-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Bài tập lớn - Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam| Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới.
Môn: Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam(LLLSD1101)
Trường: Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA LÍ LUẬN CHÍNH TRỊ -----♣♣♣♣♣♣-----
BÀI TẬP LỚN LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM Họ và tên Phạm Bá Phát Mã sinh viên 11206507 Lớp tín chỉ LLDL1102 (121)_08 Quan đi m ể c a ủ CN Mác-lênin và c a ủ Ch ủ t c ị h HCM vêề vai
Phầền I. trò lãnh đ o cạ a Đủ ng ảCS đốối v i tớhắống l iợ c aủ cách m ng ạ 1. Quan đi m ể c a ủ ch
ủ nghĩa Mác-lênin....................................................................................... 2. Quan đi m ể c a ủ Ch
ủ t cịh Hốề Chí MInh......................................................................................
Phầền II. Sự lãnh đ oạ của Đ ng ả trong cách m ng ạ tháng 8-1945 1. Bốối cảnh l c ị h s
ử giai đoạn 1939-1945.......................................................................................
2. Lãnh đ oạ vêề m t ặđ ng
ườ lốối....................................................................................................... 3. Vêề m t ặ tổ ch c ứ th c ự hi n
ệ .......................................................................................................... Nêu nh n ậ th c ứ c a ủ b n
ả thần vêề vai trò lãnh đạo c a ủ Đ ng ả
Phầền III. CSVN đốối v iớ cách m ng ạ Vi t ệ Nam hi n ệ nay. 1.Bốối c nh ả l c ị h sử của Vi t ệ Nam trong giai đo n ạ hi n
ệ nay............................................................ 2. Nêu quan đi m đ ể đầ ể ốu tranh chốống l i ạ quan đi m ể sai trái, xuyên t c ạ , ph ủ nh n ậ vai trò lãnh đ o ạ c a ủ Đ ng
ả đốối với cách m ng ạ hi n
ệ nay.................................................................................................. ĐỀ TÀI:
Phân tích vai trò lãnh đạo của Đảng trong cách mạng tháng 8-1945. Nêu nhận thức
của bản thân về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng Sản đối với thắng lợi của cách mạng.
I. Quan điểm của chủ nghĩa mác-lênin và của chủ tịch hồ chí minh về vai
trò lãnh đạo của đảng cộng sản đối với thắng lợi của cách mạng.
1. Quan điểm của chủ nghĩa mác-lênin
vấn đề đảng cộng sản cầm quyền là một trong những nội dung quan trọng được các nhà
kinh điển của chủ nghĩa mác - lênin đề cập. Trong tác phẩm tuyên ngôn của đảng cộng
sản, c.mác và ph.ăngghen đã chỉ rõ: giai cấp công nhân là giai cấp cách mạng nhất, tiên
tiến nhất, giai cấp có sứ mệnh lịch sử đào huyệt chôn cntb. Nhưng muốn thực hiện được
sứ mệnh lịch sử của mình thì giai cấp công nhân phải có “đội tiên phong với lý luận tiên
phong và hành động tiên phong” để lãnh đạo. Đội tiên phong chính là đảng cộng sản - bộ
tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân. C.mác và ph.ăngghen đã chứng minh, chính
đảng của giai cấp công nhân ra đời là một đòi hỏi tất yếu khách quan của cuộc đấu tranh
giai cấp cần có lực lượng lãnh đạo giai cấp thực hiện sứ mệnh lịch sử thế giới của mình.
Ph.ăngghen cho rằng, đảng cộng sản ra đời là điều kiện tiên quyết để bảo đảm cho cách
mạng xhcn giành thắng lợi và thực hiện được mục tiêu cuối cùng của nó là thủ tiêu giai cấp.
Kế thừa tư tưởng trên của mác - ăngghen, lênin khẳng định: “về nguyên tắc, đảng cộng
sản phải giữ vai trò lãnh đạo, đó là điều không còn phải nghi ngờ gì nữa”(1). Bởi đảng
cộng sản là đội tiên phong giác ngộ có tổ chức, và là tổ chức chặt chẽ nhất của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động, chỉ có đảng cộng sản mới có đủ phẩm chất chính trị và
năng lực, xứng đáng là người lãnh đạo xã hội mới. Lênin cũng chỉ rõ: “đảng cộng sản….
Cầm quyền tức là đảng không chỉ lãnh đạo nhà nước mà là lãnh đạo cả xã hội”(2). Và
trong điều kiện cầm quyền đó, đảng phải là “trí tuệ, danh dự và lương tâm của thời đại”(3).
Quan điểm của chủ tịch hồ chí minh 2.
Vai trò lãnh đạo của đảng cộng sản việt nam được chủ tịch hồ chí minh nêu rõ trong
chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt, chương trình tóm tắt và lời kêu gọi của đảng khi
đảng mới thành lập, đó là: "chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng (révolution
démocratique bourgeoise) và thổ địa cách mạng (révolution agratire) để đi tới xã hội
cộng sản";..." đánh đổ đế quốc chủ nghĩa pháp và bọn phong kiến";... Làm cho nước việt
nam được độc lập;... Giải phóng công nhân và nông dân thoát khỏi ách tư bản; mở mang
công nghiệp và nông nghiệp;... Đem lại mọi quyền lợi tự do cho nhân dân".
Hồ chí minh cho rằng, con đường của cách mạng việt nam là con đường cách mạng vô
sản, nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và con người. Trong
đó, giải phóng dân tộc để dân tộc ta thoát khỏi cảnh lầm than, nô lệ, áp bức, nô dịch bởi
thực dân, đế quốc; giải phóng giai cấp để xóa bỏ áp bức giai cấp, bóc lột giai cấp, đem lại
hạnh phúc cho nhân dân. Giải phóng xã hội để thực hiện công bằng xã hội. Giải
phóng con người để mỗi người ai cũng có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, được phát
triển toàn diện. Tư tưởng xuyên suốt của hồ chủ tịch là dân tộc thì độc lập, dân quyền thì
tự do, dân sinh thì hạnh phúc. Chính vì vậy, với người không có gì quý hơn độc lập, tự
do. Nhưng giành được độc lập, tự do rồi mà dân vẫn đói, vẫn rét thì độc lập, tự do cũng vô nghĩa.
II. Sự lãnh đạo của đảng trong cách mạng tháng 8 năm 1945
1. Bối cảnh lịch sử giai đoạn 1939-1945 a) tình hình thế giới
Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ: ngày 1-9-1939, phá txít đức tấn công Ba Lan, hai
ngày sau anh và pháp tuyên chiến với đức, chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Phátxít
đức lần lượt chiếm các nước châu âu. Đế quốc pháp lao vào vòng chiến. Chính phủ pháp
đã thi hành biện pháp đàn áp lực lượng dân chủ ở trong nước và phong trào cách mạng ở
thuộc địa. Mặt trận nhân dân pháp tan vỡ. Đảng cộng sản pháp bị đặt ra ngoài vòng pháp luật.
Tháng 6- 1940, đức tấn công pháp. Chính phủ pháp đầu hàng đức. Ngày 22-6-1941, quân
phátxít đức tấn công liên xô. Từ khi phát xít đức xâm lược liên xô, tính chất chiến tranh
đế quốc chuyển thành chiến tranh giữa các lực lượng dân chủ do liên xô làm trụ cột với
các lực lượng phátxít do đức cầm đầu. b) tình hình trong nước:
Chiến tranh thể giới thứ hai đã ảnh hưởng mạnh mẽ và trực tiếp đến đông dương và
Việt Nam. Ngày 28-9-1939, toàn quyền Đông Dương ra nghị định cấm tuyên truyền
Cộng sản, cấm lưu hành, tàng trữ tài liệu Cộng sản, đặt đảng Cộng sản Đông Dương ra
ngoài vòng pháp luật, giải tán các hội hữu ái, nghiệp đoàn và tịch thu tài sản của các tổ
chức đó, đóng cửa các tờ báo và nhà xuất bản, cấm hội họp và tụ tập đông người.
Trong thực tế, ở Việt Nam và Đông Dương, thực dân Pháp đã thi hành chính sách thời
chiến rất trắng trợn. Chúng phát xít hóa bộ máy thống trị, thẳng tay đàn áp phong trào
cách mạng của nhân dân, tập trung lực lượng đánh vào đảng cộng sản đông dương. Hàng
nghìn cuộc khám xét bất ngờ đã diễn ra khắp nơi. Một số quyền tự do, dân chủ đã giành
được trong thời kỳ 1936-1939 bị thủ tiêu. Chúng ban bố lệnh tổng động viện, thực hiện
chính sách "kinh tế chỉ huy" nhằm tăng cường vơ vét sức người, sức của để phục vụ
chiến tranh của đế quốc. Hơn bảy vạn thanh niên bị bắt sang pháp để làm bia đỡ đạn.
Lợi dụng lúc pháp thua Đức, ngày 22-9-1940 phát xít Nhật đã tiến vào Lạng Sơn và đổ
bộ vào Hải Phòng. Ngày 23-9-1940, tại Hà Nội, Pháp ký hiệp định đầu hàng Nhật. Từ
dó, nhân dân ta chịu cảnh một cổ hai tròng áp bức, bóc lột của Pháp - Nhật. Mâu thuẫn
giữa dân tộc ta và đế quốc, phát xít Pháp — Nhật trở nên gay gắt hơn bao giờ hết.
2. Lãnh đạo về mặt đường lối
Sự lãnh đạo của ðảng trước hết ở sự bổ sung, phát triển hoàn chỉnh hệ thống các quan
điểm về cách mạng giải phóng dân tộc; ở sự lựa chọn hình thức và phương pháp cách
mạng phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể; ở sự tổ chức xây dựng lực lượng cách mạng,
bao gồm lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang; ở sự nhận thức tình thế và thời cơ
cách mạng để đưa quần chúng vào hành động cách mạng; ở sự chỉ đạo kiên quyết, tập
trung, thống nhất trong giờ phút có ý nghĩa quyết định đến thắng lợi.
Ðể đưa cao trào giải phóng dân tộc (1939-1945) đến thắng lợi bằng cuộc tổng khởi nghĩa
tháng tám, có ba thời điểm lịch sử thể hiện bản lĩnh chính trị và năng lực lãnh đạo đặc
biệt của Đảng ta: đó là các hội nghị trung ương từ cuối năm 1939 đến đầu năm 1941 phát
triển hoàn chỉnh, sáng tạo đường lối giải phóng dân tộc; những quyết sách quan trọng
cuối năm 1944 đầu năm 1945 thổi bùng lên cao trào kháng Nhật cứu nước; quyết định
tổng khởi nghĩa của hội nghị Đảng toàn quốc tháng 8-1945.các hội nghị trung ương
Đảng (11-1939), (11-1940) và nhất là hội nghị trung ương tám (5-1941) đã đề ra những
quan điểm và biện pháp cơ bản chỉ đạo cuộc cách mạng giải phóng dân tộc.phải đặt
nhiệm vụ chống đế quốc, giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Hội nghị trung ương 11-1939
chủ trương "phải đưa cao cây cờ dân tộc lên"(1). "bước đường sinh tồn của các dân tộc
ðông dương không có con đường nào khác hơn là đánh đổ đế quốc pháp, chống tất cả ách
ngoại xâm, vô luận da trắng hay da vàng để giành lấy giải phóng độc lập" (2). Hội nghị
trung ương tám do hồ chí minh chủ trì (5-1941) nhấn mạnh: "nhiệm vụ giải phóng dân
tộc, độc lập cho đất nước là một nhiệm vụ trước tiên của ðảng ta" (3). "trong lúc này
quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới quyền lợi giải phóng của toàn thể dân tộc" (4).
3. Về mặt tổ chức thực hiện
bằng cách động viên, tổ chức và đoàn
kết lực lượng của toàn dân trong mặt trận dân tộc thống nhất và lựa chọn hình thức tổ
chức mặt trận Việt Minh. Nếu hội nghị trung ương chủ trương lập mặt trận thống nhất
dân tộc phản đế Đông Dương thì hội nghị trung ương tháng 5-1941 chủ trương lập mặt
trận riêng của Việt Nam đó là Việt Nam Độc lập Đồng minh (việt minh). Tổ chức mặt
trận trong khuôn khổ dân tộc Việt Nam nhằm khơi dậy mạnh mẽ tinh thần dân tộc, yêu
nước nhằm vào mục tiêu độc lập dân tộc. Mặt trận được xây dựng hệ thống tổ chức chặt
chẽ và bao gồm các đoàn thể cứu quốc như (Hội cứu quốc, Hội nhi đồng cứu quốc, Hội
thanh niên cứu quốc, Hội phụ nữ cứu quốc,,,,), Đảng lãnh đạo mặt trận bằng cách đưa
quan điểm, chính sách vào các đoàn thể và hoạt động của mặt trận và thông qua các đảng
viên tham gia mặt trận và đoàn thể.
Đảng chú trọng xây dựng lực lượng vũ trang và
căn cứ địa cách mạng. Sau khởi nghĩa Bắc Sơn (27-9-1940), ðảng chủ trương phát triển
lực lượng vũ trang từ đội du kích Bắc Sơn, xây dựng căn cứ địa Bắc Sơn - Vũ Nhai, xây
dựng cứu quốc quân. Ngày 28-1-1941, chủ tịch hồ chí minh về nước và trực tiếp chỉ đạo
xây dựng căn cứ địa cách mạng ở cao bằng. Tại các căn cứ địa lực lượng chính trị của
quần chúng tập hợp trong mặt trận việt minh ngày càng phát triển rộng lớn. Từ lực lượng
chính trị đó phát triển lực lượng vũ trang. Những vấn đề về chính quyền, về kinh tế, xã
hội cũng được đặt ra và thực hiện ở vùng căn cứ địa cách mạng. Ðảng đặt nhiệm vụ khởi
nghĩa vũ trang để giành độc lập, giành chính quyền là nhiệm vụ trung tâm. Hội nghị
trung ương (11-1939) đã chủ trương: dự bị những điều kiện bước tới bạo động làm cách
mạng giải phóng dân tộc. Hội nghị trung ương (5-1941) xác định: "cuộc cách mạng
ðông dương phải kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa võ trang". Phải chuẩn bị lực lượng
sẵn sàng để có thể "lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương cũng
có thể giành sự thắng lợi mà mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn" (5). Các
hội nghị trung ương và chủ tịch hồ chí minh còn phân tích tình hình chiến tranh thế giới,
âm mưu thủ đoạn của thực dân pháp, phát-xít Nhật và dự báo thời cơ, chỉ đạo xây dựng
lực lượng về mọi mặt, chú trọng công tác xây dựng Đảng để Đảng có thể hoàn thành sứ
mệnh lãnh đạo thành công cách mạng giải phóng dân tộc. Năm 1944, tình hình thế giới
có những chuyển biến mau lẹ, phong trào cách mạng trong nước đã phát triển mạnh mẽ,
ðảng và mặt trận việt minh đã chủ trương về sửa soạn khởi nghĩa và sắm võ khí đuổi thù
chung. Hồ Chí Minh trong thư gửi đồng bào toàn quốc 10-1944 đã chỉ rõ cơ hội cho dân
tộc ta, giải phóng chỉ ở trong một năm hoặc một năm rưỡi nữa. Thời gian rất gấp. Ta phải
làm nhanh. Người chỉ thị thành lập đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân (22-12- 1944).
đảng ta và chủ tịch hồ chí minh đã sáng suốt chỉ đạo xây dựng
và phát huy mạnh mẽ vai trò của căn cứ địa làm bàn đạp khởi nghĩa từng phần, tiến tới
tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên quy mô toàn quốc.Trong điều kiện đất nước bị
thực dân pháp, rồi phát xít Nhật thống trị, đảng ta đã sớm nhận thức tầm quan trọng của
việc xây dựng căn cứ địa vững mạnh làm bàn đạp để tiến công địch, bảo vệ mình; đồng
thời huy động nhân lực, vật lực, bảo đảm cho lực lượng vũ trang (llvt) tác chiến, giữ vai
trò quyết định đối với tiến trình phát triển và thắng lợi của cách mạng việt nam. Từ
những năm 1941-1944, trung ương đảng đã chỉ đạo xây dựng căn cứ địa Bắc Sơn-Võ
Nhai và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chỉ đạo xây dựng căn cứ địa cao bằng, sau đó phát triển
thành hai chiến khu: cao-bắc-lạng và thái-tuyên-hà. Đến cao trào kháng nhật, cứu nước,
cùng với việc hình thành hàng loạt căn cứ địa ở nhiều địa phương, đã hình thành các
chiến khu: trần hưng đạo (đông triều), quang trung (hòa-ninh-thanh), vĩnh sơn-núi lớn
(quảng ngãi). Đặc biệt, ngày 4-6-1945, chiến khu việt bắc (khu giải phóng), gồm 6 tỉnh:
cao bằng, bắc kạn, lạng sơn, thái nguyên, tuyên quang, hà giang và một phần các tỉnh bắc
giang, phú thọ, yên bái, vĩnh yên được hình thành. Việt bắc được xây dựng thành một căn
cứ địa hoàn chỉnh (chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội), làm chỗ dựa vững chắc
của cách mạng cả nước.Căn cứ địa cách mạng là nơi ra đời, trung tâm tập hợp cho lực
lượng vũ trang cách mạng. Đội việt nam tuyên truyền giải phóng quân và cứu quốc quân
ra đời tại chiến khu việt bắc. Các đơn vị du kích tập trung của tỉnh, huyện cũng đều ra
đời ở các căn cứ địa, chiến khu, như: trung đội giải phóng quân ở chiến khu quang trung;
du kích cách mạng quân ở chiến khu trần hưng đạo; hai đại đội phan đình phùng và
hoàng hoa thám ở chiến khu vĩnh sơn-núi lớn... Các đơn vị cho lực lượng vũ trang đứng
chân ở từng căn cứ địa, đặc biệt là việt nam giải phóng quân ở các chiến khu lớn là lực
lượng nòng cốt cho toàn dân khởi nghĩa từng phần, tiến tới tổng khởi nghĩa khi thời cơ
đến.Căn cứ địa, chiến khu là nơi cung cấp, dự trữ lương thực, phát triển lực lượng về mọi
mặt, nhất là quân sự và đùm bọc, che chở cho cơ quan lãnh đạo, cho lực lượng vũ trang
ta khi bị địch truy quét. Ở mỗi vùng căn cứ, đảng ta chỉ đạo tuyên truyền, động viên nhân
dân quyên góp, ủng hộ lương thực, các nhu yếu phẩm khác và đưa con em tham gia các
đơn vị cho lực lượng vũ trang. Tại việt bắc, lúc thành lập việt nam giải phóng quân (ngày
15-5-1945) mới có 13 đại đội, đến tháng 6-1945, các tỉnh đều phát triển lực lượng, riêng
cao bằng tổ chức được 20 đại đội. Sự tồn tại của các căn cứ địa là nỗi lo và mối nguy
hiểm lớn đối với địch. Vì vậy, khi phát hiện, địch tập trung càn quét, triệt hạ các khu căn
cứ của ta. Song lực lượng vũ trang ta kiên quyết đánh chặn, bẻ gãy các đợt tiến công của
địch. Điển hình, ở việt bắc, các đơn vị giải phóng quân anh dũng chiến đấu, bẻ gãy 3 mũi
tiến công của 2.000 quân địch (cuối tháng 5-1945), bảo vệ vững chắc khu giải phóng,
duy trì và phát triển lực lượng chủ lực ta. Đồng thời, nắm bắt và chủ động tận dụng thời
cơ, đảng ta chỉ đạo các đơn vị việt nam giải phóng quân xuất phát từ các khu căn cứ, phối
hợp với du kích, tự vệ làm nòng cốt cho nhân dân các địa phương khởi nghĩa từng phần.
Lực lượng vũ trang ta tổ chức nhiều trận đánh, điển hình là các trận: đồn bàng (kiến an),
tam đảo (vĩnh yên), huyện lỵ yên hưng và thị xã quảng yên (quảng ninh)… thắng lợi, góp
phần đẩy mạnh cao trào khởi nghĩa từng phần trong cả nước.
, dưới sự lãnh đạo của đảng, nhân dân cả nước đồng loạt
đứng lên tham gia, chỉ trong vòng 15 ngày cuối tháng 8/1945, cuộc tổng khởi nghĩa đã
giành thắng lợi hoàn toàn. Thành công của cuộc cách mạng tháng tám năm 1945 là kết
quả của 15 năm đấu tranh kiên cường, hy sinh, gian khổ của nhân dân ta dưới sự lãnh
đạo của đảng, trải qua 3 cuộc tổng diễn tập, đó là cao trào cách mạng 1930-1931; cuộc
vận động dân chủ, dân sinh 1936-1939; cuộc vận động giải phóng dân tộc 1939-1945.
Cách mạng tháng tám thành công, nước việt nam dân chủ cộng hòa ra đời, mở ra kỷ
nguyên mới: độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội. Đó là bước ngoặt mang tầm lịch sử lớn
lao. Với thắng lợi của cách mạng tháng tám, nhân dân ta đã đập tan xiềng xích áp bức
của thực dân trong gần một thế kỷ, lật nhào chế độ quân chủ chuyên chế, nhân dân trở
thành người chủ của một nước độc lập. Đảng ta từ một đảng hoạt động bí mật, trở thành
một đảng cầm quyền. Từ đây là tiền đề cho đất nước, xã hội việt nam có những biến đổi lớn lao và sâu sắc.
III) Nêu nhận thức của bản thân về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng Sản
Việt Nam đối với cách mạng Việt Nam hiện nay
1. Bối cảnh lịch sử của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
Xã hội Việt Nam đang có những biến đổi mạnh mẽ trong nền kinh tế thị trường, đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế,. Biến đổi xã hội rõ nhất là biến đổi cấu
trúc xã hội, phân hóa xã hội và biến đổi về giá trị, chuẩn mực, lối sống xã hội... Các vãn bản
chính thức của Đảng, Nhà nước cũng như thực tiễn đã xác lập mô hình mục tiêu phát triển
tổng quát của Việt Nam là: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Trong đó
mục tiêu cốt lõi hướng đến là: con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công; có cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện. Song, để thực hiện thành công, một trong
những điều kiện tiên quyết là phải tính đến sự quy định của bối cảnh xã hội. Văn kiện Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ XII đã nhận định: Tình hình thế giới và trong nước có cả thuận
lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đan xen; đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu câu mới to lớn,
phức tạp hơn đối với sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước và bảo vệ độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ cuả tổ quốc.
Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn hơn 35 năm đổi mới, đã rút ra nhiều bài học
quý giá, nhưng cũng còn nhiều hạn chế và khuyết điểm trong nhiều mặt công tác, các vấn đề
xã hội phát sinh phức tạp như: khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội; tình trạng
thiếu việc làm; di dân tự phát; bất ổn và xung đột xã hội gia tăng; dân trí và quan trí hạn chế;
dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe yếu kém; đời sống văn hóa có nhiều biểu hiện tiêu cực,
xuống cấp, năng lực quản lý phát triển xã hội, kết cấu hạ tầng thấp kém; môi trường bị ô
nhiễm và suy thoái đến mức báo động... Một trong những nguyên nhân chủ yếu của tình
trạng đó là nhận thức về quản lý phát triển xã hội chưa đầy đủ. Trước những tình hình trên,
Nhà nước ta đang có những đổi mới trong quản lý phát triển xã hội, Đảng ta đang đổi mới
mạnh mẽ phương thức lãnh đạo, toàn bộ hệ thống chính trị, các tổ chức kinh tế, xã hội đang
đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của mình. Nhưng rõ ràng, về mặt lý luận chúng
ta chưa có những câu trả lời thỏa đáng và còn thiếu những những nghiên cứu khoa học bằng
chứng, có tính hệ thống, cung cấp những cơ sở quan trọng cho việc hoạch định chính sách
và triển khai thực hiện chính sách trong các lĩnh vực của đời sống xã hội.
2. Nêu quan điểm để đấu tranh chống lại quan điểm sai trái, xuyên tạc, phủ nhận vai trò
của Đảng đối với cách mạng Việt Nam hiện nay.
Là sinh viên của trường Đại học Kinh tế Quốc dân, đồng thời cũng là công dân của
nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, bản thân em thấy hiện nay, các thế lực thù
địch đang ra sức tuyên truyền những quan điểm sai trái, xuyên tạc, với mưu đồ xóa bỏ
vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam mà trọng tâm là xóa bỏ nền tảng tư tưởng
của Đảng. Vì vậy, để đối phó với những luận điệu đó quan điểm của em rất rõ ràng đó là
luôn luôn cảnh giác và ra sức đấu tranh, ủng hộ, luôn luôn tin tưởng vào đường lối của
Đảng, nhà nước. Nhờ được ngồi trên ghế giảng đường đại học, bản thân em có nhiều cơ
hội để tiếp xúc, học tập, đào sâu nghiên cứu về tư tưởng của Đảng, của Hồ Chủ tịch vĩ
đại; Tăng cường lòng tin, tìm ra chân lí của Đảng, nhận ra nhiệm vụ quan trọng của mình
là kiên trì đấu tranh, phản bác quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lê-
nin, tư tưởng Hồ Chí Minh
Trong thời đại bùng nổ thông tin như hiện nay, việc làm chủ thông tin có vai trò hết sức
quan trọng, quyết định đến việc định hướng dư luận xã hội theo hướng tích cực, đúng với
bản chất sự việc, tránh bị lợi dụng, tạo cơ hội cho các thế lực thù địch xuyên tạc; không
để rơi vào thế “bị động”, “chống đỡ” mà phải chủ động, tiến công. Chính vì lí do đó, em
thấy mình phải chủ động nâng cao nhận thức vì nó là giải pháp có ý nghĩa quan trọng
hàng đầu. Em luôn luôn cập nhật thông tin liên quan đến chính sách nhà nước tại các
cổng thông tin chính thống. Mặt khác, em luôn tích cực đấu tranh làm thất bại âm mưu
“diễn biến hòa bình”, các hoạt động phá hoại, gây rối, bạo loạn của các thế lực thù địch;
bước đầu đối phó có hiệu quả với mối đe dọa an ninh phi truyền thống, kiềm chế được
tốc độ gia tăng tội phạm một cách quyết liệt..
Là sinh viên kinh tế, tương lai môi trường làm việc sẽ tiếp xúc và hợp tác với rất nhiều cá
nhân và doanh nhân nước ngoài thông qua hoạt động “ngoại giao thân thiện”, tăng cường
giao lưu, trao đổi, đối thoại với Việt Nam trên nhiều lĩnh vực, nhất là về dân chủ, dân tộc,
tôn giáo, em luôn cảnh giác để không bị lợi dụng quảng bá hình ảnh, giá trị tư bản chủ
nghĩa; chủ động để không tiếp cận, móc nối, hỗ trợ, mua chuộc, lôi kéo các đối tượng,
nhất là những phần tử có tư tưởng bất mãn, thù địch, cơ hội, thoái hóa, biến chất, hữu
khuynh, cực đoan, tạo dựng lực lượng “nòng cốt” cho “chuyển hóa” và “tự chuyển hóa”
tư tưởng ngay từ bên trong. Trong hợp tác, giao lưu về giáo dục, đào tạo,bản thân em sẽ
cảnh giác không hấp thu và đào thải các thế lực thù địch truyền bá các quan điểm, giá
trị dân chủ tư sản, làm cho thế hệ trẻ có tư tưởng sùng ngoại, coi thường những giá trị
văn hóa dân tộc, chạy theo lối sống thực dụng, chỉ coi trọng giá trị vật chất, bàng quan về
chính trị... tạo mầm mống thúc đẩy dân chủ, nhân quyền tư sản, tiến tới xóa bỏ nền dân
chủ và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Với những gì mà Đảng, nhà nước đã làm cho em, bản thân em đã tìm ra lí tưởng, tìm ra
chân lí để đặt trọn niềm tin, từ đó luôn luôn ủng hộ. Qua các làn sóng Covid vừa qua
càng chứng minh sự lãnh đạo tài tình, đúng đắn của Đảng, chính quyền để rồi làm bộc lộ
những khuyết điểm của Chủ nghĩa Tư bản, một lần nữa đập tan luận điệu xuyên tạc về tư
tưởng Hồ Chí Minh và Chủ nghĩa Mác-Lênin không con phù hợp với giai đoạn hiện nay.
Làm sáng lên con đường đúng đắn mà Đảng ta đã lựa chọn làm nên các giá trị bền vững
phù hợp với thực tiễn của Việt Nam.
Mỗi nơi em qua, mỗi môi trường em sinh sống và làm việc, vận dụng kiến thức mình tiếp
thu được trong thực tế cũng như trên giảng đường đại học, em đều tuyên truyền, hướng
dẫn những cá nhân đang yếu niềm tin vào nhà nước đồng thời lên án, phê phán, tố giác
các cá nhân có dấu hiệu bôi nhọ, nói xấu, nói sai thông tin, sự thật hoặc đang hiểu nhầm
về chính sách, đường lối của Đảng, kịp thời tiêu diệt mầm mống, âm mưu ảnh hưởng
hoặc thậm chí làm mất niềm tin của người xung quanh.
Cuối cùng, để không bị tụt hậu, em luôn cập nhât thông tin, tiếp tục nghiên cứu, khẳng
định và cụ thể hóa những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, các giá trị bền vững phù hợp với thực tiễn của Việt Nam; làm rõ các vấn đề cần bổ
sung, phát triển; nghiên cứu có hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh và sự bổ sung, phát triển
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đối với những trào lưu tư
tưởng, học thuyết, lý thuyết mới, cần nghiên cứu trên quan điểm khách quan, biện chứng
và tiếp thu những giá trị tiến bộ; đồng thời, chủ động nghiên cứu, phê phán bản chất phản
khoa học, phản cách mạng của các quan điểm sai trái, thù địch bằng các luận cứ khoa
học và minh chứng bằng thực tiễn một cách thuyết phục. Quan tâm nghiên cứu để dự báo
sớm tình hình thế giới, khu vực và trong nước, những điều chỉnh chiến lược của các nước
lớn; dự báo âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch và những phần tử cơ
hội chính trị, nhất là trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận, những biểu hiện mới của “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa”… , để xây dựng kế hoạch, nội dung, phương thức đấu tranh cho phù hợp, hiệu quả.
Qua đó, em khẳng định quyết tâm dốc toàn trí, toàn lực sát cán cùng toàn dân và toàn
quân ta tận dụng thời cơ, vượt qua khó khăn, thách thức, nâng cao vai trò và sự lãnh đạo
của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân tộc và dân chủ Xã hội Chủ Nghĩa , đẩy mạnh toàn diện và đồng bộ công cuộc
đổi mới, phát triển đất nước nhanh, bền vững, thực hiện thắng lợi mục tiêu cao cả
“dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Để rồi bản thân em có thể tự hào
rằng: Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt
Nam, xứng đáng là Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh, Đảng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh vĩ đại sáng lập và rèn luyện.
Tài liệu tham khảo - -
Văn kiện Đảng toàn tập, tập 2, - Toàn tập, tập 10, - - Toàn tập