Bài tập lớn: Quy luật giá trị | Đại học Kinh Tế Quốc Dân

Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tối và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
-------***-------
BÀI TẬP LỚN MÔN: KINH TẾ CHÍNH TRỊ
MÁC – LÊNIN
ĐỀ TÀI: QUY LUẬT GIÁ TRỊ: YÊU CẦU VÀ TÁC ĐỘNG CỦA QUY
LUẬT GIÁ TRỊ. HÃY THỬ ĐẶT MÌNH Ở VỊ TRÍ NHÀ SẢN XUẤT, CHỈ
RA NHỮNG CÔNG VIỆC CHỦ DOANH NGHIỆP CẦN PHẢI LÀM ĐỂ
DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT VÀ KINH DOANH CÓ LÃI TRONG ĐIỀU
KIỆN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG.
Họ và tên sinh viên: Lê Nguyễn Anh Đức
Lớp chuyên ngành: Quản trị Marketing CLC 61A
Mã sinh viên: 11191096
HÀ NỘI, NĂM 2019
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
I/ Quy luật giá trị: yêu cầu và tác động của quy luật giá trị
II/ Liên hệ thực tiễn: chỉ ra những công việc chủ doanh nghiệp cần phải
làm để doanh nghiệp sản xuất kinh doanh lãi trong điều kiện kinh
tế thị trường
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
2
2
4
7
8
LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay, trong hội hiện đại, nền kinh tế thị trường xu hướng tất yếu
của các quốc gia, dù quốc gia đó theo định hướng tư bản chủ nghĩa hay xã hội chủ
nghĩa. Đây là nền kinh tế được vận hành theo cơ chế thị trường, trong đó mọi quan
hệ sản xuất trao đổi hàng hoá đều được thông qua thị trường, cũng như chịu sự
điều tiết tác động từ thị trường. thể nói, trải qua rất nhiều quá trình phát
triển thì nền kinh tế thị trường chính sản phẩm của nền văn minh nhân loại.
hình kinh tế này, rất nhiều những đặc trưng chung các chủ thể kinh tế,
chủ yếu là các doanh nghiệp, có thể tận dụng đặc trưng ấy và biến nó thành ưu thế
cho mình. Một vài đặc trưng thể đề cập đến như sự đòi hỏi đa dạng của các
chủ thể kinh tế, hay việc thị trường vai trò then chốt trong việc phân bổ các
nguồn lực…
Trong nền kinh tế thị trường, rất nhiều quy luật điều tiến quá trình sản
xuất, mua bán trao đổi hàng hoá, một quy luật điển hình nhất chính quy
luật giá trị. Đây quy luật kinh tế bản của sản xuất hàng hoá, bởi lẽ đâu
sản xuất và trao đổi, buôn bán hàng hoá thì ở đó có xuất hiện và hoạt động của quy
luật giá trị.
Như vậy, để thể tồn tại, đứng vững trên thị trường, hướng đến mục tiêu
cao cả hơn đánh bại các đối thủ cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường, giúp cho
hoạt động kinh doanh không chỉ tạo ra lợi nhuận mà còn có cơ hội phát triển thành
doanh nghiệp lớn, ngoài việc nhà sản xuất phải nắm rất ưu nhược điểm của
nền kinh tế thị trường, nghiên cứu các yếu tố liên quan thì doanh nghiệp phải
cùng chú trọng vào việc nghiên cứu quy luật giá trị, ảnh hưởng trực tiếp,
tác động đến hàng hoá, dịch vụ doanh nghiệp đó đang kinh doanh, quyết
định hàng hoá họ đang bán sẽ khả năng sinh lời hay sẽ chịu thua lỗ. Đây
cũng chính tầm quan trọng, tính cấp thiết của đề tài được nghiên cứu trong bài
luận.
1
NỘI DUNG
I/ Quy luật giá trị: yêu cầu và tác động của quy luật giá trị
Trước hết, về nội dung, quy luật giá trị yêu cầu việc sản xuất trao đổi
hàng hoá phải được tiến hành trên sở của hao phí lao động hội cần thiết.
Theo yêu cầu của quy luật giá trị, ngườ sản xuất muốn bán được hàng hoá trên thị
trường, muốn được hội thừa nhận sản phẩm thì lượng giá trị của một hàng hoá
biệt phải phù hợp với thời gian lao động hội cần thiết. vậy họ phải luôn
tìm cách hạ thấp hao phí lao động biệt xuống nhỏ hơn hoặc bằng hao phí lao
động hội cần thiết. trong lĩnh vực trao đổi, phải tiến hành theo nguyên tắc
ngang giá, lấy giá trị xã hội làm cơ sở, không dựa trên giá trị cá biệt.
Quy luật giá trị hoạt động phát huy tác dụng thông qua sự vận động của
giá cả xung quanh giá trị dưới tác động của quan hệ cung – cầu. Giá cả thị trường
lên xuống xoay quanh giá trhàng hoá trở thành chế tác động của quy luật giá
trị. Thông qua sự vận động của giá cả thị trường sẽ thấy được sự hoạt động của
quy luật giá trị.
Trong nền kinh tế hàng hoá, quy luật giá trị những tác động bản. Thứ
nhất là điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá. Trong sản xuất, thông qua sự biến
đổi của giá cả, người sản xuất sẽ biết được tình hình cung – cầu về hàng hoá đó và
quyết định phương án sản xuất. Nếu giá cả hàng hoá bằng giá trị thì việc sản xuất
phù hợp với nhu cầu hội; hàng hoá này nên được tiếp tục sản xuất. Nếu giá cả
hàng hoá cao hơn giá trị, sản xuất cần mở rộng để cung ứng hàng hoá đó nhiều
hơn đang khan hiếm trên thị trường; liệu sản xuất sức lao động sẽ
được tự phát chuyển vào ngành này nhiều hơn các ngành khác. Nếu giá cả hàng
hoá thấp hơn giá trị, cung về hàng hoá này đang thừa so với nhu cầu hội; cần
phải thu hẹp sản xuất ngành này để chuyển sang mặt hàng khác.
Trong lưu thông, quy luật giá trị điều tiết hàng hoá từ nơi có giá cả thấp đến
nơi giá cả cao, từ nơi cung lớn hơn cầu đến nơi cung nhỏ hơn cầu. Thông qua
mệnh lệnh của giá cả thị trường, hàng hoá ở nơigiá cả thấp được thu hút, chảy
đến nơi giá cả cao hơn, góp phần làm cho cung cầu hàng hoá giữa các vùng
2
được cân bằng, phân phối lại thu nhập giữa các vùng miền, điều chỉnh sức mua
của thị trường (nếu giá cao thì mua ít, giá thấp thì mua nhiều)…
Tác động thứ hai của quy luật giá trị kích thích cải tiến thuật, hợp
hoá sản xuất nhằm tăng năng suất lao động. Trên thị trường, hàng hoá được trao
đổi theo giá trị hội. Người sản xuấtgiá trị biệt nhỏ hơn giá trị hội, khi
bán theo giá trị xã hội sẽ thu được lợi nhuận lớn hơn. Ngược lại, người sản xuất có
giá trị cá biệt lớn hơn giá trị xã hội sẽ gặp bất lợi hoặc thua lỗ. Để đứng vững trong
cạnh tranh tránh không bị phá sản, người sản xuất phải luôn tìm cách làm cho
giá trị các biệt của hàng hoá nhỏ hơn hoặc bằng giá trị hội. Muốn vậy phải cải
tiến kĩ thuật, áp dụng công nghệ mới, đổi mới phương pháp quản trị… Kết quả lực
lượng sản xuất ngày càng phát triển, năng suất lao động tăng lên, chi phí sản xuất
hàng hoá giảm xuống. Trong lưu thông, để bán được nhiều hàng hoá, người sản
xuất phải không ngừng tăng chất lượng phục vụ, quảng cáo, tổ chức tốt khâu xúc
tiến bán,…
Tác động cuối cùng phân hoá những người sản xuất thành những người
giàu, người nghèo một cách tự nhiên. Trong quá trình cạnh tranh, những người sản
xuất nhạy bén với thị trường, trình độ năng lực giỏi, sản xuất với hao phí biệt
thấp hơn hao phí chung của hội sẽ trở nên giàu có. Ngược lại, những người do
hạn chế vốn, kinh nghiệm sản xuất thấp kém, công nghệ lạc hậu,… thì sẽ dễ bị
thua lỗ dẫn đến phá sản.
Tóm lại, quy luật giá trị vừa tác dụng đào thải cái lạc hậu, lỗi thời, kích
thích sự tiến bộ, làm cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ; vừa tác dụng
lựa chọn, đánh giá người sản xuất, đảm bảo sự bình đẳng đối với người sản xuất.
Các tác động đó diễn ra một cách khách quan trên thị trường.
3
II/ Liên hệ thực tiễn: chỉ ra những công việc chủ doanh nghiệp cần phải làm
để doanh nghiệp sản xuất kinh doanh lãi trong điều kiện kinh tế thị
trường
Trước khi nghĩ tới việc ăn nên làm ra, tạo ra khoản lợi nhuận lớn thì doanh
nghiệp hay sở sản xuất phải nghĩ tới việc làm thế nào để thể tồn tại, đứng
vững được cũng như không để bị thua lỗ trên thị trường đang cạnh tranh cùng
khốc liệt. Để có được điều này, đầu tiên nhà sản xuất phải biết được tình hình cung
– cầu về hàng hoáhọ đang sản xuất. Một điều hiển nhiênnếu nhưnhững
dấu hiệu về việc hàng hoá đó thể đang hoặc sẽ cung so với nhu cầu hội,
tức là giá cả hàng hoá thấp hơn giá trị, thì lựa chọn tiếp tục sản xuất hàng hoá đó là
một sai lầm ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn tại phát triển của doanh nghiệp.
Muốn hàng hoá, dịch vụ của mình sinh lãi, thì nhà sản xuất phải đảm bảo rằng giá
cả của nó phải cao hơn giá trị, hay ít nhất phải bằng với giá trị. Như thế thì doanh
nghiệp mớiđủ khả năng đểlỗ, hoà vốn hay thuận lợi hơnthể mở rộng
sản xuất để cung ứng thêm hàng hoá ra thị trường nếu hàng đó đang khan hiếm.
Đây là cách để nhà sản xuất điều tiết quá trình sản xuất của mình.
Thứ hai, doanh nghiệp phải nhìn ra được dòng chảy của hàng hoá. Quy luật
giá trị đã phát biểu rằng hàng hoá được điều tiết từ nơi giá cả thấp đến nơi
giá cả cao và từ nơi cung lớn hơn cầu đến nơi cung nhỏ hơn cầu. Nhà sản xuất cần
nắm được lưu thông hàng hoá, hiểu được hàng hoá, dịch vụ mình đang cung
cấp đang khan hiếm nơi nào, thừa nơi nào, rồi điều chỉnh nguồn cung của
mình cho phù hợp với từng thị trường cụ thể, hoặc thể xem xét sản xuất mặt
hàng nào đang khan hiếm và ngừng sản xuất hàng hoá đang có hiện tượng dư thừa.
Hơn nữa, nếu thành công trong việc điều tiết sản xuất cung cấp hàng hoá, nhà
sản xuất sẽ nằm thế chủ động họ thể cân bằng cung cầu hàng hoá, phân
phối lại thu nhập giữa các thị trường, thậm chí điều chỉnh sức mua của thị trường.
Đây sẽ là cơ hội thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển lớn mạnh hơn và chiếm lĩnh
thị trường mình đang hướng đến. thể thấy, quan hệ giữa điều tiết sản xuất
lưu thông hàng hoá cùng mật thiết, 2 yếu tố này góp phần không nhỏ
4
quyết định trực tiếp đến tương lai, số phận của hàng hoá, dịch vụ cả nhà sản
xuất.
Trong nền kinh tế thị trường, con người luôn thể tìm thấy hội để thoả
mãn mong muốn nhu cầu của mình. Nền kinh tế này tạo ra sự phù hợp giữa
cấu sản xuất với khối lượng, cơ cấu nhu cầu tiêu dùng của xã hội. Các nhà quản trị
doanh nghiệp thể tận dụng đặc điểm này trong điều kiện kinh tế thị trường để
cung cấp, đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng.
Tiếp theo, muốn hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp có lãi thì nhà quản
trị củaphải thúc đẩy cải tiến kĩ thuật, hợphoá sản xuấttăng năng suất lao
động. Nếu hàng hoá, dịch vụ được sản xuất qua nhiều quá trình rườm rà, phức tạp
quá mức cần thiết, cộng thêm công nghệ sản xuất yếu kém, lạc hậu thì năng suất sẽ
rất thấp, và chi phí bỏ ra để sản xuất cũng sẽ bị nâng lên rất cao. Kế đó, giá cả của
hàng hoá cũng phải được nâng lên cao để có thể bù lại chi phí sản xuất. Kết quả là
doanh nghiệp sẽ gặp bất lợi, thậm chí thua lỗ, vì giá cả hàng hoá quá cao thì sẽ rất
khó cạnh tranh với các đối thủ khác cũng như thu hút người tiêu dùng. Vốn dĩ, để
bán được hàng hoá dịch vụ đã khó, nay với giá cả cao “ngất ngưởng” thì thất
bại trên thị trường, hay phải phá sản gần như là chắc chắn. Vì vậy, để thu được lợi
nhuận, nhà sản xuất phải tìm mọi cách để cải thiện khâu sản xuất của mình, làm
sao cho giá trị biệt hàng hoá luôn nhỏ hơn hoặc bằng giá trị hội. Giải pháp
cho vấn đề này có thể là việc đầu tư nâng cấp dây chuyền sản xuất, áp dụng những
công nghệ mới hơn, tiên tiến hơn, đổi mới phương pháp quản trị vận hành… Thêm
vào đó, để hàng hoá dịch vụ được biết đến rộng rãi tiêu thụ mạnh mẽ, doanh
nghiệp nên tăng chất lượng phục vụ, đẩy mạnh quảng cáo và xúc tiến bán…
Chung quy lại, nhà sản xuất đang đầu tư cho chính mình, cải thiện, làm mới
mình nhằm nâng cao tối đa năng suất lao động phát triển lực lượng sản xuất.
nền kinh tế thị trường một điều kiện kinh tế mở, thị trường trong nước gắn
liền với thị trường thế giới, sở hữu một ưu thế rất lớn đó là luôn tạo ra nguồn động
lực dồi dào cho sự hình thành ý tưởng, đổi mới sáng tạo của các chủ thể kinh tế,
thì mọi ý tưởng mới trong việc sản xuất kinh doanh quản đều được hoan
nghênh. Qua đó trở thành phương thức kích thích hữu hiệu giúp tăng năng suất lao
5
động, hiệu quả sản xuất, làm cho mô hình sản xuất phát triển lớn mạnh hơn trước.
Ngoài ra, trong nền kinh tế thị trường, mọi tiềm năng, lợi thế của doanh nghiệp
đều có thể được phát huy, nếu như họ biết cách để không ngừng nâng cấp và hoàn
thiện. Tiềm lực khả năng cốt lõi của doanh nghiệp sẽ trở nên to lớn, tạo thành
một nền móng vững chắc để họ thể đứng vững trong cạnh tranh, không chỉ
tránh khỏi phá sản mà còn tạo bước đà phát triển vượt bậc.
Cuối cùng, để thể vận hành được bộ máy sản xuất hoạt động trơn tru,
thể đưa ra những chiến lược đúng đắn nhằm thúc đẩy doanh nghiệp phát triển,
những nghiên cứu thị trường toàn diện sâu xát thì doanh nghiệp cần đội ngũ
nhân lực trình độ, duy sáng tạo, giàu kinh nghiệm, tâm huyết cống hiến
hết mình. Đây phải những con người năng lực giỏi, luôn nhạy bén với sự
thay đổi, biến động của thị trường, từ đó điều chỉnh hình, chiến lược
phương thức kinh doanh sao cho hợp lý, vừa nâng cao hiệu quả kinh doanh vừa
giảm thiểu tối đa chi phí và hạn chế những rủi ro không đáng có. Các nhà quản trị
phải luôn quan niệm cho bản thân và cho đội ngũ nhân viên loại bỏ cái lạc hậu, lỗi
thời, hướng đến sự tiến bộ, khác biệt, tạo nên dấu ấn riêng của mình trên thương
trường. Vì đóng vai trò quyết định trong mọi hoạt động vận hành, nên đây phải
yếu tố được quan tâm và đầu tư đúng mức cả về chất và về lượng.
6
KẾT LUẬN
Quy luật giá trị quy luật kinh tế quan trọng bậc nhất của sản xuất lưu
thông hàng hoá. Do đó, khi đề cập những nhân tố chi phối hoạt động của sản xuất,
lưu thông hàng hoá , quy luật giá trị điều buộc phải được nhắc đến. Đây là một
quy luật bao quát chung được cả bản chất, các nhân tố cấu thành chế tác
động của trong điều kiện kinh tế thị trường. Quy luật giá trị vừa tác dụng
đào thải cái lạc hậu, lỗi thời, kích thích sự tiến bộ, làm cho lực lượng sản xuất phát
triển mạnh mẽ; vừa tác dụng lựa chọn, đánh giá người sản xuất, bảo đảm sự
bình đẳng đối với người sản xuất. Cụ thể hơn, đối với doanh nghiệp sản xuất
cung cấp hàng hoá, dịch vụ, quy luật giá trị lại càng phát huy vài trò thiết yếu
trong công tác quản trị, hoạch định chiến lược, nghiên cứu thị trường, quản
nguồn lựcdây chuyền sản xuất, cung cấp hàng hoá. Trong điều kiện kinh tế thị
trường, doanh nghiệp nên tận dụng những lợi thế mà điều kiện kinh tế mang lại
khắc phục những hạn chế để có thể kinh doanh có lãi phát triển.
7
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Kinh tế chính trị Mác-Lênin, 2019
8
| 1/10

Preview text:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN -------***-------
BÀI TẬP LỚN MÔN: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC – LÊNIN
ĐỀ TÀI: QUY LUẬT GIÁ TRỊ: YÊU CẦU VÀ TÁC ĐỘNG CỦA QUY
LUẬT GIÁ TRỊ. HÃY THỬ ĐẶT MÌNH Ở VỊ TRÍ NHÀ SẢN XUẤT, CHỈ
RA NHỮNG CÔNG VIỆC CHỦ DOANH NGHIỆP CẦN PHẢI LÀM ĐỂ
DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT VÀ KINH DOANH CÓ LÃI TRONG ĐIỀU
KIỆN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG.
Họ và tên sinh viên: Lê Nguyễn Anh Đức
Lớp chuyên ngành: Quản trị Marketing CLC 61A
Mã sinh viên: 11191096 HÀ NỘI, NĂM 2019 MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 1 NỘI DUNG 2
I/ Quy luật giá trị: yêu cầu và tác động của quy luật giá trị 2
II/ Liên hệ thực tiễn: chỉ ra những công việc chủ doanh nghiệp cần phải 4
làm để doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh có lãi trong điều kiện kinh tế thị trường KẾT LUẬN 7 TÀI LIỆU THAM KHẢO 8 LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay, trong xã hội hiện đại, nền kinh tế thị trường là xu hướng tất yếu
của các quốc gia, dù quốc gia đó theo định hướng tư bản chủ nghĩa hay xã hội chủ
nghĩa. Đây là nền kinh tế được vận hành theo cơ chế thị trường, trong đó mọi quan
hệ sản xuất và trao đổi hàng hoá đều được thông qua thị trường, cũng như chịu sự
điều tiết và tác động từ thị trường. Có thể nói, trải qua rất nhiều quá trình phát
triển thì nền kinh tế thị trường chính là sản phẩm của nền văn minh nhân loại. Ở
mô hình kinh tế này, có rất nhiều những đặc trưng chung mà các chủ thể kinh tế,
chủ yếu là các doanh nghiệp, có thể tận dụng đặc trưng ấy và biến nó thành ưu thế
cho mình. Một vài đặc trưng có thể đề cập đến như là sự đòi hỏi đa dạng của các
chủ thể kinh tế, hay là việc thị trường có vai trò then chốt trong việc phân bổ các nguồn lực…
Trong nền kinh tế thị trường, có rất nhiều quy luật điều tiến quá trình sản
xuất, mua bán và trao đổi hàng hoá, và một quy luật điển hình nhất chính là quy
luật giá trị. Đây là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất hàng hoá, bởi lẽ ở đâu có
sản xuất và trao đổi, buôn bán hàng hoá thì ở đó có xuất hiện và hoạt động của quy luật giá trị.
Như vậy, để có thể tồn tại, đứng vững trên thị trường, hướng đến mục tiêu
cao cả hơn là đánh bại các đối thủ cạnh tranh và chiếm lĩnh thị trường, giúp cho
hoạt động kinh doanh không chỉ tạo ra lợi nhuận mà còn có cơ hội phát triển thành
doanh nghiệp lớn, ngoài việc nhà sản xuất phải nắm rất kĩ ưu và nhược điểm của
nền kinh tế thị trường, nghiên cứu các yếu tố có liên quan thì doanh nghiệp phải
vô cùng chú trọng vào việc nghiên cứu quy luật giá trị, vì nó ảnh hưởng trực tiếp,
tác động đến hàng hoá, dịch vụ mà doanh nghiệp đó đang kinh doanh, nó quyết
định hàng hoá mà họ đang bán sẽ có khả năng sinh lời hay sẽ chịu thua lỗ. Đây
cũng chính là tầm quan trọng, tính cấp thiết của đề tài được nghiên cứu trong bài luận. 1 NỘI DUNG
I/ Quy luật giá trị: yêu cầu và tác động của quy luật giá trị
Trước hết, về nội dung, quy luật giá trị yêu cầu việc sản xuất và trao đổi
hàng hoá phải được tiến hành trên cơ sở của hao phí lao động xã hội cần thiết.
Theo yêu cầu của quy luật giá trị, ngườ sản xuất muốn bán được hàng hoá trên thị
trường, muốn được xã hội thừa nhận sản phẩm thì lượng giá trị của một hàng hoá
cá biệt phải phù hợp với thời gian lao động xã hội cần thiết. Vì vậy họ phải luôn
tìm cách hạ thấp hao phí lao động cá biệt xuống nhỏ hơn hoặc bằng hao phí lao
động xã hội cần thiết. trong lĩnh vực trao đổi, phải tiến hành theo nguyên tắc
ngang giá, lấy giá trị xã hội làm cơ sở, không dựa trên giá trị cá biệt.
Quy luật giá trị hoạt động và phát huy tác dụng thông qua sự vận động của
giá cả xung quanh giá trị dưới tác động của quan hệ cung – cầu. Giá cả thị trường
lên xuống xoay quanh giá trị hàng hoá trở thành cơ chế tác động của quy luật giá
trị. Thông qua sự vận động của giá cả thị trường sẽ thấy được sự hoạt động của quy luật giá trị.
Trong nền kinh tế hàng hoá, quy luật giá trị có những tác động cơ bản. Thứ
nhất là điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá. Trong sản xuất, thông qua sự biến
đổi của giá cả, người sản xuất sẽ biết được tình hình cung – cầu về hàng hoá đó và
quyết định phương án sản xuất. Nếu giá cả hàng hoá bằng giá trị thì việc sản xuất
phù hợp với nhu cầu xã hội; hàng hoá này nên được tiếp tục sản xuất. Nếu giá cả
hàng hoá cao hơn giá trị, sản xuất cần mở rộng để cung ứng hàng hoá đó nhiều
hơn vì nó đang khan hiếm trên thị trường; tư liệu sản xuất và sức lao động sẽ
được tự phát chuyển vào ngành này nhiều hơn các ngành khác. Nếu giá cả hàng
hoá thấp hơn giá trị, cung về hàng hoá này đang thừa so với nhu cầu xã hội; cần
phải thu hẹp sản xuất ngành này để chuyển sang mặt hàng khác.
Trong lưu thông, quy luật giá trị điều tiết hàng hoá từ nơi có giá cả thấp đến
nơi có giá cả cao, từ nơi cung lớn hơn cầu đến nơi cung nhỏ hơn cầu. Thông qua
mệnh lệnh của giá cả thị trường, hàng hoá ở nơi có giá cả thấp được thu hút, chảy
đến nơi có giá cả cao hơn, góp phần làm cho cung – cầu hàng hoá giữa các vùng 2
được cân bằng, phân phối lại thu nhập giữa các vùng miền, điều chỉnh sức mua
của thị trường (nếu giá cao thì mua ít, giá thấp thì mua nhiều)…
Tác động thứ hai của quy luật giá trị là kích thích cải tiến kĩ thuật, hợp lí
hoá sản xuất nhằm tăng năng suất lao động. Trên thị trường, hàng hoá được trao
đổi theo giá trị xã hội. Người sản xuất có giá trị cá biệt nhỏ hơn giá trị xã hội, khi
bán theo giá trị xã hội sẽ thu được lợi nhuận lớn hơn. Ngược lại, người sản xuất có
giá trị cá biệt lớn hơn giá trị xã hội sẽ gặp bất lợi hoặc thua lỗ. Để đứng vững trong
cạnh tranh và tránh không bị phá sản, người sản xuất phải luôn tìm cách làm cho
giá trị các biệt của hàng hoá nhỏ hơn hoặc bằng giá trị xã hội. Muốn vậy phải cải
tiến kĩ thuật, áp dụng công nghệ mới, đổi mới phương pháp quản trị… Kết quả lực
lượng sản xuất ngày càng phát triển, năng suất lao động tăng lên, chi phí sản xuất
hàng hoá giảm xuống. Trong lưu thông, để bán được nhiều hàng hoá, người sản
xuất phải không ngừng tăng chất lượng phục vụ, quảng cáo, tổ chức tốt khâu xúc tiến bán,…
Tác động cuối cùng là phân hoá những người sản xuất thành những người
giàu, người nghèo một cách tự nhiên. Trong quá trình cạnh tranh, những người sản
xuất nhạy bén với thị trường, trình độ năng lực giỏi, sản xuất với hao phí cá biệt
thấp hơn hao phí chung của xã hội sẽ trở nên giàu có. Ngược lại, những người do
hạn chế vốn, kinh nghiệm sản xuất thấp kém, công nghệ lạc hậu,… thì sẽ dễ bị
thua lỗ dẫn đến phá sản.
Tóm lại, quy luật giá trị vừa có tác dụng đào thải cái lạc hậu, lỗi thời, kích
thích sự tiến bộ, làm cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ; vừa có tác dụng
lựa chọn, đánh giá người sản xuất, đảm bảo sự bình đẳng đối với người sản xuất.
Các tác động đó diễn ra một cách khách quan trên thị trường. 3
II/ Liên hệ thực tiễn: chỉ ra những công việc chủ doanh nghiệp cần phải làm
để doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh có lãi trong điều kiện kinh tế thị trường
Trước khi nghĩ tới việc ăn nên làm ra, tạo ra khoản lợi nhuận lớn thì doanh
nghiệp hay cơ sở sản xuất phải nghĩ tới việc làm thế nào để có thể tồn tại, đứng
vững được cũng như không để bị thua lỗ trên thị trường đang cạnh tranh vô cùng
khốc liệt. Để có được điều này, đầu tiên nhà sản xuất phải biết được tình hình cung
– cầu về hàng hoá mà họ đang sản xuất. Một điều hiển nhiên là nếu như có những
dấu hiệu về việc hàng hoá đó có thể đang hoặc sẽ dư cung so với nhu cầu xã hội,
tức là giá cả hàng hoá thấp hơn giá trị, thì lựa chọn tiếp tục sản xuất hàng hoá đó là
một sai lầm ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Muốn hàng hoá, dịch vụ của mình sinh lãi, thì nhà sản xuất phải đảm bảo rằng giá
cả của nó phải cao hơn giá trị, hay ít nhất phải bằng với giá trị. Như thế thì doanh
nghiệp mới có đủ khả năng để bù lỗ, hoà vốn hay thuận lợi hơn là có thể mở rộng
sản xuất để cung ứng thêm hàng hoá ra thị trường nếu hàng đó đang khan hiếm.
Đây là cách để nhà sản xuất điều tiết quá trình sản xuất của mình.
Thứ hai, doanh nghiệp phải nhìn ra được dòng chảy của hàng hoá. Quy luật
giá trị đã phát biểu rằng hàng hoá được điều tiết từ nơi có giá cả thấp đến nơi có
giá cả cao và từ nơi cung lớn hơn cầu đến nơi cung nhỏ hơn cầu. Nhà sản xuất cần
nắm được lưu thông hàng hoá, hiểu được hàng hoá, dịch vụ mà mình đang cung
cấp đang khan hiếm ở nơi nào, dư thừa ở nơi nào, rồi điều chỉnh nguồn cung của
mình cho phù hợp với từng thị trường cụ thể, hoặc có thể xem xét sản xuất mặt
hàng nào đang khan hiếm và ngừng sản xuất hàng hoá đang có hiện tượng dư thừa.
Hơn nữa, nếu thành công trong việc điều tiết sản xuất và cung cấp hàng hoá, nhà
sản xuất sẽ nằm ở thế chủ động vì họ có thể cân bằng cung cầu hàng hoá, phân
phối lại thu nhập giữa các thị trường, thậm chí điều chỉnh sức mua của thị trường.
Đây sẽ là cơ hội thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển lớn mạnh hơn và chiếm lĩnh
thị trường mà mình đang hướng đến. Có thể thấy, quan hệ giữa điều tiết sản xuất
và lưu thông hàng hoá là vô cùng mật thiết, 2 yếu tố này góp phần không nhỏ 4
quyết định trực tiếp đến tương lai, số phận của hàng hoá, dịch vụ và cả nhà sản xuất.
Trong nền kinh tế thị trường, con người luôn có thể tìm thấy cơ hội để thoả
mãn mong muốn và nhu cầu của mình. Nền kinh tế này tạo ra sự phù hợp giữa cơ
cấu sản xuất với khối lượng, cơ cấu nhu cầu tiêu dùng của xã hội. Các nhà quản trị
doanh nghiệp có thể tận dụng đặc điểm này trong điều kiện kinh tế thị trường để
cung cấp, đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng.
Tiếp theo, muốn hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp có lãi thì nhà quản
trị của nó phải thúc đẩy cải tiến kĩ thuật, hợp lí hoá sản xuất và tăng năng suất lao
động. Nếu hàng hoá, dịch vụ được sản xuất qua nhiều quá trình rườm rà, phức tạp
quá mức cần thiết, cộng thêm công nghệ sản xuất yếu kém, lạc hậu thì năng suất sẽ
rất thấp, và chi phí bỏ ra để sản xuất cũng sẽ bị nâng lên rất cao. Kế đó, giá cả của
hàng hoá cũng phải được nâng lên cao để có thể bù lại chi phí sản xuất. Kết quả là
doanh nghiệp sẽ gặp bất lợi, thậm chí thua lỗ, vì giá cả hàng hoá quá cao thì sẽ rất
khó cạnh tranh với các đối thủ khác cũng như thu hút người tiêu dùng. Vốn dĩ, để
bán được hàng hoá và dịch vụ đã khó, nay với giá cả cao “ngất ngưởng” thì thất
bại trên thị trường, hay phải phá sản gần như là chắc chắn. Vì vậy, để thu được lợi
nhuận, nhà sản xuất phải tìm mọi cách để cải thiện khâu sản xuất của mình, làm
sao cho giá trị cá biệt hàng hoá luôn nhỏ hơn hoặc bằng giá trị xã hội. Giải pháp
cho vấn đề này có thể là việc đầu tư nâng cấp dây chuyền sản xuất, áp dụng những
công nghệ mới hơn, tiên tiến hơn, đổi mới phương pháp quản trị vận hành… Thêm
vào đó, để hàng hoá dịch vụ được biết đến rộng rãi và tiêu thụ mạnh mẽ, doanh
nghiệp nên tăng chất lượng phục vụ, đẩy mạnh quảng cáo và xúc tiến bán…
Chung quy lại, nhà sản xuất đang đầu tư cho chính mình, cải thiện, làm mới
mình nhằm nâng cao tối đa năng suất lao động và phát triển lực lượng sản xuất.
Mà nền kinh tế thị trường – một điều kiện kinh tế mở, thị trường trong nước gắn
liền với thị trường thế giới, sở hữu một ưu thế rất lớn đó là luôn tạo ra nguồn động
lực dồi dào cho sự hình thành ý tưởng, đổi mới sáng tạo của các chủ thể kinh tế,
thì mọi ý tưởng mới trong việc sản xuất kinh doanh và quản lý đều được hoan
nghênh. Qua đó trở thành phương thức kích thích hữu hiệu giúp tăng năng suất lao 5
động, hiệu quả sản xuất, làm cho mô hình sản xuất phát triển lớn mạnh hơn trước.
Ngoài ra, trong nền kinh tế thị trường, mọi tiềm năng, lợi thế của doanh nghiệp
đều có thể được phát huy, nếu như họ biết cách để không ngừng nâng cấp và hoàn
thiện. Tiềm lực và khả năng cốt lõi của doanh nghiệp sẽ trở nên to lớn, tạo thành
một nền móng vững chắc để họ có thể đứng vững trong cạnh tranh, không chỉ
tránh khỏi phá sản mà còn tạo bước đà phát triển vượt bậc.
Cuối cùng, để có thể vận hành được bộ máy sản xuất hoạt động trơn tru, có
thể đưa ra những chiến lược đúng đắn nhằm thúc đẩy doanh nghiệp phát triển, có
những nghiên cứu thị trường toàn diện và sâu xát thì doanh nghiệp cần đội ngũ
nhân lực có trình độ, tư duy sáng tạo, giàu kinh nghiệm, tâm huyết và cống hiến
hết mình. Đây phải là những con người có năng lực giỏi, luôn nhạy bén với sự
thay đổi, biến động của thị trường, từ đó điều chỉnh mô hình, chiến lược và
phương thức kinh doanh sao cho hợp lý, vừa nâng cao hiệu quả kinh doanh vừa
giảm thiểu tối đa chi phí và hạn chế những rủi ro không đáng có. Các nhà quản trị
phải luôn quan niệm cho bản thân và cho đội ngũ nhân viên loại bỏ cái lạc hậu, lỗi
thời, hướng đến sự tiến bộ, khác biệt, tạo nên dấu ấn riêng của mình trên thương
trường. Vì đóng vai trò quyết định trong mọi hoạt động vận hành, nên đây phải là
yếu tố được quan tâm và đầu tư đúng mức cả về chất và về lượng. 6 KẾT LUẬN
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế quan trọng bậc nhất của sản xuất và lưu
thông hàng hoá. Do đó, khi đề cập những nhân tố chi phối hoạt động của sản xuất,
lưu thông hàng hoá , quy luật giá trị là điều buộc phải được nhắc đến. Đây là một
quy luật bao quát chung được cả bản chất, các nhân tố cấu thành và cơ chế tác
động của nó trong điều kiện kinh tế thị trường. Quy luật giá trị vừa có tác dụng
đào thải cái lạc hậu, lỗi thời, kích thích sự tiến bộ, làm cho lực lượng sản xuất phát
triển mạnh mẽ; vừa có tác dụng lựa chọn, đánh giá người sản xuất, bảo đảm sự
bình đẳng đối với người sản xuất. Cụ thể hơn, đối với doanh nghiệp sản xuất và
cung cấp hàng hoá, dịch vụ, quy luật giá trị lại càng phát huy vài trò thiết yếu
trong công tác quản trị, hoạch định chiến lược, nghiên cứu thị trường, quản lý
nguồn lực và dây chuyền sản xuất, cung cấp hàng hoá. Trong điều kiện kinh tế thị
trường, doanh nghiệp nên tận dụng những lợi thế mà điều kiện kinh tế mang lại và
khắc phục những hạn chế để có thể kinh doanh có lãi phát triển. 7 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.
Giáo trình Kinh tế chính trị Mác-Lênin, 2019 8