



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 58591236
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN ĐÀO TẠO TIÊN TIẾN, CHẤT LƯỢNG CAO VÀ POHE ============ BÀI TẬP LỚN
MÔN: LỊCH SỬ KINH TẾ
Đề bài: 1, Trình bày thực trạng phát triển kinh tế thế giới từ sau khủng hoảng
kinh tế toàn cầu năm 2008 đến nay.
2, Trình bày thực trạng kinh tế Việt Nam thời kỳ đổi mới từ năm 1986 đến nay.
Sinh viên: Lê Minh Đức
Mã sinh viên: 11200842
Lớp: Kiểm toán CLC 62A Hà Nội - 06/2022 lOMoAR cPSD| 58591236
Câu 1 - Đề 1: Trình bày thực trạng phát triển kinh tế thế giới từ sau khủng hoảng kinh
tế toàn cầu năm 2008 đến nay.
1. Năm 2009
- Sự suy thoái, ngưng trệ không chỉ diễn ra trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng,
mà còn rất phổ biến trong lĩnh vực sản xuất, đặc biệt trong các ngành mũi
nhọn của các nước phát triển như ô-tô, thép. Rồi thông qua các kênh thương
mại, đầu tư và tài chính quốc tế, cuộc khủng hoảng đã tác động mạnh lên các
nước đang phát triển, nhất là những nước phụ thuộc lớn hơn vào thị trường
các nước phát triển, như Trung Quốc và nhiều nước châu Á.
- Thế nhưng, nhờ áp dụng kịp thời các biện pháp giải cứu và kích thích kinhtế
đơn phương ở mỗi nước hoặc trong sự phối hợp với các tổ chức tài chính
quốc tế và giữa các nước với nhau, từ giữa năm 2009, nền kinh tế thế giới đã
có những dấu hiệu phục hồi. Tốc độ gia tăng tỷ lệ thất nghiệp ở các nước
Mỹ, châu Âu, Nhật Bản đã chậm lại. Ở một số nước, như Nga, Xin-ga-po...
tỷ lệ thất nghiệp đã giảm. Có được kết quả bước đầu này là do những dấu
hiệu tốt từ khu vực chế tạo - số lượng đơn đặt hàng đã được gia tăng ở các
nền kinh tế chủ chốt, như Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản và một số nước châu
Âu, làm cho chỉ số PMI(H) ở nhiều nước đã vượt qua mức 50 và gia tăng
liên tục trong nhiều tháng. Trên nền tảng đó, tình hình thị trường tài chính và
chứng khoán thế giới bắt đầu được cải thiện, hoạt động của hệ thống ngân
hàng ngay cả ở các nước khởi nguồn của cuộc khủng hoảng cũng đã được cải
thiện và bước đầu lấy lại được lòng tin của người dân.
- Như vậy, sự phục hồi đến sớm đã làm cho bức tranh kinh tế thế giới năm
2009 có được những nét khởi sắc nhất định. Theo tính toán của các chuyên
gia Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), tốc độ tăng trưởng GDP năm 2009 của cả thế
giới chỉ bị giảm 1,1%, trong đó của các nước phát triển bị giảm 3,4%, còn
nhóm các thị trường đang lên và các nước đang phát triển ước tính tăng 1,7%
so với năm 2008. So với mức dự báo của IMF vào tháng 7-2009, mức dự báo
hiện tại về tốc độ tăng trưởng GDP thế giới đã được cải thiện 0,3%. Hơn nữa,
theo dự báo dài hạn được thể hiện trên đồ thị 1, kinh tế thế giới sẽ đạt tốc độ
tăng trưởng dương ở mức 3,1% vào năm 2010 và tiếp tục tăng trong những
năm sau đó. Và như vậy, chu kỳ phát triển của nền kinh tế thế giới hiện nay
thật sự đang được diễn ra theo mô hình chữ V. lOMoAR cPSD| 58591236
- Sự phục hồi ngày càng rõ rệt hơn ở các nước phát triển - nơi khởi nguồn của
cuộc khủng hoảng. Theo số liệu của IMG, tại Mỹ, tốc độ tăng trưởng GDP
thực tế năm 2009 ước chỉ giảm 2,7%, mặc dù đã bị giảm sút tới hơn 6% vào
quý I. Tốc độ suy giảm kinh tế năm 2009 ở khu vực đồng ơ-rô và Nhật Bản
được dự báo là trầm trọng hơn so với ở Mỹ và tương ứng là -4,2% và 5,4%.
Tuy nhiên mức dự báo này đã được cải thiện đáng kể so với mức dự báo vào
tháng 7-2009 - cao hơn tới 0,6% đối với cả hai khu vực.
- Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu tác động lên các nền kinh tế đang
pháttriển theo ba kênh chính. Ðó là thương mại, tài chính và đầu tư quốc tế
và nguồn tiền chuyển về nước. Do mức độ phụ thuộc của quá trình phát triển
kinh tế của mỗi nước vào các kênh tác động trên là khác nhau, khả năng khắc
phục những hậu quả tiêu cực của cuộc khủng hoảng và sự phục hồi kinh tế
của họ cũng khác nhau. Trong nhóm các nước thuộc Cộng đồng Các quốc gia
độc lập, những nước xuất khẩu năng lượng ròng (bao gồm A-déc-bai-gian,
Ca-dắc-xtan, Nga, Tuốc-mê-ni-xtan và U-dơ-bê-ki-xtan) có mức giảm tăng
trưởng thấp hơn so với các nước nhập khẩu năng lượng ròng (bao gồm
Ácmê-ni-a, Bê-la-rút, Cư-rơ-gư-xtan, Môn-đô-va, Tát-gi-ki-xtan và U-crai-
na) - tương ứng là -6,1% và -9,6%. Một nguyên nhân khá cơ bản làm cho sự
phục hồi chậm hơn ở phân nhóm thứ hai vì phát triển kinh tế ở nhiều nước
trong số họ phụ thuộc quá nhiều vào nguồn tiền chuyển về nước.
2. Năm 2010
- Kinh tế thế giới bước vào năm 2010 với nhiều rủi ro, biến động do ảnh
hưởng rơi rớt lại từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và suy thoái kinh tế
thế giới 2007 - 2009. Dù giai đoạn tồi tệ nhất của cuộc khủng hoảng kinh tế
đã trôi qua nhưng ảnh hưởng của nó vẫn khá nghiêm trọng, khiến nền kinh tế
toàn cầu năm qua phải trải qua nhiều biến cố. Trong năm 2010, kinh tế thế
giới tiếp tục phục hồi chậm chạp. Năm 2010 cũng đánh dấu những diễn biến
khác thường về tỷ giá của USD, ơro, yên Nhật – những đồng tiền quan trọng
trên thế giới. Khu vực đồng euro lâm vào cuộc khủng hoảng nợ nần lOMoAR cPSD| 58591236
- Giữa năm 2009, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) dự đoán, trong năm 2010 kinh tế
thế giới sẽ chỉ tăng 1,9%, trong đó các nước phát triển hầu như dậm chân tại
chỗ. Tuy nhiên, trong báo cáo mới nhất, tổ chức này ước tính sản lượng nền
kinh tế toàn cầu tăng tới 4,8%, cao hơn trung bình mấy năm gần đây. Tăng
trưởng GDP của nhóm các nước phát triển ước đạt hơn 2,7% và của nhóm
các nước đang phát triển đạt 7,1%. Kinh tế tại nhiều quốc gia đạt mức tăng
trưởng khả quan, thúc đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế chung của thế giới. Mặc
dù bị tác động từ cuộc khủng hoảng nợ Hy Lạp nhưng nền kinh tế Mỹ nhìn
chung vẫn trong tiến trình phục hồi kể từ cuối năm 2009 với mức tăng tưởng
GDP trong quý III/2010 đạt 2,5%. Mức tăng trưởng này có được là nhờ xuất
khẩu và chi tiêu dùng tăng khá (chi tiêu tiêu dùng tăng 2,8%, mức tốt nhất kể
từ năm 2006. Xuất khẩu cũng tăng mạnh 6,3%). Mức phục hồi trung bình
của Mỹ trong hơn 30 năm qua là 3,6% và tăng trưởng cần phải cao hơn mức
này để có thể giảm đáng kể tỷ lệ thất nghiệp.
- Cùng với tốc độ tăng GDP nhanh hơn dự đoán, nền kinh tế toàn cầu trong
năm qua cũng lấy lại được nhiều tài sản đã mất trong cuộc khủng hoảng “cả
đời người mới gặp một lần”. Điểm nổi bật là giá trị thương mại toàn cầu đã
trở lại mức đỉnh cao đạt được hồi giữa năm 2008, lĩnh vực thương mại sau
khi đã giảm tới 12% trong năm 2009, mức giảm cao nhất trong lịch sử,
thương mại toàn cầu đã dần hồi phục trở lại sau khi suy giảm mạnh trong
năm 2009. Theo WTO, thương mại toàn cầu năm 2010 đạt mức tăng trưởng
13,5% thay cho mức 9,5% đưa ra hồi tháng 4/2010. Theo WTO, đây là đà đi
lên nhanh nhất trong lịch sử thương mại toàn thế giới và là bước nhảy vọt so
với năm 2009. Theo Tổ chức Hợp tác Phát triển Kinh tế (OECD), thương mại
toàn cầu sẽ tiếp tục tăng 8,3% trong năm tới, nhất là ở các nước châu Á và
Braxin. Điều này cho thấy cuộc suy thoái đã không làm sống lại những “thây
ma chủ nghĩa bảo hộ thương mại” như nhiều người từng lo sợ.
- Năm 2010 được coi là năm của các thị trường đang nổi: Ấn Độ, Trung Quốc
cùng các nước khổng lồ đang nổi lên khác đã khẳng định được sự hiện diện
của họ trong G-20, nhóm hiện được coi là câu lạc bộ đưa ra các quyết định
toàn cầu. Châu Á là khu vực có tốc độ tăng trưởng mạnh và được đánh giá là
động lực phục hồi kinh tế thế giới, trong đó các quốc gia Đông á phục hồi
mạnh mẽ nhất (tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc đạt 11%, của Xin-gapo
đạt tới 18% trong những tháng đầu năm). Điều này chứng tỏ các nền kinh lOMoAR cPSD| 58591236
tế đang phát triển không còn hoàn toàn lệ thuộc vào người tiêu dùng ở các
nước phát triển như trước nữa. Ngoài ra, thực tế trên còn phản ánh một sự
thay đổi lớn về vai trò và vị trí tương quan giữa các nền kinh tế trên thế giới.
Nhóm các cường quốc G7 đã không thể hiện được vai trò dẫn dắt trong việc
xử lý những vấn đề mang tính toàn cầu như trước. Thay vào đó họ cần tới
các thành viên còn lại trong Nhóm G20 – tập hợp các nền kinh tế phát triển
và mới nổi – để cùng bàn bạc, trao đổi và phối hợp trong các chính sách đối
phó với khủng hoảng. Đặc biệt trong nhóm các nền kinh tế đang phát triển
ghi nhận sự ảnh hưởng lớn lao của khối BRIC (bao gồm các nước đang trỗi
dậy mạnh mẽ là Braxin, Nga, Ấn Độ và Trung Quốc) và tiếp đến là khối
CIVET (bao gồm các ngôi sao đang lên là Côlômbia, Inđônêxia, Việt Nam,
Ai Cập, Thổ Nhĩ Kỳ và Nam Phi).
- Trung Quốc và Ấn Độ được coi là những đầu tàu của các nền kinh tế
đangnổi. Cách đây 1 năm, các quốc gia công nghiệp phát triển (G8) đã lãnh
đạo cả thế giới, trong đó phải kể đến vai trò của Mỹ và Liên minh châu Âu
(EU). Ngày nay, trọng tâm của thế giới dường như lại nghiêng sang châu Á
và năm 2010 càng có nhiều cơ sở để chứng minh điều này. Mặc dù còn nhiều
nguy cơ ở phía trước, nhưng giới quan sát cho rằng hai nước đông dân nhất
thế giới là Trung Quốc và Ấn Độ dường như có khả năng “định nghĩa”
những thập kỷ sắp tới, sau Thế kỷ Mỹ và Thế kỷ Anh trước đây.
- Tuy nhiên, theo đánh giá của các chuyên gia, thị trường tài chính, tiền tệ thế
giới vẫn biến động phức tạp, khó lường. Thị trường tài chính - tiền tệ thế giới
vẫn còn tiềm ẩn nhiều bất ổn. Trong 7 tháng đầu năm có khoảng 40 ngân
hàng tại Mỹ đã phá sản, có những ngày có tới 4 ngân hàng đồng loạt phá sản.
Tỷ giá giữa một số ngoại tệ mạnh trên thế giới biến động mạnh (đồng euro
giảm giá tới gần 20% trong vòng 2 tháng, đồng yên Nhật lại tăng lên mức
cao nhất trong vòng 15 năm qua so với đồng USD) đã tác động tới cán cân
thanh toán quốc tế, dòng chảy vốn và thương mại quốc tế, đe dọa sự ổn định
của hệ thống tài chính toàn cầu. Trong khi đó, nguy cơ lạm phát đang tăng tại
một số nước chủ yếu do việc tăng giá năng lượng (chỉ số giá tiêu dùng tại
Trung Quốc tháng 7-2010 tăng 3,3% so với cùng kỳ năm trước, mức cao nhất
kể từ tháng 10-2008; bên cạnh đó bong bóng thị trường bất động sản tại một
số nước, như Trung Quốc, Ấn Độ, Bra-xin cũng đang đe dọa sự ổn định và lOMoAR cPSD| 58591236
phục hồi kinh tế của các nước này nói riêng và nền kinh tế toàn cầu nói chung.
- Vấn đề cấp bách nhất hậu khủng hoảng với nhiều quốc gia là tình trạng thâm
hụt ngân sách và nợ công tăng cao do những gói kích thích kinh tế khổng lồ.
Mức nợ công của Hy Lạp, thành viên EU, đã lên tới 300 tỉ euro (113% GDP)
và thâm hụt ngân sách dự báo là 13% GDP (cao gấp bốn lần so với quy định
của EU) khiến nước này đã buộc phải kêu gọi sự giúp đỡ của EU và Quỹ
Tiền tệ quốc tế (IMF). Nhiều quốc gia châu Âu khác cũng đang lâm vào tình
trạng báo động cao khi mức nợ đều chiếm khoảng 90% - 100% GDP như I-
ta-li-a, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha... Nợ công của Mỹ lên tới 12,5 ngàn tỉ
USD (hơn 90% GDP) và Chính phủ nước này phải đề nghị Quốc hội nâng nợ
trần quốc gia lên 14,3 ngàn tỉ USD (thêm 1,9 ngàn tỉ USD).
- Sau nhiều tháng chống chọi với “cơn bão” nợ, những chính sách kinh tế táo
bạo với nhiều gói kích thích khổng lồ từ các nền kinh tế mạnh do Đức làm
“đầu tàu” đã giúp châu Âu dần trở lại quỹ đạo ổn định. Tình trạng thâm hụt
ngân sách tại các quốc gia có nguy cơ vỡ nợ cao đã giảm sau khi nhận được
hỗ trợ từ bên ngoài (thâm hụt ngân sách 6 tháng đầu năm 2010 của Hy Lạp
giảm 42%). Niềm tin của các nhà đầu tư với khu vực này đang lạc quan trở
lại, thể hiện qua việc trái phiếu chính phủ của các quốc gia châu Âu (kể cả
những nước vừa mới thoát khỏi tình trạng báo động về khủng hoảng nợ) đều
được đấu thầu thành công và đồng ơ-rô đã lên giá mạnh kể từ đầu quý III
năm 2010 đến nay, sau khi giảm kỷ lục trong quý II/2010./.
3. 2011 - 2015
Khủng hoảng kinh tế toàn cầu bắt đầu từ năm 2008 đến nay đã trôi qua 6 năm
nhưng kinh tế thế giới vẫn biến động đầy bất ổn. Tăng trưởng kinh tế khó khăn,
thất nghiệp tăng cao, hoạt động thương mại suy giảm, dòng vốn có nhiều biến
động, nợ công có xu hướng gia tăng mạnh,… là những hệ lụy vẫn tiếp tục kéo
dài sang giai đoạn mới và khiến kinh tế toàn cầu phải đối mặt với muôn vàn khó khăn. lOMoAR cPSD| 58591236
A. Tăng trưởng trong khó khăn, nhất là các nước phát triển
- Kinh tế thế giới sau khi bắt đầu lấy lại đà tăng trưởng đạt mức 5,1% trong
năm 2010 đã nhanh chóng giảm sâu xuống còn 3,9% vào năm 2011. Đà sụt
giảm này tiếp tục kéo dài sang hai năm tiếp theo với mức tăng trưởng rơi
xuống còn 3,2% trong 2 năm 2012 – 2013. Và tăng trưởng chỉ bắt đầu có dấu
hiệu phục hồi trở lại với mức tăng nhẹ ước đạt khoảng 3,4% vào năm 2014,
và dự báo đạt khoảng 3,9% vào năm 2015. Như vậy, có thể thấy đến thời
điểm hiện tại tăng trưởng kinh tế toàn cầu hiện vẫn đang ở mức thấp hơn
nhiều so với mức tăng trưởng trung bình đạt xấp xỉ 5% giai đoạn trước khủng
hoảng tài chính toàn cầu.
- Bức tranh màu xám của tăng trưởng được ghi nhận ở hầu hết các nhóm nước.
Tại các nền kinh tế phát triển, tăng trưởng chuyển biến hết sức chậm chạp
trong hai năm đầu 2011 – 2012, và chỉ bắt đầu có dấu hiệu lấy lại đà phục hồi
từ năm 2013, tuy nhiên quá trình phục hồi vẫn còn khá mong manh. Đối với
các nền kinh tế đang phát triển và mới nổi, tình hình dường như cũng không
mấy sáng sủa hơn. Nếu như giai đoạn 2010 trở về trước, tốc độ tăng trưởng
của các nền kinh tế này được coi là động lực cho quá trình phục hồi của kinh
tế toàn cầu, thì đến giai đoạn này tốc độ tăng trưởng đã bắt đầu chậm lại.
- Cùng với xu hướng suy giảm về tốc độ tăng trưởng GDP, thương mại
toàncầu cũng đã đánh mất đà tăng trưởng, thường xuyên ở mức dưới 5%,
thấp hơn rất nhiều so với mức tăng trưởng trung bình đạt 15% giai đoạn 2005
– 2007. Bên cạnh đó, hoạt động sản xuất công nghiệp toàn cầu diễn biến
không ổn định. Chỉ số này có sự trồi sụt liên tục thậm chí có những thời điểm
giảm xuống dưới ngưỡng 50 điểm (thể hiện sự thu hẹp của hoạt động sản xuất).
- Đồng thời, giai đoạn 2011 – 2015 cũng chứng kiến sự tiếp tục đi xuống của
dòng vốn đầu tư toàn cầu (thể hiện qua chỉ tiêu tổng lượng vốn xuyên biên
giới gộp – gross cross-border capital). Dòng vốn này đã giảm liên tục từ mức
đỉnh điểm 11,8 nghìn tỷ USD vào năm 2007, tương đương xấp xỉ 20% GDP
toàn, xuống còn chưa đến 2 nghìn tỷ USD vào năm 2009, sau đó bắt đầu
phục hồi trở lại đạt mức 6,1 nghìn tỷ trong năm 2010 nhưng lại tiếp tục giảm
xuống còn 5,3 nghìn tỷ năm 2011, 4,6 nghìn tỷ năm 2012 và hiện chỉ dao lOMoAR cPSD| 58591236
động ở mức khoảng 4 nghìn tỷ USD, tức là chỉ bằng 1/3 so với mức đỉnh của
năm 2007, và tương đương khoảng 6% GDP toàn cầu.
B. Lạm phát giảm đan xen nguy cơ giảm phát
- Giai đoạn 2011 – 2015 cũng ghi nhận những xu thế chuyển biến mang tính
tích cực. Trước hết, trái với những giai đoạn trước đây khi kinh tế thế giới
tăng trưởng nóng, lạm phát luôn là một thách thức đối với việc duy trì sự ổn
định của kinh tế toàn cầu, giai đoạn 2011 – 2015 vừa qua, sức ép lạm phát
không quá lớn, thậm chí lạm phát có xu hướng giảm ở mức thấp hơn mục
tiêu đặt ra ở các nước phát triển, đặt các quốc gia này vào tình trạng phải đối
mặt với rủi ro giảm phát trên diện rộng. Lạm phát chỉ có xu hướng gia tăng
trong năm 2011 với mức tăng đạt đỉnh 5,2% trước các áp lực biến động từ
các yếu tố nguồn cung, tuy nhiên lại duy trì xu hướng giảm liên tục trong
suốt những năm còn lại, và hiện chỉ dao động ở mức 3,8%.
- Xu hướng lạm phát giảm được ghi nhận ở tất cả các nhóm nước, đặc biệt tại
các nền kinh tế phát triển. Đối với nhóm nước này, lạm phát giai đoạn 2011
đến nay thường xuyên dao động ở dưới mức mục tiêu 2% và hiện vẫn đang
tiếp tục xu hướng đi xuống. Đối với nhóm nước đang phát triển và mới nổi,
xu hướng lạm phát cũng có chiều hướng chung đi xuống nhưng mức độ biến
động khác nhau giữa các nước. Trong khi một số nền kinh tế như Brazil,
Indonesia, Ấn Độ vẫn phải đối mặt với áp lực lạm phát khá cao và phải tiếp
tục thực hiện các chính sách thắt chặt để kiềm chế lạm phát thì ngược lại một
số nền kinh tế như Trung Quốc, Thái Lan, lạm phát lại giảm tốc khá nhanh và
hiện còn đang đứng trước cảnh báo về rủi ro giảm phát.
- Lạm phát không có nhiều biến động trong giai đoạn 2011 – 2014 là do cácáp
lực đối với lạm phát từ phía cung cũng như phía cầu là không quá lớn. Về
phía cung, giai đoạn 2011 – 2014 giá cả các yếu tố đầu vào không có sự biến
động quá mạnh, đặc biệt hình thành xu hướng giảm từ năm 2013 trở lại đây.
Năm 2014 là năm ghi nhận mức giảm kỷ lục của giá cả các yếu tố đầu vào,
theo đó, chỉ số giá hàng hóa chung giảm xấp xỉ 30%, chỉ số giá lương thực
thực phẩm giảm 6,3% trong khi giá năng lượng giảm đến xấp xỉ 39%. Đà sụt
giảm này tiếp tục kéo dài sang năm 2015 khi chỉ trong vòng 3 tháng đầu năm
2015, giá các mặt hàng hóa chung đã giảm 11,3%; trong đó giá lương thực
thực phẩm giảm hơn 9% và giá năng lượng giảm xấp xỉ 14%. lOMoAR cPSD| 58591236
- Về phía cầu, sức ép lạm phát cũng không thực sự rõ ràng. Kinh tế thế giới
chậm phục hồi thể hiện ở cả hoạt động thương mại giảm sút và sản xuất công
nghiệp đình đốn cho thấy tổng cầu thế giới ở mức thấp trong giai đoạn vừa
qua. Sức ép lạm phát từ phía cầu chỉ đến trong một số thời điểm nhất định
khi các nền kinh tế lớn liên tục tung ra các gói kích thích kinh tế, đồng nghĩa
với việc một lượng tiền lớn được bơm ra toàn cầu đã tạo áp lực dịch chuyển
các dòng vốn nóng, đặc biệt vào các thị trường mới nổi.
D. Những tác động đối với thị trường tài chính tiền tệ toàn cầu
- Những diễn biến chủ đạo của kinh tế toàn cầu giai đoạn 2011 – 2015 đã chi
phối và ảnh hưởng mạnh đến thị trường tài chính tiền tệ toàn cầu, trong đó
đáng chú ý là diễn biến của các thị trường ngoại hối, thị trường vàng và thị trường chứng khoán.
- Trong giai đoạn vừa qua, những biến động trái chiều của kinh tế toàn cầu đã
tác động lên thị trường ngoại hối quốc tế, khiến các đồng tiền mạnh trong
quỹ dự trữ quốc tế có những biến động phức tạp, trong đó đáng chú ý là diễn
biến của đồng USD, đồng JPY và đồng EURO.
- Vào năm 2011, 2012, sự chuyển biến chậm chạp về mặt kinh tế cộng với
những của thị trường tài chính trong nước đã đẩy đồng USD vào xu hướng
tiếp tục mất giá so với hầu hết các đồng tiền mạnh khác, thậm chí đã mất giá
mạnh so với đồng EURO ngay cả thời điểm kinh tế khu vực đồng tiền chung
Châu Âu lao dốc, chỉ số đồng USD đã có lúc giảm giá mạnh dưới mức 75,
thấp hơn nhiều so với mức lớn hơn 90 vào thời điểm hiện nay. Mặc dù không
diễn ra liên tục nhưng xu hướng mất giá này của đồng USD đã kéo dài hơn
một thập kỷ, và vào nhiều thời điểm của năm 2011 có nhiều lo ngại về niềm
tin vào đồng USD sẽ bị sụp đổ có thể sẽ đặt thị trường tài chính toàn cầu vào những rủi ro lớn.
- Tại khu vực Châu Âu, sự thiếu vắng các chính sách hiệu quả và sự gắn
kếtgiữa các nước trong việc giải quyết vấn đề nợ công đã tạo áp lực lên đồng
EURO, làm cho đồng tiền chung của khu vực Châu Âu lên xuống trồi sụt,
không ổn định. Trong khi đó, chính sách kinh tế mới của chính quyền Thủ
tướng Anbe và trận động đất của Nhật bản đã tác động làm cho đồng yên
Nhật lên giá so với cả đồng USD và EURO, cho dù NHTW Nhật bản đã có
những can thiệp để kiềm chế sự tăng gia này. Đồng thời, những biến động lOMoAR cPSD| 58591236
của dòng vốn trên toàn cầu đã tạo nên sự bất ổn mạnh trên thị trường ngoại
hối tại các nước đang phát triển. Dòng vốn đầu tư gia tăng mạnh cũng đã tạo
áp lực giảm giá đồng nội tệ tại Brasil, Nga, Nam phi, Indonexia,...
- Tuy nhiên, bước sang năm 2013, 2014, thị trường lại ghi nhận xu hướng
phục hồi của đồng USD, sự giảm giá của đồng JPY và xu hướng giảm giá
của đồng EURO và các đồng tiền của các nền kinh tế mới nổi. Sự phục hồi
của kinh tế Mỹ và khả năng cắt giảm mạnh các gói QE được phát tín hiệu
vào năm 2013 đã tác động đến diễn biến của đồng USD trên thị trường ngoại
hối. Xu hướng tăng giá của đồng USD đã bắt đầu hình thành liên tục và ổn
định từ cuối tháng 7/2014. Tính cho đến thời điểm hết quý I năm 2015, đồng
USD đã tăng khoảng 17% so với đồng Euro; 12,5% so với đồng Yên Nhật so với cùng kỳ năm 2014.
- Ngược lại, do tác động của chính sách siêu nới lỏng tiền tệ, đồng JPY đã
giảm mạnh so với đồng USD, chỉ trong vòng 6 tháng (cuối năm 2012 đến
những tháng đầu năm 2013), đồng JPY đã mất giá hơn 20% so với đồng
USD và tiếp tục xu hướng giảm cho đến thời điểm hiện nay. Đồng JPY bị
mất giá mạnh đã đặt áp lực lên lên hoạt động xuất khẩu của các nước Đông Á
cho dù mức độ bao phủ của tác đông này là chưa chắc chắn.
- Bên cạnh đó, sự mờ nhạt của các hoạt động cứu trợ tài chính và sự yếu kém
của hoạt động kinh tế tại khu vực Châu âu đã chi phối diễn biến không ổn
định của đồng EURO, đồng tiền này đã có lúc lên giá mạnh từ mức 1.2 vào
giữa năm 2012 lên khoảng 1.4 trong đầu năm 2014, xong hiện tại đã quay lại
xấp xỉ mức xuất phát. Đồng tiền của các nền kinh tế mới nổi vẫn tiếp tục mất
giá mạnh so với đồng USD trong năm 2013 và đã giảm ổn định hơn vào năm 2014.
- Những biến động tiền tệ đã đem đến những bất ổn của thị trường ngoại hối
và còn có ảnh hưởng đáng kể đến hoạt động của khu vực kinh tế thực (hoạt
động của các doanh nghiệp). Bên cạnh đó, những biến động tiền tệ, đặc biệt
là của đồng USD, cũng tác động tới xu hướng và sự giao động của giá cả trên
thị trường hàng hóa. Xu hướng giảm giá trong dài hạn của đồng USD sẽ làm
trầm trọng hơn xu hướng tăng giá của hàng hóa vào năm 2011, 2012 và
ngược lại trong năm 2013, 2014 và những tháng đầu năm 2015. Mặt khác sự
không ổn định của giá cả hàng hóa sẽ làm gia tăng mức độ tài chính hóa trên lOMoAR cPSD| 58591236
thị trường này, khuyến khích các hoạt động đầu tư tài chính tràn sang thị
trường giao dịch hàng hóa tương lai.
- Tuy nhiên bước sang năm 2013, sự phục hồi rõ ràng tại các nền kinh tế phát
triển, đặc biệt là Mỹ và sự lên giá của đồng đôla đã khiến giá vàng đã giảm
liên tục, kết thúc năm, giá vàng giao dịch đã giảm xuống ở mức trên 1200
USD/ounce từ mức trên 1600 USD/ounce vào cuối năm 2012. Bước sang
năm 2014, do tác động của những căng thẳng địa chính trị và các quyết sách
điều hành chưa rõ ràng tại khu vực Châu Âu và một số nền kinh tế lớn khác
nên giá vàng đã chấm dứt xu hướng giảm giá, gần như tăng trong 3 quý đầu
năm, giao động trong ngưỡng 1230 - 1330 USD/ounce và chỉ bắt đầu xu
hướng giảm giá vào 3 tháng cuối năm, ở mức < 1200 USD/ounce. Bước sang
năm 2015 giá vàng tiếp tục có những dao động tăng giảm và hiện đang ở
mức giao dịch khoảng 1205 USD/ounce.
- Sự biến động không ổn định của giá vàng trong thời gian vừa qua đã phản
ảnh những tín hiệu không ổn định của kinh tế toàn cầu, đồng thời sự lên giá
quá mạnh của vàng cũng đã có ảnh hưởng bất lợi đối với giá trị đồng nội tệ
(tỷ giá) của những nước có nhu cầu nhập khẩu và đầu cơ vàng cao như Ấn
độ, Trung Quốc, Việt Nam,….
- Trong khi thị trường vàng và thị trường ngoại tệ chứng kiến những dao động
bất ổn định thì ngược lại, thị trường chứng khoán giai đoạn 2011 đến nay lại
ghi nhận những tín hiệu phục hồi mạnh mẽ. Với việc triển khai đồng loạt các
gói QE tại một loạt các thị trường phát triển như Mỹ, Anh, Nhật và EU đã
khiến một lượng thanh khoản lớn được bơm vào nền kinh tế, đồng thời việc
duy trì một môi trường chính sách nới lỏng liên tục đã khiến các tài sản tài
chính tăng giá, trong đó thị trường chứng khoán của các nước này liên tục
tăng trưởng mạnh mẽ sau giai đoạn khủng hoàng tài chính toàn cầu. Bên
cạnh đó, không chỉ thị trường chứng khoán tại các quốc gia phát triển gia
tăng, mà dòng tiền giá rẻ này còn chảy đến các thị trường đang phát triển và
mới nổi, khiến thị trường chứng khoán toàn cầu nhìn chung hồi phục khá tốt
sau khủng hoảng. Tuy nhiên, một điểm đáng chú ý cần phải nhận thấy đó là
mặc dù cùng mang xu thế tăng giá chung trong cả giai đoạn, tuy nhiên tại các
thị trường khác nhau có thể chứng kiến những mức độ biến động khác nhau.
Trong khi tại thị trường các nước phát triển, xu thế tăng điểm được duy trì
hầu như liên tục trong suốt cả giai đoạn, thì tại các thị trường mới nổi và lOMoAR cPSD| 58591236
đang phát triển, mức độ biến động cao hơn. Điều này phù hợp với diễn biến
thực tế khi thị trường các nước đang phát triển chịu tác động mạnh hơn từ
những thay đổi chính sách tại các quốc gia phát triển cũng như từ những biến
động dòng vốn giai đoạn vừa qua.
4. Năm 2016-2018
A. Tăng trưởng kinh tế thế giới và các nền kinh tế lớn 2016-2018
- Tăng trưởng của các nền kinh tế lớn trở thành động lực dẫn dắt chung của
tăng trưởng GDP toàn cầu. Tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới trung bình
năm 2016 đạt 3,3% (giảm so với mức 3,45% năm 2015), nhưng đã tăng lên
mức 3,7% vào năm 2017 và dự kiến đạt mức 3,8% vào năm 2018.
- Kinh tế Mỹ tăng trưởng chậm trong năm 2016 (đạt mức 1,48%), tuy nhiên
phục hồi mạnh mẽ ở mức 2,22% năm 2017 và dự kiến ở mức 2,9% năm
2018. Lạm phát thấp (0,2%) và thất nghiệp cao (4,6%) năm 2016 đã được cải
thiện rõ rệt vào năm sau đó và đến năm 2018 đã đạt mức kỳ vọng của Chính
phủ nhờ các biện pháp kích thích tài khóa. Thâm hụt thương mại của Mỹ
giảm, năng suất lao động tăng. Chỉ số PMI trong năm 2018 của Mỹ trung
bình ở mức 53 điểm. Mỹ tiếp tục lộ trình tăng lãi suất, mức lãi suất cơ bản
đồng USD đã được tăng 8 lần từ cuối năm 2015 đến nay, từ mức 0-0,25%
(12/2015) lên mức 2-2.5% (2018).
- Kinh tế châu Âu, sau một giai đoạn trì trệ, năm 2016 đạt mức 1,78%,
phụchồi vào năm 2017 (2,52%) và 2018 (dự kiến đạt mức 2,2%). Hoạt động
kinh doanh khu vực Eurozone tiếp tục tăng với tốc độ nhanh trong 9 tháng
đầu năm 2018; áp lực về giá và tăng trưởng việc làm vẫn duy trì ở mức cao.
PMI tổng hợp của khu vực Eurozone tuy giảm nhưng vẫn duy trì ở mức cao
so với 7 năm gần đây (dao động ở mức 53-54 điểm). Tỷ lệ lạm phát năm
2018 dự báo đạt 1,72%. Tuy nhiên, châu Âu vẫn tiềm ẩn nguy cơ khủng
hoảng do đường lối dân túy, dân tộc chủ nghĩa. Tại rất nhiều nước thành viên
(gồm Ý, Hungary, Hy Lạp, Ba Lan, Italy, CH Czech, Cyprus, Slovakia,
Estonia, Litva và Bulgaria), các đảng dân túy và dân tộc chủ nghĩa đang tái
định hình lại môi trường chính trị buộc các đảng phái truyền thống phải đối
mặt với các vấn đề mới, đồng thời phải tìm kiếm các liên minh mới nhằm lOMoAR cPSD| 58591236
củng cố và tăng cường ảnh hưởng. Sau gần 2 năm cuộc trưng cầu ý dân về
Brexit và 4 tháng trước thời hạn Anh sẽ rời EU, tiến trình của việc Anh rút
khỏi EU đã bước vào giai đoạn quyết định. Trong những ngày cuối năm 2018
và đầu năm 2019, thoả thuận Brexit của Chính phủ đã bị bác bỏ, đưa ra một
viễn cảnh nước Anh rời EU mà không có một thoả thuận nào.
- Dù thực hiện gói kích thích kinh tế theo chính sách Abenomics[1] từ 2015
song kinh tế Nhật Bản vẫn tăng trưởng tương đối yếu do có phục hồi nhưng
tiềm ẩn nhiều rủi ro trong giai đoạn 2016-2018. Năm 2016, tăng trưởng GDP
chỉ đạt mức 0,97%. Bước sang 2017 và 2018 đã có dấu hiệu khả quan hơn
nhờ việc phục hồi tiêu dùng cá nhân, GDP tăng trưởng ở mức 1,7% trong
năm 2017 và dự kiến đạt mức 1,12% trong năm 2018. Chỉ số lạm phát luôn
duy trì ở mức dương trong 2 năm cuối[2]. Tỷ lệ thất nghiệp ổn định trong
năm 2018 quanh mức 2,5%. Chỉ số Nikkei Japan Manufacturing trung bình
năm 2018 dự báo trên mức 50 điểm.
- Tại Trung Quốc, nhờ việc thực hiện các biện pháp để ổn định tăng trưởng,
như nới lỏng tỷ lệ bội chi ngân sách từ 2,3% GDP năm 2015 lên 3% trong
năm 2016, cải cách giảm thuế và phí cho doanh nghiệp, tung các gói đầu tư
hạ tầng quy mô lớn, kinh tế Trung Quốc tăng trưởng khá khả quan năm 2016
(đạt mức 6,72%) và 2017 (6,85%). Tuy nhiên, năm 2018, kinh tế Trung Quốc
tiềm ẩn nhiều rủi ro trong bối cảnh xung đột thương mại với Mỹ trở nên căng
thẳng (dự kiến GDP chỉ ở mức 6,6%). Đầu tư vào tài sản cố định của Trung
Quốc đã chậm lại nhiều hơn so với dự báo, xuống còn 5,3% trong 8 tháng
đầu năm 2018, phản ánh nhu cầu nội địa yếu đi và niềm tin kinh doanh sụt
giảm. Đặc biệt, Trung Quốc không đạt mục tiêu về doanh số bán lẻ, trong
tháng 08/2018 chỉ tăng 9% so với cùng kỳ năm 2017, thấp hơn mức tăng dự
đoán 9,1% và chỉ hơn 0,2 điểm % so với tháng trước đó. Đồng NDT giảm giá
liên tiếp. Trong bối cảnh giá trị đồng USD đang dần mạnh lên vào Quý
II.2018, dự trữ ngoại hối của Trung Quốc đã có những xu hướng giảm nhẹ
trong 6 tháng đầu năm, đạt 3.112,1 tỷ USD vào cuối quý II/2018 so với 3.140
tỷ USD vào cuối tháng 12/2017. Trong bối cảnh đó, Trung Quốc tiếp tục bơm
tiền vốn vào nền kinh tế trong nước nhằm làm dịu bớt sự lo ngại trên thị
trường về cuộc chiến thương mại giữa Trung Quốc và Mỹ bằng cách cắt
giảm mức dự trữ bắt buộc cho các ngân hàng. Theo Ủy ban Quản lý Ngân
hàng và Bảo hiểm Trung Quốc (CBIRC), các ngân hàng thương mại của lOMoAR cPSD| 58591236
nước này đã bơm khối lượng tín dụng mới bằng đồng NDT lên tới 1.450 tỷ
NDT (210,84 tỷ USD) trong tháng 7/2018, cao hơn mức dự kiến của giới phân tích.
- Các nền kinh tế đang nổi: Có xu hướng tăng trưởng khả quan trong giai
đoạn 2016-2018 nhờ nhu cầu thế giới tăng mạnh (Bảng 1). Nga tăng trưởng
mạnh vào năm 2017 đạt 1,5% sau khi giảm 0,2% trong năm 2016 nhờ tăng
tiêu dùng tư nhân. Kinh tế Nga phục hồi sau nhiều năm suy giảm nhưng vẫn
đang phải đối mặt với những bất lợi do Mỹ tuyên bố sẽ áp đặt các biện pháp
trừng phạt mới đối với Nga. Ấn Độ có tốc độ tăng trưởng dự kiến vượt Trung
Quốc trong năm 2018 nhờ tăng trưởng trong nông nghiệp, sản xuất và xây dựng.
B. Xu hướng kinh tế, địa chính trị toàn cầu
- Đối với địa chính trị: Giai đoạn 2016-2018 đã diễn ra một loạt các sự kiện có
ý nghĩa quan trọng và có tác động sâu rộng đến kinh tế chính trị thế giới,
như: cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ với thắng lợi của ông Donald Trump vào
cuối năm 2016; sự kiện Anh rút khỏi EU (còn được gọi là sự kiện Brexit);
Trung Quốc tăng cường chiến lược nâng tầm ảnh hưởng bằng việc đưa ra
một loạt sáng kiến tham vọng, lấy Trung Quốc làm trung tâm như Sáng kiến
“Một vành đai, một con đường” (BR), Chiến lược “Made in China 2025”.
Tất cả các sự kiện này đã, đang hình thành một số xu hướng lớn tác động sâu
rộng đến kinh tế thế giới trong giai đoạn 2016-2018.
- Xu hướng chống toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ với chủ nghĩa bảo hộ hiện
hữu rõ nét. Điển hình là Mỹ, với chủ nghĩa “nước Mỹ trên hết” đã đề cao các
cam kết thương mại song phương hơn là đa phương. Ngày 24/01/2017, Mỹ
chính thức rút khỏi đàm phán Hiệp định xuyên Thái Bình Dương (TPP).
Ngày 17/07/2017, Mỹ chính thức công bố việc đàm phán lại Hiệp định
Thương mại tự do Bắc Mỹ (NAFTA) nhằm ngăn chặn tình trạng thao túng tỷ
giá tiền tệ. Qua 7 vòng đàm phán, các quốc gia mới chỉ hoàn tất được 6/33
chương của Hiệp định. Quá trình đàm phán căng thẳng giữa 3 nước lần đầu
tiên đã có một bước tiến tích cực với thỏa thuận sơ bộ đạt được giữa Mỹ và
Mexico ngày 27/08/2018. Việc đàm phán được hoàn tất vào cuối tháng
09/2018 và đến ngày 30/11/2018, ba nước Mỹ, Mexico và Canada đã chính lOMoAR cPSD| 58591236
thức ký Hiệp định Mỹ - Mexico - Canada (USMCA), phiên bản mới của
Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ (NAFTA). Tương tự như vậy, Mỹ
cũng đã hoàn tất sửa đổi FTA với Hàn Quốc
- Chủ nghĩa dân tuý bùng nổ. Chủ nghĩa dân tuý bùng nổ. Sự kiện Anh chính
thức kích hoạt quá trình rời EU (ngày 29/3/2017) theo kết quả của cuộc trưng
cầu dân ý năm 2016 làm dấy lên sự bùng nổ mạnh mẽ của chủ nghĩa dân tuý.
Chủ nghĩa dân tuý lan rộng khắp châu Âu vào nửa đầu năm 2018với chiến
thắng sau bầu cử tại một số nước của phe cầm quyền mới ủng hộ các chính
sách chống lại công cuộc tái thiết khu vực của các nhà lãnh đạo EU. Sau
Brexit, cuộc bầu cử tại Hungary với chiến thắng của Đảng Liên đoàn Công
dân Hungary (FIDESZ) theo đường lối cánh hữu. Quá trình này cũng đang
diễn ra ở Ý và một số quốc gia khác. 5. Năm 2019
Năm 2019, kinh tế thế giới chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố bất ổn, đó là sự
trỗi dậy của chủ nghĩa bảo hộ thương mại, cuộc chiến thương mại Mỹ -
Trung Quốc, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) liên tục giảm lãi suất cơ bản,
giá dầu biến động... So với dự báo đầu năm 2019, hầu hết các số liệu của
Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Tổ chức Hợp tác và
Phát triển kinh tế (OECD) đều cho thấy tăng trưởng của nền kinh tế thế
giới trong năm 2019 giảm, chỉ ở mức 2,9%. Tăng trưởng thương mại quốc
tế cũng chỉ đạt 2,5%, mức thấp nhất trong vòng 3 năm trở lại đây.
A. Tăng trưởng của một số nền kinh tế còn nhiều thách thức
- Ở khu vực châu Mỹ, sau một năm phục hồi, nền kinh tế Mỹ phải đối mặt với
nhiều thách thức trong năm 2019 với nhiều khó khăn, phức tạp, nợ công và
nợ doanh nghiệp gia tăng, chính sách tiền tệ siết chặt, hiệu ứng từ chương
trình giảm thuế đối với hoạt động đầu tư bắt đầu suy yếu, thị trường nhà ở
không còn tích cực. Do vậy, tăng trưởng kinh tế của Mỹ chỉ đạt 2,4%, lạm
phát là 2,2%, thâm hụt ngân sách vào khoảng 960 tỷ USD, nợ công của Mỹ
là 22 nghìn tỷ USD. Thị trường lao động Mỹ tiếp tục vững ổn. Tỷ lệ thất
nghiệp ở mức 3,8%, thu nhập của người lao động tăng trên 3%.
- Về kinh tế đối ngoại, cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung Quốc không phảilà
xung đột duy nhất của Mỹ với các đối tác. Đối với Liên minh châu Âu lOMoAR cPSD| 58591236
(EU), việc đàm phán Hiệp định thương mại tự do xuyên Đại Tây Dương
(TTIP) giữa hai bên vẫn còn khác biệt lớn trong lĩnh vực nông nghiệp. Trong
khi đó, căng thẳng thương mại Mỹ - Ấn Độ chưa được giải quyết. Hiệp định
Mỹ - Mexico - Canada (USCMA) vẫn chưa được Quốc hội Mỹ phê chuẩn.
Hiệp định thương mại tự do (FTA) Mỹ - Nhật Bản trong tháng 1-2020 mới
có hiệu lực. Ngày 2-12-2019, Tổng thống Mỹ D. Trump thông báo áp thuế
quan đối với các mặt hàng thép và nhôm nhập khẩu từ Brazil và Argentina vì
hai nước này đã phá giá mạnh đồng tiền và gây thiệt hại cho các doanh
nghiệp Mỹ (2). Đồng thời, Mỹ tiếp tục trừng phạt các nước Nga, Venezuela,
CHDCND Triều Tiên, Iran, Cuba và Nicaragoa.
- Các nền kinh tế Mỹ Latin cũng gặp khó khăn. Argentina đang đứng trước
khủng hoảng với giá tiêu dùng tăng vọt. Đồng Peso mất giá buộc ngân hàng
nước này phải nới lỏng những hạn chế đối với sự can thiệp thị trường ngoại
hối. Tình hình đói nghèo ở Mexico vẫn còn rất nặng nề khi tỷ lệ người nghèo
vẫn chiếm 43,6% tổng số dân, tương đương 53,4 triệu người. Thậm chí có tới
9,4 triệu người thuộc diện nghèo cùng cực. Honduras và Colombia cũng rơi
vào hoàn cảnh tương tự (3).
- Đối với khu vực châu Âu, năm 2019, EU bị ảnh hưởng từ tình hình địa -
chính trị bất ổn ở một số nền kinh tế, như tình trạng biểu tình kéo dài tại
Pháp, tiến trình Anh rời khỏi EU (Brexit) vẫn chưa được giải quyết... Trong
bối cảnh đó, EU đã đưa ra các định hướng chiến lược trong giai đoạn 2019 -
2024. Về kinh tế, EU củng cố vai trò của đồng euro, kêu gọi “cải thiện, hiện
đại hóa và thực hiện đầy đủ một thị trường chung”. Cụ thể, ngày 12-9-2019,
Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) đã cắt giảm lãi suất từ -0,4% xuống
mức thấp kỷ lục -0,5% nhằm kích thích tiêu dùng. Đồng thời, ECB khởi
động lại chương trình mua 20 tỷ euro trái phiếu/tháng từ tháng 11-2019 nhằm
hỗ trợ tăng trưởng kinh tế (4). Các Bộ trưởng Tài chính Khu vực đồng tiền
chung châu Âu (Eurozone) đã họp bàn về cách thức sử dụng Quỹ chung của
khối. Bên cạnh đó, mỗi nước lại có những biện pháp riêng. Pháp thông qua
thuế dịch vụ kỹ thuật số (GAFA); dự kiến, GAFA sẽ thu về 25 triệu euro tại
Pháp và hơn 750 triệu euro trên toàn thế giới. Áo cũng đồng ý với loại thuế
này (5). Trước tình hình trên, tăng trưởng kinh tế của EU trong năm 2019 vẫn
châm cḥ ạp, thấp hơn nhiều so với các dự báo đầu năm, chỉ đạt 3,2%.
Eurozone tăng trưởng 1,1% năm 2019 (6). lOMoAR cPSD| 58591236
- Về tăng trưởng của các nền kinh tế lớn tại EU, tại Anh, bất ổn từ Brexit làm
đầu tư suy giảm, song lại khuyến khích doanh nghiệp tăng cường dự trữ hàng
hóa. Chi tiêu hộ gia đình tại Anh tăng khá mạnh, bất chấp thị trường nhà ở
vẫn ảm đạm. Năm 2019, nền kinh tế Anh đạt mức tăng trưởng 1,3%, tỷ lệ
thất nghiệp giảm xuống 3,8%, mức thấp nhất kể từ năm 1970 (7).
- Tại Đức, các yếu tố tác động đến kinh tế nước này do những thách thức từsự
già hóa dân số, tình trạng thiếu vốn đầu tư và đổi mới công nghệ cao, những
quy định khắt khe trong ngành sản xuất công nghiệp ô tô,… làm cho kinh tế
nước này chỉ đạt mức tăng trưởng 0,5%. Ở Pháp, ngoài những rủi ro từ bên
ngoài, các cuộc biểu tình đã ảnh hưởng khá nhiều đến nền kinh tế nước này,
tăng trưởng chỉ đạt 1,3%. Italia đã thoát khỏi “suy thoái kỹ thuật” nhưng tăng
trưởng chỉ đạt 0,1%, mức thấp nhất trong EU do sản xuất trong nước đang
chậm lại, nợ công là 133,7% (8). Trong khi đó, sau đợt cứu trợ thứ ba kết
thúc, Hy Lạp hiện vẫn đang được giám sát. Hy Lạp tuyên bố sẽ giảm thuế
doanh nghiệp từ mức 28% hiện nay xuống 24% vào năm 2020, thuế cổ tức
cũng được giảm một nửa (9).
- Về kinh tế đối ngoại, căng thẳng thương mại Mỹ - EU là vấn đề nóng đối với
cả hai bên. Hai bên đang đề nghị đàm phán FTA, nhưng vẫn còn nhiều bất
đồng. Cũng về thương mại, EU đã công bố danh sách hàng hóa nhập khẩu trị
giá 20 tỷ USD từ Mỹ bị áp thuế quan để đáp trả việc Mỹ trợ cấp cho Tập
đoàn Boeing. Trước đó, Mỹ cho rằng EU trợ cấp cho Tập đoàn Airbus đến 11
tỷ USD. Ngày 13-9-2019, WTO đã ra phán quyết có lợi cho Mỹ trong cuộc
tranh cãi trên. Sau phán quyết này, EU phải đối mặt các khoản thuế quan mà
Mỹ áp đặt với các mặt hàng thép, nhôm, ô tô. Ngoài những vấn đề trên, EU
khẳng định, dù là đồng minh nhưng Mỹ không thể cản trở “quan hệ thương
mại hợp pháp” giữa EU và Iran.
- Đối với Nhật Bản, FTA song phương được ký với EU từ tháng 7-2018 đã
chính thức có hiệu lực từ ngày 1-2-2019. Hiệp định giúp xuất khẩu của EU
sang Nhật Bản tăng 25%, còn EU mở cửa cho các sản phẩm điện tử và ô tô của Nhật Bản.
- Đối với Trung Quốc, EU đang tìm cách cân bằng lợi ích đối với Sáng
kiến“Vành đai, Con đường” (BRI) của Trung Quốc thông qua Chiến lược kết nối lOMoAR cPSD| 58591236
Á - Âu. Đức thành lập quỹ bảo vệ các doanh nghiệp trước việc mua “không
mong đợi” của Trung Quốc. Tuy nhiên, Italia đã ký Biên bản ghi nhớ (MOU)
tham gia BRI của Trung Quốc. EU và Khối thị trường chung Nam Mỹ
(MERCOSUR) cũng đã ký thỏa thuân ṿ
ề FTA. Theo đó, 92% các dòng
thuế quan sẽ được cắt giảm trong vòng 10 năm tới.
- Đối với Nga, năm 2019, tăng trưởng kinh tế cao được coi là biện pháp
duynhất để chiến thắng đói nghèo. Nga đã chi nhiều khoản để phát triển kinh
tế, như 391 tỷ USD cho các dự án chiến lược trong giai đoạn 2019 - 2024,
540 triệu USD cho Dự án “Thành phố thông minh” (10). Về kinh tế đối
ngoại, Nga phải chịu thêm nhiều lệnh trừng phạt mới, cụ thể: EU và Mỹ
trừng phạt Nga liên quan việc bắt giữ tàu chiến của Ucraina vào cuối năm
2018. Mỹ trừng phạt các ngân hàng, tập đoàn dầu mỏ của Nga vì hợp tác với
Venezuela. Ucraina đã mở rộng các biện pháp trừng phạt nhằm vào các công
ty và công dân Nga... Tuy nhiên, Nga và Nhật Bản đang đẩy mạnh thương
mại, để đạt ít nhất 30 tỷ USD trong thời gian tới. Nga đang cùng Tổ chức các
nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) hình thành một thỏa thuận nhằm quản lý thị
trường dầu toàn cầu. Năm 2019, GDP Nga tăng 1,2% (11). 6. Năm 2020
Năm 2020 đã chứng kiến xu hướng suy giảm mạnh mẽ của hầu hết các nền
kinh tế, khu vực kinh tế trên toàn cầu. Phần lớn các nền kinh tế đều tăng
trưởng âm, ngoại trừ Trung Quốc, Ai Cập, Việt Nam.
- Cụ thể, kinh tế trong hai quý đầu năm 2020 phần lớn là tăng trưởng âm.
Xu hướng lao dốc mạnh nhất xuất hiện vào tháng 3 và tháng 4 khi các
nước đồng loạt thực hiện biện pháp đóng cửa lần đầu tiên trong nhiều
năm trước ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 bắt đầu từ Vũ Hán (Trung
Quốc). Sau đó, các hoạt động kinh tế trên toàn cầu đã dần phục hồi trở
lại vào tháng 5, tháng 6, giúp cho kinh tế của các nước, khối nước lấy
lại được đà tăng trưởng dương. Đáng chú ý, các nền kinh tế lớn đã đạt
tốc độ tăng cao, dao động từ 12 – hơn 30% trong quý III/2020. Tuy
nhiên, xu hướng tích cực này có phần chững lại, diễn biến không đồng
đều giữa các khu vực và nền kinh tế khi đợt bùng phát dịch lần thứ hai lOMoAR cPSD| 58591236
diễn ra mạnh mẽ tại các nước như Mỹ, khu vực EU, Nhật Bản và một số
nước lớn tại khu vực châu Á… Trong khi đó, các gói hỗ trợ kích thích
kinh tế mới chưa được thông qua hoặc chưa được triển khai rộng rãi.
Cùng với sự phục hồi chậm của tổng cầu, xu hướng tiết kiệm chi tiêu
nhiều hơn trong bối cảnh bất ổn chưa được kiểm soát, các quyết định
đóng cửa hoạt động kinh tế có thể có hiệu lực bất cứ lúc nào,… cũng có
ảnh hưởng nhất định lên diễn biến tăng trong quý IV/2020, cho dù giải
pháp ngăn chặn dịch bệnh - sản xuất vắc xin với kết quả thử nghiệm cao
vượt kỳ vọng tại nhiều nước đã xuất hiện vào thời điểm cuối cùng của
năm. Tăng trưởng kinh tế toàn cầu trong năm 2020 theo dự báo của IMF
đạt khoảng -4,4%, còn theo dự báo của OECD thì ở mức -4,2%.
A. Hoạt động sản xuất, dịch vụ, thương mại, đầu tư trên toàn cầu giảm mạnh,
đặc biệt trong nửa đầu năm 2020
- Diễn biến của kinh tế toàn cầu được thể hiện rõ nét thông qua các hoạt động và
dòng chảy kinh tế. Theo đó, các hoạt động trong khu vực sản xuất và dịch vụ
của các nền kinh tế đều bị thu hẹp và đạt mức thấp nhất vào tháng 4 (PMI tổng
hợp toàn cầu tháng 4 đạt 26,5 điểm). Cụ thể các chỉ số PMI trong lĩnh vực sản
xuất và phi sản xuất đồng loạt đi xuống, dưới ngưỡng mở rộng kéo dài đến hết
tháng 6/2020. Trong đó, các hoạt động trong lĩnh vực phi sản xuất thu hẹp
mạnh hơn so với khu vực sản xuất.
- Các hoạt động sản xuất có xu hướng mở rộng trở lại kể từ tháng 5 và đạt hơn
50 điểm kể từ tháng 7/2020, cải thiện mạnh mẽ nhất trong tháng 8, 9/2020 và
có xu hướng chững lại kể từ tháng 10. Tất cả diễn biến trên phụ thuộc mạnh mẽ
vào quyết định hạn chế hay nới lỏng các hoạt động kinh tế, xã hội trong đại
dịch của Chính phủ các nước trên toàn cầu. Qua đó sẽ tác động trực tiếp tới sản
lượng, đơn đặt hàng mới cả trong nước và quốc tế cũng như việc làm, giá cả,…
là những chỉ số chính cấu thành nên chỉ số PMI tổng hợp. Đáng chú ý, diễn
biến của các hoạt động sản xuất và phi sản xuất (trong đó, chủ yếu là các hoạt
động dịch vụ) vẫn chưa có được xu hướng hồi phục ổn định, đặc biệt khi chỉ số lOMoAR cPSD| 58591236
việc làm liên tục ở mức thấp sẽ có ảnh hưởng không tích cực đến diễn biến của nhu cầu.
B. Lạm phát toàn cầu vẫn ở mức thấp
- Diễn biến của lạm phát trong năm 2020 tiếp tục ở mức thấp, tại các nền kinh tế
phát triển, lạm phát dưới ngưỡng mục tiêu đặt ra là 2%, thậm chí có những
tháng chỉ số giá cả tiêu dùng thiết lập trạng thái giảm phát, kéo dài liên tục
trong một vài tháng như trường hợp của khu vực đồng tiền chung EU và Nhật
Bản. Trong khi đó, diễn biến lạm phát tại hầu hết các nền kinh tế đang phát
triển và mới nổi (ngoại trừ Ấn Độ) đã giảm mạnh trong giai đoạn đầu của đại
dịch và hiện tại đạt ở mức thấp so với dữ liệu trong lịch sử.
- Diễn biến của lạm phát trong năm 2020 cũng bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi đại
dịch COVID-19, diễn biến của giá cả hàng hóa đã giảm mạnh trong 6 tháng
đầu năm khi dịch bệnh bùng phát và lan rộng, xu hướng giảm không chỉ rõ nét
ở các nhóm hàng phụ thuộc vào tổng cầu mà diễn ra đồng thời ở các nhóm
hàng có độ nhậy thấp hơn với sự thay đổi của nhu cầu. Tiếp đến, lạm phát đã
có xu hướng tăng trong quý III và chững lại trong quý cuối của năm, đặc biệt
khi các hoạt động kinh tế có sự thay đổi khi Chính phủ các nước đưa ra các
quyết sách có ảnh hưởng đến kỳ vọng mở rộng hay thu hẹp các hoạt động kinh
tế trước diễn biến phức tạp của đại dịch. Trước tình hình đó, lạm phát của
nhóm các nền kinh tế phát triển năm 2020 dự báo ở mức 0,8%, trong khi đó, tại
nhóm các nền kinh tế đang phát triển và mới nổi ở mức 5%.
Mặc dù kinh tế toàn cầu đã suy giảm trong năm 2020 nhưng những kết quả nghiên
cứu vắc xin phòng chống dịch bệnh tại nhiều nền kinh tế như Mỹ, Nga, Anh,... vào
những tháng cuối năm cùng với việc thành công của hiệp ước thương mại Brexit giữa
Anh và EU, việc Chính quyền Mỹ ký thông qua gói cứu trợ COVID-19,... đã đem đến
hy vọng cho kinh tế thế giới. Nếu vắc xin được thử nghiệm và triển khai phổ biến
thành công, quan hệ thương mại giữa các nước lớn ổn định, cuộc sống của người dân
được đảm bảo, dịch bệnh được kiểm soát thì kinh tế toàn cầu sẽ không phải đối mặt