Bài tập lớn Kinh tế chính trị - Nhiệm vụ hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường theo hướng XHCN| Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tối và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới
Môn: Kinh tế chính trị Mác-Lênin (KTCT2D02)
Trường: Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN -------***------- BÀI T P L Ậ N MÔN KINH Ớ TẾẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LẾNIN ĐỀ TÀI:
Những nhiệm vụ cần phải thực hiện để hoàn thiện thể
chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Họ và tên SV: Vũ Thị Thanh Vân
Lớp tín chỉ: Marketing CLC 63F - AEP (221) - CLC18 Mã SV: 11219152
GVHD: TS NGUYỄN VĂN HẬU HÀ NỘI, NĂM 2022 - MỤC LỤC A/ Đặt vấn đề 1 B/ Nội dung 3 I.
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở 3 Việt Nam
1. Khái niệm thể chế và thể chế kinh tế 3
2. Khái niệm kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam 3
3. Lý do phải hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã 5 hội chủ nghĩa II.
Những nhiệm vụ cần phải thực hiện để hoàn thiện thể chế 7
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
1. Hoàn thiện thể chế về sở hữu, phát triển các thành phần kinh tế, 7
các loại hình doanh nghiệp
2. Hoàn thiện thể chế phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và 11 các loại thị trường
3. Hoàn thiện thể chế gắn kết tăng trưởng kinh tế với bảo đảm 12
phát triển bền vững, tiến bộ và công bằng xã hội và thúc đẩy hội nhập quốc tế
4. Hoàn thiện thể chế, đẩy mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo của 13
Đảng và hệ thống chính trị C/ Kết luận 14 TÀI LIỆU THAM KHẢO 15
A – Đặt vấn đề
Vươn lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng thiêng liêng của cả dân tộc Việt
Nam. Ðảng Cộng sản Việt Nam luôn kiên định với con đường xã hội chủ nghĩa
mà Ðảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn; không ngừng tìm tòi, đổi mới,
tổng kết lý luận - thực tiễn để nhận thức đúng đắn hơn, toàn diện hơn về con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Trong thời gian dài trước đổi mới, cũng như nhiều nước khác, Việt Nam
đã áp dụng mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu Xô - Viết, với những đặc trưng chủ
yếu là: xây dựng nền kinh tế khép kín về lực lượng sản xuất; không thừa nhận
sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ; xây dựng quan hệ
sản xuất với hai thành phần kinh tế quốc doanh và tập thể là chủ yếu, hạn chế
và muốn nhanh chóng xóa bỏ sở hữu tư nhân, kinh tế tư nhân; chưa thừa nhận
sản xuất hàng hóa và thị trường, thực hiện cơ chế kế hoạch hóa tập trung và bao
cấp, coi kế hoạch là đặc trưng quan trọng nhất của nền kinh tế, xã hội chủ
nghĩa, xác định nhiệm vụ sản xuất và phân bổ các nguồn lực theo kế hoạch
pháp lệnh của Nhà nước là chủ yếu, coi thị trường chỉ là một công cụ thứ yếu
bổ sung cho kế hoạch. Mô hình này đã thu được những kết quả quan trọng,
nhất là đáp ứng được yêu cầu của đất nước thời kỳ có chiến tranh, nhưng sau
đó bộc lộ rõ những khuyết điểm, tình hình kinh tế - xã hội đất nước ngày càng khó khăn.
Từ những năm 1979 - 1986, tuy có những chuyển biến nhận thức và
thực tiễn quan trọng, Ðảng và nhân dân ta bước đầu đã có những tìm tòi, thử
nghiệm để cải cách theo hướng thị trường. Đại hội Đảng VI (1986) là một bước
ngoặt lịch sử của nền kinh tế với đường lối mới của Đảng để phát triển đất
nước. Theo đó ta xây dựng và phát triển nền Kinh tế thị trường có sự quản lý
của nhà nước theo định hướng XHCN. Tư tưởng ấy càng được nhấn mạnh
trong các kì đại hội tiếp theo của Đảng.
Và rồi, sau nhiều năm tiếp tục nghiên cứu, tìm tòi, tổng kết lý luận -
thực tiễn, Ðại hội IX (4-2001) chính thức đưa ra khái niệm "kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa", khẳng định chủ trương xây dựng và phát triển 1
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát
của Việt Nam trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, là đường lối chiến
lược nhất quán. Từ "nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo
cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa", đã khái quát thành "nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa"; đó không phải là sự đơn giản hóa khái niệm mà là bước phát triển mới
rất quan trọng về tư duy lý luận và thực tiễn của Ðảng.
Ðại hội X của Ðảng khẳng định những thành tựu rất quan trọng đã đạt
được trong 5 năm 2001-2005, trong đó "Thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa bước đầu được xây dựng". Hệ thống pháp luật,
chính sách và cơ chế vận hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa được xây dựng tương đối đồng bộ; một số loại thị trường mới hình thành;
các thị trường hàng hóa, dịch vụ, lao động, khoa học và công nghệ, tài chính,
bất động sản có bước phát triển phù hợp với cơ chế mới. Ðại hội cũng nhận
định "Việc xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
còn nhiều vướng mắc và chưa thật đồng bộ". Một số thị trường (tài chính, bất
động sản, khoa học và công nghệ) phát triển chậm, chưa đáp ứng kịp yêu cầu;
quản lý nhà nước đối với từng loại thị trường còn nhiều bất cập; một số nguyên
tắc của thị trường bị vi phạm. Ðại hội xác định nhiệm vụ những năm tới phải
"tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa"; yêu cầu phải nắm vững những nội dung quan trọng của định hướng xã
hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở nước ta, nâng cao vai trò và hiệu
lực quản lý của Nhà nước, phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận
hành các loại thị trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh, phát triển
mạnh các thành phần kinh tế, các loại hình sản xuất, kinh doanh.
Nhiệm vụ ấy tiếp tục được những thế hệ sau kế thừa việc tìm tòi, nghiên
cứu, tổng kết lý luận – thực tiễn để ngày càng hoàn thiện hơn. Và cho tới ngày
hôm nay, “Những nhiệm vụ cần phải thực hiện để hoàn thiện thể chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” vẫn là một vấn đề đáng
được quan tâm và đào sâu tìm hiểu. 2 B – Nội dung
I/ Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
1. Khái niệm thể chế và thể chế kinh tế
Thể chế là những quy tắc, luật pháp, bộ máy quản lý và cơ chế vận
hành nhằm điều chỉnh các hoạt động của con người trong một chế độ xã hội.
Thể chế kinh tế là hệ thống quy tắc, luật pháp, bộ máy quản lý và cơ
chế vận hành nhằm điều chỉnh hành vi của chủ thể kinh tế, các hành vi sản
xuất kinh doanh và các quan hệ kinh tế
2. Khái niệm kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam - Kinh tế thị trường
Theo C. Mác, kinh tế thị trường là một giai đoạn phát triển tất
yếu của lịch sử mà bất cứ nền kinh tế nào cũng phải trải qua để đạt
tới nấc thang cao hơn trên con đường phát triển và nền kinh tế TBCN
chính là nền kinh tế thị trường phát triển đến trình độ phổ biến và
hoàn chỉnh. Nấc thang cao hơn chính là nền kinh tế cộng sản chủ
nghĩa mà giai đoạn đầu là nền kinh tế XHCN. Để chuyển lên nấc
thang này, nền kinh tế thị trường phải phát triển hết mức, phải trở
thành phổ biến trong đời sống kinh tế - xã hội.
Đây là một kết luận lý luận quan trọng. Nó khái quát quá trình
phát triển của lịch sử nhân loại, trong đó, kinh tế thị trường được xác
định là một nấc thang tất yếu, mang tính phổ biến. Tính phổ biến của
kinh tế thị trường thể hiện ở cấu trúc khung chung cho mọi nền kinh tế thị trường.
Kinh tế thị trường là sản phẩm của văn minh nhân loại, là kết
quả phát triển lâu dài của lực lượng sản xuất và xã hội hóa các quan
hệ kinh tế, trải qua các giai đoạn kinh tế thị trường sơ khai, kinh tế
thị trường tự do và kinh tế thị trường hiên đại. Tuy nhiên, không có
mô hình kinh tế thị trường chung cho mọi quốc gia và mọi giai đoạn 3
phát triển. Mỗi nước có những mô hình kinh tế thị trường khác nhau
như: Mô hình Kinh tế thị trường tự do mới ở Hoa Kỳ, kinh tế thị
trường xã hội ở Cộng hòa liên bang Đức, kinh tế thị trường ở Nhật
Bản, kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc. Điểu đó có
nghĩa, mỗi nền kinh tế thị trường vừa có những đặc trưng tất yếu
không thể thiếu của nền kinh tế thị trường nói chung vừa có những
đặc trưng phản ánh điều kiện lịch sử, chính trị, kinh tế - xã hội của
quốc gia đó. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là một kiểu nền kinh tế thị trường phù hợp với Việt Nam, phản
ánh trình độ phát triển và điều kiện lịch sử của Việt Nam.
- Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là hệ
thống đường lối, chủ trương chiến lược, hệ thống luật pháp, chính
sách quy định xác lập cơ chế vận hành, điều chỉnh chức năng, hoạt
động, mục tiêu, phương thức hoạt động, các quan hệ lợi ích của các
tổ chức, các chủ thể kinh tế nhằm hướng tới xác lập đồng bộ các yếu
tố thị trường, các loại thị trường hiện đại theo hướng góp phần thúc
đẩy dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Thực chất, giá trị dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công
bằng, văn minh là những giá trị của xã hội tương lai mà loài người
còn tiếp tục phải phấn đấu. Bởi lẽ, nhìn từ thế giới hiện nay mà xét,
có quốc gia dân rất giàu nhưng nước chưa mạnh, xã hội thiếu văn
minh, có quốc gia nước rất mạnh, dân chủ song lại thiếu công bằng.
Như vậy, một hệ giá trị toàn diện gồm cả dân giàu, nước mạnh, xã
hội dân chủ, công bằng, văn minh là hệ giá trị của xã hội tương lai
mà loài người còn cần phải phấn đấu mới có thể đạt được một cách
đầy đủ trên hiện thực xã hội. Do đó, định hướng xã hội chủ nghĩa
thực chất là hướng tới các giá trị cốt lõi của xã hội mới ấy. Nền kinh
tế thị trường mà trong các hoạt động kinh tế của các chủ yếu hướng
tới góp phần xác lập được các giá trị xã hội thực tế với hệ giá trị toàn
diện như vậy là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. 4
Để đạt được hệ giá trị như vậy, nền kinh tế thị trường Việt Nam,
cũng như các nền kinh tế thị trường khác, cần có vai trò điều tiết của
nhà nước, nhưng đối với Việt Nam, nhà nước phải được đặt dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam là
đảng cầm quyền do lịch sử khách quan quy định. Nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa vừa phải bao hàm đầy đủ các
đặc trưng chung vốn có của kinh tế thị trường nói chung, vừa có
những đặc trưng riêng của Việt Nam. Đây là kiểu mô hình kinh tế thị
trường phù hợp với đặc trưng lịch sử, trình độ phát triển, hoàn cảnh
chính trị - xã hội của Việt Nam. Muốn thành công phải do nhân dân
nỗ lực xây dựng mới có thể đạt được.
3. Lý do phải hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Thứ nhất, do thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa còn chưa đồng bộ.
Do mới được hình thành và phát triển, cho nên, việc tiếp tục hoàn
thiện thể chế là yêu cầu mang tính khách quan. Nhà nước quản lý, điều
tiết nền kinh tế thị trường bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch và các công cụ khác nhằm giảm thiểu các thất bại của thị trường,
thực hiện công bằng xã hội. Do đó, cần phải xây dựng và hoàn thiện thể
chế kinh tế thị trường để phát huy mặt tích cực, khắc phục mặt tiêu cực và khuyết tật của nó.
Thứ hai, hệ thống thể chế chưa đầy đủ.
Thể chế kinh tế thị trường là sản phẩm của nhà nước. Nhà nước
với tư cách là tác giả của thể chế chính thức nên đương nhiên là nhân tố
quyết định số lượng, chất lượng của thể chế cũng như toàn bộ tiến trình
xây dựng và hoàn thiện thể chế. Với bản chất Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân, do vậy thể chế kinh tế thị trường ở Việt Nam phải là thể chế
phục vụ lợi ích, vì lợi ích của nhân dân. Trình độ và năng lực tổ chức và
quản lý nền linh tế thị trường của Nhà nước thể hiện chủ yếu ở năng lực 5
xây dựng và thực thi thể chế. Do vậy, Nhà nước phải xây dựng và hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường để thực viện mục tiêu của nền kinh tế.
Thứ ba, hệ thống thể chế còn kém hiệu lực, hiệu quả, thiếu các
yếu tố thị trường và các loại thị trường.
Trên thực tế, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa Việt Nam còn nhiều khiếm khuyết, hệ thống thể chế vừa chưa đủ
mạnh, vừa hiệu quả thực thi chưa cao. Các yếu tố thị trường, các loại
hình thị trường mới ở trình độ sơ khai. Do đó, tiếp tục hoàn thiện thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là yêu cầu khách quan.
Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa luôn là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân bởi trên thực tế, thể
chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam vẫn còn
nhiều hạn chế. Điều đó được đề cập một cách chi tiết qua “Đánh giá của
Đảng Cộng sản Việt Nam về một số hạn chế trong thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa”
Đánh giá của Đảng Cộng sản Việt Nam về một số hạn chế trong thể
chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Một là, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta thực hiện còn chậm. Một số quy định pháp luật, cơ chế,
chính sách còn chồng chéo, mâu thuẫn, thiếu ổn định, nhất quán; còn có
biểu hiện lợi ích cục bộ, chưa tạo được bước đột phá trong huy động,
phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực phát triển. Thể chế kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vẫn chưa đồng bộ, đầy đủ để
bảo đảm thị trường vận hành thông suốt.
Hai là, hiệu quả hoạt động của các chủ thể kinh tế, các loại hình doanh
nghiệp trong nền kinh tế còn nhiều hạn chế. Việc tiếp cận một số nguồn
lực xã hội chưa bình đẳng giữa các chủ thể kinh tế. Cải cách hành chính
còn chậm. Môi trường đầu tư, kinh doanh chưa thực sự thông thoáng,
mức độ minh bạch, ổn định chưa cao. Quyền tự do kinh doanh chưa
được tôn trọng đầy đủ. Quyền sở hữu tài sản chưa được bảo đảm thực thi nghiêm minh. 6
Ba là, một số loại thị trường chậm hình thành và phát triển, vận hành
còn nhiều vướng mắc, kém hiệu quả. Giá cả một số hàng hóa, dịch vụ
thiết yếu chưa được xác lập thật sự theo cơ chế thị trường.
Bốn là, thể chế bảo đảm thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội còn
nhiều bất cập. Bất bình đẳng xã hội, phân hóa giàu – nghèo có xu
hướng gia tăng. Xóa đói, giảm nghèo còn chưa bền vững.
Năm là, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong thực hiện nhiệm
vụ phát triển kinh tế - xã hội chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới về kinh tế.
Cơ chế kiểm soát quyền lực, phân công, phân cấp còn nhiều bất cập.
Quản lý nhà nước chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát triển của kinh tế thị
trưởng và hội nhập quốc tế; hiệu lực, hiệu quả chưa cao; kỷ luật, kỷ
cương chưa nghiêm. Hội nhập kinh tế quốc tế đạt hiệu quả chưa cao,
thiếu chủ động trong phòng ngừa và xử lý tranh chấp thương mại quốc tế.
II/ Những nhiệm vụ cần phải thực hiện để hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Trong hơn 30 năm đổi mới, Đảng và nhà nước ta luôn chú trọng tới đổi mới
trong nhận thức, lý luận về mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, góp phần hoàn thiện, nâng cao cơ chế vận hành của nền kinh tế sao cho
phù hợp với thời kỳ hội nhập quốc tế. Chính vì vậy, chúng ta cần có những
nhiệm vụ cụ thể nhằm hoàn thiện thể chế kinh tế của đất nước, góp phần phát
triển nền kinh tế, đồng thời chủ động hơn trong hội nhập kinh tế.
1. Hoàn thiện thể chế về sở hữu, phát triển các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp
Kinh tế thị trường được xác lập trên nền tảng quan hệ giá trị
mà biểu hiện của nó là quan hệ hàng hóa - tiền tệ, đằng sau quan hệ
này chính là các chủ thể kinh tế sở hữu hàng hóa, tài sản hay vốn…
Bởi vậy, điều tiên quyết của thể chế kinh tế thị trường là thể chế hóa
về quyền sở hữu đối với vốn, tài sản, trí tuệ… và nói chung là đối
với của cải (hữu hình và vô hình). Đây là cơ sở của mọi quan hệ, liên 7
hệ, giao dịch và lợi ích kinh tế của các chủ thể tham gia thị trường,
nó định dạng cơ sở của trò chơi, luật chơi của kinh tế thị trường. Khi
của cải không được luật pháp bảo vệ, lợi ích của các chủ thể bị xâm
hại và không có sự phân định rõ ràng thì bản thân kinh tế thị trường
không thể tồn tại. Bởi vậy, thể chế về quyền sở hữu vốn, tài sản hay
của cải nói chung của các chủ thể tham gia thị trường là nền tảng của
thể chế kinh tế thị trường.
Để hoàn thiện thể chế về sở hữu trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam cần thực hiện những nhiệm vụ sau:
Một là, thể chế hóa đầy đủ quyền tài sản (quyền sở hữu,
quyền sử dụng, quyền định đoạt và hưởng lợi từ tài sản) của Nhà
nước, tổ chức và cá nhân. Bảo đảm công khai, minh bạch về nghĩa
vụ và trách nhiệm trong thủ tục hành chính nhà nước và dịch vụ công
để quyền tài sản được giao dịch thông suốt; bảo đảm hiệu lực thực
thi và bảo vệ có hiệu quả quyền sở hữu tài sản,
Hai là, tiếp tục hoàn thiện pháp luật về đất đai, tài nguyên để
huy động, phân bộ và sử dụng hiệu quả đất đai, tài nguyên, khắc
phục tình trạng sử dụng đất lãng phí.
Ba là, hoàn thiện pháp luật về quản lý, khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên.
Bốn là, hoàn thiện pháp luật về đầu tư vốn nhà nước, quản lý
và sử dụng có hiệu quả tài sản công; phân biệt rõ tài sản đưa vào
kinh doanh và tài sản để thực hiện chi sách xã hội.
Năm là, hoàn thiện thể chế về sở hữu trí tuệ theo hướng
khuyến khích sáng tạo, bảo đảm tính minh bạch và có độ tin cậy, bảo
vệ quyền sở hữu trí tuệ.
Sáu là, hoàn thiện pháp luật về hợp đồng và giải quyết tranh
chấp dân sự theo hướng thống nhất, đồng bộ. Phát triển hệ thống
đăng ký các loại tài sản, nhất là bất động sản. 8
Bảy là, “xây dựng và thực thi pháp luật, chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch nâng cao chất lượng, hiệu quả quản trị quốc gia”.
Trước đổi mới nước ta chỉ có hai thành phần kinh tế cơ bản:
quốc doanh (trong công - thương nghiệp) và tập thể (trong nông
nghiệp với hợp tác xã cấp cao là nòng cốt). Sau đổi mới, Đảng và
nhà nước chú trọng phát triển nhiều thành phần kinh tế, tạo điều kiện
cho các thành phần kinh tế giải phóng nguồn lực, hỗ trợ thúc đẩy,
cạnh tranh lẫn nhau làm cho nền kinh tế đất nước trở nên đa dạng,
năng động ảnh phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa của
nước ta gồm nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò
then chốt. Các doanh nghiệp nhà nước tập trung phát triển trong
những ngành và lĩnh vực then chốt, thiết yếu; những địa bàn quan
trọng về quốc phòng, an ninh. Kinh tế tư nhân là động lực quan trọng
của nền kinh tế. Nhà nước đã và đang khuyến khích phát triển kinh tế
tư nhân ở hầu hết các ngành, lĩnh vực kinh tế và góp vốn vào các tập
đoàn kinh tế nhà nước. Kinh tế tập thể dựa trên việc hợp tác đôi bên
cùng có lợi, áp dụng những phương thức quản lý, vận hành và sản
xuất tiên tiến. Nhà nước cũng có các cơ chế, chính sách để hỗ trợ
hợp tác xã về nguồn vốn, nhân lực, kỹ thuật và thị trường. Thành
phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng đóng vai trò quan
trọng trong nền kinh tế Việt Nam, tham gia vào chuyển giao công
nghệ, trình độ quản lý và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm.
Để hoàn thiện thể chế phát triển các thành phần kinh tế, các
loại hình doanh nghiệp cần thực hiện những nội dung sau:
Một là, thực hiện nhất quán một chế độ pháp lý kinh doanh
cho các doanh nghiệp, không phân biệt hình thức sở hữu và thành
phần kinh tế. Mọi doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đều
hoạt động theo cơ chế thị truờng bình đẳng và cạnh tranh lành mạnh theo pháp luật. 9
Hai là, hoàn thiện pháp luật về đầu tư, kinh doanh, bảo đảm
đầy đủ quyền do kinh doanh, cạnh tranh lành mạnh của các chủ thể
kinh tế đã được Hiến pháp quy định; xóa bỏ các rào cản đối với hoạt
động đầu tư, kinh doanh.
Ba là, hoàn thiện thể chế về cạnh tranh, bảo đảm cạnh tranh
lành mạnh; xử lý dứt điểm tình trạng chồng chéo các quy định về điều kiện kinh doanh.
Bốn là, rà soát, hoàn thiện pháp luật về đấu thầu, đầu tư công
và các quy định pháp luật có liên quan, kiên quyết ma bỏ các quy định bất hợp lý.
Năm là, hoàn thiện thể chế về các mô hình sản xuất kinh
doanh, nâng cao hiệu quả của các loại hình doanh nghiệp, hợp tác xã,
các đơn vị sự nghiệp, các nông lâm trường. Trong đó chú ý các khía
cạnh như: i) Thể chế hóa việc cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu
quả doanh nghiệp và nước. Doanh nghiệp nhà nước chỉ tập trung vào
các lĩnh vực then chốt, thiết yếu; những địa bàn chiến lược và quốc
phòng, an ninh; những lĩnh vực mà doanh nghiệp cuộc các thành
phần kinh tế khác không đầu tư. Quản lý chặt chẽ vốn nhà nước tại
các doanh nghiệp, ii) Hoàn thiện thể chế về huy động các nguồn lực
đầu tư và đổi mới cơ chế quản lý của Nhà nước để các đơn vị sự
nghiệp công lập phát triển có hiệu quả. ii) Thế chế hóa nội dung và
phương thức hoạt động của kinh tế tập thể. Tăng cường các hình thức
hợp tác, liên kết, hỗ trợ cho nông dân trong sản xuất, bao quản, chế
biến, tiêu thụ nông sản.
Sáu là, tiếp tục hoàn thiện thể chế, thúc đẩy các thành phần
kinh tế, các khu vực kinh tế phát triển đồng bộ để giúp phần xác lập
trình độ phát triển dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh: trong đó cần tạo thuận lợi để phát triển khu vực kinh tế tư
nhân thực sự trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế.
Thúc đẩy hình thành và phát triển các tập đoàn kinh tế tư nhân mạnh, 10
có công nghệ hiện đại và năng lực quản trị tiên tiến. Hoàn thiện
chính sách hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Bảy là, hoàn thiện thể chế thu hút đầu tư trực tiếp của nước
ngoài theo hướng chủ động lựa chọn các dự án đầu tư nước ngoài có
chuyển giao công nghệ tiên tiến và quản trị hiện đại, có cơ sở nghiên
cứu và phát triển công nghệ tại Việt Nam, có cam kết liên kết, hỗ trợ
doanh nghiệp trong nước tham gia chuỗi giá trị toàn cầu, phù hợp với
định hướng cơ cấu lại nền kinh tế và các chiến lược, quy hoạch phát
triển kinh tế. Trong quản lý và phát triển các doanh nghiệp thuộc mọi
thành phần kinh tế, cần phát huy mặt tích cực có lợi cho đất nước,
đồng thời kiểm tra, giám sát, kiểm soát, thực hiện công khai, minh
bạch, ngăn chặn, hạn chế mặt tiêu cực.
Trước những yêu cầu phát triển đất nước trong tình hình mới,
nhà nước ta cần nâng cao tính ổn định và chất lượng ảnh của các bộ
luật, chính sách; đẩy mạnh đổi mới các phương pháp, hình thức lấy ý
kiến các cơ quan, tổ chức; chú trọng việc lấy ý kiến các chuyên gia,
nhà khoa học, nhất là ý kiến của đối tượng chịu sự tác động trực tiếp
của các bộ luật và chính sách; nghiêm túc tiếp thu, giải trình đầy đủ,
thực chất các ý kiến góp ý để bảo đảm tính khả thi. Một hệ thống
pháp luật đồng bộ thì mới quản lý nền kinh tế chặt chẽ, đúng đắn.
Các chính sách tài chính tiền tệ được đổi mới để linh hoạt với tình
hình thực tiễn bảo đảm quản lý thống nhất nền tài chính quốc gia,
giảm bội chi ngân sách, góp phần khống chế và kiểm soát lạm phát;
xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa tích lũy và tiêu dùng.
2. Hoàn thiện thể chế phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường
Một là, hoàn thiện thể chế phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường.
Các yếu tố thị trường như hàng hóa, giá cả, cạnh tranh, cung
cầu... cần phải được vận hành theo nguyên tắc thể chế kinh tế thị trường.
Muốn vậy, hệ thống thể chế về giá, về thúc đẩy cạnh tranh, về chất 11
lượng hàng hóa, dịch vụ… cần phải được hoàn thiện để thúc đẩy sự hình
thành đồng bộ các yếu tố thị trường.
Hai là, hoàn thiện chế để phát triển đồng bộ, vận hành thông xuất các loại thị trường
Các loại thị trường cơ bản như thị trường hàng hóa, dịch vụ; thị
trường vốn; thị trường công nghệ; thị trường hàng hóa sức lao động…
cần phải được hoàn thiện. Đảm bảo sự vận hành thông suốt, phát huy tác
động tích cực, cộng hưởng của các thị trường đối với sự phát triển của
thế chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
3. Hoàn thiện thể chế gắn kết tăng trưởng kinh tế với bảo đảm phát triển
bền vững, tiến bộ và công bằng xã hội và thúc đẩy hội nhập quốc tế
Xây dựng hệ thống thể chế để có thể kết hợp chặt chẽ phát triển
kinh tế nhanh và bền vững với phát triển xã hội bền vững, thực hiện tiến
bộ, công bằng xã hội, tạo cơ hội cho mọi thành viên trong xã hội tham
gia bình đẳng và thụ hưởng công bằng thành quả từ quá trình phát triển.
Lịch sử thế giới đã chứng minh rằng, những nước có nền kinh tế
thị trường phát triển nhanh đều là những nước biết mở cửa, hội nhập.
Theo đó, xây dựng và hoàn thiện thể chế về hội nhập kinh tế quốc tế ở
Việt Nam hiện nay cần tập trung vào các nhiệm vụ sau:
Một là, tiếp tục rà soát, bổ sung, điều chỉnh hệ thống pháp luật và
các thể chế liên quan đáp ứng yêu cầu thực hiện các cam kết quốc tế của Việt Nam.
Hai là, thực hiện nhất quán chủ trương đa phương hóa, đa dạng
hóa trong hợp tác kinh tế quốc tế, không để bị lệ thuộc vào một số ít thị
trường. Nâng cao năng lực tranh quốc gia, tiềm lực của các doanh
nghiệp trong nước. Xây dựng và thực hiện các cơ chế phù hợp với thông
lệ quốc tế để phản ứng nhanh nhạy trước các diễn biến bất lợi trên thị
trường thế giới, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc, giữ vững môi trường
hòa bình, ổn định cho sự phát triển của đất nước.
Từ Đại hội XI đến nay, lợi ích quốc gia - dân tộc đã chính thức
trở thành mục tiêu của chính sách đối ngoại. Văn kiện Đại hội ghi 12
rõ trong phần phương hướng và nhiệm vụ đối ngoại là phải “bảo đảm
lợi ích tối cao của quốc gia – dân tộc.” Qua đó, Đảng ta khẳng định: Thứ
nhất, lợi ích quốc gia và lợi ích dân tộc là đồng nhất; thứ hai, lợi ích
quốc gia – dân tộc của Việt Nam được xác định trên cơ sở các nguyên
tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi, không phải là
những lợi ích dân tộc vị kỷ, hẹp hòi; thứ ba, bảo đảm lợi ích quốc gia –
dân tộc phải là nguyên tắc tối cao của mọi hoạt động đối ngoại, lợi ích
quốc gia – dân tộc phải là tối thượng, là tiêu chí hàng đầu đánh giá hiệu
quả của mọi hoạt động đối ngoại. Việt Nam sẵn sàng là đối tác tin cậy để
hợp tác lâu dài hiệu quả tin cậy lẫn nhau giữa các nước trên cơ sở các
nguyên tắc: chủ trương mở rộng quan hệ hợp tác nhiều mặt, song
phương và đa phương với các nước và vùng lãnh thổ; chủ động đàm
phán và ký kết với nhiều nước trong và ngoài khu vực những khuôn khổ
quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện cho thế kỷ XXI; chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế; mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, mở rộng và đa
dạng hóa thị trường, tranh thủ vốn, kinh nghiệm quản lý và khoa học
công nghệ tiên tiên cho sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
4. Hoàn thiện thể chế, đẩy mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng và hệ thống chính trị
Xây dựng hệ thống thể chế đồng bộ để nâng cao năng lực lãnh
đạo của Đảng, vai trò xây dựng và thực hiện thể chế kinh tế của Nhà
nước, phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong hoàn thiện thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong thời kỳ đổi mới việc giữ vững ổn định chính trị mà ở đây
là giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam là điều đặc
biệt quan trọng, duy trì sự gắn kết để thực hiện các chính sách kinh tế.
Grigory Lokshin, nhà nghiên cứu hàng đầu tại Trung tâm Nghiên cứu
Việt Nam và ASEAN, IFES RAS, nhận định: “Đội ngũ lãnh đạo mới của
Việt Nam là minh chứng cho việc Đảng Cộng sản Việt Nam duy trì và
tăng cường vai trò trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Bản thân 13
Đảng cũng đặc biệt coi trọng giữ gìn tư cách, phẩm chất đạo đức của các
đảng viên, những người lãnh đạo. Họ phải là những người có phẩm chất
đạo đức và kinh doanh xuất sắc. Những hành động khéo léo của họ dẫn
đến những kết quả, thành công của đất nước và giúp làm tăng niềm tin
của nhân dân đối với đảng, nâng cao uy tín của Việt Nam trên trường
quốc tế. Sự ổn định chính trị được tạo ra bởi sự lãnh đạo của đảng là
chìa khóa cho sự phát triển kinh tế hiệu quả và dòng vốn đầu tư nước
ngoài. Điều này đặc biệt đáng chú ý trong bối cảnh bất ổn ngày càng
tăng trên thế giới và trong khu vực”. Trước những yêu cầu phát triển đất
nước trong tình hình mới, nhà nước ta cần phải phát huy được sức mạnh
về trí tuệ, nguồn lực và sự đồng thuận của toàn dân tộc. Muốn vậy cần
phải nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng vai trò của Nhà nước và phát huy vai trò của nhân dân. C – Kết luận
Qua tìm hiểu về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam, em đã hiểu rõ phần nào lý do tại sao nước ta lại lựa chọn phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sự lựa chọn đúng đắn. Nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vận hành theo cơ chế thị trường
có sự quản lý vĩ mô của nhà nước. Mặc dù nền kinh tế thị trường ở nước ta có
những đặc điểm khác với nền kinh tế thị trường của các quốc gia khác nhưng ở
nước ta, tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội. Đó là
cốt lõi để xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Đặc biệt trong vài năm trở lại đây, nền kinh tế toàn cầu phải đối mặt với
nhiều biến động tiêu cực do đại dịch Covid-19 đã ập đến nền kinh tế nước ta.
Tuy nhiên, nhờ sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, nền kinh tế đất nước có thể
tăng trưởng ổn định. Có thể nói, nền kinh tế thị trường ở nước ta đã, đang và sẽ
là mô hình kinh tế tham khảo cho nhiều nước đang trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội. 14 TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng việt
1. Giáo trình Kinh tế chính trị Mác – Lê nin (Dành cho bậc đại học hệ
không chuyên lý luận chính trị) (2021)
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp
hành Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, (2017); Đảng
Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (2021)
Tài liệu trực tuyến
1. Tư liệu văn kiện Đảng: Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-kien-tu-lieu-ve-dang/gioi-
thieu-van-kien-dang/tiep-tuc-hoan-thien-the-che-kinh-te-thi-truong-
dinh-huong-xa-hoi-chu-nghia-888
2. Thông tấn xã Việt Nam (09/04/2021): Ban lãnh đạo mới của Việt Nam
quyết tâm giữ vững ổn định chính trị
http://hdll.vn/vi/thong-tin-ly-luan/ban-lanh-dao-moi-cua-viet-nam-
quyet-tam-giu-vung-on-dinh-chinh-tri.html
3. PGS.TS Nguyễn Vũ Tùng (01/06/2019) Sự phát triển nhận thức về
đường lối đối ngoại của Đảng ta
http://hdll.vn/vi/nghien-cuu---trao-doi/su-phat-trien-nhan-thuc-ve-
duong-loi-doi-ngoai-cua-dang-ta.html 15