Bài tập lớn - Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam| Đại học Kinh Tế Quốc Dân

Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới.

Thông tin:
13 trang 7 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Bài tập lớn - Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam| Đại học Kinh Tế Quốc Dân

Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới.

90 45 lượt tải Tải xuống
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
BÀI TẬP LỚN
HỌC PHẦN: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
ĐỀ TÀI: PHÂN TÍCH VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG
TRONG CMT8 (1945). NHẬN THỨC CỦA BẢN THÂN VỀ VAI
TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐCS VIỆT NAM ĐỐI VỚI CÁCH
MẠNG VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY.
GIẢNG VIÊN: NGUYỄN HỮU CÔNG
TÊN SINH VIÊN: LÝ THU HÒA
MÃ SINH VIÊN: 11201549
LỚP: KDTM62C
I/ LỜI MỞ ĐẦU
Từ xưa đến nay dân tộc Việt Nam ta đã đắm mình qua hàng ngàn cuộc chiến
tranh để bảo vệ vững chắc nền độc lập. Để thắng lợi to lớn đó nhờ tinh
thần yêu nước bất khuất sự tài tình, khôn khéo của các nhà lãnh đạo. Trong
quan điểm của Mác- Nin về quần chúng vận động quần chúng thì quần
chúng nhân dân chính là chủ thể sáng tạo nên lịch sử - động lực của cách mạng.
Tuy nhiên là chủ thể lịch sử nhưng quần chúng nhân dân chỉ có thể phát huy tối
đa sức mạnh vai trò sáng tạo một khi sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Chính lẽ đó trong tác phẩm "Đường Cách mệnh" Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã nêu rất vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng Việt
Nam ta: "Trước hết phải có Đảng Cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức
dân chúng, ngoài thì liên lạc với các dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp ở mọi
nơi. Đảng vững, cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái
vững thì thuyền mới chạy".
Cách mạng sự nghiệp của quần chúng, trong đó quần chúng bao gồm
Đảng vô sản. Nếucon đường cách mạng như một chuyến tàu thì Đảng chính
là “đầu con tàu” ấy,Đảng soi đường, chỉ lối cho khối đại đoàn kết toàn dân được
giác ngộ tổ chức nhờ vậy chuyến tàu “cách mạng” mới đến được hy
vọng, đến được tự do dân chủ một cách dễ dàng . Đảng Cộng Sản trách
nhiệm như “người cầm lái” người dẫn đường: Đảng hoạch định ra đường lối
đúng đắn, đưa đường lối đó vào quần chúng để giác ngộ, tập hợp tổ chức,
vận động nhân dân đứng lên đấu tranh thực hiện giải phóng dân tộc, xây dựng
xã hội mới.
Như vậy, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với thắng lợi của cách mạng rất
quan trong. Là nhân tố quyết định nhất đảm bảo thắng lợi cách mạng.
Một trong những cuộc cách mạng to lớn để cho thấy rõ vai trò lãnh đạo của
Đảng cách mạng tháng Tám (1945). Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945
của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã mở ra
một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc, kỷ nguyên độc lập, tự do CNXH.
Sau đây em xin phân tích sâu hơn vai trò lãnh đạo của Đảng trong cách mạng
tháng Tám năm 1945.
II/ NỘI DUNG :
1.Sự lãnh đạo của Đảng trong cách mạng tháng Tám – 1945.
Bối cảnh lịch sử.
Đối với thế giới, ngày 1/9/1939, phát xít Đức tấn công Ba Lan, hai ngày sau
Anh và Pháp tuyên chiến với Đức, chiến tranh thế giới thứ hai chính thức bùng
nổ. Phát xít Đức lần lượt chiếm các nước châu Âu. Sau khi mặt trận nhân dân
Pháp tan vỡ. Đảng cộng sản Pháp bị đặt ra ngoài vòng pháp luật. Tháng 6/1940,
Đức tấn công pháp. Chính phủ Pháp đầu hàng Đức. ngày 22/6/1941, quân phát
xít Đức tấn công Liên Xô. Từ khi phát xít Đức xâm lược Liên Xô, tính chất
chiến tranh đế quốc chuyển thành chiến tranh giữa các lực lượng dân chủ do
Liên Xô làm trụ cột với các lực lượng phát xít do Đức làm đầu.
Còn đối với Việt Nam chiến tranh thể giới thứ hai đã ảnh hưởng mạnh mẽ
trực tiếp đến Đông Dương và Việt Nam. Toàn quyền Đông Dương ra nghị định
cấm tuyên truyền cộng sản. Trên thực tế, ở Việt Nam và Đông Dương, thực dân
Pháp đã thi hành chính sách thời chiến rất trắng trợn. Chúng phátxít hóa bộ máy
thống trị, thẳng tay đàn áp phong trào cách mạng của nhân dân, tập trung lực
lượng đánh vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Hàng nghìn cuộc khám xét bất
ngờ đã diễn ra khắp nơi. Một số quyền tự do, dân chủ đã giành được trong thời
kỳ 1936-1939 bị thủ tiêu. Chúng ban bố lệnh tổng động viện, thực hiện chính
sách "kinh tế chỉ huy" nhằm tăng cường vét sức người, sức của để phục vụ
chiến tranh của đế quốc. Hơn bảy vạn thanh niên bị bắt sang Pháp để làm bia đỡ
đạn.
Khi Pháp phải chịu trận trước Đức, lợi dụng hội đó ngày 22-9-1940
phátxít Nhật đã tiến vào Lạng sơn và đổ bộ vào Hải Phòng. Ngày 23-9-1940, tại
Hà Nội, Pháp ký hiệp định đầu hàng Nhật. Từ dó, nhân dân ta chịu cảnh vừa bị
áp bức Pháp, vừa bóc lột của Nhật khiến. Dưới sự thống trị tàn ác đó mâu thuẫn
giữa dân tộc ta đế quốc, phátxít Pháp Nhật trở nên gay gắt hơn bao giờ
hết.
Chủ trương, chỉ đạo, đường lối lãnh đạo của Đảng
Lý luận về mối quan hệ giữa chiến tranh và cách mạng của CN Mác- Lê nin
chỉ rõ : “Chiến tranh đế quốc với nhau sẽ làm suy yếu kẻ thù của cách mạng
thúc đẩy nhân dân đứng lên đấu tranh đánh đổ bọn thống trị và áp bức ; tình thế
và thời cơ cách mạng sẽ xuất hiện”. Sau khi chiến tranh thế giới thứ 2 nổ ra ( 1-
9- 1939), với tầm nhìn chiến lược đúng đắn, Đảng đã nhận đinh rằng: Nếu như
chiến tranh thế giới lần thứ nhất đẻ ra một Liên xô thì chiến tranh lần này đẻ ra
nhiều Liên xô, ta cần tích cực chuẩn bị về mọi mặt, đón đợi thờikhởi nghĩa
giành chính quyền. Trên sở nhận định khả năng diễn biến của Chiến tranh
thế giới thứ hai căn cứ vào tình hình cụ thể trong nước,Đảng đã sáng suất
quyết định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược. Thông qua Hội nghị lần thứ sáu
(tháng 11-1939), Hội nghị lần thứ bảy (tháng 11-1940) và Hội nghị lần thứ tám
(tháng 5-1941) chủ chương này được thể hiện rõ hơn.
Quan trọng nhất Đảng đã chuyển hướng chỉ đạo chiến lược đưa nhiệm vụ
chống đế quốc, giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Các hội nghị đã cụ thể những
vấn đề cơ bản sau: , Ban chấp hành Trung ương nêu máu thuẫn chủthứ nhất
yếu ở nước ta đòi hỏi phải được giải quyết cấp bách là mâu thuẫn giữa dân tộc
ta với bọn đế quốc, phátxít Pháp - Nhật. Bởi “Trong lúc này nếu không giải
quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn
thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa
trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”.
.Để tập trung cho nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng lúc này, Ban Chấp hành
Trung ương quyết định tạm gác lại khẩu hiệu "Đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất
cho dân cày", thay bằng khẩu hiệu "Tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và Việt
Nan cho dân cày nghèo", "Chia lại ruộng đất công cho công bằng giảm tô,
giảm tức"... Đây vấn đề đặc biệt quan trọng liên quan đến sự thành bại của
cách mạng. Vấn đề này nếu được giải quyết đúng đắn, khoa học thì sẽ tạo ra
động lực mạnh mẽ thúc đẩy cách mạng tiến lên không ngừng, còn giải quyết
không đúng sẽ gây tác hại to lớn cho phong trào cách mạng nước nhà. Thứ hai,
trong quan hệ dân tộc - quốc tế . Đảng chỉ rõ: chiến tranh lần này sẽ tạo điều
kiện để cách mạng nhiều nước thành công, Đảng nhân dân ta cần phải tranh
thủ mọi sự giúp đỡ quốc tế (với Mỹ) tích cực, chuẩn bị mọi mặt để khi tình
hình quốc tế thuận lợi kịp thời khởi nghĩa giành chính quyền với tinh thần:
muốn người giúp cho trước hết mình phải tự giúp mình. Phân tích tình hình lúc
này lãnh tụ Hồ Chí Minh dự báo năm ‘bốn lăm cách mạng thành công’ Đảng
chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc trong từng nước Đông Dương, thi hành
chính sách ‘‘dân tộc tự quyết ’ của Lê nin và thành lập ở mỗi nước Đông dương
một Mặt trận riêng trực tiếp lãnh đạo cách mạng mỗi nước. chủ trương Thứ ba,
ra sức xây dựng lực lượng để chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền, coi khởi
nghĩa giành chính quyền là nhiệm vụ trung tâm. Chủ trương xây dựng, củng cố,
phát triển mặt trận dân tộc thống nhất để tập hợp lực lượng chống đế quốc
tay sai (thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế , Mặt trận Việt minh...)
Nêu lên phương pháp giành chính quyền: khởi nghĩa từng phần, giành chính
quyền từng địa phương, tiến lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên toàn
quốc, bằng lực lượng chính trị của quần chúng chủ yếu trên tinh thần: đem
sức ta giải phóng cho ta; phải hy sinh đến đâu, phải đốt cháy cả dãy
Trường sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập. chủ trươngThứ tư,
sau khi cách mạng thành công sẽ thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
theo tinh thần tân dân chủ, một hình thức nhà nước “của chung cả toàn thể dân
tộc” ; ‘‘chính phủ dân chủ cộng hòa”. Như vậy, từ Cương lĩnh chính trị đầu tiên
(3- 2- 1930) đến Luận cương chính trị tháng 10 -1930 các Hội nghị Trung
ương trong các giai đoạn 1930 1935; 1936 1939; 1939 1945 nhất Hội
nghị Trung ương 8 ( tháng 5 - 1941) do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chủ trì, đường
lối đấu tranh của Đảng được xây dựng, bổ sung, hoàn chỉnh, góp phần quyết
định vào thắng lợi của công cuộc giành chính quyền, làm nên thành công vĩ đại
của cách mạng tháng 8 – 1945.
Tổ chức, thực hiện đường lối cách mạng
- Tổ chức xây dựng lực lượng chính trị.
Nhận thấy sự chuyển biến của tình hình thế giới và trong nước có lợi cho
cách mạng Việt Nam.Chính thế sau hơn 30 năm bôn ba hoạt động nước
ngoài ,ngày 28-1-1941 Nguyễn Ái Quốc về nước.ngay sau đó , người triệu tập
Hội nghị Trung ương lần thứ VIII (khóa I) của Đảng ở Cao Bằng, quyết định sự
chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng,khẳng định giải phóng dân tộc
nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Việt Nam. Hội nghị khẳng định rằng: “Trong
lúc này, quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong
của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này, nếu không giải quyết được vấn đề dân
tộc giải phóng, không đòi lại được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng
những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của
bộ phận, của giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”. Để hoàn thành
nhiệm vụ giải phóng dân tộc, phải vận dụng phương pháp hiệu triệu hết sức
thống thiết, làm sao đánh thức được tinh thần dân tộc cho nhân dân, nên Mặt
trận không thể gọi như trước mà phải dùng tên khác phù hợp hơn với nhiệm vụ
cách mạng giai đoạn hiện tại.Bởi vậy, theo đề nghị của đồng chí Nguyễn Ái
Quốc, Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam Độc lập Đồng minh,
gọi tắt Mặt trận Việt Minh nhằm tập hợp đoàn kết rộng rãi các giai cấp,
các dân tộc, tôn giáo, các giới…vào thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng.
Chính vì thế ngày 19-5-1941, Mặt trận Việt Minh ra đời thay cho Mặt trận Dân
tộc thống nhất phản đế Đông Dương.
Việt Minh đã công bố 10 chính sách vừa ích nước vừa lợi dân. Từ đầu nguồn
cách mạng Pác Pó, Việt Minh đã lan tỏa ra khắp nông thôn, thành thị hệ
thống từ trung ương đến sở. Một số tổ chức chính trị yêu nước ra đời,
tham gia làm thành viên mặt trận Việt Minh. Lực lượng chính trị quần chúng
ngày càng đông đảo được rèn luyện trong đấu tranh chống Pháp Nhật theo
đúng khẩu hiệu của mặt trận Việt Minh: Đoàn kết toàn dân, chống Nhật,
chống Pháp, tranh lại độc lập; hoãn cách mạng ruộng đất” .
- Xây dựng lực lượng vũ trang.
Để giành chính quyền cách mạng, Đảng chủ trương xây dựng lực lượng
trang và xác định đâylực lượng nòng cốt, trực tiếp tham gia chiến đấu, có vị
trí cùng quan trọng, quyết định sự thành công của cách mạng. Từ thực tiễn
tình hình đầu những năm 1930, lực lượng trang phát triển còn nhỏ lẻ, chưa
tổ chức, Đảng ta đã từng bước thành lập các đội du kích. Hội nghị Trung
ương 8 (tháng 5/1941) đã ra nghị quyết thành lập các đội tự vệ cứu quốc, tự vệ
chiến đấu làm cơ sở cho đấu tranh ở địa phương cũng như Tổng khởi nghĩa trên
phạm vi cả nước. Tháng 12 năm 1941, lãnh tụ Hồ Chí Minh quyết định thành
lập Đội vũ trang Cao Bằng. Đây quá trình thúc đẩy việc xây dựng lực lượng
quân sự, bước đầu xác định những nguyên tắc bản để tiến tới thành lập lực
lượng vũ trang tập trung, làm nòng cốt cho toàn dân khởi nghĩa. Khi phong trào
cách mạng phát triển, với chủ trương xây dựng lực lượngtrang ba thứ quân,
nhằm đẩy mạnh hình thức đấu tranh quân sự, tháng 12 năm 1944, Hồ Chí Minh
ra Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, lực lượng nòng
cốt cho các tổ chứctrang đánh giặc. Đây sự kiện lịch sử quan trọng đánh
dấu bước khởi đầu công cuộc xây dựng phát triển quân đội cách mạng dưới
sự lãnh đạo của Đảng.
- Xây dựng căn cứ địa
Tương quan lực lượng giữa ta và địch, từ kinh nghiệm truyền thống của ông
cha ta trong lịch sử giữ nước, Đảng ta đã tổ chức xây dựng các căn cứ địa cách
mạng để tập hợp, xây dựng các tổ chức, lực lượng cách mạng và huấn luyện lực
lượng này để chuẩn bị cho khởi nghĩa. Trên thực tế, các căn cứ địa cách mạng
của ta đã phát huy tốt vai trò nơi tổ chức, giữ gìn, phát triển lực lượng cách
mạng và đảm bảo yếu tố thông tin liên lạc dễ dàng với cách mạng thế giới, đặc
biệt là với Liên Xô và Trung Quốc. Từ năm 1940 đến năm 1945, Đảng ta đã tích
cực chỉ đạo xây dựng củng cố các căn cứ địa cách mạng. Hội nghị Trung
ương 7 của Đảng (tháng 11/1940) chủ trương thành lập các căn cứ du kích, lấy
Bắc Sơn – Võ Nhai làm trung tâm. Cuối năm 1940, Trung ương Đảng và lãnh tụ
Hồ Chí Minh lựa chọn Cao Bằng để xây dựng căn cứ địa cách mạng. Đến Hội
nghị Trung ương 8 (tháng 5/1941) quyết định duy trì và phát triển các căn cứ du
kích Bắc Sơn, Võ Nhai, đồng thời mở rộng căn cứ địa Cao Bằng. Chỉ trong một
thời gian ngắn, chúng ta đã xây dựng được một vùng căn cứ địa Việt Bắc rộng
lớn cùng nhiều chiến khu căn cứ trang khác. Đây thực sự những nơi
trọng yếu chỉ đạo quá trình xây dựng, phát triển lực lượng cách mạng, là những
trung tâm đầu não lãnh đạo lực lượng khởi nghĩa trên phạm vi toàn quốc.
- Nắm bắt chính xác thời cơ, dung cảm kiên quyết lãnh đạo nhân dân
khởi nghĩa dành chính quyền.
Một trong những yếu tố quan trọng khiến cách mạng tháng Tám 1945 thắng
lợi vẻ vang do sự nhận thức sáng suất nắm bắt đúng thời của Trung
ương Đảng Hồ Chủ tịch. Tất cả sự chuẩn bị của Đảng từ những năm đầu
rất chu đáo, chỉ chờ hội chín mùa tiến hành khởi nghĩa. Đảng ta rất công
phu, bền bỉ kiên trì trong việc chuẩn bị lực lượng cách mạngđặc biệt chú ý
đến sự biến đổi của tình hình thế giới. Năm 1942 Đảng nhận định phe đồng
minh sẽ chiến thắng trong cuộc CTTG lần 2. Đó là điều kiện thuận lợi cho cách
mạng Việt Nam. Chính vì thế Đảng đã gấp rút tập hợp lực lượng, sẵn sàng lật đổ
bọn thực dân để giành chính quyền.
Nhằm độc chiếm Đông Dương Nhật đã thẳng tay hất cẳng Pháp ra khỏi
vòng lao chiến, khiến cho mâu thuẫn giữa Nhật Pháp ngày càng trở nên gay
gắt hơn bao giờ hết (9-1944).Bên cạnh đó, phe phát xít cũng đã trở nên yếu thế
hơn trên chiến trường thế giới. Vì thế, ngay trong đêm Nhật đảo chính Pháp (9-
3-1945), Tổng thư Trường Chinh ngay Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau
hành động của chúng ta” Bản Chỉ thị nhận định, cuộc đảo chính của Nhật
Đông Dương tuy gây ra khủng hoảng chính trị, nhưng điều kiện khởi nghĩa
chưa thực sự chín muồi. Trung ương xác định kẻ thù mới là phát xít Nhật, đề ra
khẩu hiệu đấu tranh mới và dự báo hai khả năng làm xuất hiện thời cơ cho nhân
dân ta vùng dậy giành chính quyền trên cả nước. Một là, quân Đồng minh vào
Đông Dương đánh Nhật, hai là, Nhật đầu hàng Đồng minh. Dưới ánh sáng của
bản Chỉ thị lịch sử đó, các cấp bộ đảng từ trung ương đến địa phương đã theo
dõi sát sao diễn biến mặt trận Thái Bình Dương. Đúng giữa trưa ngày 15-8-
1945, Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng các lực lượng Đồng minh. Như vậy, thời
cơ xuất hiện như khả năng thứ hai mà Đảng ta đã dự báo. Trung ương Đảng
Tổng bộ Việt Minh thành lập Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc. Ủy ban ra Quân
lệnh số 1: “Giờ tổng khởi nghĩa đã đến! Cơ hội có một cho quân, dân Việt Nam
cùng giành lấy quyền độc lập của nước nhà. Chúng ta phải hành động cho
nhanh, với một tinh thần cùng quả cảm, cùng thận trọng! Cuộc thắng lợi
hoàn toàn nhất định sẽ về ta!”. Tiếp đó, Hội nghị Đảng toàn quốcQuốc dân
Đại hội nhóm họp tại Tân Trào quyết định phát động cuộc tổng khởi nghĩa
giành chính quyền trên cả nước.
- Kết quả, kết thúc quá trình đấu tranh giành chính quyền.
Như vậy nhờ vào sự chỉ đạo tài tình của Đảng mà ciỉ trong vòng 15 từ 14 đến
28 tháng Tám , cuộc tổng khởi nghĩa đã giành thắng lợi hoàn toàn, chính quyền
trong cả nước về tay Nhân dân. Ngày 02/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà
Nội) lịch sử, trước cuộc mít tinh của gần một triệu đồng bào, Chủ tịch Hồ Chí
Minh thay mặt Chính phủ Lâm thời trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập,
tuyên bố trước quốc dân và thế giới: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời,
nay nước Cộng hòa hội chủ nghĩa Việt Nam. Từ đó, ngày 02/9 Ngày
Quốc khánh của nước ta.
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công là thắng lợi vĩ đại đầu tiên của
Nhân dân ta từ khi có Đảng lãnh đạo, mở ra bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân
tộc Việt Nam. Chính quyền về tay Nhân dân, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
ra đời - Nhà nước công nông đầu tiên Đông Nam Á, chấm dứt chế độ quân
chủ phong kiến ở Việt Nam, kết thúc hơn 80 năm, Nhân dân ta dưới ách đô hộ
của thực dân, phát xít. Nhân dân Việt Nam từ thân phận lệ trở thành người
dân một nước độc lập, làm chủ vận mệnh của mình. Nước Việt Nam từ một
nước thuộc địa nửa phong kiến trở thành một nước độc lập, tự do dân chủ.
Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành một Đảng cầm quyền. Từ đây, đất nước,
hội, dân tộc con người Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Với thắng lợi của cách mạng tháng 8/1945 Đảng và nhân dân ta đã góp phần
làm phong phú thêm kho tàng luận của chủ nghĩa Mác Lênin, cung cấp
thêm nhiều kinh nghiệm quý báu cho phong trào đẩu tranh giải phóng dân tộc
giành quyền dân chủ. Thắng lợi to lớn này đã tác động cổ sâu sắc
phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc các nước bị chủ nghĩa đế quốc thực
dân áp bức, thống trị. khẳng định rằng, trong điều kiện trào lưu của cách
mạng sản, cuộc cách mạng do một đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo
không chỉ có thể thành công ở một nước tư bản kém phát triển, nơi mắt xích yếu
nhất của chủ nghĩa đế quốc còn thể thành công ngay một nước thuộc
địa nửa phong kiến lạc hậu để đưa cả dân tộc đó đi lên theo con đường của chủ
nghĩa xã hội.
2. Nhận thức của bản thân về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản
đối với cách mạng Việt Nam hiện nay.
Bối cảnh lịch sử của Việt Nam hiện nay
- Những thắng lợi của cách mạng Việt Nam sau 35 năm đổi mới.
Nhân dân Đảng Đảng cũng chính nhân dân. Đảng chính lớp
người đi đầu soi lối chỉ đường trên con đường cách mạng của khối đại đoàn kết
dân tộc Việt Nam. Thực tế có thể khẳng định rằng nếu không có Đảng Cộng sản
Việt Nam thì không có công cuộc đổi mới. Nhìn lại 35 năm thực hiện công cuộc
đổi mới, với 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa hội (Cương lĩnh năm 1991), luận về đường lối đổi mới,
về chủ nghĩa hộicon đường đi lên chủ nghĩahội nước ta ngày càng
hoàn thiện từng bước được hiện thực hoá , đất nước ta đã đạt được những.
thành tựu to lớn, ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện. Quy mô,
trình độ nền kinh tế được nâng lên, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân
được cải thiệnrệt. Đất nước chưa bao giờ có đượcđồ, tiềm lực, vị thế
uy tín như ngày nay. để những thắng lợi đó là nhờ một phần công lao to
lớn của Đảng, không sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng thì sẽ không công
cuộc đổi mới theo định hướng đúng đắn.
Bước đầu tiên thành công trong công cuộc đổi mới do Đảng lãnh đạo là Việt
Nam ta đã đạt được sự tăng trưởng khá ấn tượng về kinh tế. Nếu như trong giai
đoạn đầu đổi mới (1986 - 1990), mức tăng trưởng GDP bình quân hằng năm chỉ
đạt 4,4% thì giai đoạn 1991 - 1995, GDP bình quân đã tăng gấp đôi, đạt
8,2%/năm, các giai đoạn sau đó đều mức tăng trưởng khá cao, giai đoạn
2016 - 2019 đạt mức bình quân 6,8%. Mặc năm 2020, kinh tế chịu ảnh
hưởng nặng nề của dịch bệnh Covid-19 nhưng tốc độ tăng GDP của Việt Nam
vẫn thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao nhất khu vực, thế giới. Ngoài ra
chúng ta còn thu hút được rất nhiều doanh nghiệp FDI đầu vào trong nước,
thu nhập bình quân đầu tang rệt, trở thành một trong những nước xuất khẩu
nông sản lớn nhất thế giới,… Nhìn chung, các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế
đều có bước phát triển mạnh mẽ.
Bên cạnh kinh tế thì văn hóa- hội cũng sự cải thiện mạnh. Việc tang
trưởng kinh tế đã bản gắn kết với phát triển văn hóa, xây dựng con người
tiến bộ và cân bằng xã hội. Ngay từ từng bước phát triển mở đầu cho công cuộc
đổi mới, bằng cách thay đổi chế nhà nước bao cấp toàn bộ trong việc giải
quyết việc làm đã dần chuyển trọng tâm sang thiết lập cơ chế, chính sách để các
thành phần kinh tế người lao động đều tham gia tạo việc làm, từ chỗ không
chấp nhận có sự phân hóa giàu - nghèo đã đi đến khuyến khích mọi người làm
giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xóa đói giảm nghèo. Công tác giảm nghèo của
Việt Nam đã đạt được những thành tựu ấn tượng. Tỷ lệ hộ nghèo trên cả nước
đã giảm từ 58% năm 1993 xuống 22% năm 2005; 9,45% năm 2010, 7% năm
2015 còn dưới 3% năm 2020. Ngoài ra quy giáo dục tiếp tục được phát
triển, cơ sở vật chất được nâng cao, chất lượng đào tạo từng bước đáp ứng yêu
cầu về nguồn nhân lực, năng lực của các hệ thống y tế cũng được hoàn thiện
dần dần,…
Hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, vị thế của Việt Nam ta trên thế giới
cũng ngày càng được nâng cao,…
- Những hạn chế khó khăn thách thức hiện nay.
Những thành công đạt được trong công cuộc đổi mới của Đảng và nhân dân
ta kể từ năm 1986 rất đáng nể. Chúng ta sự phát triển nhất định trên mọi
ngành, mọi lĩnh vực. Việt Nam đã nhanh chóng vươn lên từ một trong những
nước nghèo nhất thế giới trở thành một trong những nền kinh tế năng động nhất
khu vực Đông Á. Mặc dù đã đạt được những bước tiến ngoạn mục, bên cạnh đó
chúng ta vẫn những hạn chế, khó khăn nhất định. Trong văn kiện đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ 13 có nêu ra một số hạn chê, khó khăn, thách thức sau:
hoàn thiện thể chế, đổi mới hình tăng trưởng, cấu lại nền kinh tế, công
nghiệp hoá, hiện đại hoá còn chậm, chưa tạo được chuyển biến căn bản; năng
suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế chưa cao. Giáo dục
đào tạo, khoa học công nghệ chưa trở thành động lực then chốt thúc đẩy
phát triển kinh tế - xã hội. Lĩnh vực văn hoá, xã hội chưa có nhiều đột phá, hiệu
quả chưa cao; đời sống của một bộ phận nhân dân còn khó khăn. Quản tài
nguyên, bảo vệ môi trườngkhả năng thích ứng với biến đổi khí hậu còn bất
cập. Các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đối ngoại còn một số mặt hạn chế. Sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa có lúc, có nơi chưa
được quan tâm phát huy đầy đủ. Xây dựng Nhà nước pháp quyền hội chủ
nghĩa Việt Nam mặt chưa đáp ứng tốt yêu cầu phát triển kinh tế - hội
quản đất nước trong tình hình mới. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng còn
một số hạn chế.
Trách nhiệm của bản thân
con dân Việt Nam- người đang sống trong một thời độc lập tự do, em
luôn tự hào một Đảng lãnh đạo sáng suất, một Đảng đã giúp đất nước
thoát ra khỏi sự nô lệ, đem lại hạnh phúc ấm no cho mọi người. Sự nghiệp cách
mạng một thời gian không lâu cũng không nhanh của Đảng nhưng 91năm
lãnh đạo sự nghiệp ấy, công lao của Đảng không thể phủ nhận được. Dẫu
vậy, các thế lực phản động, thù địch vẫn không ngừng mọi thủ đoạn xuyên tạc,
bôi nhọ lãnh tụ, hạ thấp uy tín lãnh đạo của Đảng. Việc đấu tranh chống lại
tưởng, luận điệu sai trái đó rất quan trọng, thường xuyên.như vậy không
chỉ bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ còn bảo vệ chính nhân dân nói hơn
chính bản thân mình. Điển hình trong thời kì phức tạp của dịch bênh COVID-19
những lực lượng phản động đã tung những tin tức sai sự thật, nhằm lung lay
lòng tin của nhân dân với Đảng. Hành động đó xấu xa cần lên án loại bỏ
ngay. Thực chất những luận điệu sai lệch ấy không chỉ nhằm hạ thấp uy danh,
uy tín của Lãnh tụ và Đảng ta mà qua đó, âm mưu sâu xa, nham hiểm của chúng
là từ chỗ làm xói mòn niềm tin của nhân dân đối với các lãnh tụ để dẫn đến nghi
ngờ, dao động rồi mất niềm tin vào Đảng, Nhà nước và chế độ. Chính vì thế mà
chúng ta nên rèn luyện cho mình bản lĩnh, sự tỉnh táo trong việc đọc thông
tin, không thể để cho bọn thù địch, phản động “dắt mũi”. gương mẫu thực
hiện ý thức tuyên truyền, vận động gia đình nhân dân thực hiện theo
đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Đảng Cộng sản Việt nam tồn tại và hoạt động vì mục tiêu duy nhất đó chính
đô Œc Œp dân Œc, chủ nghĩa Œi, làm tất cả chỉ hạnh phúc, quyền sống,
quyền tự do làm chủ của nhân dân. Trải qua hơn 90 năm dưới sự dẫn dắt,
lãnh đạo của Đảng, Việt Nam ta từng bước từng bước thành công trong đấu
tranh giành lại chủ quyền rồi đến thành công trong phát triển kinh tế- hội.
Dẫu biết đất nước vẫn còn những khó khăn, hạn chế nhất định nhưng chúng ta
hãy tin một Đảng cách mạng chân chính, đạo đức, văn minh…sẽ chỉ đạo, định
hướng đúng đắn khiến cho Việt Nam ta sẽ ngày càng phát triển tốt hơn. Hiện
nay, nước ta vẫn đang trong sự nghiệp đổi mới toàn diện, vì thế sự lãnh đạo của
Đảng hết sức quan trọng. Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta hãy nên ra sức
phấn đấu xây dựng, phát triển đất nước, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân
và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, phát huy có
hiệu quả mọi nguồn lực, động lực để phát triển đất nước nhanh, bền vững,..
Là một sinh viên trường Đại học Kinh tế Quốc dân, đã từng là đội viên, đoàn
viên sau này cũng thể sẽ một Đảng viên, em luôn cố gắng từ những
bước đầu công dân tốt, noi theo tấm gương của Đảng để góp phần giúp cho
đất nước Việt Nam phát triển giàu đẹp.
III/ KẾT LUẬN
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, đã đánh dấu bước ngoặt trọng đại
của cách mạng Việt Nam, chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối cách cách
mạng cứu nước kéo dài mấy thập kỷ. Đảng ra đời ý nghĩa lịch sử to lớn với
đất nước, với nhân dân. Trong thời kì cách mạng giải phóng dân tộc Đảng lãnh
đạo giúp đất nước chiến thắng trong mọi mặt trận giành độc lập, còn trong thời
hòa bình dưới ánh sáng chỉ đạo đấy Đảng lại giúp ta chiến thắng trong việc
cải thiệt kinh tế - hội. Qua từng giai đoạn, từng thời sự mặt của Đảng
luôn nhân tố giúp đất nước Việt Nam ta độc lập, vững mạnh. điển hình
trong chiến thắng cách mạng tháng Tám (1945)- chiến thắng lịch sử to lớn ấy
dấu ấn tượng trưng cho vai trò lãnh đạo của Đảng trong những năm mới thành
lập. Mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc – kỷ nguyên , kỷ nguyên độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
#các nguồn thông tin tham khảo
Đường Kách Mệnh
Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 13
Tạp chí ban tuyên giáo Trung ương…
Các nguồn thông tin khác,…
| 1/13

Preview text:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN BÀI TẬP LỚN
HỌC PHẦN: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
ĐỀ TÀI: PHÂN TÍCH VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG
TRONG CMT8 (1945). NHẬN THỨC CỦA BẢN THÂN VỀ VAI
TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐCS VIỆT NAM ĐỐI VỚI CÁCH
MẠNG VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY.
GIẢNG VIÊN: NGUYỄN HỮU CÔNG
TÊN SINH VIÊN: LÝ THU HÒA
MÃ SINH VIÊN: 11201549 LỚP: KDTM62C I/ LỜI MỞ ĐẦU
Từ xưa đến nay dân tộc Việt Nam ta đã đắm mình qua hàng ngàn cuộc chiến
tranh để bảo vệ vững chắc nền độc lập. Để có thắng lợi to lớn đó là nhờ tinh
thần yêu nước bất khuất và sự tài tình, khôn khéo của các nhà lãnh đạo. Trong
quan điểm của Mác- Lê Nin về quần chúng và vận động quần chúng thì quần
chúng nhân dân chính là chủ thể sáng tạo nên lịch sử - động lực của cách mạng.
Tuy nhiên là chủ thể lịch sử nhưng quần chúng nhân dân chỉ có thể phát huy tối
đa sức mạnh và vai trò sáng tạo một khi có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Chính vì lẽ đó mà trong tác phẩm "Đường Cách mệnh" Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã nêu rất rõ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng ở Việt
Nam ta: "Trước hết phải có Đảng Cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức
dân chúng, ngoài thì liên lạc với các dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp ở mọi
nơi. Đảng có vững, cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có
vững thì thuyền mới chạy".
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, trong đó quần chúng bao gồm
Đảng vô sản. Nếu ví con đường cách mạng như một chuyến tàu thì Đảng chính
là “đầu con tàu” ấy,Đảng soi đường, chỉ lối cho khối đại đoàn kết toàn dân được
giác ngộ và có tổ chức nhờ vậy mà chuyến tàu “cách mạng” mới đến được hy
vọng, đến được tự do dân chủ một cách dễ dàng . Đảng Cộng Sản có trách
nhiệm như “người cầm lái” người dẫn đường: Đảng hoạch định ra đường lối
đúng đắn, đưa đường lối đó vào quần chúng để giác ngộ, tập hợp và tổ chức,
vận động nhân dân đứng lên đấu tranh thực hiện giải phóng dân tộc, xây dựng xã hội mới.
Như vậy, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với thắng lợi của cách mạng là rất
quan trong. Là nhân tố quyết định nhất đảm bảo thắng lợi cách mạng.
Một trong những cuộc cách mạng to lớn để cho thấy rõ vai trò lãnh đạo của
Đảng là cách mạng tháng Tám (1945). Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945
của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã mở ra
một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc, kỷ nguyên độc lập, tự do và CNXH.
Sau đây em xin phân tích sâu hơn vai trò lãnh đạo của Đảng trong cách mạng tháng Tám năm 1945. II/ NỘI DUNG :
1.Sự lãnh đạo của Đảng trong cách mạng tháng Tám – 1945.

Bối cảnh lịch sử.
Đối với thế giới, ngày 1/9/1939, phát xít Đức tấn công Ba Lan, hai ngày sau
Anh và Pháp tuyên chiến với Đức, chiến tranh thế giới thứ hai chính thức bùng
nổ. Phát xít Đức lần lượt chiếm các nước châu Âu. Sau khi mặt trận nhân dân
Pháp tan vỡ. Đảng cộng sản Pháp bị đặt ra ngoài vòng pháp luật. Tháng 6/1940,
Đức tấn công pháp. Chính phủ Pháp đầu hàng Đức. ngày 22/6/1941, quân phát
xít Đức tấn công Liên Xô. Từ khi phát xít Đức xâm lược Liên Xô, tính chất
chiến tranh đế quốc chuyển thành chiến tranh giữa các lực lượng dân chủ do
Liên Xô làm trụ cột với các lực lượng phát xít do Đức làm đầu.
Còn đối với Việt Nam chiến tranh thể giới thứ hai đã ảnh hưởng mạnh mẽ và
trực tiếp đến Đông Dương và Việt Nam. Toàn quyền Đông Dương ra nghị định
cấm tuyên truyền cộng sản. Trên thực tế, ở Việt Nam và Đông Dương, thực dân
Pháp đã thi hành chính sách thời chiến rất trắng trợn. Chúng phátxít hóa bộ máy
thống trị, thẳng tay đàn áp phong trào cách mạng của nhân dân, tập trung lực
lượng đánh vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Hàng nghìn cuộc khám xét bất
ngờ đã diễn ra khắp nơi. Một số quyền tự do, dân chủ đã giành được trong thời
kỳ 1936-1939 bị thủ tiêu. Chúng ban bố lệnh tổng động viện, thực hiện chính
sách "kinh tế chỉ huy" nhằm tăng cường vơ vét sức người, sức của để phục vụ
chiến tranh của đế quốc. Hơn bảy vạn thanh niên bị bắt sang Pháp để làm bia đỡ đạn.
Khi Pháp phải chịu trận trước Đức, lợi dụng cơ hội đó ngày 22-9-1940
phátxít Nhật đã tiến vào Lạng sơn và đổ bộ vào Hải Phòng. Ngày 23-9-1940, tại
Hà Nội, Pháp ký hiệp định đầu hàng Nhật. Từ dó, nhân dân ta chịu cảnh vừa bị
áp bức Pháp, vừa bóc lột của Nhật khiến. Dưới sự thống trị tàn ác đó mâu thuẫn
giữa dân tộc ta và đế quốc, phátxít Pháp — Nhật trở nên gay gắt hơn bao giờ hết.
Chủ trương, chỉ đạo, đường lối lãnh đạo của Đảng
Lý luận về mối quan hệ giữa chiến tranh và cách mạng của CN Mác- Lê nin
chỉ rõ : “Chiến tranh đế quốc với nhau sẽ làm suy yếu kẻ thù của cách mạng và
thúc đẩy nhân dân đứng lên đấu tranh đánh đổ bọn thống trị và áp bức ; tình thế
và thời cơ cách mạng sẽ xuất hiện”. Sau khi chiến tranh thế giới thứ 2 nổ ra ( 1-
9- 1939), với tầm nhìn chiến lược đúng đắn, Đảng đã nhận đinh rằng: Nếu như
chiến tranh thế giới lần thứ nhất đẻ ra một Liên xô thì chiến tranh lần này đẻ ra
nhiều Liên xô, ta cần tích cực chuẩn bị về mọi mặt, đón đợi thời cơ khởi nghĩa
giành chính quyền. Trên cơ sở nhận định khả năng diễn biến của Chiến tranh
thế giới thứ hai và căn cứ vào tình hình cụ thể trong nước,Đảng đã sáng suất
quyết định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược. Thông qua Hội nghị lần thứ sáu
(tháng 11-1939), Hội nghị lần thứ bảy (tháng 11-1940) và Hội nghị lần thứ tám
(tháng 5-1941) chủ chương này được thể hiện rõ hơn.
Quan trọng nhất Đảng đã chuyển hướng chỉ đạo chiến lược đưa nhiệm vụ
chống đế quốc, giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Các hội nghị đã cụ thể những
vấn đề cơ bản sau: thứ nhất, Ban chấp hành Trung ương nêu rõ máu thuẫn chủ
yếu ở nước ta đòi hỏi phải được giải quyết cấp bách là mâu thuẫn giữa dân tộc
ta với bọn đế quốc, phátxít Pháp - Nhật. Bởi “Trong lúc này nếu không giải
quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn
thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa
trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”.
.Để tập trung cho nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng lúc này, Ban Chấp hành
Trung ương quyết định tạm gác lại khẩu hiệu "Đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất
cho dân cày", thay bằng khẩu hiệu "Tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và Việt
Nan cho dân cày nghèo", "Chia lại ruộng đất công cho công bằng và giảm tô,
giảm tức"... Đây là vấn đề đặc biệt quan trọng liên quan đến sự thành bại của
cách mạng. Vấn đề này nếu được giải quyết đúng đắn, khoa học thì sẽ tạo ra
động lực mạnh mẽ thúc đẩy cách mạng tiến lên không ngừng, còn giải quyết
không đúng sẽ gây tác hại to lớn cho phong trào cách mạng nước nhà. Thứ hai,
trong quan hệ dân tộc - quốc tế . Đảng chỉ rõ: chiến tranh lần này sẽ tạo điều
kiện để cách mạng nhiều nước thành công, Đảng và nhân dân ta cần phải tranh
thủ mọi sự giúp đỡ quốc tế (với Mỹ) và tích cực, chuẩn bị mọi mặt để khi tình
hình quốc tế thuận lợi kịp thời khởi nghĩa giành chính quyền với tinh thần:
muốn người giúp cho trước hết mình phải tự giúp mình. Phân tích tình hình lúc
này lãnh tụ Hồ Chí Minh dự báo năm ‘‘bốn lăm cách mạng thành công’’ Đảng
chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc trong từng nước Đông Dương, thi hành
chính sách ‘‘dân tộc tự quyết ’’ của Lê nin và thành lập ở mỗi nước Đông dương
một Mặt trận riêng trực tiếp lãnh đạo cách mạng mỗi nước. Thứ ba, chủ trương
ra sức xây dựng lực lượng để chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền, coi khởi
nghĩa giành chính quyền là nhiệm vụ trung tâm. Chủ trương xây dựng, củng cố,
phát triển mặt trận dân tộc thống nhất để tập hợp lực lượng chống đế quốc và
tay sai (thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế , Mặt trận Việt minh...)
Nêu lên phương pháp giành chính quyền: khởi nghĩa từng phần, giành chính
quyền từng địa phương, tiến lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên toàn
quốc, bằng lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu trên tinh thần: đem
sức ta mà giải phóng cho ta; dù phải hy sinh đến đâu, dù phải đốt cháy cả dãy
Trường sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập. Thứ tư,chủ trương
sau khi cách mạng thành công sẽ thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
theo tinh thần tân dân chủ, một hình thức nhà nước “của chung cả toàn thể dân
tộc” ; ‘‘chính phủ dân chủ cộng hòa”. Như vậy, từ Cương lĩnh chính trị đầu tiên
(3- 2- 1930) đến Luận cương chính trị tháng 10 -1930 và các Hội nghị Trung
ương trong các giai đoạn 1930 – 1935; 1936 – 1939; 1939 – 1945 nhất là Hội
nghị Trung ương 8 ( tháng 5 - 1941) do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chủ trì, đường
lối đấu tranh của Đảng được xây dựng, bổ sung, hoàn chỉnh, góp phần quyết
định vào thắng lợi của công cuộc giành chính quyền, làm nên thành công vĩ đại
của cách mạng tháng 8 – 1945.
Tổ chức, thực hiện đường lối cách mạng
- Tổ chức xây dựng lực lượng chính trị.
Nhận thấy sự chuyển biến của tình hình thế giới và trong nước có lợi cho
cách mạng Việt Nam.Chính vì thế sau hơn 30 năm bôn ba hoạt động ở nước
ngoài ,ngày 28-1-1941 Nguyễn Ái Quốc về nước.ngay sau đó , người triệu tập
Hội nghị Trung ương lần thứ VIII (khóa I) của Đảng ở Cao Bằng, quyết định sự
chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng,khẳng định giải phóng dân tộc là
nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Việt Nam. Hội nghị khẳng định rằng: “Trong
lúc này, quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong
của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này, nếu không giải quyết được vấn đề dân
tộc giải phóng, không đòi lại được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng
những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của
bộ phận, của giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”. Để hoàn thành
nhiệm vụ giải phóng dân tộc, phải vận dụng phương pháp hiệu triệu hết sức
thống thiết, làm sao đánh thức được tinh thần dân tộc cho nhân dân, nên Mặt
trận không thể gọi như trước mà phải dùng tên khác phù hợp hơn với nhiệm vụ
cách mạng giai đoạn hiện tại.Bởi vậy, theo đề nghị của đồng chí Nguyễn Ái
Quốc, Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam Độc lập Đồng minh,
gọi tắt là Mặt trận Việt Minh nhằm tập hợp và đoàn kết rộng rãi các giai cấp,
các dân tộc, tôn giáo, các giới…vào thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng.
Chính vì thế ngày 19-5-1941, Mặt trận Việt Minh ra đời thay cho Mặt trận Dân
tộc thống nhất phản đế Đông Dương.
Việt Minh đã công bố 10 chính sách vừa ích nước vừa lợi dân. Từ đầu nguồn
cách mạng Pác Pó, Việt Minh đã lan tỏa ra khắp nông thôn, thành thị có hệ
thống từ trung ương đến cơ sở. Một số tổ chức chính trị yêu nước ra đời, và
tham gia làm thành viên mặt trận Việt Minh. Lực lượng chính trị quần chúng
ngày càng đông đảo và được rèn luyện trong đấu tranh chống Pháp Nhật theo
đúng khẩu hiệu của mặt trận Việt Minh: “ Đoàn kết toàn dân, chống Nhật,
chống Pháp, tranh lại độc lập; hoãn cách mạng ruộng đất” .
- Xây dựng lực lượng vũ trang.
Để giành chính quyền cách mạng, Đảng chủ trương xây dựng lực lượng vũ
trang và xác định đây là lực lượng nòng cốt, trực tiếp tham gia chiến đấu, có vị
trí vô cùng quan trọng, quyết định sự thành công của cách mạng. Từ thực tiễn
tình hình đầu những năm 1930, lực lượng vũ trang phát triển còn nhỏ lẻ, chưa
có tổ chức, Đảng ta đã từng bước thành lập các đội du kích. Hội nghị Trung
ương 8 (tháng 5/1941) đã ra nghị quyết thành lập các đội tự vệ cứu quốc, tự vệ
chiến đấu làm cơ sở cho đấu tranh ở địa phương cũng như Tổng khởi nghĩa trên
phạm vi cả nước. Tháng 12 năm 1941, lãnh tụ Hồ Chí Minh quyết định thành
lập Đội vũ trang Cao Bằng. Đây là quá trình thúc đẩy việc xây dựng lực lượng
quân sự, bước đầu xác định những nguyên tắc cơ bản để tiến tới thành lập lực
lượng vũ trang tập trung, làm nòng cốt cho toàn dân khởi nghĩa. Khi phong trào
cách mạng phát triển, với chủ trương xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân,
nhằm đẩy mạnh hình thức đấu tranh quân sự, tháng 12 năm 1944, Hồ Chí Minh
ra Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, lực lượng nòng
cốt cho các tổ chức vũ trang đánh giặc. Đây là sự kiện lịch sử quan trọng đánh
dấu bước khởi đầu công cuộc xây dựng và phát triển quân đội cách mạng dưới
sự lãnh đạo của Đảng. - Xây dựng căn cứ địa
Tương quan lực lượng giữa ta và địch, từ kinh nghiệm truyền thống của ông
cha ta trong lịch sử giữ nước, Đảng ta đã tổ chức xây dựng các căn cứ địa cách
mạng để tập hợp, xây dựng các tổ chức, lực lượng cách mạng và huấn luyện lực
lượng này để chuẩn bị cho khởi nghĩa. Trên thực tế, các căn cứ địa cách mạng
của ta đã phát huy tốt vai trò là nơi tổ chức, giữ gìn, phát triển lực lượng cách
mạng và đảm bảo yếu tố thông tin liên lạc dễ dàng với cách mạng thế giới, đặc
biệt là với Liên Xô và Trung Quốc. Từ năm 1940 đến năm 1945, Đảng ta đã tích
cực chỉ đạo xây dựng và củng cố các căn cứ địa cách mạng. Hội nghị Trung
ương 7 của Đảng (tháng 11/1940) chủ trương thành lập các căn cứ du kích, lấy
Bắc Sơn – Võ Nhai làm trung tâm. Cuối năm 1940, Trung ương Đảng và lãnh tụ
Hồ Chí Minh lựa chọn Cao Bằng để xây dựng căn cứ địa cách mạng. Đến Hội
nghị Trung ương 8 (tháng 5/1941) quyết định duy trì và phát triển các căn cứ du
kích Bắc Sơn, Võ Nhai, đồng thời mở rộng căn cứ địa Cao Bằng. Chỉ trong một
thời gian ngắn, chúng ta đã xây dựng được một vùng căn cứ địa Việt Bắc rộng
lớn cùng nhiều chiến khu và căn cứ vũ trang khác. Đây thực sự là những nơi
trọng yếu chỉ đạo quá trình xây dựng, phát triển lực lượng cách mạng, là những
trung tâm đầu não lãnh đạo lực lượng khởi nghĩa trên phạm vi toàn quốc.
- Nắm bắt chính xác thời cơ, dung cảm kiên quyết lãnh đạo nhân dân
khởi nghĩa dành chính quyền.
Một trong những yếu tố quan trọng khiến cách mạng tháng Tám 1945 thắng
lợi vẻ vang là do sự nhận thức sáng suất và nắm bắt đúng thời cơ của Trung
ương Đảng và Hồ Chủ tịch. Tất cả sự chuẩn bị của Đảng từ những năm đầu là
rất chu đáo, chỉ chờ cơ hội chín mùa là tiến hành khởi nghĩa. Đảng ta rất công
phu, bền bỉ kiên trì trong việc chuẩn bị lực lượng cách mạng và đặc biệt chú ý
đến sự biến đổi của tình hình thế giới. Năm 1942 Đảng nhận định phe đồng
minh sẽ chiến thắng trong cuộc CTTG lần 2. Đó là điều kiện thuận lợi cho cách
mạng Việt Nam. Chính vì thế Đảng đã gấp rút tập hợp lực lượng, sẵn sàng lật đổ
bọn thực dân để giành chính quyền.
Nhằm độc chiếm Đông Dương Nhật đã thẳng tay hất cẳng Pháp ra khỏi
vòng lao chiến, khiến cho mâu thuẫn giữa Nhật và Pháp ngày càng trở nên gay
gắt hơn bao giờ hết (9-1944).Bên cạnh đó, phe phát xít cũng đã trở nên yếu thế
hơn trên chiến trường thế giới. Vì thế, ngay trong đêm Nhật đảo chính Pháp (9-
3-1945), Tổng Bí thư Trường Chinh ngay Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và
hành động của chúng ta” Bản Chỉ thị nhận định, cuộc đảo chính của Nhật ở
Đông Dương tuy gây ra khủng hoảng chính trị, nhưng điều kiện khởi nghĩa
chưa thực sự chín muồi. Trung ương xác định kẻ thù mới là phát xít Nhật, đề ra
khẩu hiệu đấu tranh mới và dự báo hai khả năng làm xuất hiện thời cơ cho nhân
dân ta vùng dậy giành chính quyền trên cả nước. Một là, quân Đồng minh vào
Đông Dương đánh Nhật, hai là, Nhật đầu hàng Đồng minh. Dưới ánh sáng của
bản Chỉ thị lịch sử đó, các cấp bộ đảng từ trung ương đến địa phương đã theo
dõi sát sao diễn biến mặt trận Thái Bình Dương. Đúng giữa trưa ngày 15-8-
1945, Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng các lực lượng Đồng minh. Như vậy, thời
cơ xuất hiện như khả năng thứ hai mà Đảng ta đã dự báo. Trung ương Đảng và
Tổng bộ Việt Minh thành lập Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc. Ủy ban ra Quân
lệnh số 1: “Giờ tổng khởi nghĩa đã đến! Cơ hội có một cho quân, dân Việt Nam
cùng giành lấy quyền độc lập của nước nhà. Chúng ta phải hành động cho
nhanh, với một tinh thần vô cùng quả cảm, vô cùng thận trọng! Cuộc thắng lợi
hoàn toàn nhất định sẽ về ta!”. Tiếp đó, Hội nghị Đảng toàn quốc và Quốc dân
Đại hội nhóm họp tại Tân Trào quyết định phát động cuộc tổng khởi nghĩa
giành chính quyền trên cả nước.
- Kết quả, kết thúc quá trình đấu tranh giành chính quyền.
Như vậy nhờ vào sự chỉ đạo tài tình của Đảng mà ciỉ trong vòng 15 từ 14 đến
28 tháng Tám , cuộc tổng khởi nghĩa đã giành thắng lợi hoàn toàn, chính quyền
trong cả nước về tay Nhân dân. Ngày 02/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà
Nội) lịch sử, trước cuộc mít tinh của gần một triệu đồng bào, Chủ tịch Hồ Chí
Minh thay mặt Chính phủ Lâm thời trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập,
tuyên bố trước quốc dân và thế giới: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời,
nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Từ đó, ngày 02/9 là Ngày
Quốc khánh của nước ta.
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công là thắng lợi vĩ đại đầu tiên của
Nhân dân ta từ khi có Đảng lãnh đạo, mở ra bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân
tộc Việt Nam. Chính quyền về tay Nhân dân, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
ra đời - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á, chấm dứt chế độ quân
chủ phong kiến ở Việt Nam, kết thúc hơn 80 năm, Nhân dân ta dưới ách đô hộ
của thực dân, phát xít. Nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ trở thành người
dân một nước độc lập, làm chủ vận mệnh của mình. Nước Việt Nam từ một
nước thuộc địa nửa phong kiến trở thành một nước độc lập, tự do và dân chủ.
Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành một Đảng cầm quyền. Từ đây, đất nước, xã
hội, dân tộc và con người Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Với thắng lợi của cách mạng tháng 8/1945 Đảng và nhân dân ta đã góp phần
làm phong phú thêm kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, cung cấp
thêm nhiều kinh nghiệm quý báu cho phong trào đẩu tranh giải phóng dân tộc
và giành quyền dân chủ. Thắng lợi to lớn này đã có tác động cổ vũ sâu sắc
phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước bị chủ nghĩa đế quốc thực
dân áp bức, thống trị. Nó khẳng định rằng, trong điều kiện trào lưu của cách
mạng vô sản, cuộc cách mạng do một đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo
không chỉ có thể thành công ở một nước tư bản kém phát triển, nơi mắt xích yếu
nhất của chủ nghĩa đế quốc mà còn có thể thành công ở ngay một nước thuộc
địa nửa phong kiến lạc hậu để đưa cả dân tộc đó đi lên theo con đường của chủ nghĩa xã hội.
2. Nhận thức của bản thân về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản
đối với cách mạng Việt Nam hiện nay.

Bối cảnh lịch sử của Việt Nam hiện nay
- Những thắng lợi của cách mạng Việt Nam sau 35 năm đổi mới.
Nhân dân là Đảng và Đảng cũng chính là nhân dân. Đảng chính là lớp
người đi đầu soi lối chỉ đường trên con đường cách mạng của khối đại đoàn kết
dân tộc Việt Nam. Thực tế có thể khẳng định rằng nếu không có Đảng Cộng sản
Việt Nam thì không có công cuộc đổi mới. Nhìn lại 35 năm thực hiện công cuộc
đổi mới, với 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh năm 1991), lý luận về đường lối đổi mới,
về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng
hoàn thiện và từng bước được hiện thực hoá., đất nước ta đã đạt được những
thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện. Quy mô,
trình độ nền kinh tế được nâng lên, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân
được cải thiện rõ rệt. Đất nước chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và
uy tín như ngày nay. Và để có những thắng lợi đó là nhờ một phần công lao to
lớn của Đảng, không có sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng thì sẽ không có công
cuộc đổi mới theo định hướng đúng đắn.
Bước đầu tiên thành công trong công cuộc đổi mới do Đảng lãnh đạo là Việt
Nam ta đã đạt được sự tăng trưởng khá ấn tượng về kinh tế. Nếu như trong giai
đoạn đầu đổi mới (1986 - 1990), mức tăng trưởng GDP bình quân hằng năm chỉ
đạt 4,4% thì giai đoạn 1991 - 1995, GDP bình quân đã tăng gấp đôi, đạt
8,2%/năm, các giai đoạn sau đó đều có mức tăng trưởng khá cao, giai đoạn
2016 - 2019 đạt mức bình quân 6,8%. Mặc dù năm 2020, kinh tế chịu ảnh
hưởng nặng nề của dịch bệnh Covid-19 nhưng tốc độ tăng GDP của Việt Nam
vẫn thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao nhất khu vực, thế giới. Ngoài ra
chúng ta còn thu hút được rất nhiều doanh nghiệp FDI đầu tư vào trong nước,
thu nhập bình quân đầu tang rõ rệt, trở thành một trong những nước xuất khẩu
nông sản lớn nhất thế giới,… Nhìn chung, các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế
đều có bước phát triển mạnh mẽ.
Bên cạnh kinh tế thì văn hóa- xã hội cũng có sự cải thiện mạnh. Việc tang
trưởng kinh tế đã cơ bản gắn kết với phát triển văn hóa, xây dựng con người
tiến bộ và cân bằng xã hội. Ngay từ từng bước phát triển mở đầu cho công cuộc
đổi mới, bằng cách thay đổi cơ chế nhà nước bao cấp toàn bộ trong việc giải
quyết việc làm đã dần chuyển trọng tâm sang thiết lập cơ chế, chính sách để các
thành phần kinh tế và người lao động đều tham gia tạo việc làm, từ chỗ không
chấp nhận có sự phân hóa giàu - nghèo đã đi đến khuyến khích mọi người làm
giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xóa đói giảm nghèo. Công tác giảm nghèo của
Việt Nam đã đạt được những thành tựu ấn tượng. Tỷ lệ hộ nghèo trên cả nước
đã giảm từ 58% năm 1993 xuống 22% năm 2005; 9,45% năm 2010, 7% năm
2015 và còn dưới 3% năm 2020. Ngoài ra quy mô giáo dục tiếp tục được phát
triển, cơ sở vật chất được nâng cao, chất lượng đào tạo từng bước đáp ứng yêu
cầu về nguồn nhân lực, năng lực của các hệ thống y tế cũng được hoàn thiện dần dần,…
Hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, vị thế của Việt Nam ta trên thế giới
cũng ngày càng được nâng cao,…
- Những hạn chế khó khăn thách thức hiện nay.
Những thành công đạt được trong công cuộc đổi mới của Đảng và nhân dân
ta kể từ năm 1986 là rất đáng nể. Chúng ta có sự phát triển nhất định trên mọi
ngành, mọi lĩnh vực. Việt Nam đã nhanh chóng vươn lên từ một trong những
nước nghèo nhất thế giới trở thành một trong những nền kinh tế năng động nhất
khu vực Đông Á. Mặc dù đã đạt được những bước tiến ngoạn mục, bên cạnh đó
chúng ta vẫn có những hạn chế, khó khăn nhất định. Trong văn kiện đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ 13 có nêu ra một số hạn chê, khó khăn, thách thức sau:
hoàn thiện thể chế, đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, công
nghiệp hoá, hiện đại hoá còn chậm, chưa tạo được chuyển biến căn bản; năng
suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế chưa cao. Giáo dục
và đào tạo, khoa học và công nghệ chưa trở thành động lực then chốt thúc đẩy
phát triển kinh tế - xã hội. Lĩnh vực văn hoá, xã hội chưa có nhiều đột phá, hiệu
quả chưa cao; đời sống của một bộ phận nhân dân còn khó khăn. Quản lý tài
nguyên, bảo vệ môi trường và khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu còn bất
cập. Các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đối ngoại còn một số mặt hạn chế. Sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa có lúc, có nơi chưa
được quan tâm phát huy đầy đủ. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam có mặt chưa đáp ứng tốt yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và
quản lý đất nước trong tình hình mới. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng còn một số hạn chế.
Trách nhiệm của bản thân
Là con dân Việt Nam- người đang sống trong một thời kì độc lập tự do, em
luôn tự hào vì có một Đảng lãnh đạo sáng suất, một Đảng đã giúp đất nước
thoát ra khỏi sự nô lệ, đem lại hạnh phúc ấm no cho mọi người. Sự nghiệp cách
mạng là một thời gian không lâu cũng không nhanh của Đảng nhưng 91năm
lãnh đạo sự nghiệp ấy, công lao của Đảng là không thể phủ nhận được. Dẫu
vậy, các thế lực phản động, thù địch vẫn không ngừng mọi thủ đoạn xuyên tạc,
bôi nhọ lãnh tụ, hạ thấp uy tín lãnh đạo của Đảng. Việc đấu tranh chống lại tư
tưởng, luận điệu sai trái đó là rất quan trọng, thường xuyên. Vì như vậy không
chỉ bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ mà còn bảo vệ chính nhân dân nói rõ hơn là
chính bản thân mình. Điển hình trong thời kì phức tạp của dịch bênh COVID-19
những lực lượng phản động đã tung những tin tức sai sự thật, nhằm lung lay
lòng tin của nhân dân với Đảng. Hành động đó là xấu xa cần lên án và loại bỏ
ngay. Thực chất những luận điệu sai lệch ấy không chỉ nhằm hạ thấp uy danh,
uy tín của Lãnh tụ và Đảng ta mà qua đó, âm mưu sâu xa, nham hiểm của chúng
là từ chỗ làm xói mòn niềm tin của nhân dân đối với các lãnh tụ để dẫn đến nghi
ngờ, dao động rồi mất niềm tin vào Đảng, Nhà nước và chế độ. Chính vì thế mà
chúng ta nên rèn luyện cho mình bản lĩnh, và sự tỉnh táo trong việc đọc thông
tin, không thể để cho bọn thù địch, phản động “dắt mũi”. Và gương mẫu thực
hiện và có ý thức tuyên truyền, vận động gia đình và nhân dân thực hiện theo
đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Đảng Cộng sản Việt nam tồn tại và hoạt động vì mục tiêu duy nhất đó chính
là đô Œc lâ Œp dân tô Œc, chủ nghĩa xã hô Œi, làm tất cả chỉ vì hạnh phúc, quyền sống,
quyền tự do và làm chủ của nhân dân. Trải qua hơn 90 năm dưới sự dẫn dắt,
lãnh đạo của Đảng, Việt Nam ta từng bước từng bước thành công trong đấu
tranh giành lại chủ quyền rồi đến thành công trong phát triển kinh tế- xã hội.
Dẫu biết đất nước vẫn còn những khó khăn, hạn chế nhất định nhưng chúng ta
hãy tin một Đảng cách mạng chân chính, đạo đức, văn minh…sẽ chỉ đạo, định
hướng đúng đắn khiến cho Việt Nam ta sẽ ngày càng phát triển tốt hơn. Hiện
nay, nước ta vẫn đang trong sự nghiệp đổi mới toàn diện, vì thế sự lãnh đạo của
Đảng là hết sức quan trọng. Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta hãy nên ra sức
phấn đấu xây dựng, phát triển đất nước, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân
và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, phát huy có
hiệu quả mọi nguồn lực, động lực để phát triển đất nước nhanh, bền vững,..
Là một sinh viên trường Đại học Kinh tế Quốc dân, đã từng là đội viên, đoàn
viên và sau này cũng có thể sẽ là một Đảng viên, em luôn cố gắng từ những
bước đầu là công dân tốt, noi theo tấm gương của Đảng để góp phần giúp cho
đất nước Việt Nam phát triển giàu đẹp. III/ KẾT LUẬN
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, đã đánh dấu bước ngoặt trọng đại
của cách mạng Việt Nam, chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối cách cách
mạng cứu nước kéo dài mấy thập kỷ. Đảng ra đời có ý nghĩa lịch sử to lớn với
đất nước, với nhân dân. Trong thời kì cách mạng giải phóng dân tộc Đảng lãnh
đạo giúp đất nước chiến thắng trong mọi mặt trận giành độc lập, còn trong thời
kì hòa bình dưới ánh sáng chỉ đạo đấy Đảng lại giúp ta chiến thắng trong việc
cải thiệt kinh tế - xã hội. Qua từng giai đoạn, từng thời kì sự có mặt của Đảng
luôn là nhân tố giúp đất nước Việt Nam ta độc lập, vững mạnh. Và điển hình
trong chiến thắng cách mạng tháng Tám (1945)- chiến thắng lịch sử to lớn ấy là
dấu ấn tượng trưng cho vai trò lãnh đạo của Đảng trong những năm mới thành
lập. Mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc – kỷ nguyên , kỷ nguyên độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
#các nguồn thông tin tham khảo Đường Kách Mệnh
Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 13
Tạp chí ban tuyên giáo Trung ương…
Các nguồn thông tin khác,…