối với
sản xuất và phân phối.”
Hệ thống điều tiết kinh tế của nhà nước tư sản là một tổng thể những thiết chế
và thể chế kinh tế của nhà nước. Nó bao gồm bộ máy quản lý gắn với hệ thống chính
sách, công cụ có khả năng điều tiết sự vận động của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, toàn
bộ quá trình tái sản xuất xã hội theo hướng có lợi cho tầng lớp tư bản độc quyền.
V.I.Lênin đã nói về sự điều tiết kinh tế của nhà nước tư sản Đức thời kỳ đầu thế kỷ XX
như sau: “Ở Đức, người ta đã đạt tới chỗ là việc lãnh đạo sinh hoạt kinh tế của 66 triệu
người là từ một trung tâm; việc tổ chức nền kinh tế quốc dân của 66 triệu người là do
một trung tâm, làn cho tuyệt đại đa số nhân dân phải chịu những hy sinh lớn nhất để
cho “30.000 phần tử thuộc tầng lớp trên” có thể bỏ túi hàng tỷ lợi nhuận chiến tranh và
khiến hàng triệu người bị đưa vào lò sát sinh vì lợi ích của những đại biểu “thượng lưu
và ưu tú” trong dân tộc”. Sự điều tiết kinh tế của nhà nước được thực hiện dưới nhiều
hình thức như: hướng dẫn, kiểm soát, uốn nắn những lệch lạc bằng các công cụ kinh tế
và các công cụ hành chính – pháp lý, bằng cả ưu đãi và trừng phạt; bằng những giải
pháp chiến lược dài hạn như lập chương trình, kế hoạch tổng thể phát triển kinh tế,
khoa học, công nghệ, bảo vệ môi trường, bảo hiểm xã hội,.. và bằng cả các giải pháp
ngắn hạn.
Vấn đề cơ bản trong sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia hiện nay là tìm ra
một phương thức tốt nhất để phối hợp giữa hai bàn tay vô hình và hữu hình. Thị
trường làm được nhiều điều, tuy vậy nó cũng không thể giải quyết những vấn đề hoặc
giải quyết không tốt bằng Nhà nước như ổn định kinh tế; cung cấp hàng hóa cộng; giải
quyết những hậu quả ngoại xứng; xử lý tính không hoàn hảo cả thị trường,..
Nhà nước thực hiện vai trò kinh tế của mình chủ yếu thông qua việc quản
nền kinh tế quốc dân. Quản lý nền kinh tế quốc dân không có nghĩa là chỉ quản lý khu
2
vực kinh tế Nhà nước mà quản lý toàn bộ nền kinh tế quốc dân, bao gồm cả khu vực
kinh tế tư nhân, tập thể và hỗn hợp.
Để tăng trưởng và phát triển kinh tế, Nhà nước và các tổ chức kinh tế đều
phải thực hiện những chức năng nhất định. Chức năng kinh tế của Nhà nước ta trong
giai đoạn độc quyền nhà nước của chủ nghĩa tư bản là hoạt động mà nhà nước cần phải
thực hiện để cùng với thị trường đảm bảo cho tăng trưởng và phát triển đất nước. Thể
hiện qua:
Thứ nhất, thiết lập khuôn khổ pháp luật về kinh tế
Pháp luật về kinh tế là các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận,
thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động nhằm điều chỉnh các quan
hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức quản lý và sản xuất kinh doanh giữa các
chủ thể kinh tế với nhau và các cơ quan quản lý Nhà nước. Bằng luật pháp kinh tế Nhà
nước điều chỉnh hành vi kinh doanh, xác định hành vi kinh doanh nào là hợp pháp hay
không. Môi trường kinh tế luôn ảnh hưởng để kết quả hoạt động của các chủ thể doanh
nghiệp. Nếu môi trường thuận lợi sẽ ảnh hưởng tích cực và ngược lại.
Hai là, Nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc hoạch định
chiến lược phát triển kinh tế-xã hội, lựa chọn chính sách, phương thức,phương
pháp điều tiết kinh tế.
Cải cách và chuyển hướng sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước,
phải hết sức coi trọng những yếu tố bên trong: ổn định chính trị, an ninh, chú ý giải
quyết thỏa đáng những yếu tố tâm lý, xã hội trên cơ sở đẩy nhanh nhịp độ phát triển,
tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân, đảm bảo sự bình đẳng, công bằng , văn minh
trong việc sử dụng tiềm năng và phân phối nguồn lực. Mặt khác nhà nước cần chú ý
đầy đủ các yếu tố bên ngoài – tình hình kinh tế thế giới và biến động thế giới nói
chung, cần phải tìm giải pháp phát triển phù hợp, sự cạnh tranh của các nước trong khu
vực và thế giới, sức ép của quỹ tiền tệ thế giới (IMF), khủng hoảng kinh tế và nợ nước
ngoài.
Ba là, Nhà nước thực hiện các chức năng: định hướng, phối hợp và kích
thích để quản lý, điều hành các mặt kinh tế-xã hội; thông qua luật pháp, kế hoạch
để định hướng chính sách.
Chức năng định hướng là xác định có căn cứ khoa học những mục tiêu kinh tế, chính
trị, xã hội mục tiêu trước mắt và lâu dài; đồng thời lựa chọn những biện pháp chủ yếu
để đạt tới các mục tiêu đó trong từng thời gian nhất định
Chức năng phối hợp nhằm đảm bảo cân đối những tỉ lệ quan trọng nhất và xử lý, hòa
giải những tranh chấp hoặc giải quyết những mâu thuẫn trong phân công lao động xã
hội.
3
Chức năng kích thích giúp người lao động quan tâm tới chất lượng công việc chung
cũng như tự giác phát huy những năng lực, khả năng của cá nhân.
Chức năng kiểm soát và điều tiết kinh tế và chính sách xã hội
Bốn là, Nhà nước tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh
doanh, kinh tế, chính trị và xã hội.
Nhà nước thực hiện vai trò kinh tế của mình thông qua thực hiện chức năng tạo lập
môi trường thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Môi trường kinh doanh là
tổng thể các yếu tố bên ngoài tác động trực tiếp hay gián tiếp đến các quyết định hoặc
hoạt động của chủ thể trên thị trường.
II.Ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu đối với Việt Nam hiện nay
1.Thực trạng nền kinh tế nước ta hiện nay
Hiện nay, Đảng và nhà nước ta đang lãnh đạo nhân dân ta tiến hành công cuộc
đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước với mục tiêu đưa nước ta từ một nước
nông nghiệp lạc hậu trở thành một nước công nghiệp tiên tiến hiện đại, vững bước đi
lên chủ nghĩa xã hội. Trong công cuộc đổi mới ấy, nền kinh tế nước ta cũng được
chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà
nước theo định hướng chủ nghĩa xã hội. Trong đó, kinh tế tư bản nhà nước là một
trong năm thành phần kinh tế cơ bản. Đó là một chủ trương đúng đắn của Đảng vì
những nguyên nhân sau đây:
Thứ nhất, nền kinh tế nước ta là nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó tất yếu
tồn tại thành phần kinh tế tư bản tư nhân. Mặt khác, với chính sách khuyến khích tự do
trao đổi hàng hóa sẽ nảy sinh một tầng lớp tư sản mới. Như vậy, sự tồn tại của kinh tế
tư bản nhà nước vừa mang tính tất yếu vừa như một sách lược kinh tế của nhà nước để
định hướng cho các thành phần kinh tế khác đi lên chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai, ở một nước mà nền tiểu sản xuất chiếm ưu thế như nước ta thì chủ
nghĩa tư bản nhà nước sẽ là trung gian giữa nền tiểu sản xuất và chủ nghĩa xã hội,
đồng thời giúp chúng ta phát triển lực lượng sản xuất vì kinh tế tư bản nhà nước có ưu
thế về vốn, kỹ thuật và công nghệ cũng như những kinh nghiệm và biện pháp quản lý
tiên tiến.
Thứ ba, việc sử dụng hình thức kinh tế tư bản nhà nước còn phù hợp với xu thế
quốc tế hóa đang diễn ra trên thế giới và đặc biệt là khu vực Đông Nam Á. Chúng ta
không thể phát triển được nếu không mở rộng quan hệ kinh tế với các nước trong khu
vực và trên thế giới kể cả các nước chủ nghĩa xã hội cũng như các nước tư bản chủ
nghĩa.
4
2.Các hình thức chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước vận dụng ở nước ta
a. Liên doanh, liên kết giữa nhà nước xã hội chủ nghĩa với các chủ sở hữu tư nhân
ở trong nước hoặc ngoài nước
Thông qua sự liên doanh, liên kết giữa nhà nước và các chủ thể sở hữu ngoài quốc
doanh ở trong nước, nhà nước có thể huy động được vốn, đổi mới kỹ thuật và quy
trình công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm,..Đồng thời nhà nước cũng thực hiện
được lợi nhuận, chức năng kiểm kê, kiểm soát, hướng dẫn, điều tiết sự phát triển để
thúc đẩy cải cách cơ cấu kinh tế với cơ cấu sản phẩm cho phù hợp với nhu cầu của thị
trường trong nước và thế giới, cấu trúc lại nền kinh tế.
b. Thành lập công ty cổ phần, cổ phần hóa xí nghiệp để thành lập xí nghiệp tư bản
nhà nước
Công ty cổ phần cũng như cổ phần hóa xí nghiệp không phải vấn đề mới mẻ, như cái
mới là vấn đề này được đặt trong điều kiện của nhà nước xã hội chủ nghĩa hiện nay.
Trong nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta, công ty cổ phần được xem là một tất
yếu kinh tế - sự tồn tại của nó không những chỉ là kết quả của quá trình tích tụ vốn, mà
còn là nhu cầu khách quan của việc củng cố tính hiệu quả của nền kinh tế nhiều thành
phần nói chung, của quốc doanh nói riêng.
c. Đặc khu kinh tế
Đặc khu kinh tế là một vùng lãnh thổ quốc gia mà trên đó người ta áp dụng chế độ đặc
biệt đối với các hoạt động kinh tế đối ngoại. Mục tiêu của nó là tăng cường khả năng
cạnh tranh của nền sản xuất, tăng cường khả năng xuất khẩu, thu hút đầu tư trực tiếp
của nước ngoài đẩy nhanh các quá trình khai thác công nghệ, kỹ thuật mới và học tập
kinh nghiệm quản lý tiên tiến của thế giới.
d. Khu công nghiệp chế biến xuất khẩu (Khu chế xuất)
Khu chế xuất là khu công nghiệp được quy định chuyên môn, sản xuất chủ yếu cho
xuất khẩu, trong đó người ta áp dụng quy chế tự do thuế quan, tự do mậu dịch. Đặc
khu kinh tế cũng như khu chế xuất, về thực chất được coi là hình thức của chủ nghĩa tư
bản độc quyền nhà nước. Ở đây không phải chỉ có một hình thức kinh tế tư bản nhà
nước đơn độc, thuần túy mà có nhiều hình thức cụ thể, bao gồm cả hình thức liên
doanh, cho tư bản nước ngoài thuê,..
e. Cho tư bản trong và ngoài nước, cho nông dân thuê các cơ sở sản xuất kinh
doanh và các tư liệu sản xuất thuộc sở hữu toàn dân
Trong nền kinh tế nông nghiệp nước ta đã và sẽ tồn tại các chế độ kinh doanh khác
nhau trên cùng một cơ sở dữ liệu sản xuất cơ bản là ruộng đất thuộc sở hữu toàn dân:
chế độ kinh doanh của nhà nước, của tập thể, của từng hộ riêng lẻ, chế độ kinh doanh
5
hỗn hợp. Cần và có thể phát triển hình thức liên doanh, liên kết rộng rãi không chỉ
trong mà cả ngoài nước. Cần mở rộng việc cho thuê đất ( hình thức đấu thầu, thầu
khoán,..) với quy mô hạn định về rừng đồi trọc, thềm lục địa, đất rừng, đồi hoang,...
Khuyến khích phát triển những hộ kinh doanh độc lập trên nhiều lĩnh vực như trồng
trọt, chăn nuôi,...
f. Các tổ chức hợp tác liên doanh với tư cách là các hình thức kinh tế tư bản nhà
nước
Thực tiễn cho thấy, hợp tác xã trong sản xuất và kinh doanh là xu thế tất yếu của
những người sản xuất riêng lẻ. Những hợp tác xã được tổ chức theo những nguyên tắc
xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là thực hiện phân phối theo lao động, có sự hỗ trợ của nhà
nước, sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng Cộng sản Việt Nam, thì thuộc thành phần kinh tế
tập thể mà chúng ta vẫn thường nói là một thành phần xã hội chủ nghĩa. Nhưng trên
thực tế, còn xuất hiện những tổ chức hợp tác liên doanh khác nữa giống như ở nhiều
nước khác.
3.Điều kiện để vận dụng thành công chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước ở
nước ta
a. Tính chất và kết cục của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước phụ thuộc vào
tính chất của nhà nước và khả năng điều tiết của nhà nước ấy.
Bộ máy nhà nước vững mạnh là bộ máy cứng rắn, nghĩa là phải hạn chế, ngăn chặn
những tội ác, nghiêm khắc trừng trị bất cứ chủ nghĩa tư bản nào vượt ra khỏi khuôn
khổ quy định kinh tế và pháp luật. Bộ máy nhà nước vững mạnh còn là bộ máy có cơ
sở chính trị vững mạnh: đó là sự liên minh vững chắc giữa công nhân, nông dân, tri
thức, sự liênminh đó là một lực lượng “vô địch”. Sự liên minh công – nông – tri thức
chẳng những tạo nên cơ sở chính trị vững chắc cho sự thực hành chủ nghĩa tư bản độc
quyền nhà nước, mà còn làm “tăng thêm quyền lực kinh tế” của nhà nước chúng ta.
b. Tăng cường sức mạnh kinh tế của nhà nước xã hội chủ nghĩa
Sức mạnh của bộ máy nhà nước là sức mạnh về kinh tế. Nhưng trong nền kinh tế thị
trường, ai nắm được nguồn tài chính, người đó sẽ chi phối sự phát triển kinh tế - xã hội
theo định hướng của mình nên sức mạnh kinh tế của nhà nước biểu hiện tập trung ở
sức mạnh tài chính. Vì vậy, nhà nước cần vươn tới là nhà nước độc quyền tài chính.
Thông qua công cụ tài chính nhà nước vừa điều khiển được toàn bộ sự vận động xã
hội, vừa thoát khỏi sự can thiệp trực tiếp, vụ vặt vào các hoạt động sản xuất kinh
doanh.
c. Xây dựng và hoàn thiện khung khổ pháp luật
6
Muốn sử dụng tốt các hình thức tư bản nhà nước, cần hoàn thiện hệ thống pháp
luật, trong đó đặc biệt là pháp luật về kinh tế. Và luật cùng với những văn bản luật
trong điều kiện thực hành chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước phải xuất phát từ
nguyên tắc: củng cố vững mạnh nhà nước. Trước mắt, cần nhanh chóng thiết lập đầy
đủ các cơ chế của kinh tế hàng hóa; xây dựng các điều kiện về kết cấu kinh tế hạ tầng,
thông tin, dịch vụ, hoàn chỉnh các luật đầu tư, luật liên doanh liên kết, luật về công ty
cổ phần, luật xuất nhập khẩu,..
CÂU 2: Làm rõ những khuyết tật của nền kinh tế thị trường. Để hạn chế những
khuyết tật đó cần giải quyết những vấn đề gì? Vì sao?
I.Khái quát chung về nền kinh tế thị trường
Nền kinh tế được coi như một hệ thống các quan hệ kinh tế. Khi các quan hệ
kinh tế giữa các chủ thể biểu hiện qua mua, bán hàng hóa, dịch vụ trên thị trường
(người bán cần tiền, người mua cần bán và họ phải gặp nhau trên thị trường) thì nền
kinh tế đó gọi là nền kinh tế thị trường.
Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế được vận hành theo cơ chế thị trường. Đó
là nền kinh tế hàng hóa phát triển cao, ở đó mọi quan hệ sản xuất và trao đổi đều được
thông qua thị trường, chịu sự tác động, điều tiết của các quy luật thị trường.
Sự hình thành kinh tế thị trường là khách quan trong lịch sử: từ kinh tế tự nhiên,
tự túc, kinh tế hàng hóa rồi từ kinh tế hàng hóa phát triển thành kinh tế thị trường.
Kinh tế thị trường cũng trải qua quá trình phát triển ở các trình độ khác nhau từ kinh tế
thị trường sơ khai đến kinh tế thị trường hiện đại ngày nay. Kinh tế thị trường là sản
phẩm của văn minh nhân loại.
II.Những khuyết tật của nền kinh tế thị trường
Một là, trong nền kinh tế thị trường luôn tiềm ẩn những rủi ro khủng khoảng.
Sự vận động của cơ chế thị trường không phải khi nào cũng tạo được những cân đối,
do đó, luôn tiềm ẩn những nguy cơ khủng hoảng. Khủng hoảng có thể diễn ra cục bộ
cũng như trên phạm vi tổng thể. Khủng hoảng có thể xảy ra với mọi loại hình thị
trường. Sự khó khăn đối với nền kinh tế thị trường thể hiện ở chỗ, các quốc gia rất khó
dự báo chính xác thời điểm xảy ra khủng hoảng. Nền kinh tế thị trường không tự khắc
phục được những rủi ro tiềm ẩn này.
nền kinh tế thị trường không tự khắc phục được xu hướng cạn kiệt tài Hai là,
nguyên không thể tái tạo, suy thoái môi trường tự nhiên, môi trường xã hội. Do phần
lớn các chủ thể sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường luôn đặt mục tiêu tìm
7
kiếm lợi nhuận tối đa nên luôn tạo ra ảnh hưởng tiềm ẩn đối với nguồn lực tài nguyên,
suy thoái môi trường. Cũng vì động cơ lợi nhuận, các chủ thể sản xuất kinh doanh có
thể vi phạm cả nguyên tắc đạo đức để chạy theo mục tiêu làm giàu thậm chí phi pháp,
góp phần gây ra sự xói mòn đạo đức kinh doanh, thậm chí cả đạo đức xã hội. Đây là
những mặt trái mang tính khuyết tật của bản thân nền kinh tế thị trường. Cũng vì mục
tiêu lợi nhuận, các chủ thể hoạt động sản xuất kinh doanh có thể không tham gia vào
các lĩnh vực thiết yếu cho nền kinh tế nhưng có lợi nhuận kỳ vọng thấp, rủi ro cao, quy
mô đầu tư lớn, thời gian thu hồi vốn dài. Tự nền kinh tế thị trường không thể khắc
phục được các khuyết tật này.
Ba là, nền kinh tế thị trường không tự khắc phục được hiện tượng phân hóa
sâu sắc trong xã hội. Trong nền kinh tế thị trường, hiện tượng phân hóa xã hội về thu
nhập, về cơ hội là tất yếu. Bản thân của nền kinh tế thị trường không thể tự khắc phục
được khía cạnh phân hóa có xu hướng sâu sắc. Các quy luật thị trường luôn phân bổ
lợi ích theo mức độ và loại hình hoạt động tham gia thị trường, cộng với tác động của
cạnh tranh mà dẫn đến sự phân hóa như một tất yếu. Đây là khuyết tật của nền kinh tế
thị trường cần phải có sự bổ sung và điều tiết bởi vai trò nhà nước.
Bốn là, cơ sở vật chất – kỹ thuật còn ở trình độ thấp làm cho phân công lao
động kém phát triển, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm. Bên cạnh một số lĩnh vực,
một số cơ sở kinh tế đã được trang bị kỹ thuật và công nghệ hiện đại, trong nhiều
ngành kinh tế, máy móc cũ kỹ, công nghệ lạc hậu. Lao động thủ công vẫn chiếm tỷ
trọng lớn trong tổng số lao động xã hội. Do đó, năng suất, chất lượng, hiệu quả sản
xuất của nước ta còn rất thấp so với khu vực và thế giới.
Năm là, kết cấu hạ tầng như hệ thống đường giao thông, bến cảng, hệ thống
thông tin liên lạc,.. còn lạc hậu, kém phát triển. Hệ thống giao thông kém phát triển
làm cho các địa phương, các vùng bị chia cắt, tách biệt nhau, do đó làm cho nhiều tiềm
năng của các địa phương không thể được khai thác, các địa phương không thể chuyên
môn hóa sản xuất để phát huy thế mạnh.
Sáu là, thị trường hàng hóa – dịch vụ đã hình thành nhưng còn hạn hẹp và còn
nhiều hiện tượng tiêu cực như hàng giả, hàng nhập lậu, hàng nhái nhãn hiệu vẫn còn
làm rối loạn thị trường.
thị trường tiền tệ, thị trường vốn đã có nhiều tiến bộ nhưng vẫn còn rất Bảy là,
nhiều trắc trở, như nhiều doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp tư nhân rất thiếu vốn
nhưng không vay được vì vướng mắc thủ tục, trong khi đó nhiều ngân hàng thương
mại huy động được tiền gửi mà không thể cho vay để ứ đọng trong két dư nợ quá hạn
trong nhiều ngân hàng thương mại đến mức báo động. Thị trường chứng khoán ra đời
8
nhưng cũng chưa có nhiều “hàng hóa” để mua – bán và mới có rất ít doanh nghiệp đủ
điều kiện tham gia thị trường này.
Do những khuyết tật của nền kinh tế thị trường nên trong thực tế không tồn tại
một nền kinh tế thị trường thuần túy, mà thường có sự can thiệp của nhà nước để sửa
chữa những thất bại của cơ chế thị trường. Khi đó nền kinh tế được gọi là kinh tế thị
trường có sự điều tiết của nhà nước hay nền kinh tế hỗn hợp.
III.Những vấn đề cần giải quyết để khắc phục những khuyết tật của nền kinh tế
thị trường
Khuyết tật kinh tế là yếu tố mang tính lịch sử. Bất kỳ nền kinh tế hay mô
hình kinh tế nào cũng tồn tại những ưu thế và hạn chế nhất định. Đó là biểu hiện của
mâu thuẫn nội tại và mâu thuẫn ngoại lai của mọi hình thái kinh tế. Để có thể phát
triển được nền kinh tế, chúng ta phải giải quyết được những mâu thuẫn của nền kinh
tế. Những khuyết tật của nền kinh tế gây ra những vấn đề cần đặc biệt quan tâm là
trong mỗi giai đoạn và tiến trình lịch sử, những khuyết tật đó sẽ gây ra những biến
chuyển gì về mặt xã hội, đặc biệt là lực lượng lao động trong xã hội. Trong nền kinh tế
thị trường luôn tồn tại những mặt trái, chúng gây ra tình trạng tham nhũng trong bộ
máy, bội chi ngân sách, cạnh tranh gay gắt, tình trạng “cá lớn nuốt cá bé”, mâu thuẫn
cung cầu, gia tăng khoảng cách giàu nghèo,..Bởi vậy, sự xuất hiện vai trò can thiệp của
nhà nước vào nền kinh tế thị trường như một điều tất yếu bảo đảm cho sự hoạt động
của nền kinh tế thị trường.
Bởi vậy, những vấn đề cần giải quyết để khắc phục những khuyết tật của nền kinh tế
thị trường là:
Thứ nhất, nhà nước nên sử dụng các tổ chức kinh tế như công cụ để khắc phục và hạn
chế những khuyết tật của kinh tế thị trường
Những mặt trái của thị trường, hay còn gọi là các khuyết tật cố hữu, là một phần không
thể tách rời đối với mô hình kinh tế thị trường. Nhà nước là đối tượng duy nhất có
năng lực quản trị thị trường, sử dụng các công cụ quản lý để ngăn chặn, hạn chế được
những hệ lụy do mặt trái của nền kinh tế gây ra. Sử dụng các tổ chức kinh tế công lập
chính là sự can thiệp của nhà nước vào thị trường bằng sức mạnh vật chất. Vì vậy, các
doanh nghiệp nhà nước phải luôn bắt kịp những thay đổi của nền kinh tế nhằm “tái cấu
trúc”, nâng cao hiệu quả hoạt động mà quan trọng nhất là làm tốt vai trò điều tiết nền
kinh tế thị trường, sử dụng các nguồn lực để cung cấp hàng hóa và dịch vụ công cộng
có chất lượng cao, phục vụ mục tiêu phát triển bền vững của đất nước. Những lĩnh vực
mang tính chủ đạo của nền kinh tế, những ngành cần thiết cho quá trình công nghiệp
9
hóa của đất nước cần phải có quyết tâm chính trị và sự điều tiết, quản lý, đầu tư phát
triển của nhà nước, và điều đó phải đặt trên lợi ích tài chính đơn thuần.
Thứ hai, nhà nước phải điều hành chính sách tài chính và chính sách tiền tệ một cách
độc lập, kiểm soát được việc cung ứng tiền.
Một trong những khuyết tật của nền kinh tế thị trường là dễ rơi vào tình trạng khủng
hoảng khi đồng tiền mất hoặc tăng giá đột ngột, tỉ lệ thất nghiệp cao, hệ quả là vừa có
nạn thất nghiệp vừa rơi vào lạm phát. Các chính sách về tài chính bao gồm chính sách
thuế quan, chi tiêu ngân sách nhà nước, hoạt động ngân hàng điều tiết các chu kỳ kinh
tế, đảm bảo công ăn việc làm của phần lớn tầng lớp lao động, ổn định được giá cả
nhằm phục vụ cho mục tiêu phát triển lâu dàu của nền kinh tế.
Thứ ba, nhà nước cần dùng những biến pháp phát triển dân trí, hiện đại hóa và quy chế
về kinh tế.
Các giải pháp về phát triển văn hóa, tạm gọi là như vậy, sẽ lệ thuộc vào tốc độ cải
thiện về dân trí, về hiện đại hóa tập quán sinh hoạt, hiện đại hóa nhiều quy định, quy
chế dưới luật để đưa hàng chục triệu người dân sống và làm việc theo pháp luật, có tác
phong hiện đại, có đủ trình độ để sử dụng những trang thiết bị, máy móc hiện đại của
kết cấu thị trường hiện đại nói riêng và của nền kinh tế nói chung.
- Cụm các giải pháp về nâng cao năng lực điều tiết của Nhà nước đối với kinh
tế thị trường, khi nói đến những thất bại của thị trường thì vấn đề đầu tiên
cần phải lưu ý đó là tính chất chu kỳ của kinh tế. Những biến động về tài
chính, tiền tệ những tháng đầu năm 2008 ở trong nước và trên thế giới đã
thể hiện rõ nét thêm về điều đó. Tuy nhiên, kinh nghiệm về minh bạch thông
tin, cảnh báo sớm để can thiệp kịp thời làm giảm tác hại của những chu kỳ
kinh tế có thể lường trước là một nghệ thuật mà các nền kinh tế phát triển đã
rất thuần thục. Tiếp đến là trong điều hòa các vấn đề xã hội, nhất là kiềm
chế sự phân hóa giàu nghèo, không ai khác ngoài các chính sách của Chính
phủ làm cho xã hội phát triển nhanh, nhưng hài hòa giữa tầng lớp nhân dân,
làm cho mọi người đều được hưởng lợi từ kết quả tăng trưởng kinh tế, đồng
thời đảm bảo cho nền kinh tế phát triển vừa nhanh, vừa hiệu quả và bền
vững.
- Nhà nước đã sử dụng một hệ thống luật pháp điều lệ, mức hình phạt thậm
chí cả mức truy tố để giảm ô nhiễm môi trường
- Ngoài ra nhà nước còn sử dụng cả chính sách quyền sở hữu công khai
nguồn tài nguyên, nếu gây ô nhiễm sẽ phải chịu chi phí theo giá thị trường.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
10
[1] Giáo trình “Kinh tế chính trị Mác-Lênin”, nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự thật,
năm 2021
[2]Website:https://www.academia.edu/12390422/CH%E1%BB%A6_NGHIA_T
%C6%AF_B%E1%BA%A2N_D%E1%BB%98C_QUY%E1%BB%80N_NHA_N
%C6%AF%E1%BB%9AC
[3]Website: https://dangcongsan.vn/kinh-te/ly-luan-ve-chu-nghia-tu-ban-nha-nuoc-
cua-lenin-va-thuc-tien-o-viet-nam-17392.html
[4]Website:http://eldata11.topica.edu.vn/HocLieu/PHM102/Giao
%20trinh/06_PHM102_Bai6_v2.0013105209.pdf
| 1/12

Preview text:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN  BÀI TẬP LỚN MÔN
KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC-LÊNIN
Sinh viên thực hiện : Cao Phương Anh
: Kinh tế chính trị Mác-Lênin
Lớp tín chỉ (221)_25 STT : 1 Mã sinh viên : 11218301 Hà Nội, 2022 MỤC LỤC
CÂU 1.............................................................................................................................1
I.Phân tích quan điểm của Lênin về vai trò kinh tế của Nhà nước trong giai đoạn
độc quyền nhà nước của CNTB...................................................................................1
II. Ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu đối với Việt Nam hiện nay..................................3
1. Thực trạng nền kinh tế nước ta hiện nay................................................................3
2. Các hình thức chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước vận dụng ở nước ta.........4
3. Điều kiện để vận dụng thành công chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước ở
nước ta............................................................................................................................5
CÂU 2.............................................................................................................................6
I.Khái quát chung về nền kinh tế thị trường..............................................................6
II.Những khuyết tật của nền kinh tế thị trường.........................................................6
III.Những vấn đề cần giải quyết để khắc phục nền kinh tế thị trường....................8 1
CÂU 1: Phân tích quan điểm của Lênin về vai trò kinh tế của Nhà nước trong giai
đoạn độc quyền nhà nước của CNTB. Cho biết ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu đối với Việt Nam hiện nay?
I.Phân tích quan điểm của Lênin về vai trò kinh tế của Nhà nước trong giai đoạn
độc quyền nhà nước của CNTB
Một trong những hình thức biểu hiện quan trọng của chủ nghĩa tư bản độc
quyền nhà nước là sự tham gia của nhà nước tư sản vào việc điều tiết quá trình kinh tế,
V.I.Lênin viết “Sự tập trung hóa và quốc tế hóa của tư bản ngày càng có quy mô rất
lớn. Chủ nghĩa tư bản độc quyền biến thành chủ nghĩa tư bản độc quyền Nhà nước; do
tình thế thúc bách nên trong nhiều nước đã phải thi hành việc điều tiết xã hội đối với
sản xuất và phân phối.”
Hệ thống điều tiết kinh tế của nhà nước tư sản là một tổng thể những thiết chế
và thể chế kinh tế của nhà nước. Nó bao gồm bộ máy quản lý gắn với hệ thống chính
sách, công cụ có khả năng điều tiết sự vận động của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, toàn
bộ quá trình tái sản xuất xã hội theo hướng có lợi cho tầng lớp tư bản độc quyền.
V.I.Lênin đã nói về sự điều tiết kinh tế của nhà nước tư sản Đức thời kỳ đầu thế kỷ XX
như sau: “Ở Đức, người ta đã đạt tới chỗ là việc lãnh đạo sinh hoạt kinh tế của 66 triệu
người là từ một trung tâm; việc tổ chức nền kinh tế quốc dân của 66 triệu người là do
một trung tâm, làn cho tuyệt đại đa số nhân dân phải chịu những hy sinh lớn nhất để
cho “30.000 phần tử thuộc tầng lớp trên” có thể bỏ túi hàng tỷ lợi nhuận chiến tranh và
khiến hàng triệu người bị đưa vào lò sát sinh vì lợi ích của những đại biểu “thượng lưu
và ưu tú” trong dân tộc”. Sự điều tiết kinh tế của nhà nước được thực hiện dưới nhiều
hình thức như: hướng dẫn, kiểm soát, uốn nắn những lệch lạc bằng các công cụ kinh tế
và các công cụ hành chính – pháp lý, bằng cả ưu đãi và trừng phạt; bằng những giải
pháp chiến lược dài hạn như lập chương trình, kế hoạch tổng thể phát triển kinh tế,
khoa học, công nghệ, bảo vệ môi trường, bảo hiểm xã hội,.. và bằng cả các giải pháp ngắn hạn.
Vấn đề cơ bản trong sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia hiện nay là tìm ra
một phương thức tốt nhất để phối hợp giữa hai bàn tay vô hình và hữu hình. Thị
trường làm được nhiều điều, tuy vậy nó cũng không thể giải quyết những vấn đề hoặc
giải quyết không tốt bằng Nhà nước như ổn định kinh tế; cung cấp hàng hóa cộng; giải
quyết những hậu quả ngoại xứng; xử lý tính không hoàn hảo cả thị trường,..
Nhà nước thực hiện vai trò kinh tế của mình chủ yếu thông qua việc quản lý
nền kinh tế quốc dân. Quản lý nền kinh tế quốc dân không có nghĩa là chỉ quản lý khu 2
vực kinh tế Nhà nước mà quản lý toàn bộ nền kinh tế quốc dân, bao gồm cả khu vực
kinh tế tư nhân, tập thể và hỗn hợp.
Để tăng trưởng và phát triển kinh tế, Nhà nước và các tổ chức kinh tế đều
phải thực hiện những chức năng nhất định. Chức năng kinh tế của Nhà nước ta trong
giai đoạn độc quyền nhà nước của chủ nghĩa tư bản là hoạt động mà nhà nước cần phải
thực hiện để cùng với thị trường đảm bảo cho tăng trưởng và phát triển đất nước. Thể hiện qua:
Thứ nhất, thiết lập khuôn khổ pháp luật về kinh tế
Pháp luật về kinh tế là các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận,
thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động nhằm điều chỉnh các quan
hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức quản lý và sản xuất kinh doanh giữa các
chủ thể kinh tế với nhau và các cơ quan quản lý Nhà nước. Bằng luật pháp kinh tế Nhà
nước điều chỉnh hành vi kinh doanh, xác định hành vi kinh doanh nào là hợp pháp hay
không. Môi trường kinh tế luôn ảnh hưởng để kết quả hoạt động của các chủ thể doanh
nghiệp. Nếu môi trường thuận lợi sẽ ảnh hưởng tích cực và ngược lại.
Hai là, Nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc hoạch định
chiến lược phát triển kinh tế-xã hội, lựa chọn chính sách, phương thức,phương
pháp điều tiết kinh tế.
Cải cách và chuyển hướng sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước,
phải hết sức coi trọng những yếu tố bên trong: ổn định chính trị, an ninh, chú ý giải
quyết thỏa đáng những yếu tố tâm lý, xã hội trên cơ sở đẩy nhanh nhịp độ phát triển,
tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân, đảm bảo sự bình đẳng, công bằng , văn minh
trong việc sử dụng tiềm năng và phân phối nguồn lực. Mặt khác nhà nước cần chú ý
đầy đủ các yếu tố bên ngoài – tình hình kinh tế thế giới và biến động thế giới nói
chung, cần phải tìm giải pháp phát triển phù hợp, sự cạnh tranh của các nước trong khu
vực và thế giới, sức ép của quỹ tiền tệ thế giới (IMF), khủng hoảng kinh tế và nợ nước ngoài.
Ba là, Nhà nước thực hiện các chức năng: định hướng, phối hợp và kích
thích để quản lý, điều hành các mặt kinh tế-xã hội; thông qua luật pháp, kế hoạch
để định hướng chính sách.
Chức năng định hướng là xác định có căn cứ khoa học những mục tiêu kinh tế, chính
trị, xã hội mục tiêu trước mắt và lâu dài; đồng thời lựa chọn những biện pháp chủ yếu
để đạt tới các mục tiêu đó trong từng thời gian nhất định
Chức năng phối hợp nhằm đảm bảo cân đối những tỉ lệ quan trọng nhất và xử lý, hòa
giải những tranh chấp hoặc giải quyết những mâu thuẫn trong phân công lao động xã hội. 3
Chức năng kích thích giúp người lao động quan tâm tới chất lượng công việc chung
cũng như tự giác phát huy những năng lực, khả năng của cá nhân.
Chức năng kiểm soát và điều tiết kinh tế và chính sách xã hội
Bốn là, Nhà nước tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh
doanh, kinh tế, chính trị và xã hội.
Nhà nước thực hiện vai trò kinh tế của mình thông qua thực hiện chức năng tạo lập
môi trường thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Môi trường kinh doanh là
tổng thể các yếu tố bên ngoài tác động trực tiếp hay gián tiếp đến các quyết định hoặc
hoạt động của chủ thể trên thị trường.
II.Ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu đối với Việt Nam hiện nay
1.Thực trạng nền kinh tế nước ta hiện nay

Hiện nay, Đảng và nhà nước ta đang lãnh đạo nhân dân ta tiến hành công cuộc
đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước với mục tiêu đưa nước ta từ một nước
nông nghiệp lạc hậu trở thành một nước công nghiệp tiên tiến hiện đại, vững bước đi
lên chủ nghĩa xã hội. Trong công cuộc đổi mới ấy, nền kinh tế nước ta cũng được
chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà
nước theo định hướng chủ nghĩa xã hội. Trong đó, kinh tế tư bản nhà nước là một
trong năm thành phần kinh tế cơ bản. Đó là một chủ trương đúng đắn của Đảng vì
những nguyên nhân sau đây:
Thứ nhất, nền kinh tế nước ta là nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó tất yếu
tồn tại thành phần kinh tế tư bản tư nhân. Mặt khác, với chính sách khuyến khích tự do
trao đổi hàng hóa sẽ nảy sinh một tầng lớp tư sản mới. Như vậy, sự tồn tại của kinh tế
tư bản nhà nước vừa mang tính tất yếu vừa như một sách lược kinh tế của nhà nước để
định hướng cho các thành phần kinh tế khác đi lên chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai, ở một nước mà nền tiểu sản xuất chiếm ưu thế như nước ta thì chủ
nghĩa tư bản nhà nước sẽ là trung gian giữa nền tiểu sản xuất và chủ nghĩa xã hội,
đồng thời giúp chúng ta phát triển lực lượng sản xuất vì kinh tế tư bản nhà nước có ưu
thế về vốn, kỹ thuật và công nghệ cũng như những kinh nghiệm và biện pháp quản lý tiên tiến.
Thứ ba, việc sử dụng hình thức kinh tế tư bản nhà nước còn phù hợp với xu thế
quốc tế hóa đang diễn ra trên thế giới và đặc biệt là khu vực Đông Nam Á. Chúng ta
không thể phát triển được nếu không mở rộng quan hệ kinh tế với các nước trong khu
vực và trên thế giới kể cả các nước chủ nghĩa xã hội cũng như các nước tư bản chủ nghĩa. 4
2.Các hình thức chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước vận dụng ở nước ta
a. Liên doanh, liên kết giữa nhà nước xã hội chủ nghĩa với các chủ sở hữu tư nhân
ở trong nước hoặc ngoài nước
Thông qua sự liên doanh, liên kết giữa nhà nước và các chủ thể sở hữu ngoài quốc
doanh ở trong nước, nhà nước có thể huy động được vốn, đổi mới kỹ thuật và quy
trình công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm,..Đồng thời nhà nước cũng thực hiện
được lợi nhuận, chức năng kiểm kê, kiểm soát, hướng dẫn, điều tiết sự phát triển để
thúc đẩy cải cách cơ cấu kinh tế với cơ cấu sản phẩm cho phù hợp với nhu cầu của thị
trường trong nước và thế giới, cấu trúc lại nền kinh tế.
b. Thành lập công ty cổ phần, cổ phần hóa xí nghiệp để thành lập xí nghiệp tư bản nhà nước
Công ty cổ phần cũng như cổ phần hóa xí nghiệp không phải vấn đề mới mẻ, như cái
mới là vấn đề này được đặt trong điều kiện của nhà nước xã hội chủ nghĩa hiện nay.
Trong nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta, công ty cổ phần được xem là một tất
yếu kinh tế - sự tồn tại của nó không những chỉ là kết quả của quá trình tích tụ vốn, mà
còn là nhu cầu khách quan của việc củng cố tính hiệu quả của nền kinh tế nhiều thành
phần nói chung, của quốc doanh nói riêng. c. Đặc khu kinh tế
Đặc khu kinh tế là một vùng lãnh thổ quốc gia mà trên đó người ta áp dụng chế độ đặc
biệt đối với các hoạt động kinh tế đối ngoại. Mục tiêu của nó là tăng cường khả năng
cạnh tranh của nền sản xuất, tăng cường khả năng xuất khẩu, thu hút đầu tư trực tiếp
của nước ngoài đẩy nhanh các quá trình khai thác công nghệ, kỹ thuật mới và học tập
kinh nghiệm quản lý tiên tiến của thế giới.
d. Khu công nghiệp chế biến xuất khẩu (Khu chế xuất)
Khu chế xuất là khu công nghiệp được quy định chuyên môn, sản xuất chủ yếu cho
xuất khẩu, trong đó người ta áp dụng quy chế tự do thuế quan, tự do mậu dịch. Đặc
khu kinh tế cũng như khu chế xuất, về thực chất được coi là hình thức của chủ nghĩa tư
bản độc quyền nhà nước. Ở đây không phải chỉ có một hình thức kinh tế tư bản nhà
nước đơn độc, thuần túy mà có nhiều hình thức cụ thể, bao gồm cả hình thức liên
doanh, cho tư bản nước ngoài thuê,..
e. Cho tư bản trong và ngoài nước, cho nông dân thuê các cơ sở sản xuất kinh
doanh và các tư liệu sản xuất thuộc sở hữu toàn dân
Trong nền kinh tế nông nghiệp nước ta đã và sẽ tồn tại các chế độ kinh doanh khác
nhau trên cùng một cơ sở dữ liệu sản xuất cơ bản là ruộng đất thuộc sở hữu toàn dân:
chế độ kinh doanh của nhà nước, của tập thể, của từng hộ riêng lẻ, chế độ kinh doanh 5
hỗn hợp. Cần và có thể phát triển hình thức liên doanh, liên kết rộng rãi không chỉ
trong mà cả ngoài nước. Cần mở rộng việc cho thuê đất ( hình thức đấu thầu, thầu
khoán,..) với quy mô hạn định về rừng đồi trọc, thềm lục địa, đất rừng, đồi hoang,...
Khuyến khích phát triển những hộ kinh doanh độc lập trên nhiều lĩnh vực như trồng trọt, chăn nuôi,...
f. Các tổ chức hợp tác liên doanh với tư cách là các hình thức kinh tế tư bản nhà nước
Thực tiễn cho thấy, hợp tác xã trong sản xuất và kinh doanh là xu thế tất yếu của
những người sản xuất riêng lẻ. Những hợp tác xã được tổ chức theo những nguyên tắc
xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là thực hiện phân phối theo lao động, có sự hỗ trợ của nhà
nước, sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng Cộng sản Việt Nam, thì thuộc thành phần kinh tế
tập thể mà chúng ta vẫn thường nói là một thành phần xã hội chủ nghĩa. Nhưng trên
thực tế, còn xuất hiện những tổ chức hợp tác liên doanh khác nữa giống như ở nhiều nước khác.
3.Điều kiện để vận dụng thành công chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước ở nước ta
a. Tính chất và kết cục của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước phụ thuộc vào
tính chất của nhà nước và khả năng điều tiết của nhà nước ấy.
Bộ máy nhà nước vững mạnh là bộ máy cứng rắn, nghĩa là phải hạn chế, ngăn chặn
những tội ác, nghiêm khắc trừng trị bất cứ chủ nghĩa tư bản nào vượt ra khỏi khuôn
khổ quy định kinh tế và pháp luật. Bộ máy nhà nước vững mạnh còn là bộ máy có cơ
sở chính trị vững mạnh: đó là sự liên minh vững chắc giữa công nhân, nông dân, tri
thức, sự liênminh đó là một lực lượng “vô địch”. Sự liên minh công – nông – tri thức
chẳng những tạo nên cơ sở chính trị vững chắc cho sự thực hành chủ nghĩa tư bản độc
quyền nhà nước, mà còn làm “tăng thêm quyền lực kinh tế” của nhà nước chúng ta.
b. Tăng cường sức mạnh kinh tế của nhà nước xã hội chủ nghĩa
Sức mạnh của bộ máy nhà nước là sức mạnh về kinh tế. Nhưng trong nền kinh tế thị
trường, ai nắm được nguồn tài chính, người đó sẽ chi phối sự phát triển kinh tế - xã hội
theo định hướng của mình nên sức mạnh kinh tế của nhà nước biểu hiện tập trung ở
sức mạnh tài chính. Vì vậy, nhà nước cần vươn tới là nhà nước độc quyền tài chính.
Thông qua công cụ tài chính nhà nước vừa điều khiển được toàn bộ sự vận động xã
hội, vừa thoát khỏi sự can thiệp trực tiếp, vụ vặt vào các hoạt động sản xuất kinh doanh.
c. Xây dựng và hoàn thiện khung khổ pháp luật 6
Muốn sử dụng tốt các hình thức tư bản nhà nước, cần hoàn thiện hệ thống pháp
luật, trong đó đặc biệt là pháp luật về kinh tế. Và luật cùng với những văn bản luật
trong điều kiện thực hành chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước phải xuất phát từ
nguyên tắc: củng cố vững mạnh nhà nước. Trước mắt, cần nhanh chóng thiết lập đầy
đủ các cơ chế của kinh tế hàng hóa; xây dựng các điều kiện về kết cấu kinh tế hạ tầng,
thông tin, dịch vụ, hoàn chỉnh các luật đầu tư, luật liên doanh liên kết, luật về công ty
cổ phần, luật xuất nhập khẩu,..
CÂU 2: Làm rõ những khuyết tật của nền kinh tế thị trường. Để hạn chế những
khuyết tật đó cần giải quyết những vấn đề gì? Vì sao?
I.Khái quát chung về nền kinh tế thị trường
Nền kinh tế được coi như một hệ thống các quan hệ kinh tế. Khi các quan hệ
kinh tế giữa các chủ thể biểu hiện qua mua, bán hàng hóa, dịch vụ trên thị trường
(người bán cần tiền, người mua cần bán và họ phải gặp nhau trên thị trường) thì nền
kinh tế đó gọi là nền kinh tế thị trường.
Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế được vận hành theo cơ chế thị trường. Đó
là nền kinh tế hàng hóa phát triển cao, ở đó mọi quan hệ sản xuất và trao đổi đều được
thông qua thị trường, chịu sự tác động, điều tiết của các quy luật thị trường.
Sự hình thành kinh tế thị trường là khách quan trong lịch sử: từ kinh tế tự nhiên,
tự túc, kinh tế hàng hóa rồi từ kinh tế hàng hóa phát triển thành kinh tế thị trường.
Kinh tế thị trường cũng trải qua quá trình phát triển ở các trình độ khác nhau từ kinh tế
thị trường sơ khai đến kinh tế thị trường hiện đại ngày nay. Kinh tế thị trường là sản
phẩm của văn minh nhân loại.
II.Những khuyết tật của nền kinh tế thị trường
Một là, trong nền kinh tế thị trường luôn tiềm ẩn những rủi ro khủng khoảng.
Sự vận động của cơ chế thị trường không phải khi nào cũng tạo được những cân đối,
do đó, luôn tiềm ẩn những nguy cơ khủng hoảng. Khủng hoảng có thể diễn ra cục bộ
cũng như trên phạm vi tổng thể. Khủng hoảng có thể xảy ra với mọi loại hình thị
trường. Sự khó khăn đối với nền kinh tế thị trường thể hiện ở chỗ, các quốc gia rất khó
dự báo chính xác thời điểm xảy ra khủng hoảng. Nền kinh tế thị trường không tự khắc
phục được những rủi ro tiềm ẩn này.
Hai là, nền kinh tế thị trường không tự khắc phục được xu hướng cạn kiệt tài
nguyên không thể tái tạo, suy thoái môi trường tự nhiên, môi trường xã hội. Do phần
lớn các chủ thể sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường luôn đặt mục tiêu tìm 7
kiếm lợi nhuận tối đa nên luôn tạo ra ảnh hưởng tiềm ẩn đối với nguồn lực tài nguyên,
suy thoái môi trường. Cũng vì động cơ lợi nhuận, các chủ thể sản xuất kinh doanh có
thể vi phạm cả nguyên tắc đạo đức để chạy theo mục tiêu làm giàu thậm chí phi pháp,
góp phần gây ra sự xói mòn đạo đức kinh doanh, thậm chí cả đạo đức xã hội. Đây là
những mặt trái mang tính khuyết tật của bản thân nền kinh tế thị trường. Cũng vì mục
tiêu lợi nhuận, các chủ thể hoạt động sản xuất kinh doanh có thể không tham gia vào
các lĩnh vực thiết yếu cho nền kinh tế nhưng có lợi nhuận kỳ vọng thấp, rủi ro cao, quy
mô đầu tư lớn, thời gian thu hồi vốn dài. Tự nền kinh tế thị trường không thể khắc
phục được các khuyết tật này.
Ba là, nền kinh tế thị trường không tự khắc phục được hiện tượng phân hóa
sâu sắc trong xã hội. Trong nền kinh tế thị trường, hiện tượng phân hóa xã hội về thu
nhập, về cơ hội là tất yếu. Bản thân của nền kinh tế thị trường không thể tự khắc phục
được khía cạnh phân hóa có xu hướng sâu sắc. Các quy luật thị trường luôn phân bổ
lợi ích theo mức độ và loại hình hoạt động tham gia thị trường, cộng với tác động của
cạnh tranh mà dẫn đến sự phân hóa như một tất yếu. Đây là khuyết tật của nền kinh tế
thị trường cần phải có sự bổ sung và điều tiết bởi vai trò nhà nước.
Bốn là, cơ sở vật chất – kỹ thuật còn ở trình độ thấp làm cho phân công lao
động kém phát triển, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm. Bên cạnh một số lĩnh vực,
một số cơ sở kinh tế đã được trang bị kỹ thuật và công nghệ hiện đại, trong nhiều
ngành kinh tế, máy móc cũ kỹ, công nghệ lạc hậu. Lao động thủ công vẫn chiếm tỷ
trọng lớn trong tổng số lao động xã hội. Do đó, năng suất, chất lượng, hiệu quả sản
xuất của nước ta còn rất thấp so với khu vực và thế giới.
Năm là, kết cấu hạ tầng như hệ thống đường giao thông, bến cảng, hệ thống
thông tin liên lạc,.. còn lạc hậu, kém phát triển. Hệ thống giao thông kém phát triển
làm cho các địa phương, các vùng bị chia cắt, tách biệt nhau, do đó làm cho nhiều tiềm
năng của các địa phương không thể được khai thác, các địa phương không thể chuyên
môn hóa sản xuất để phát huy thế mạnh.
Sáu là, thị trường hàng hóa – dịch vụ đã hình thành nhưng còn hạn hẹp và còn
nhiều hiện tượng tiêu cực như hàng giả, hàng nhập lậu, hàng nhái nhãn hiệu vẫn còn
làm rối loạn thị trường.
Bảy là, thị trường tiền tệ, thị trường vốn đã có nhiều tiến bộ nhưng vẫn còn rất
nhiều trắc trở, như nhiều doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp tư nhân rất thiếu vốn
nhưng không vay được vì vướng mắc thủ tục, trong khi đó nhiều ngân hàng thương
mại huy động được tiền gửi mà không thể cho vay để ứ đọng trong két dư nợ quá hạn
trong nhiều ngân hàng thương mại đến mức báo động. Thị trường chứng khoán ra đời 8
nhưng cũng chưa có nhiều “hàng hóa” để mua – bán và mới có rất ít doanh nghiệp đủ
điều kiện tham gia thị trường này.
Do những khuyết tật của nền kinh tế thị trường nên trong thực tế không tồn tại
một nền kinh tế thị trường thuần túy, mà thường có sự can thiệp của nhà nước để sửa
chữa những thất bại của cơ chế thị trường. Khi đó nền kinh tế được gọi là kinh tế thị
trường có sự điều tiết của nhà nước hay nền kinh tế hỗn hợp.
III.Những vấn đề cần giải quyết để khắc phục những khuyết tật của nền kinh tế thị trường
Khuyết tật kinh tế là yếu tố mang tính lịch sử. Bất kỳ nền kinh tế hay mô
hình kinh tế nào cũng tồn tại những ưu thế và hạn chế nhất định. Đó là biểu hiện của
mâu thuẫn nội tại và mâu thuẫn ngoại lai của mọi hình thái kinh tế. Để có thể phát
triển được nền kinh tế, chúng ta phải giải quyết được những mâu thuẫn của nền kinh
tế. Những khuyết tật của nền kinh tế gây ra những vấn đề cần đặc biệt quan tâm là
trong mỗi giai đoạn và tiến trình lịch sử, những khuyết tật đó sẽ gây ra những biến
chuyển gì về mặt xã hội, đặc biệt là lực lượng lao động trong xã hội. Trong nền kinh tế
thị trường luôn tồn tại những mặt trái, chúng gây ra tình trạng tham nhũng trong bộ
máy, bội chi ngân sách, cạnh tranh gay gắt, tình trạng “cá lớn nuốt cá bé”, mâu thuẫn
cung cầu, gia tăng khoảng cách giàu nghèo,..Bởi vậy, sự xuất hiện vai trò can thiệp của
nhà nước vào nền kinh tế thị trường như một điều tất yếu bảo đảm cho sự hoạt động
của nền kinh tế thị trường.
Bởi vậy, những vấn đề cần giải quyết để khắc phục những khuyết tật của nền kinh tế thị trường là:
Thứ nhất, nhà nước nên sử dụng các tổ chức kinh tế như công cụ để khắc phục và hạn
chế những khuyết tật của kinh tế thị trường
Những mặt trái của thị trường, hay còn gọi là các khuyết tật cố hữu, là một phần không
thể tách rời đối với mô hình kinh tế thị trường. Nhà nước là đối tượng duy nhất có
năng lực quản trị thị trường, sử dụng các công cụ quản lý để ngăn chặn, hạn chế được
những hệ lụy do mặt trái của nền kinh tế gây ra. Sử dụng các tổ chức kinh tế công lập
chính là sự can thiệp của nhà nước vào thị trường bằng sức mạnh vật chất. Vì vậy, các
doanh nghiệp nhà nước phải luôn bắt kịp những thay đổi của nền kinh tế nhằm “tái cấu
trúc”, nâng cao hiệu quả hoạt động mà quan trọng nhất là làm tốt vai trò điều tiết nền
kinh tế thị trường, sử dụng các nguồn lực để cung cấp hàng hóa và dịch vụ công cộng
có chất lượng cao, phục vụ mục tiêu phát triển bền vững của đất nước. Những lĩnh vực
mang tính chủ đạo của nền kinh tế, những ngành cần thiết cho quá trình công nghiệp 9
hóa của đất nước cần phải có quyết tâm chính trị và sự điều tiết, quản lý, đầu tư phát
triển của nhà nước, và điều đó phải đặt trên lợi ích tài chính đơn thuần.
Thứ hai, nhà nước phải điều hành chính sách tài chính và chính sách tiền tệ một cách
độc lập, kiểm soát được việc cung ứng tiền.
Một trong những khuyết tật của nền kinh tế thị trường là dễ rơi vào tình trạng khủng
hoảng khi đồng tiền mất hoặc tăng giá đột ngột, tỉ lệ thất nghiệp cao, hệ quả là vừa có
nạn thất nghiệp vừa rơi vào lạm phát. Các chính sách về tài chính bao gồm chính sách
thuế quan, chi tiêu ngân sách nhà nước, hoạt động ngân hàng điều tiết các chu kỳ kinh
tế, đảm bảo công ăn việc làm của phần lớn tầng lớp lao động, ổn định được giá cả
nhằm phục vụ cho mục tiêu phát triển lâu dàu của nền kinh tế.
Thứ ba, nhà nước cần dùng những biến pháp phát triển dân trí, hiện đại hóa và quy chế về kinh tế.
Các giải pháp về phát triển văn hóa, tạm gọi là như vậy, sẽ lệ thuộc vào tốc độ cải
thiện về dân trí, về hiện đại hóa tập quán sinh hoạt, hiện đại hóa nhiều quy định, quy
chế dưới luật để đưa hàng chục triệu người dân sống và làm việc theo pháp luật, có tác
phong hiện đại, có đủ trình độ để sử dụng những trang thiết bị, máy móc hiện đại của
kết cấu thị trường hiện đại nói riêng và của nền kinh tế nói chung.
- Cụm các giải pháp về nâng cao năng lực điều tiết của Nhà nước đối với kinh
tế thị trường, khi nói đến những thất bại của thị trường thì vấn đề đầu tiên
cần phải lưu ý đó là tính chất chu kỳ của kinh tế. Những biến động về tài
chính, tiền tệ những tháng đầu năm 2008 ở trong nước và trên thế giới đã
thể hiện rõ nét thêm về điều đó. Tuy nhiên, kinh nghiệm về minh bạch thông
tin, cảnh báo sớm để can thiệp kịp thời làm giảm tác hại của những chu kỳ
kinh tế có thể lường trước là một nghệ thuật mà các nền kinh tế phát triển đã
rất thuần thục. Tiếp đến là trong điều hòa các vấn đề xã hội, nhất là kiềm
chế sự phân hóa giàu nghèo, không ai khác ngoài các chính sách của Chính
phủ làm cho xã hội phát triển nhanh, nhưng hài hòa giữa tầng lớp nhân dân,
làm cho mọi người đều được hưởng lợi từ kết quả tăng trưởng kinh tế, đồng
thời đảm bảo cho nền kinh tế phát triển vừa nhanh, vừa hiệu quả và bền vững.
- Nhà nước đã sử dụng một hệ thống luật pháp điều lệ, mức hình phạt thậm
chí cả mức truy tố để giảm ô nhiễm môi trường
- Ngoài ra nhà nước còn sử dụng cả chính sách quyền sở hữu công khai
nguồn tài nguyên, nếu gây ô nhiễm sẽ phải chịu chi phí theo giá thị trường. TÀI LIỆU THAM KHẢO 10
[1] Giáo trình “Kinh tế chính trị Mác-Lênin”, nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự thật, năm 2021
[2]Website:https://www.academia.edu/12390422/CH%E1%BB%A6_NGHIA_T
%C6%AF_B%E1%BA%A2N_D%E1%BB%98C_QUY%E1%BB%80N_NHA_N %C6%AF%E1%BB%9AC
[3]Website: https://dangcongsan.vn/kinh-te/ly-luan-ve-chu-nghia-tu-ban-nha-nuoc-
cua-lenin-va-thuc-tien-o-viet-nam-17392.html
[4]Website:http://eldata11.topica.edu.vn/HocLieu/PHM102/Giao
%20trinh/06_PHM102_Bai6_v2.0013105209.pdf