Bài tập lớn ktct - quy luật giá trị| Đại học Kinh tế Quốc Dân

Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tối và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới

Trường đại học Kinh tế Quốc dân
BÀI TẬP LỚN
KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC LÊ-NIN
Đề tài: Qu luật giá trị: yêu cầu và các tác động của quy luật
giá trị. Hãy thử đặt mình ở vị trí nhà sản xuất, chỉ ra những
công việc c ủ doanh nghiệp cần phải làm để cho doanh
nghiệp của mình sản xuất và kinh doanh có lãi trong điều
kiện kinh t thị trường.
Họ t Phan Thanh Tâm MSV:11218214
ớp Kinh tế chính trị Mác- Lênin(122) _ 16
Hà Nội -10/202
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU .......................................................................................... 1
NỘI DUNG ................................................................................................2
1. Quy luật giá trị: yêu cầu và tác động của quy luật giá trị................................2
2. Liên hệ thực tiễn: thử đặt mình ở vị trí nhà sản xuất, chỉ ra những công việc chủ doanh
nghiệp cần phải làm để cho doanh nghiệp của mình sản xuất kinh doanh lãi
trong điều kiện kinh tế thị
trường.........................................................................................
MỞ ĐẦU
Kinh tế Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cho tới năm 1986 đã chuyển sang kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là nền kinh tế được vận hành theo cơ chế thị trường, trong đó mọi
quan hệ sản xuất và trao đổi hàng hoá đều được thông qua thị trường, cũng như chịu sự điều tiết
và tác động từ thị trường. Có thể nói, trải qua rất nhiều quá trình phát triển thì nền kinh tế thị
trường chính là sản phẩm của nền văn minh nhân loại. Ở mô hình kinh tế này, có rất nhiều những
đặc trưng chung mà các chủ thể kinh tế, chủ yếu là các doanh nghiệp, có thể tận dụng đặc trưng ấy
và biến nó thành ưu thế cho mình. Một vài đặc trưng có thể đề cập đến như là sự đòi hỏi đa dạng
của các chủ thể kinh tế, hay là việc thị trường có vai trò then chốt trong việc phân bổ các nguồn
lực…
Trong nền kinh tế thị trường, có rất nhiều quy luật điều tiến quá trình sản xuất, mua bán và trao
đổi hàng hoá, và một quy luật điển hình nhất chính là quy luật giá trị bởi lẽ đâu có sản xuất và
trao đổi hàng hóa thì ở đó có sự xuất hiện của quy luật giá trị. Mọi hoạt động của chủ thể kinh tế
trong sản xuất và lưu thông hàng hóa đều chịu sự tác động của quy luật này. Chính vì thế, những
doanh nghiệp nếu muốn tồn tại, đứng vững trên thị trường, tạo ra lợi nhuận thì ngoài việc nắm kỹ
ưu nhược điểm của nền kinh tế thị trường còn cần phải chú trọng vào việc nghiên cứu quy luật giá
trị bởi nó ảnh hưởng trực tiếp đến hàng hóa, dịch vụ mà doanh nghiệp đang kinh doanh. Hiểu
được tầm quan trọng đó, vì vậy em đã quyết định lựa chọn đề tài này
NỘI DUNG
I. Quy luật giá trị: yêu cầu và tác động của quy luật giá trị
1. Yêu cầu của quy luật giá trị
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế căn bản của sản xuất và lưu thông hàng hóa. Quy luật giá trị đòi
hỏi việc sản xuất và lưu thông hàng hóa phải dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết, cụ
thể là:
- Trong sản xuất thì hao phí lao động cá biệt phải phù hợp với hao phí lao động xã hội. Bởi vì
trong nền sản xuất hàng hóa, vấn đề đặc biệt quan trọng là hàng hóa sản xuất ra có bán được hay
không. Để có thể bán được, hao phí lao động để sản xuất ra hàng hóa của các chủ thể kinh doanh
phải phù hợp với mức hao phí lao động xã hội có thể chấp nhận được. Mức hao phí càng thấp, họ
càng có khả năng phát triển kinh doanh, thu được nhiều lợi nhuận và ngược lại, chính vì thế họ
phải luôn tìm cách hạ thấp hao phí lao động cá biệt xuống nhỏ hơn hoặc bằng hao phí lao động xã
hội cần thiết
- Trong trao đổi hàng hóa cũng phải dựa vào hao phí lao động xã hội cần thiết, tức là tuân theo
nguyên tắc trao đổi ngang giá, hai hàng hóa có giá trị sử dụng khác nhau nhưng có lượng giá trị
bằng nhau thì trao đổi ngang nhau
Quy luật giá trị bắt buộc người sản xuất và trao đổi hàng hóa phải tuân theo yêu cầu hay đòi hỏi
của nó thông qua mệnh lệnh của giá cả thị trường. Tuy nhiên, trong thực tế do sự tác động của
nhiều quy luật kinh tế, nhất là quy luật cung cầu làm cho giá cả hàng hóa trên thị trường tách rời
giá trị và lên xuống xoay quanh trục giá trị của nó.
2. Các tác động của quy luật giá trị đối với nền kinh tế thị trường
Trong nền kinh tế hàng hoá, quy luật giá trị có những tác động cơ bản
- Thứ nhất, điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa.:
Trong sản xuất, thông qua sự biến đổi của giá cả, người sản xuất sẽ biết được tình hình cung – cầu
về hàng hoá đó và quyết định phương án sản xuất. Khi cung bằng cầu có nghĩa là giá cả bằng giá
trị hàng hoá thì việc sản xuất phù hợp với nhu cầu xã hội; hàng hoá này nên được tiếp tục sản
xuất. Khi cung nhỏ hơn cầu thì giá cả cao hơn giá trị ,hàng hoá bán chạy,lãi cao .Những người
đang sản xuất những loại hàng hoá này sẽ mở rộng quy mô sản xuất và sản xuất hết tốc lực ;những
người đang sản xuất hàng hoá khác ,thu hẹp quy mô sản xuất cuả mình để chuyển sang sản loại
hàng hoá này.Như vậy tư liệu sản xuất ,sức lao động, tiền vốn được chuyển vào ngành này tăng
lên,cung về loại hàng hoá này trên thị trường tăng lên. Khi cung lớn hơn cầu thì giá cả nhỏ hơn
giá trị cung về hàng hoá này đang thừa so với nhu cầu xã hội; cần phải thu hẹp sản xuất ngành này
để chuyển sang mặt hàng khác. Chỉ có do sự tăng hay giảm giá hàng mà những người sản xuất
hàng hoá riêng lẻ biết được rõ ràng là xã hội cần vật phẩm nào và với số lượng bao
nhiêu”(C.mác:sự khốn cùng của triết học)
Trong lưu thông, quy luật giá trị điều tiết hàng hoá từ nơi có giá cả thấp đến nơi có giá cả cao, từ
nơi cung lớn hơn cầu đến nơi cung nhỏ hơn cầu. Thông qua mệnh lệnh của giá cả thị trường, hàng
hoá ở nơi có giá cả thấp được thu hút, chảy đến nơi có giá cả cao hơn, góp phần làm cho cung –
cầu hàng hoá giữa các vùng được cân bằng, phân phối lại thu nhập giữa các vùng miền, điều chỉnh
sức mua của thị trường (nếu giá cao thì mua ít, giá thấp thì mua nhiều)…
- Thứ hai, kích thích lực lượng sản xuất phát triển, tăng năng suất lao động xã hội
Trên thị trường, hàng hoá được trao đổi theo giá trị xã hội. Người sản xuất có giá trị cá biệt nhỏ
hơn giá trị xã hội, khi bán theo giá trị xã hội sẽ thu được lợi nhuận lớn hơn. Ngược lại, người sản
xuất có giá trị cá biệt lớn hơn giá trị xã hội sẽ gặp bất lợi hoặc thua lỗ. Để đứng vững trong cạnh
tranh và tránh không bị phá sản, người sản xuất phải luôn tìm cách làm cho giá trị các biệt của
hàng hoá nhỏ hơn hoặc bằng giá trị xã hội. Muốn vậy phải cải tiến kĩ thuật, áp dụng công nghệ
mới, đổi mới phương pháp quản trị… Kết quả lực lượng sản xuất ngày càng phát triển, năng suất
lao động tăng lên, chi phí sản xuất hàng hoá giảm xuống. Trong lưu thông, để bán được nhiều
hàng hoá, người sản xuất phải không ngừng tăng chất lượng phục vụ, quảng cáo, tổ chức tốt khâu
xúc tiến bán,…
- Thứ ba, phân hóa những người sản xuất thành người giàu, người nghèo
“ …Mỗi người đều sản xuất riêng biệt ,cho lợi ích riêng của mình ,không phụ thuộc vào nhà sản
xuất khác .Họ sản xuất cho thị trường ,nhưng dĩ nhiên không một người nào trong số họ biết được
dung lượng của thị trường .Mối quan hệ như vậy giữa nhưng người sản xuất riêng rẽ ,sản xuất cho
một thị trường chung,thì gọi là cạnh tranh,Dĩ nhiên trong nhữnh điều kiện ấy,sự thăng bằng giữa
sản xuất và tiêu dùng chỉ có thể có được sau nhiều lần biến động.Những người khéo léo hơn ,tháo
vát hơn và có sức lực hơn sẽ ngày càng lớn mạnh nhờ những sư biến động ấy;còn những người
yếu ớt ,vụng về thì sẽ bị sự biến động đó đè bẹp .Một vài người trở nên giàu có,còn quần chúng
trở nên nghèo đói,đó là kết quả không tránh khỏi của quy luật cạnh tranh .Kết cục là những người
sản xuất bị phá sản mất hết tính chất độc lập về kinh tế của họvà trở thành công nhân làm thuê
trong công xưởng đã mở rộng của đối thủ tốt số của họ” (V.Lenin:Bàn về cái gọi là vấn đề thị
trường{9,127}
Trong quá trình cạnh tranh, những người sản xuất nhạy bén với thị trường, trình độ năng lực giỏi,
sản xuất với hao phí cá biệt thấp hơn hao phí chung của xã hội sẽ trở nên giàu có. Ngược lại,
những người do hạn chế vốn, kinh nghiệm sản xuất thấp kém, công nghệ lạc hậu,… thì sẽ dễ bị
thua lỗ dẫn đến phá sản.
Tóm lại, quy luật giá trị vừa có tác dụng đào thải cái lạc hậu, lỗi thời, kích thích sự tiến bộ, làm
cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ; vừa có tác dụng lựa chọn, đánh giá người sản xuất,
đảm bảo sự bình đẳng đối với người sản xuất. Các tác động đó diễn ra một cách khách quan trên
thị trường
II. Liên hệ thực tiễn: chỉ ra những công việc chủ doanh nghiệp cần phải làm để doanh
nghiệp sản xuất và kinh doanh có lãi trong điều kiện kinh tế thị trường
Trong nền kinh tế thị trường ở nước ta, mỗi doanh nghiệp là người sản xuất hàng hóa cạnh tranh
gay gắt với nhau, để đứng vững được trên thị trường, chiến thắng đối thủ cạnh tranh thì họ phải
tính đến hiệu quả sản xuất kinh doanh thông qua các hình thức giá trị, giá cả, lợi nhuận, chi phí…
Và để có được điều này, việc đầu tiên các nhà sản xuất cần làm là nắm bắt được tình hình cung -
cầu về hàng hóa mà họ đang sản xuất. Nếu như có những dấu hiệu về việc hàng hóa đó có thể
đang hoặc sẽ dư cung so với nhu cầu của xã hội, tức là giá cả hàng hóa thấp hơn giá trị thì cần
phải thu hẹp lượng sản xuất của hàng hóa đó để tập trung vào hàng hóa khác. Ngược lại khi hàng
hóa đó đang có xu hướng được xã hội ưa thích và sử dụng nhiều hơn, doanh nghiệp cần phải mở
rộng quy mô sản xuất để tăng lượng cung ứng hàng hóa đó nhiều hơn vì nó đang khan hiếm trên
thị trường. Nuốn hàng hóa, dịch vụ của mình sinh lãi thì nhà sản xuất phải đảm bảo được rằng giá
cả của nó phải cao hơn giá trị hay ít nhất phải bằng với giá trị. Như thế thì doanh nghiệp mới có
đủ khả năng để bù lỗ, hòa vốn hay thuận lợi hơn là có thể mở rộng sản xuất để cung ứng thêm
hàng hóa ra thị trường khi cầu của hàng hóa đó đang có xu hướng tằn lên. Điều đó đòi hỏi các
doanh nghiệp phải luôn tỉnh táo và nhạy bén với nhu cầu của thị trường
Tiếp theo, doanh nghiệp phải nhìn ra được dòng chảy của hàng hóa. Quy luật giá trị đã phát biểu
rằng hàng hóa được điều tiết từ nơi có giá cả thấp đến nơi có giá cả cao và từ nơi cung lớn hơn
đến nơi cung nhỏ hơn cầu. Thông qua sự biến động về giá cả trên thị trường, luồng hàng hóa sẽ
lưu thông từ đó tạo sự cân đối về nguồn hàng giữa các vùng miền. Chính vì vậy nhà sản xuất cần
phải nắm được sự lưu thông hàng hóa, hiểu được hàng hóa, dịch vụ mà mình đang cung cấp khan
hiếm ở nơi nào, dư thừa ở nơi nào để từ đó điều chỉnh nguồn cung của mình sao cho phù hợp với
nhu cầu của từng thị trường cụ thể. Hơn nữa, nếu thành công trong việc điều tiết sản xuất và cung
cấp hàng hoá, nhà sản xuất sẽ nằm ở thế chủ động vì họ có thể cân bằng cung cầu hàng hoá, phân
phối lại thu nhập giữa các thị trường, thậm chí điều chỉnh sức mua của thị trường. Đây sẽ là cơ hội
thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển lớn mạnh hơn và chiếm lĩnh thị trường mà mình đang
hướng đến. Có thể thấy, quan hệ giữa điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá là vô cùng mật
thiết, 2 yếu tố này góp phần không nhỏ quyết định trực tiếp đến tương lai, số phận của hàng hóa,
dịch vụ và cả nhà sản xuất.
Một nguyên tắc căn bản của kinh tế thị trường là trao đổi ngang giá tức là thực hiện sự trao đổi
hàng hoá thông qua thị trường, sản phẩm phải trở thành hàng hoá.Nguyên tắc này đòi hỏi tuân thủ
quy luật giá trị _ sản xuất và trao đỏi hàng hoá phải dựa trên cơ sở thời gian lao động xã hội cần
thiết. Cụ thể, xét ở tầm vĩ mô:Mỗi doanh nghiệp đều cố gắng nâng cao năng suất lao động , chất
lượng sản phẩm, giảm thời gian lao động xã hội cần thiết. Do vậy, mỗi doanh nghiệp phải cố gắng
cải tiến may móc, mẫu mã, nâng cao tay nghề lao động. Nếu không, quy luật giá trị ở đây sẽ thực
hiện vai trò đào thải của nó: loại bỏ những cái kém hiệu quả , kích thích các cá nhân,nghành,
doanh nghiệp phát huy tính hiệu quả . Tất yếu điều đó dẫn tới sự phát triển của lực lượng sản xuất
mà trong đó đội ngũ lao động có tay nghề chuyên môn ngày càng cao, công cụ lao động luôn luôn
được cải tiến. Và cùng với nó, sự xã hội hoá, chuyên môn hoá lực lượng sản xuất cũng được phát
triển
Thêm vào đó, muốn hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp có lãi thì nhà quản trị của nó phải
thúc đẩy cải tiến kĩ thuật, hợp lí hoá sản xuất và tăng năng suất lao động. Nếu hàng hoá, dịch vụ
được sản xuất qua nhiều quá trình rườm rà, phức tạp quá mức cần thiết, cộng thêm công nghệ sản
xuất yếu kém, lạc hậu thì năng suất sẽ rất thấp, và chi phí bỏ ra để sản xuất cũng sẽ bị nâng lên rất
cao. Kế đó, giá cả của hàng hoá cũng phải được nâng lên cao để có thể bù lại chi phí sản xuất. Kết
quả là doanh nghiệp sẽ gặp bất lợi, thậm chí thua lỗ, vì giá cả hàng hoá quá cao thì sẽ rất khó cạnh
tranh với các đối thủ khác cũng như thu hút người tiêu dùng. Vì vậy, để thu được lợi nhuận, nhà
sản xuất phải tìm mọi cách để cải thiện khâu sản xuất của mình, làm sao cho giá trị cá biệt hàng
hoá luôn nhỏ hơn hoặc bằng giá trị xã hội. Giải pháp cho vấn đề này có thể là việc đầu tư nâng
cấp dây chuyền sản xuất, áp dụng những công nghệ mới hơn, tiên tiến hơn, đổi mới phương pháp
quản trị vận hành… Thêm vào đó, để hàng hoá dịch vụ được biết đến rộng rãi và tiêu thụ mạnh
mẽ, doanh nghiệp nên tăng chất lượng phục vụ, đẩy mạnh quảng cáo và xúc tiến bán…
Việc chuyển từ chế độ tầp trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường thì cùng với nó là
việc loại bỏ cơ chế xin cho, cấp phát , bảo hộ trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Mỗi doanh
nghiệp phải tự hạch toán, không bị ràng buộc quá đáng bởi các chỉ tiêu sản xuất mà nhà nước đưa
ra và phải tự nghiên cứu để tìm ra thị trường phù hợp với các sản phẩm của mình; thực hiện sự
phân đoạn thị trường để xác định tấn công vào đâu, bằng những sản phẩm gì. Mà nền kinh tế thị
trường – một điều kiện kinh tế mở, thị trường trong nước gắn liền với thị trường thế giới, sở hữu
một ưu thế rất lớn đó là luôn tạo ra nguồn động lực dồi dào cho sự hình thành ý tưởng, đổi mới
sáng tạo của các chủ thể kinh tế, thì mọi ý tưởng mới trong việc sản xuất kinh doanh và quản lý
đều được hoan nghênh. Qua đó trở thành phương thức kích thích hữu hiệu giúp tăng năng suất lao
động, hiệu quả sản xuất, làm cho mô hình sản xuất phát triển lớn mạnh hơn trước. Ngoài ra, trong
nền kinh tế thị trường, mọi tiềm năng, lợi thế của doanh nghiệp đều có thể được phát huy, nếu như
họ biết cách để không ngừng nâng cấp và hoàn thiện. Tiềm lực và khả năng cốt lõi của doanh
nghiệp sẽ trở nên to lớn, tạo thành một nền móng vững chắc để họ có thể đứng vững trong cạnh
tranh, không chỉ tránh khỏi phá sản mà còn tạo bước đà phát triển vượt bậc
Cuối cùng, để có thể vận hành được bộ máy sản xuất hoạt động trơn tru, có thể đưa ra những
chiến lược đúng đắn nhằm thúc đẩy doanh nghiệp phát triển, có những nghiên cứu thị trường toàn
diện và sâu xát thì doanh nghiệp cần đội ngũ nhân lực có trình độ, tư duy sáng tạo, giàu kinh
nghiệm, tâm huyết và cống hiến hết mình. Đây phải là những con người có năng lực giỏi, luôn
nhạy bén với sự thay đổi, biến động của thị trường, từ đó điều chỉnh mô hình, chiến lược và
phương thức kinh doanh sao cho hợp lý, vừa nâng cao hiệu quả kinh doanh vừa giảm thiểu tối đa
chi phí và hạn chế những rủi ro không đáng có. Để cải thiện được điều này, các doanh nghiệp có
thể tạo ra, tài trợ cho nhân viên học thêm các khóa học để phát triển, nâng cao trình độ làm việc,
khắt khe hơn trong việc tuyển dụng đầu vào. Ngoài ra, các nhà quản trị phải luôn quan niệm cho
bản thân và cho đội ngũ nhân viên loại bỏ cái lạc hậu, lỗi thời, hướng đến sự tiến bộ, khác biệt, tạo
nên dấu ấn riêng của mình trên thương trường. Nhân tố về đội ngũ nhân lực là nhân tố quan trọng,
đóng vai trò quyết định trong mọi hoạt động vận hành vậy nên doanh nghiệp cần quan tâm, đầu tư
hơn cả.
KẾT LUẬN
Như vậy quy luật giá trị là một quy luật kinh tế quan trọng đối với sự hình thành và phát triển nền
kinh tế của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội .Đó là một quy luật kinh tế căn bản
và là một quy luật bao quát chung được cả bản chất, các nhân tố cấu thành và cơ chế tác động của
nó trong điều kiện kinh tế thị trường. Quy luật giá trị vừa có tác dụng đào thải cái lạc hậu, lỗi thời,
kích thích sự tiến bộ, làm cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ; vừa có tác dụng lựa chọn,
đánh giá người sản xuất, bảo đảm sự bình đẳng đối với người sản xuất. Cụ thể hơn, đối với doanh
nghiệp sản xuất và cung cấp hàng hoá, dịch vụ, quy luật giá trị lại càng phát huy vài trò thiết yếu
trong công tác quản trị, hoạch định chiến lược, nghiên cứu thị trường, quản lý nguồn lực và dây
chuyền sản xuất, cung cấp hàng hoá. Trong điều kiện kinh tế thị trường, doanh nghiệp nên tận
dụng những lợi thế mà điều kiện kinh tế mang lại và khắc phục những hạn chế để có thể kinh
doanh có lãi phát triển
| 1/12

Preview text:

Trường đại học Kinh tế Quốc dân BÀI TẬP LỚN
KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC LÊ-NIN
Đề tài: Qu luật giá trị: yêu cầu và các tác động của quy luật
giá trị. Hãy thử đặt mình ở vị trí nhà sản xuất, chỉ ra những
công việc c ủ doanh nghiệp cần phải làm để cho doanh
nghiệp của mình sản xuất và kinh doanh có lãi trong điều
kiện kinh t thị trường. Họ t Phan Thanh Tâm MSV:11218214
ớp Kinh tế chính trị Mác- Lênin(122) _ 16 Hà Nội -10/202 MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU .......................................................................................... 1
NỘI DUNG ................................................................................................2
1. Quy luật giá trị: yêu cầu và tác động của quy luật giá trị................................2
2. Liên hệ thực tiễn: thử đặt mình ở vị trí nhà sản xuất, chỉ ra những công việc chủ doanh
nghiệp cần phải làm để cho doanh nghiệp của mình sản xuất và kinh doanh có lãi trong điều kiện kinh tế thị
trường......................................................................................... MỞ ĐẦU
Kinh tế Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cho tới năm 1986 đã chuyển sang kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là nền kinh tế được vận hành theo cơ chế thị trường, trong đó mọi
quan hệ sản xuất và trao đổi hàng hoá đều được thông qua thị trường, cũng như chịu sự điều tiết
và tác động từ thị trường. Có thể nói, trải qua rất nhiều quá trình phát triển thì nền kinh tế thị
trường chính là sản phẩm của nền văn minh nhân loại. Ở mô hình kinh tế này, có rất nhiều những
đặc trưng chung mà các chủ thể kinh tế, chủ yếu là các doanh nghiệp, có thể tận dụng đặc trưng ấy
và biến nó thành ưu thế cho mình. Một vài đặc trưng có thể đề cập đến như là sự đòi hỏi đa dạng
của các chủ thể kinh tế, hay là việc thị trường có vai trò then chốt trong việc phân bổ các nguồn lực…
Trong nền kinh tế thị trường, có rất nhiều quy luật điều tiến quá trình sản xuất, mua bán và trao
đổi hàng hoá, và một quy luật điển hình nhất chính là quy luật giá trị bởi lẽ đâu có sản xuất và
trao đổi hàng hóa thì ở đó có sự xuất hiện của quy luật giá trị. Mọi hoạt động của chủ thể kinh tế
trong sản xuất và lưu thông hàng hóa đều chịu sự tác động của quy luật này. Chính vì thế, những
doanh nghiệp nếu muốn tồn tại, đứng vững trên thị trường, tạo ra lợi nhuận thì ngoài việc nắm kỹ
ưu nhược điểm của nền kinh tế thị trường còn cần phải chú trọng vào việc nghiên cứu quy luật giá
trị bởi nó ảnh hưởng trực tiếp đến hàng hóa, dịch vụ mà doanh nghiệp đang kinh doanh. Hiểu
được tầm quan trọng đó, vì vậy em đã quyết định lựa chọn đề tài này NỘI DUNG
I. Quy luật giá trị: yêu cầu và tác động của quy luật giá trị
1. Yêu cầu của quy luật giá trị
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế căn bản của sản xuất và lưu thông hàng hóa. Quy luật giá trị đòi
hỏi việc sản xuất và lưu thông hàng hóa phải dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết, cụ thể là:
- Trong sản xuất thì hao phí lao động cá biệt phải phù hợp với hao phí lao động xã hội. Bởi vì
trong nền sản xuất hàng hóa, vấn đề đặc biệt quan trọng là hàng hóa sản xuất ra có bán được hay
không. Để có thể bán được, hao phí lao động để sản xuất ra hàng hóa của các chủ thể kinh doanh
phải phù hợp với mức hao phí lao động xã hội có thể chấp nhận được. Mức hao phí càng thấp, họ
càng có khả năng phát triển kinh doanh, thu được nhiều lợi nhuận và ngược lại, chính vì thế họ
phải luôn tìm cách hạ thấp hao phí lao động cá biệt xuống nhỏ hơn hoặc bằng hao phí lao động xã hội cần thiết
- Trong trao đổi hàng hóa cũng phải dựa vào hao phí lao động xã hội cần thiết, tức là tuân theo
nguyên tắc trao đổi ngang giá, hai hàng hóa có giá trị sử dụng khác nhau nhưng có lượng giá trị
bằng nhau thì trao đổi ngang nhau
Quy luật giá trị bắt buộc người sản xuất và trao đổi hàng hóa phải tuân theo yêu cầu hay đòi hỏi
của nó thông qua mệnh lệnh của giá cả thị trường. Tuy nhiên, trong thực tế do sự tác động của
nhiều quy luật kinh tế, nhất là quy luật cung cầu làm cho giá cả hàng hóa trên thị trường tách rời
giá trị và lên xuống xoay quanh trục giá trị của nó.
2. Các tác động của quy luật giá trị đối với nền kinh tế thị trường
Trong nền kinh tế hàng hoá, quy luật giá trị có những tác động cơ bản
- Thứ nhất, điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa.:
Trong sản xuất, thông qua sự biến đổi của giá cả, người sản xuất sẽ biết được tình hình cung – cầu
về hàng hoá đó và quyết định phương án sản xuất. Khi cung bằng cầu có nghĩa là giá cả bằng giá
trị hàng hoá thì việc sản xuất phù hợp với nhu cầu xã hội; hàng hoá này nên được tiếp tục sản
xuất. Khi cung nhỏ hơn cầu thì giá cả cao hơn giá trị ,hàng hoá bán chạy,lãi cao .Những người
đang sản xuất những loại hàng hoá này sẽ mở rộng quy mô sản xuất và sản xuất hết tốc lực ;những
người đang sản xuất hàng hoá khác ,thu hẹp quy mô sản xuất cuả mình để chuyển sang sản loại
hàng hoá này.Như vậy tư liệu sản xuất ,sức lao động, tiền vốn được chuyển vào ngành này tăng
lên,cung về loại hàng hoá này trên thị trường tăng lên. Khi cung lớn hơn cầu thì giá cả nhỏ hơn
giá trị cung về hàng hoá này đang thừa so với nhu cầu xã hội; cần phải thu hẹp sản xuất ngành này
để chuyển sang mặt hàng khác. Chỉ có do sự tăng hay giảm giá hàng mà những người sản xuất
hàng hoá riêng lẻ biết được rõ ràng là xã hội cần vật phẩm nào và với số lượng bao
nhiêu”(C.mác:sự khốn cùng của triết học)
Trong lưu thông, quy luật giá trị điều tiết hàng hoá từ nơi có giá cả thấp đến nơi có giá cả cao, từ
nơi cung lớn hơn cầu đến nơi cung nhỏ hơn cầu. Thông qua mệnh lệnh của giá cả thị trường, hàng
hoá ở nơi có giá cả thấp được thu hút, chảy đến nơi có giá cả cao hơn, góp phần làm cho cung –
cầu hàng hoá giữa các vùng được cân bằng, phân phối lại thu nhập giữa các vùng miền, điều chỉnh
sức mua của thị trường (nếu giá cao thì mua ít, giá thấp thì mua nhiều)…
- Thứ hai, kích thích lực lượng sản xuất phát triển, tăng năng suất lao động xã hội
Trên thị trường, hàng hoá được trao đổi theo giá trị xã hội. Người sản xuất có giá trị cá biệt nhỏ
hơn giá trị xã hội, khi bán theo giá trị xã hội sẽ thu được lợi nhuận lớn hơn. Ngược lại, người sản
xuất có giá trị cá biệt lớn hơn giá trị xã hội sẽ gặp bất lợi hoặc thua lỗ. Để đứng vững trong cạnh
tranh và tránh không bị phá sản, người sản xuất phải luôn tìm cách làm cho giá trị các biệt của
hàng hoá nhỏ hơn hoặc bằng giá trị xã hội. Muốn vậy phải cải tiến kĩ thuật, áp dụng công nghệ
mới, đổi mới phương pháp quản trị… Kết quả lực lượng sản xuất ngày càng phát triển, năng suất
lao động tăng lên, chi phí sản xuất hàng hoá giảm xuống. Trong lưu thông, để bán được nhiều
hàng hoá, người sản xuất phải không ngừng tăng chất lượng phục vụ, quảng cáo, tổ chức tốt khâu xúc tiến bán,…
- Thứ ba, phân hóa những người sản xuất thành người giàu, người nghèo
“ …Mỗi người đều sản xuất riêng biệt ,cho lợi ích riêng của mình ,không phụ thuộc vào nhà sản
xuất khác .Họ sản xuất cho thị trường ,nhưng dĩ nhiên không một người nào trong số họ biết được
dung lượng của thị trường .Mối quan hệ như vậy giữa nhưng người sản xuất riêng rẽ ,sản xuất cho
một thị trường chung,thì gọi là cạnh tranh,Dĩ nhiên trong nhữnh điều kiện ấy,sự thăng bằng giữa
sản xuất và tiêu dùng chỉ có thể có được sau nhiều lần biến động.Những người khéo léo hơn ,tháo
vát hơn và có sức lực hơn sẽ ngày càng lớn mạnh nhờ những sư biến động ấy;còn những người
yếu ớt ,vụng về thì sẽ bị sự biến động đó đè bẹp .Một vài người trở nên giàu có,còn quần chúng
trở nên nghèo đói,đó là kết quả không tránh khỏi của quy luật cạnh tranh .Kết cục là những người
sản xuất bị phá sản mất hết tính chất độc lập về kinh tế của họvà trở thành công nhân làm thuê
trong công xưởng đã mở rộng của đối thủ tốt số của họ” (V.Lenin:Bàn về cái gọi là vấn đề thị trường{9,127}
Trong quá trình cạnh tranh, những người sản xuất nhạy bén với thị trường, trình độ năng lực giỏi,
sản xuất với hao phí cá biệt thấp hơn hao phí chung của xã hội sẽ trở nên giàu có. Ngược lại,
những người do hạn chế vốn, kinh nghiệm sản xuất thấp kém, công nghệ lạc hậu,… thì sẽ dễ bị
thua lỗ dẫn đến phá sản.
Tóm lại, quy luật giá trị vừa có tác dụng đào thải cái lạc hậu, lỗi thời, kích thích sự tiến bộ, làm
cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ; vừa có tác dụng lựa chọn, đánh giá người sản xuất,
đảm bảo sự bình đẳng đối với người sản xuất. Các tác động đó diễn ra một cách khách quan trên thị trường
II. Liên hệ thực tiễn: chỉ ra những công việc chủ doanh nghiệp cần phải làm để doanh
nghiệp sản xuất và kinh doanh có lãi trong điều kiện kinh tế thị trường
Trong nền kinh tế thị trường ở nước ta, mỗi doanh nghiệp là người sản xuất hàng hóa cạnh tranh
gay gắt với nhau, để đứng vững được trên thị trường, chiến thắng đối thủ cạnh tranh thì họ phải
tính đến hiệu quả sản xuất kinh doanh thông qua các hình thức giá trị, giá cả, lợi nhuận, chi phí…
Và để có được điều này, việc đầu tiên các nhà sản xuất cần làm là nắm bắt được tình hình cung -
cầu về hàng hóa mà họ đang sản xuất. Nếu như có những dấu hiệu về việc hàng hóa đó có thể
đang hoặc sẽ dư cung so với nhu cầu của xã hội, tức là giá cả hàng hóa thấp hơn giá trị thì cần
phải thu hẹp lượng sản xuất của hàng hóa đó để tập trung vào hàng hóa khác. Ngược lại khi hàng
hóa đó đang có xu hướng được xã hội ưa thích và sử dụng nhiều hơn, doanh nghiệp cần phải mở
rộng quy mô sản xuất để tăng lượng cung ứng hàng hóa đó nhiều hơn vì nó đang khan hiếm trên
thị trường. Nuốn hàng hóa, dịch vụ của mình sinh lãi thì nhà sản xuất phải đảm bảo được rằng giá
cả của nó phải cao hơn giá trị hay ít nhất phải bằng với giá trị. Như thế thì doanh nghiệp mới có
đủ khả năng để bù lỗ, hòa vốn hay thuận lợi hơn là có thể mở rộng sản xuất để cung ứng thêm
hàng hóa ra thị trường khi cầu của hàng hóa đó đang có xu hướng tằn lên. Điều đó đòi hỏi các
doanh nghiệp phải luôn tỉnh táo và nhạy bén với nhu cầu của thị trường
Tiếp theo, doanh nghiệp phải nhìn ra được dòng chảy của hàng hóa. Quy luật giá trị đã phát biểu
rằng hàng hóa được điều tiết từ nơi có giá cả thấp đến nơi có giá cả cao và từ nơi cung lớn hơn
đến nơi cung nhỏ hơn cầu. Thông qua sự biến động về giá cả trên thị trường, luồng hàng hóa sẽ
lưu thông từ đó tạo sự cân đối về nguồn hàng giữa các vùng miền. Chính vì vậy nhà sản xuất cần
phải nắm được sự lưu thông hàng hóa, hiểu được hàng hóa, dịch vụ mà mình đang cung cấp khan
hiếm ở nơi nào, dư thừa ở nơi nào để từ đó điều chỉnh nguồn cung của mình sao cho phù hợp với
nhu cầu của từng thị trường cụ thể. Hơn nữa, nếu thành công trong việc điều tiết sản xuất và cung
cấp hàng hoá, nhà sản xuất sẽ nằm ở thế chủ động vì họ có thể cân bằng cung cầu hàng hoá, phân
phối lại thu nhập giữa các thị trường, thậm chí điều chỉnh sức mua của thị trường. Đây sẽ là cơ hội
thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển lớn mạnh hơn và chiếm lĩnh thị trường mà mình đang
hướng đến. Có thể thấy, quan hệ giữa điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá là vô cùng mật
thiết, 2 yếu tố này góp phần không nhỏ quyết định trực tiếp đến tương lai, số phận của hàng hóa,
dịch vụ và cả nhà sản xuất.
Một nguyên tắc căn bản của kinh tế thị trường là trao đổi ngang giá tức là thực hiện sự trao đổi
hàng hoá thông qua thị trường, sản phẩm phải trở thành hàng hoá.Nguyên tắc này đòi hỏi tuân thủ
quy luật giá trị _ sản xuất và trao đỏi hàng hoá phải dựa trên cơ sở thời gian lao động xã hội cần
thiết. Cụ thể, xét ở tầm vĩ mô:Mỗi doanh nghiệp đều cố gắng nâng cao năng suất lao động , chất
lượng sản phẩm, giảm thời gian lao động xã hội cần thiết. Do vậy, mỗi doanh nghiệp phải cố gắng
cải tiến may móc, mẫu mã, nâng cao tay nghề lao động. Nếu không, quy luật giá trị ở đây sẽ thực
hiện vai trò đào thải của nó: loại bỏ những cái kém hiệu quả , kích thích các cá nhân,nghành,
doanh nghiệp phát huy tính hiệu quả . Tất yếu điều đó dẫn tới sự phát triển của lực lượng sản xuất
mà trong đó đội ngũ lao động có tay nghề chuyên môn ngày càng cao, công cụ lao động luôn luôn
được cải tiến. Và cùng với nó, sự xã hội hoá, chuyên môn hoá lực lượng sản xuất cũng được phát triển
Thêm vào đó, muốn hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp có lãi thì nhà quản trị của nó phải
thúc đẩy cải tiến kĩ thuật, hợp lí hoá sản xuất và tăng năng suất lao động. Nếu hàng hoá, dịch vụ
được sản xuất qua nhiều quá trình rườm rà, phức tạp quá mức cần thiết, cộng thêm công nghệ sản
xuất yếu kém, lạc hậu thì năng suất sẽ rất thấp, và chi phí bỏ ra để sản xuất cũng sẽ bị nâng lên rất
cao. Kế đó, giá cả của hàng hoá cũng phải được nâng lên cao để có thể bù lại chi phí sản xuất. Kết
quả là doanh nghiệp sẽ gặp bất lợi, thậm chí thua lỗ, vì giá cả hàng hoá quá cao thì sẽ rất khó cạnh
tranh với các đối thủ khác cũng như thu hút người tiêu dùng. Vì vậy, để thu được lợi nhuận, nhà
sản xuất phải tìm mọi cách để cải thiện khâu sản xuất của mình, làm sao cho giá trị cá biệt hàng
hoá luôn nhỏ hơn hoặc bằng giá trị xã hội. Giải pháp cho vấn đề này có thể là việc đầu tư nâng
cấp dây chuyền sản xuất, áp dụng những công nghệ mới hơn, tiên tiến hơn, đổi mới phương pháp
quản trị vận hành… Thêm vào đó, để hàng hoá dịch vụ được biết đến rộng rãi và tiêu thụ mạnh
mẽ, doanh nghiệp nên tăng chất lượng phục vụ, đẩy mạnh quảng cáo và xúc tiến bán…
Việc chuyển từ chế độ tầp trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường thì cùng với nó là
việc loại bỏ cơ chế xin cho, cấp phát , bảo hộ trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Mỗi doanh
nghiệp phải tự hạch toán, không bị ràng buộc quá đáng bởi các chỉ tiêu sản xuất mà nhà nước đưa
ra và phải tự nghiên cứu để tìm ra thị trường phù hợp với các sản phẩm của mình; thực hiện sự
phân đoạn thị trường để xác định tấn công vào đâu, bằng những sản phẩm gì. Mà nền kinh tế thị
trường – một điều kiện kinh tế mở, thị trường trong nước gắn liền với thị trường thế giới, sở hữu
một ưu thế rất lớn đó là luôn tạo ra nguồn động lực dồi dào cho sự hình thành ý tưởng, đổi mới
sáng tạo của các chủ thể kinh tế, thì mọi ý tưởng mới trong việc sản xuất kinh doanh và quản lý
đều được hoan nghênh. Qua đó trở thành phương thức kích thích hữu hiệu giúp tăng năng suất lao
động, hiệu quả sản xuất, làm cho mô hình sản xuất phát triển lớn mạnh hơn trước. Ngoài ra, trong
nền kinh tế thị trường, mọi tiềm năng, lợi thế của doanh nghiệp đều có thể được phát huy, nếu như
họ biết cách để không ngừng nâng cấp và hoàn thiện. Tiềm lực và khả năng cốt lõi của doanh
nghiệp sẽ trở nên to lớn, tạo thành một nền móng vững chắc để họ có thể đứng vững trong cạnh
tranh, không chỉ tránh khỏi phá sản mà còn tạo bước đà phát triển vượt bậc
Cuối cùng, để có thể vận hành được bộ máy sản xuất hoạt động trơn tru, có thể đưa ra những
chiến lược đúng đắn nhằm thúc đẩy doanh nghiệp phát triển, có những nghiên cứu thị trường toàn
diện và sâu xát thì doanh nghiệp cần đội ngũ nhân lực có trình độ, tư duy sáng tạo, giàu kinh
nghiệm, tâm huyết và cống hiến hết mình. Đây phải là những con người có năng lực giỏi, luôn
nhạy bén với sự thay đổi, biến động của thị trường, từ đó điều chỉnh mô hình, chiến lược và
phương thức kinh doanh sao cho hợp lý, vừa nâng cao hiệu quả kinh doanh vừa giảm thiểu tối đa
chi phí và hạn chế những rủi ro không đáng có. Để cải thiện được điều này, các doanh nghiệp có
thể tạo ra, tài trợ cho nhân viên học thêm các khóa học để phát triển, nâng cao trình độ làm việc,
khắt khe hơn trong việc tuyển dụng đầu vào. Ngoài ra, các nhà quản trị phải luôn quan niệm cho
bản thân và cho đội ngũ nhân viên loại bỏ cái lạc hậu, lỗi thời, hướng đến sự tiến bộ, khác biệt, tạo
nên dấu ấn riêng của mình trên thương trường. Nhân tố về đội ngũ nhân lực là nhân tố quan trọng,
đóng vai trò quyết định trong mọi hoạt động vận hành vậy nên doanh nghiệp cần quan tâm, đầu tư hơn cả. KẾT LUẬN
Như vậy quy luật giá trị là một quy luật kinh tế quan trọng đối với sự hình thành và phát triển nền
kinh tế của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội .Đó là một quy luật kinh tế căn bản
và là một quy luật bao quát chung được cả bản chất, các nhân tố cấu thành và cơ chế tác động của
nó trong điều kiện kinh tế thị trường. Quy luật giá trị vừa có tác dụng đào thải cái lạc hậu, lỗi thời,
kích thích sự tiến bộ, làm cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ; vừa có tác dụng lựa chọn,
đánh giá người sản xuất, bảo đảm sự bình đẳng đối với người sản xuất. Cụ thể hơn, đối với doanh
nghiệp sản xuất và cung cấp hàng hoá, dịch vụ, quy luật giá trị lại càng phát huy vài trò thiết yếu
trong công tác quản trị, hoạch định chiến lược, nghiên cứu thị trường, quản lý nguồn lực và dây
chuyền sản xuất, cung cấp hàng hoá. Trong điều kiện kinh tế thị trường, doanh nghiệp nên tận
dụng những lợi thế mà điều kiện kinh tế mang lại và khắc phục những hạn chế để có thể kinh doanh có lãi phát triển