



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 40551442 BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
--------- - ----------
BÀI TẬP NHÓM
MÔN: LUẬT BÌNH ĐẲNG GIỚI
Đề bài: “ Bình đẳng giới trong gia đình – lý luận và thực tiễn”
Hà Nội, 2023 lOMoAR cPSD| 40551442
DANH MỤC VIẾT TẮT LHNGD
Luật Hôn nhân và gia đình BLDS Bộ Luật dân sự lOMoAR cPSD| 40551442 MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.................................................................................................................................
NỘI DUNG..............................................................................................................................
I. Khái quát chung về bình đẳng giới trong gia đình........................................................
1. Khái niệm bình đẳng giới trong gia đình.................................................................
2. Vai trò của gia đình trong nhận thức và thực hiện về bình đẳng giới....................
2.1. Trong nhận thức bình đẳng giới..............................................................................
2.2. Trong thực hiện bình đẳng giới............................................................................... 3. Ý
nghĩa của bình đẳng giới trong gia đình.............................................................. II. Nội
dung của bình đẳng giới trong gia đình.................................................................
1. Bình đẳng giới về phân công lao động trong gia đình............................................. 2.
Bình đẳng giới về tiếp cận và kiểm soát các nguồn lực trong gia đình...................
3. Bình đẳng giới về quyền quyết định các vấn đề trong gia
đình...............................
4. Bình đẳng giới về quyền được tôn trọng thân thể, nhân phẩm, danh dự, uy tín 7
III. Bình đẳng giới trong các mối quan hệ gia đình..........................................................
1. Trong quan hệ vợ chồng...........................................................................................
1.1. Vợ chồng bình đẳng với trong nhau quan hệ dân sự............................................... 1.2.
Vợ chồng bình đẳng trong quan hệ tài sản..............................................................
1.3. Vợ chồng bình đẳng với nhau trong việc thực hiện kế hoạch hóa gia đình.............
1.4. Vợ chồng bình đẳng với nhau trong việc chăm sóc con và làm việc nhà................. 2.
Giữa con trai và con gái trong gia
đình................................................................... 3.
Giữa các thành viên nam và thành viên nữ trong gia
đình................................... IV. Thực tiễn về vấn đề bình đẳng giới trong gia đình hiện
nay...................................
1. Những thành tựu đạt được..................................................................................... 2.
Những điểm còn hạn chế........................................................................................ 3.
Giải pháp nhằm nâng cao việc thực hiện chính sách bình đẳng giới.................
KẾT LUẬN........................................................................................................................... lOMoAR cPSD| 40551442
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................. lOMoAR cPSD| 40551442 MỞ ĐẦU
Bình đẳng giới là một vấn đề không quá mới nhưng đã tồn tại và gây nên nhiều
tranh cãi trên phạm vi toàn thế giới đã từ rất lâu. Tư tưởng về bình đẳng giới đã hằn
sâu vào văn hóa của từng dân tộc và mỗi nơi lại có một tư tưởng khác nhau. Thực
hiện bình đẳng giới trong gia đình là việc vợ, chồng có quyền và nghĩa vụ ngang
nhau và có nghĩa vụ, trách nhiệm trong các hoạt động của mái ấm gia đình, có ý thức
và trách nhiệm thực hiện các nghĩa vụ đó. Những công việc đó dựa trên sự chia sẻ,
giúp đỡ lẫn nhau, tạo sự đồng thuận, sự quan tâm, chia sẻ, giúp đỡ lẫn nhau của cả
vợ và chồng giúp cho sự phát triển của mái ấm gia đình không thay đổi, bền vững
và vững chắc. Đến với đề bài “Bình đẳng giới trong gia đình - lý luận và thực tiễn”
của nhóm chúng tôi, mong có thể đem tới cho mọi người cái nhìn sâu sắc hơn về vấn đề này.
NỘI DUNG I. Khái quát chung về bình đẳng giới trong gia đình 1.
Khái niệm bình đẳng giới trong gia đình
Căn cứ tại Điều 18 Luật Bình đẳng giới 2006 quy định về bình đẳng giới trong
gia đình thì “Bình đẳng giới trong gia đình là việc vợ chồng, con trai và con gái, các
thành viên nam và nữ trong gia đình có vị trí, vai trò ngang nhau, quyền được tạo
điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của gia đình như
nhau, quyền được thụ hưởng về thành quả phát triển của gia đình và xã hội ngang
nhau, quyền được tham gia quyết định các vấn đề của bản thân và gia đình”.
Trên cơ sở các quyền đó, thành viên trong gia đình được tự do tham gia vào
các công việc gia đình và ngoài xã hội tùy theo khả năng và sở thích của mình, được
tự do lựa chọn những vai trò giống nhau hoặc khác nhau trong gia đình tùy theo mục
đích, được tự do lựa chọn cách thức thụ hưởng các thành quả tùy theo sở thích của
mỗi người. Tuy nhiên, bình đẳng không có nghĩa là bằng nhau, do đặc điểm sinh học
khác nhau và tính chất vai trò khác nhau mà sẽ có những sự bình đẳng thực chất phù
hợp với từng cá nhân trong gia đình. lOMoAR cPSD| 40551442
2. Vai trò của gia đình trong nhận thức và thực hiện về bình đẳng giới
2.1. Trong nhận thức bình đẳng giới
Gia đình là nơi diễn ra quá trình xã hội hóa cá nhân, là ngôi trường đầu tiên
đào tạo, hình thành nhận thức của con người về mọi lĩnh vực của xã hội, trong đó có
nhận thức về quan hệ giới. Có thể nói gia đình đóng vai trò cơ bản trong việc định
hình mối quan hệ giới ngay từ những buổi đầu khi con người biết nhận thức và truyền
từ thế hệ này sang thế hệ khác. Sự nhận thức không đúng đắn về giới và bình đẳng
giới sẽ tạo ra những tiền lệ xấu, làm giảm vị thế của người phụ nữ, dẫn đến bất bình
đẳng giới ngay trong gia đình. Từ đó sẽ dẫn đến nhiều vấn đề khác như bạo lực gia
đình, làm chậm mục tiêu bình đẳng giới. Ngược lại, khi các thế hệ đi trước nhận thức
đúng đắn, có tư tưởng tiến bộ về bình đẳng giới thì họ sẽ truyền dạy cho các thế hệ
kế tiếp những nhận thức đúng đắn đó.
2.2. Trong thực hiện bình đẳng giới
Để có được nhận thức về bình đẳng giới đã khó, để hành động bình đẳng giới
càng khó hơn. Việc thực hiện bình đẳng giới của các thế hệ đi trước trong gia đình
như ông bà, cha mẹ… tác động rất lớn đến nhận thức của các thế hệ sau.
Trước đó, vai trò của người phụ nữ bị xem nhẹ và không có địa vị trong gia đình.
Nâng cao vị thế, vai trò của người vợ, người mẹ giúp bước gần hơn từ gia đình đến
xã hội bình đẳng giới. Thêm nữa, không được thiên vị trong việc chăm sóc, nuôi dạy
và đầu tư cho con. Những bậc cha mẹ cần hiểu và đối xử công bằng với các con, tạo
cho các con cơ hội học tập, làm việc và hưởng thụ các giá trị vật chất, tinh thần
không phân biệt con trai, con gái. Thực hiện bình đẳng giới trong gia đình còn là vợ
chồng có quyền lợi và nghĩa vụ ngang nhau trong hoạt động của gia đình, không
phân công lao động trong gia đình phụ thuộc vào giới như: Quyền đưa ra quyết định
trong gia đình, quan điểm chăm sóc và nuôi dạy con cái, phân chia công việc nhà…
Như vậy, để đạt được bình đẳng giới, trước hết trong gia đình, ông bà, cha mẹ phải
nâng cao nhận thức và thực hiện về bình đẳng giới vì chính ông bà, cha mẹ là nhân
tố quan trọng nhất trong việc tuyên truyền, giáo dục về bình đẳng giới cho thế hệ trẻ. lOMoAR cPSD| 40551442
3. Ý nghĩa của bình đẳng giới trong gia đình
Thứ nhất, bình đẳng giới trong gia đình tạo môi trường lành mạnh để cá nhân
được đối xử bình đẳng và được hành động bình đẳng. Gia đình đang là mục tiêu
quan trọng nhất của cuộc cách mạng về giới. Những nhu cầu, lợi ích cá nhân không
được đáp ứng trong hôn nhân dần trở thành xung đột và kéo theo hậu quả tiêu cực
về mặt xã hội và gia đình. Chính vì vậy, con đường nhận thức và hành động vì sự
bình đẳng giới phải bắt đầu từ gia đình và ngay trong gia đình. Gia đình mà nam, nữ
được bình đẳng là môi trường giáo dục hiệu quả nhất về bình đẳng giới.
Thứ hai, bình đẳng giới trong gia đình tạo tiền đề quan trọng cho việc chăm
sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ em. Bình đẳng giới trong gia đình khiến cho cha mẹ
dành tình yêu thương, sự quan tâm, chăm sóc, nuôi dạy con trai và con gái là như
nhau, các con đều sẽ được tạo cơ hội học tập, làm việc và hưởng thụ các giá trị vật
chất, tinh thần như nhau. Từ đó, trẻ em gái và trẻ em trai được phát triển đồng đều
và toàn diện nhất có thể. Những gia đình có tư tưởng cổ hủ, gia trưởng, phong kiến
giáo điều luôn có quan niệm trọng nam khinh nữ, vì thế các trẻ em gái trong gia đình
thường không được coi trọng, việc học hành hay những việc lớn đều phải do người
con trai gánh vác còn con gái phải đảm nhiệm việc chăm sóc gia đình cho nên không
cần học hành, thi cử. Việc thực hiện bình đẳng giới trong gia đình sẽ mang lại cơ hội
được chăm sóc và giáo dục như nhau cho con trai và con gái.
Thứ ba, bình đẳng giới trong gia đình góp phần tăng chất lượng cuộc sống
của các thành viên gia đình, góp phần xây dựng xã hội công bằng, văn minh. Thực
hiện tốt bình đẳng giới trong gia đình sẽ tạo một bầu không khí gia đình hạnh phúc,
lành mạnh, đưa địa vị của người phụ nữ được nâng cao hơn, từ đó tác động tốt đến
sức khỏe, môi trường sống của các thành viên gia đình. Bên cạnh đó, khi phụ nữ
được học tập, nâng cao năng lực lao động sẽ tạo ra nguồn thu nhập cho gia đình và
phần nào tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế đất nước. Thống kê của Liên Hợp
Quốc tại Việt Nam năm 2014, bạo lực giới gây tổn thất gần 1,41% thu nhập GDP lOMoAR cPSD| 40551442
của Việt Nam vào năm 2010. Đồng thời, phụ nữ chịu bạo lực sẽ giảm 35% năng suất
so với người không bạo lực1.
Thứ tư, bình đẳng giới trong gia đình góp phần giải phóng phụ nữ, xây dựng
gia đình bền vững. Bình đẳng giới trong gia đình giải phóng phụ nữ khỏi công việc
nhà, tạo điều kiện đưa họ vào thị trường lao động để có thu nhập, nâng cao vị thế
của người phụ nữ. Việc người phụ nữ được tham gia vào các lĩnh vực trong đời sống
xã hội: chính trị, lao động, kinh tế, khoa học và công nghệ… là cơ hội để phụ nữ thể
hiện những khả năng chưa được khai thác, giúp đất nước có thêm nhân tài, và truyền
cảm hứng cho những người phụ nữ khác. Việc này vừa đảm bảo được quyền con
người của cá nhân, vừa tạo được sự tôn trọng dành cho người phụ nữ. Bình đẳng
giới không chỉ giải phóng người phụ nữ mà còn phá bỏ phân công lao động theo giới
trong gia đình, người đàn ông trong gia đình cũng phải chung tay giúp đỡ những
công việc trong nhà. Một gia đình bền vững phải là một gia đình mà ở đó người vợ
và chồng đều cùng nhau xây dựng, vun đắp, chia sẻ đều công việc trong gia đình.
II. Nội dung của bình đẳng giới trong gia đình 1. Bình đẳng giới về phân công
lao động trong gia đình
Phân công lao động theo giới luôn gắn với điều kiện kinh tế - xã hội của mỗi
quốc gia. Phân công lao động theo giới trong gia đình Việt Nam hiện nay vẫn mang
đậm nét truyền thống. Các công việc như nấu ăn, đi chợ, giặt giũ quần áo, chăm sóc
con, chăm sóc người già, người ốm… chủ yếu do phụ nữ thực hiện. Đồng thời, phân
công lao động theo giới còn được thể hiện qua việc lao động của người chồng thường
tập trung nhiều hơn vào những công việc trực tiếp tạo thu nhập. Từ đó dẫn đến kết
quả là nam giới có tỉ lệ thu nhập cao hơn nữ giới.
Sự bất bình đẳng về phân công lao động theo giới trong gia đình một phần là
do quan niệm sai lầm của cả nam và nữ giới. Đa số phụ nữ Việt Nam hướng đến vai
trò giới truyền thống khá mạnh. Những phẩm chất như nội trợ giỏi, nuôi dạy con
tốt… được đánh giá quan trọng hơn những vấn đề khác như có học vấn cao, có uy
1 Hà An, “Phụ nữ bị chịu bạo lực sẽ giảm 35% năng suất so với người không bị bạo lực”, nguồn:
https://daibieunhandan.vn/doi-song-xa-hoi/Phu-nu-bi-chiu-bao-luc-se-giam-35-nang-suat-so-voi-nguoi-khong- bibao-luc-i84836/ lOMoAR cPSD| 40551442
tín trong nghề nghiệp, có địa vị trong xã hội. Nhiều phụ nữ vẫn đánh giá cao vai trò
trụ cột của người chồng, bằng lòng với vai trò là người nội trợ. Quan niệm sai lầm
đó của phụ nữ được sự chấp nhận tích cực của nam giới, hầu hết nam giới tham gia
vào thị trường lao động bằng mọi cách để tạo thu nhập cho gia đình. Quan hệ giữa
vợ và chồng thường xuyên xung đột do sự phân công lao động bất bình đẳng đó.
Để xoá bỏ sự phân công lao động theo giới, khoản 5 Điều 18 Luật bình đẳng
giới quy định: “Các thành viên nam, nữ trong gia đình có trách nhiệm chia sẻ công
việc gia đình”. Như vậy, để đạt được bình đẳng giới trong gia đình, vấn đề quan
trọng là xoá bỏ sự phân công lao động theo giới trong gia đình, tiến tới bình đẳng
giới trong phân công lao động. Vợ, chồng, con trai, con gái, thành viên nam, thành
viên nữ cùng nhau chia sẻ công việc gia đình, cùng được tham gia vào thị trường lao
động tạo thu nhập, đảm bảo nhu cầu về mọi mặt cho các thành viên trong gia đình.
2. Bình đẳng giới về tiếp cận và kiểm soát các nguồn lực trong gia đình
Gia đình là nơi diễn ra quá trình sản xuất và phân phối các nguồn lực. Kết quả
nghiên cứu xã hội học chỉ ra rằng trong gia đình người vợ và người chồng có xu
hướng chia sẻ sự tiếp cận phần lớn các nguồn lực nhưng người chồng có vai trò
quyết định trong việc kiểm soát các nguồn lực quan trọng của gia đình như đất đai,
nhà ở, phương tiện sản xuất… Theo Luật Đất đai năm 2013, giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất, nhà ở phải ghi tên của cả chồng và vợ, đây là chính sách có ý nghĩa
quan trọng nhằm cải thiện tình trạng bất bình đẳng giới trong tiếp cận các nguồn lực
xã hội, bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ trong sở hữu nhà, đất. Yếu tố gây cản
trở lớn đến bình đẳng giới trong gia đình là việc đa số phụ nữ không có tên trong
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở. Nguyên nhân của thực
trạng này là do đa số người dân chưa biết đến quy định về cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất mang hai tên vợ và chồng, từ đó chưa nhận thức đầy đủ về lợi ích
của quyền tiếp cận và sử dụng đất của người phụ nữ. Qua đó cho thấy, trong gia đình,
khi không thực sự được làm chủ nguồn đất đai, tư liệu, công cụ sản xuất thì người
phụ nữ luôn ở vị thế phụ thuộc, họ không được chủ động trong việc lập kế hoạch
phát triển kinh tế gia đình. Như vậy, sự bất bình đẳng giới trong tiếp cận và kiểm
soát nguồn lực trong gia đình là yếu tố làm tăng sự bất bình đẳng giới trong gia đình. lOMoAR cPSD| 40551442
Từ đó, làm tăng bạo lực đối với phụ nữ, tăng tỉ lệ sinh, tỉ lệ tử vong, làm giảm tiếng
nói và khả năng tự bảo vệ của phụ nữ trong quan hệ với nam giới.
Khoản 2 Điều 18 Luật bình đẳng giới quy định: “Vợ, chồng có quyền, nghĩa
vụ ngang nhau trong sở hữu tài sản chung, bình đẳng trong sử dụng nguồn thu nhập
chung của vợ chồng và quyết định các nguồn lực trong gia đình”. Điều này cũng góp
phần làm thay đổi sự tiếp cận và kiểm soát các nguồn lực giữa thành viên nam và
thành viên nữ trong gia đình, làm thay đổi cán cân quyền lực giữa các thành viên gia
đình và mang lại ý nghĩa sâu sắc về bình đẳng giới và phúc lợi gia đình.
3. Bình đẳng giới về quyền quyết định các vấn đề trong gia đình
Trong gia đình, nam giới thường là người đưa ra các quyết định về vấn đề
trong gia đình như: tài chính, lợi ích, con cái và về cả những người phụ nữ, họ quyết
định cả vấn đề sinh con và các hoạt động khác mang tính riêng tư của phụ nữ. Quyền
quyết định trong gia đình đánh giá vị thế của nam giới và nữ giới trong gia đình, lý
tưởng nhất là cả nam giới và nữ giới đều cùng tham gia quyết định các vấn đề của
gia đình, đây chính là sự bình đẳng giới trong gia đình.
Luật Bình đẳng giới đã quy định rất rõ ràng về việc bình đẳng trong quyền
quyết định giữa vợ và chồng trong Khoản 1, 2 và 3 của Điều 18. Theo quy định trên
thì trong gia đình, vợ và chồng có vị trí, vai trò ngang nhau, quyền được tham gia
quyết định các vấn đề của bản thân và của gia đình. Nhưng do ảnh hưởng của tư
tưởng truyền thống vẫn còn nên mọi người thường đề cao vai trò trụ cột của nam
giới hơn trong việc quyết định các vấn đề trong gia đình. Quyền lực cao hơn của
người chồng thể hiện ở quyền quyết định ở một số việc như mua sắm, sản xuất kinh
doanh, quan hệ họ hàng, còn người vợ thường chỉ có tiếng nói ở những việc nhỏ2.
Mặt khác, trình độ học vấn cũng góp phần quan trọng trong việc tạo quyền quyết
định trong gia đình. Nếu trong gia đình cả hai vợ chồng có học vấn cao thì sự bàn
bạc, thỏa thuận chiếm tỷ lệ lớn; nếu người vợ có trình độ học vấn thấp thì quyền
quyết định mọi mặt chủ yếu vẫn là chồng và ngược lại.
2 Văn hóa - Xã Hội, Bình đẳng giới và Hạnh phúc gia đình, Theo Trang thông tin điện tử huyện Ngọc Hồi, Tỉnh
Kon Tum, http://ngochoi.kontum.gov.vn/van-hoa-xa-hoi/Binh-dang-gioi-va-hanh-phuc-gia-dinh-1233 lOMoAR cPSD| 40551442
Bình đẳng về quyền quyết định các vấn đề trong gia đình là vợ chồng cùng
bàn bạc để giải quyết các vấn đề như phát triển kinh tế gia đình, số con, chăm sóc và
giáo dục con,... Đây còn là bình đẳng về quyền vợ, chồng được tự quyết định các
vấn đề của bản thân mà không làm tổn hại đến lợi ích chung của gia đình.
4. Bình đẳng giới về quyền được tôn trọng thân thể, nhân phẩm, danh dự, uy tín
Khoản 1 Điều 34 Bộ luật dân sự 2015 có quy định “Danh dự, nhân phẩm, uy
tín của cá nhân là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ”. Luật Bình đẳng
giới năm 2006, Khoản 1 Điều 18 “ Vợ, chồng bình đẳng với nhau trong quan hệ dân
sự và các quan hệ khác liên quan đến hôn nhân và gia đình.”, và Khoản 4 Điều 18
“ Con trai, con gái được gia đình chăm sóc, giáo dục và tạo điều kiện như nhau để
học tập, lao động, vui chơi, giải trí và phát triển”.
Bình đẳng giới trong gia đình phải đảm bảo cho mỗi thành viên trong gia đình
dù là nam hay nữ, con trai hay con gái đều được hưởng sự quan tâm, chăm sóc từ
các thành viên khác. Do đó, vợ chồng phải chăm sóc lẫn nhau, cha mẹ phải chăm
sóc con cái như nhau. Con trai, con gái đều có quyền được tạo điều kiện phát triển
như nhau, đều có quyền học tập, vui chơi, giải trí. Mọi sự phân biệt đối xử giữa con
trai và con gái đều vi phạm quy định về bình đẳng giới. Việc bình đẳng trong gia
đình còn được thể hiện trong quyền được tôn trọng thân thể, nhân phẩm, danh dự,
uy tín của các thành viên trong gia đình. Tất cả hành vi đánh đập, ngược đãi và sự
kỳ thị đối với nữ giới trong gia đình đều là hành vi xâm phạm thân thể, nhân phẩm,
danh dự, uy tín của người phụ nữ. Bạo lực về thể chất và tinh thần mà nam giới gây
ra cho phụ nữ trong gia đình chính là hậu quả của việc bất bình đẳng giới. Phụ nữ và
trẻ em gái rất dễ phải chịu cảnh bạo lực và lạm dụng trong gia đình, và chúng có thể
không phải đến từ những người đàn ông xa lạ mà có thể đến từ chính những người
đàn ông trong gia đình. Nguyên nhân của những việc này là bởi vì phần lớn quyền
lực nằm trong tay người đàn ông, và bạo lực là cách họ thể hiện uy quyền, vậy nên
gần như tất cả bạo lực trong gia đình đều liên quan đến giới, những định kiến giới
dẫn đến bạo lực. Vì vậy, một trong những nội dung của bình đẳng giới trong gia đình
là đảm bảo cho các thành viên trong gia đình dù là nam hay nữ đều được hưởng sự lOMoAR cPSD| 40551442
chăm sóc, được tôn trọng thân thể, nhân phẩm, danh dự, uy tín. Để đạt được bình
đẳng giới trong gia đình, việc cấp thiết là phải ngăn chặn bạo lực gia đình.
III. Bình đẳng giới trong các mối quan hệ gia đình.
Bình đẳng giới trong các mối quan hệ gia đình đóng vai trò vô cùng quan trọng
trong “con đường” hướng tới bình đẳng giới toàn diện trong xã hội. Cụ thể, được thể
hiện ở những các thành viên quan hệ trong gia đình:
1. Trong quan hệ vợ chồng
1.1. Vợ chồng bình đẳng với trong nhau quan hệ dân sự
Cá nhân (nam, nữ) có quyền tham gia quan hệ dân sự và có nghĩa vụ phát sinh
từ quan hệ đó. Như quyền được đảm bảo an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể
và quyền bảo vệ danh dự nhân phẩm bao gồm quyền được bảo đảm về về tính mạng,
sức khỏe theo Điều 33 BLDS 2015. Cá nhân đó dù là nam hay nữ đều có quyền được
bảo vệ và quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân không phân
biệt giới tính theo Điều 34 BLDS. Hay Điều 21 LHNGĐ 2014 quy định: Vợ, chồng
có nghĩa vụ tôn trọng, giữ gìn và bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín cho nhau. Ngoài
ra, vợ chồng có cũng bình đẳng trong việc lựa chọn nơi cư trú. Căn cứ tại Điều 20
LHNGĐ thì việc lựa chọn nơi cư trú của vợ chồng do vợ chồng thỏa thuận, không
bị ràng buộc bởi phong tục, tập quán, địa giới hành chính. Vợ chồng cũng có thể có
nơi cư trú khác nhau nếu có thỏa thuận. Quy định này nhằm xóa bỏ tập quán bất bình
đẳng về nơi ở của vợ chồng ở một số địa phương, dân tộc như tập quán ở nhà chồng
như của nhân dân vùng đồng bằng sông Hồng; Hay tập quán ở rể của vùng đồng bào
dân tộc thiểu số phía Bắc và vùng Tây Nguyên...
1.2. Vợ chồng bình đẳng trong quan hệ tài sản
Cụ thể là bình đẳng với nhau về việc sở hữu chung, trong quan hệ cấp dưỡng
và quan hệ thừa kế. Trong sở hữu tài sản chung, vợ chồng có quyền ngang nhau
trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt quy định Điều 35 LHNGĐ 2014; việc định
đoạt tài sản riêng có hoa lợi, lợi tức mà là nguồn sống duy nhất của gia đình thì việc
định đoạt phải được sự đồng ý của gia đình. Trong quan hệ cấp dưỡng (căn cứ Điều
115 LHNGĐ) thì khi vợ chồng ly hôn, nếu một bên khó khăn, túng thiếu có yêu cầu
cấp dưỡng thì bên kia cấp dưỡng theo khả năng và việc yêu cầu cấp dưỡng cũng đảm lOMoAR cPSD| 40551442
bảo sự công bằng nếu cả hai bên khó khăn. Còn trong quan hệ thừa kế, vợ chồng
thuộc hàng thừa kế thứ nhất theo pháp luật khi một bên chết trước. Quyền thừa kế
này tồn tại ngay cả khi bên vợ chồng còn sống mà đã kết hôn với người khác.
1.3. Vợ chồng bình đẳng với nhau trong việc thực hiện kế hoạch hóa gia đình
Đây là nghĩa vụ của vợ chồng trước nhà nước và xã hội. Quy định này cũng
khẳng định quyền bình đẳng của vợ chồng trong việc quyết định số theo quy định về
dân số. Tuy nhiên, vợ và chồng không được cản trở, cưỡng bức thực hiện kế hoạch
hóa gia đình. Vợ, chồng không được lựa chọn giới tính thai nhi dưới mọi hình thức.
Vợ chồng có thể lựa chọn một trong các biện pháp tránh thai như đặt vòng, thắt ống
dẫn trứng, uống thuốc tránh thai (đối với vợ) hoặc dùng bao cao su, thắt ống dẫn tinh
(đối với người chồng). Tránh những định kiến giới tới việc lựa chọn biện pháp tránh thai.
Nhưng có một thực trạng đa số nam giới không lựa chọn biện pháp mà muốn
phụ nữ sử dụng. Nhìn chung phụ nữ có ít quyền lựa chọn về quan hệ tình dục an
toàn, trong khi đó họ là người chịu hậu quả khi có thai ngoài ý muốn hoặc gặp các
tác dụng xấu khi đặt vòng tránh thai, nạo phá thai. Cho đến nay, các chiến lược kế
hoạch hóa gia đình chưa đề cập một cách đầy đủ về trách nhiệm nam giới và các
biện pháp phòng ngừa. Tư tưởng trọng nam hay nói chung hơn là bất bình đẳng giới
tính còn phổ biến trong xã hội, cũng là yếu tố ảnh hưởng đến việc phụ nữ sử dụng
biện pháp tránh thai và nạo phá thai để lựa chọn giới tính em bé. Khắc phục tình
trạng đó cần tăng cường hoạt động giáo dục, truyền thông.
1.4. Vợ chồng bình đẳng với nhau trong việc chăm sóc con và làm việc nhà
Trên nguyên tắc bình đẳng giới, chăm sóc con con và làm việc nhà không phải
chỉ dành cho phụ nữ mà là công việc thuộc cả về nam giới. Do vậy, trong gia đình
vợ chồng có nghĩa vụ như nhau, cùng làm việc nhà và chăm sóc con cái, việc chăm
lo chế độ dinh dưỡng cho con phát triển về thể lực, trí tuệ và dạy dỗ con phát triển
về nhân cách là quyền và nghĩa vụ của cả cha và mẹ. Đặc biệt khi con ốm thì nghĩa
vụ chăm sóc con cái là của cả nam giới không chỉ riêng người phụ nữ. lOMoAR cPSD| 40551442
2. Giữa con trai và con gái trong gia đình
Thứ nhất, quyền được sống của các con. Con trai và con gái đều phải có quyền
được sinh ra và lớn lên. Theo Điều 6 Công ước về quyền trẻ em: “mọi trẻ em đều có
quyền cố hữu được sống”. Cha mẹ hay bất kỳ ai trong xã hội đều không có quyền
lựa chọn giới tính của con dưới mọi hình thức.
Thứ hai, quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng, được tôn trọng về sức khỏe, nhân
phẩm danh dự như nhau giữa con trai và con gái. Pháp luật cũng đã có cơ chế để bảo
vệ cho trẻ em, không phân biệt giới tính như tại Điều 14 Luật bảo vệ chăm sóc và
giáo dục trẻ em số 25/2004/QH11 quy định: “Trẻ em được gia đình, nhà nước và xã
hội tôn trọng, bảo vệ tính mạng, thân thể, nhân phẩm và danh dự”. Như vậy khi trẻ
được sinh ra, không phân biệt là trai hay gái thì đều có quyền được tôn trọng và bảo
vệ tính mạng, thân thể, danh dự và nhân phẩm.
Thứ ba, quyền được học tập như nhau. Điều 33 Luật bình đẳng giới năm 2006
quy định một trong những trách nhiệm của gia đình là “Đối xử công bằng, tạo cơ
hội như nhau giữa con trai, con gái trong học tập,lao động và tham gia các hoạt
động khác”. Sự quan tâm, giáo dục của gia đình đối với trẻ em bất kể là nam hay là
điều kiện quan trọng giúp mỗi đứa trẻ hòa nhập vào cộng đồng và xã hội, thích ứng
với đòi hỏi về nghề nghiệp sau này.
Cuối cùng, là bình đẳng giữa con trai và con gái trong các công việc gia đình.
Điều 18 Luật bình đẳng giới: các thành viên nam, nữ trong gia đình có trách nhiệm
chia sẻ công việc gia đình. Do vậy, con trai, con gái đều có trách nhiệm trong các
công việc gia đình tùy theo điều kiện sức khỏe, thời gian và khả năng của mỗi người.
3. Giữa các thành viên nam và thành viên nữ trong gia đình
Các thành viên trong gia đình đều có nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định của
pháp luật (căn cứ tại Điều 107 LHNGĐ). Từ đó nhận thấy, pháp luật đã có điều chỉnh
về nghĩa vụ cấp dưỡng dành cho toàn bộ thành viên trong gia đình, không phân biệt
giới tính nhằm kéo gần khoảng cách giới trong gia đình nói riêng và trong xã hội nói chung. lOMoAR cPSD| 40551442
Trong trường hợp sống chung thì các thành viên gia đình có nghĩa vụ tham gia
công việc gia đình, lao động tạo thu nhập; đóng góp công sức, tiền hoặc tài sản khác
để duy trì đời sống chung của gia đình phù hợp với khả năng thực tế của mình.
IV. Thực tiễn về vấn đề bình đẳng giới trong gia đình hiện nay 1. Những thành tựu đạt được
Tại Việt Nam thời gian qua, với sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị, công tác
thúc đẩy bình đẳng giới, vì sự tiến bộ của phụ nữ đã được các cấp, các ngành tập
trung triển khai, góp phần thúc đẩy thực hiện bình đẳng giới và đạt được nhiều thành
tựu. Đây là động lực mạnh mẽ để Việt Nam tiếp tục thực hiện các mục tiêu về bình
đẳng giới, góp phần đạt được các Mục tiêu phát triển bền vững đến năm 2030.
Việt Nam là một trong những quốc gia hoàn thành sớm nhất Mục tiêu thiên
niên kỷ về bình đẳng giới và nâng cao vị thế cho phụ nữ và hiện đang nỗ lực thực
hiện Chương trình nghị sự về Phát triển bền vững 2030, trong đó có các mục tiêu về
thúc đẩy bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ và trẻ em gái. Được Liên hợp quốc
công nhận cơ bản đã hoàn thành mục tiêu về bình đẳng giới, nâng cao vị thế phụ nữ
điều này giúp cho vị trí của phụ nữ và trẻ em trong gia đình được đảm bảo. Chiến
lược thúc đẩy bình đẳng giới của Việt Nam được thể hiện qua nhiều chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII
vừa qua đã tiếp tục khẳng định: "Phát huy truyền thống, tiềm năng, thế mạnh và tinh
thần làm chủ, khát vọng vươn lên của các tầng lớp phụ nữ; xây dựng người phụ nữ
Việt Nam thời đại mới; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nữ, đáp ứng yêu cầu
phát triển bền vững và hội nhập quốc tế"3.
Thời gian qua, Việt Nam liên tục bổ sung, hoàn thiện khung khổ pháp lý làm
cơ sở giải quyết các vấn đề về bình đẳng giới trong gia đình như: Luật Bình đẳng
giới 2006; Luật Phòng chống bạo lực gia đình 2022,... Gần nhất, ngày 3/3/2021,
Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 20212030
ban hành cùng Nghị quyết số 28/NQ-CP. Đến nay, sau 10 năm thực hiện Chiến lược
3 Lưu Ly, “ Việt Nam đạt nhiều thành tựu về bình đẳng giới”, Tạp chí xây dựng Đảng, ngày đăng 31/3/2022, nguồn:
https://www.xaydungdang.org.vn/nhan-quyen-va-cuoc-song/viet-nam-dat-nhieu-thanh-tuu-ve-binh-danggioi-16650 lOMoAR cPSD| 40551442
bình đẳng giới (theo Chương trình mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn
2011-2020), Việt Nam thu được nhiều kết quả đáng khích lệ, góp phần thu hẹp
khoảng cách giới trong các lĩnh vực đặc biệt ở lĩnh vực gia đình. So với trước đây,
các khung pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích của phụ nữ, trẻ em trong gia đình đã
được bổ sung, hoàn thiện và phát triển hơn. Vị thế trong gia đình của vợ và chồng là
ngang nhau trong tất cả các vấn đề. Con trai, con gái được gia đình chăm sóc, giáo
dục và tạo điều kiện như nhau để học tập, lao động, vui chơi, giải trí và phát triển.
Góp phần đóng góp tích cực vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước vì
gia đình là tế bào của xã hội, sự bền vững của gia đình chính là nền tảng phát triển xã hội.
Trong gia đình hiện nay, có thể nhận thấy rằng việc các thành viên trong gia
đình cùng chia sẻ việc nhà đã trở nên phổ biến. Nam giới đã có ý thức trong việc
tham gia nuôi dạy con cái; vợ, chồng cùng tham gia bàn bạc, quyết định các vấn đề
của gia đình như: phát triển kinh tế gia đình, mua sắm tài sản gia đình… Nghiên cứu
của HILL ASEAN, Chi nhánh Việt Nam cho thấy hiện tại nhóm gia đình người Việt
mà người chồng ra ngoài làm việc và người vợ ở nhà chăm lo việc nhà và con cái
chỉ chiếm thiểu số 25%, và nhóm gia đình mà cả hai vợ chồng cùng chia sẻ công
việc nhà và trách nhiệm nuôi dạy con cái chiếm đa số, 74%4. Chính sự chia sẻ này
đã dần thay đổi tư duy việc nhà, việc nuôi dạy con cái là của phụ nữ, từ đó góp phần
thực hiện bình đẳng giới trong gia đình.
2. Những điểm còn hạn chế
Mặc dù được Liên Hợp Quốc và cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao
những nỗ lực thực hiện bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ, nhưng Việt Nam
vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề về bình đẳng giới đặc biệt là trong gia đình, không chỉ
gây thiệt hại cho đối tượng yếu thế mà còn ảnh hưởng đến toàn xã hội.
Về kinh tế, chênh lệch thu nhập giữa nam và nữ cùng một vị trí công việc vẫn
tồn tại; cơ hội để phụ nữ tiếp cận những việc làm có thu nhập cao vẫn thấp hơn so
với nam giới; lao động nữ chưa được đánh giá cao như lao động nam, là đối tượng
4 Ngọc Lan, “Có tới 3/4 số gia đình tại Việt Nam phân chia công việc một cách bình đẳng”, nguồn:
https://baomoi.com/co-toi-3-4-so-gia-dinh-tai-viet-nam-phan-chia-cong-viec-mot-cach-binh-dang-c25917543.epi lOMoAR cPSD| 40551442
dễ bị rủi ro và tổn thương hơn khi doanh nghiệp có nhu cầu cắt giảm nhân lực. Đặc
biệt là hiện nay thu nhập bình quân của lao động nữ luôn thấp hơn nam giới. Năm
2021, thu nhập bình quân tháng của lao động nam là 7,7 triệu đồng; thu nhập bình
quân tháng của lao động nữ là 5,7 triệu đồng. Như vậy, tiền lương bình quân tháng
của lao động nam cao hơn nữ trung bình là khoảng 2,0 triệu đồng5. Do những hạn
chế về kinh tế vẫn còn tồn tại nên vị thế giữa phụ nữ và đàn ông trong gia đình vẫn
còn sự chênh lệch, khi thu nhập của người phụ nữ ít hơn người đàn ông điều đó tạo
ra sự không coi trọng đối với người phụ nữ. Thậm chí, trong nhiều gia đình vẫn còn
giữ tư tưởng nam giới ra ngoài làm việc còn nữ giới ở nhà làm nội trợ, chăm sóc con
cái, kinh tế gia đình phụ thuộc hết vào người chồng. Vậy nên, trong những gia đình
như thế người phụ nữ hầu như không có tiếng nói, không được chồng, gia đình chồng
tôn trọng, hàng xóm thì buông lời đám tiếu, gièm pha. Từ đó kéo theo vấn đề bạo
lực trong gia đình gia tăng.
Về gia đình, phụ nữ vẫn phải làm những công việc nội trợ là chủ yếu; vẫn còn
tư tưởng trọng nam khinh nữ trong quá trình sinh con, nuôi con, chăm sóc con cái,
kế hoạch hóa gia đình. Ngoài ra, phụ nữ còn gặp phải những vấn đề khác như vấn
nạn ngược đãi phụ nữ, định kiến về giới, bạo lực gia đình, nạn nhân của buôn bán
người, bóc lột lao động, xâm hại tình dục… Bất bình đẳng giới cũng được coi là một
trong những nguyên nhân chủ yếu của nạn bạo lực gia đình. Theo báo cáo điều tra
quốc gia về bạo lực đối với phụ nữ ở Việt Nam năm 2019, cứ 3 phụ nữ thì có gần 2
phụ nữ (gần 63%) bị một hoặc hơn một hình thức bạo lực thể xác, tình dục, tinh thần
và bạo lực kinh tế cũng như kiểm soát hành vi do chồng gây ra trong cuộc đời. Điều
này có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho phát triển kinh tế và sức khỏe thể
chất, tinh thần người phụ nữ, thậm chí tác động không tốt đến hành vi, tinh thần của
trẻ em trong gia đình có phụ nữ bị bạo hành.
Bên cạnh đó, việc lựa chọn giới tính thai nhi gia tăng. Đây là hành vi nghiêm
trọng của sự phân biệt đối xử giữa con trai và con gái, là nguyên nhân dẫn đến mất
5 Ths. Trần Ngọc Sáng, “ Những biểu hiện bất bình đẳng giới đối với phụ nữ ở Việt Nam hiện nay - Nguyên nhân và
giải pháp”, Cổng thông tin điện tử Trường chính trị tỉnh Bà Rịa, ngày đăng 20/2/2023, nguồn:
https://truongchinhtri.baria-vungtau.gov.vn/article?item=28efdd417e7643f9b2732ac38fed1f9a lOMoAR cPSD| 40551442
cân bằng giới tính khi sinh. Theo Căn cứ theo số liệu mới nhất của Tổng cục Thống
kê năm 2022, tỷ số mất cân bằng giới tính khi sinh ở nước ta là 112,1 trẻ trai trên
100 trẻ gái, tương đương 2 năm trước đó. Việt Nam đặt mục tiêu đến năm 2030 đưa
tỷ số giới tính khi sinh về mức cân bằng tự nhiên, dưới 109. Tổng cục Dân số và Kế
hoạch hóa gia đình nhận định mục tiêu này rất khó khăn, khi từ nay đến đó, mỗi năm
phải giảm 0,4 điểm phần trăm, trong khi 8 năm trước, với nhiều nguồn lực và tác
động, nhưng mỗi năm chỉ giảm 0,1 điểm phần trăm. Nhiều cặp vợ chồng đã chủ
động áp dụng những thành tựu của khoa học để lựa chọn giới tính thai nhi. Trong
khi đó, pháp luật cấm lựa chọn giới tính thai nhi dưới mọi hình thức.
Về mặt chăm sóc sức khỏe, việc tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản
của phụ nữ vùng nông thôn, vùng dân tộc thiểu số còn hạn chế. Tỷ suất tử vong mẹ
còn cao so với một số nước trong khu vực. Mức giảm tỷ suất tử vong mẹ trong 10
năm qua còn chậm, nhất là ở vùng sâu, vùng xa và vùng dân tộc thiểu số. Tỷ lệ nữ
có bảo hiểm y tế (tính trong số người khám chữa bệnh) tăng lên qua các năm, tuy
nhiên còn thấp hơn nam giới. Theo số liệu điều tra mức sống dân cư năm 2010,
khoảng 64,5% số phụ nữ có bảo hiểm y tế, so với 69,4% số nam có bảo hiểm y tế.
Tỷ lệ phụ nữ dân tộc thiểu số chưa biết chữ, vấn đề việc làm, dạy nghề cho
phụ nữ dân tộc thiểu số để tiếp cận với lao động chất lượng cao cần có sự quan tâm,
chỉ đạo sâu sát hơn của các cấp chính quyền, sự ủng hộ và hợp tác của cộng đồng
quốc tế và bản thân chị em phụ nữ cũng cần tự mình vươn lên, học hỏi, nâng cao
trình độ, kiến thức, kỹ năng để đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới.
3. Giải pháp nhằm nâng cao việc thực hiện chính sách bình đẳng giới
Trước hết, phải nhận thức tình trạng bất bình đẳng giới là hệ luỵ của tư tưởng
“trọng nam, khinh nữ” và chỉ thay đổi khi xóa bỏ được tư tưởng có tính định kiến
này. Chính vì vậy, cần đa dạng hóa các loại hình, sản phẩm truyền thông về bình
đẳng giới; đẩy mạnh công tác tuyên truyền tiến đến xóa bỏ dần những phong tục, tập
quán lạc hậu, lỗi thời mang định kiến về giới; thường xuyên tổ chức các buổi tọa
đàm, sinh hoạt, nói chuyện về bình đẳng giới trong các cơ quan, đơn vị, các khu dân
cư… để làm thay đổi nhận thức của cả xã hội về bình đẳng giới. lOMoAR cPSD| 40551442
Thứ hai, cần tiếp tục xây dựng và hoàn thiện khung luật pháp, chính sách về
bình đẳng giới; lồng ghép bình đẳng giới vào nhiệm vụ chính trị của các cơ quan,
đơn vị và các chương trình phát triển kinh tế xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho phụ
nữ có cơ hội tiếp cận và tham gia nhiều hơn vào các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Bổ sung cơ chế chính sách thúc đẩy bình đẳng giới cho phù hợp với tình hình mới,
thay đổi cách tiếp cận “bảo vệ lao động nữ” sang cách tiếp cận “thúc đẩy bình đẳng
giới”, nhằm tôn trọng các quyền cơ bản trong lao động nữ, phù hợp với các công
ước quốc tế và các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới mà Việt Nam tham gia.
Đồng thời, xử lý nghiêm minh những trường hợp vi phạm, phân biệt giới để răn đe trong xã hội.
Thứ ba, đẩy mạnh giáo dục khoa học giới trong hệ thống nhà trường (đặc biệt
là các trường THPT), giúp cho thanh thiếu niên nhận thức được những vấn đề giới
và bình đẳng giới một cách cơ bản và có hệ thống. Giúp các em ý thức được trách
nhiệm trong xây dựng gia đình sau này. Bên cạnh đó, cần nâng cao nhận thức của
người lao động, người sử dụng lao động về lợi ích kinh tế và xã hội của bình đẳng
giới, nhất là thay đổi tư duy của người sử dụng lao động nhằm xóa bỏ những định
kiến đối với lao động nữ, từ đó thu hẹp khoảng cách về giới tại nơi làm việc. KẾT LUẬN
Gia đình là tế bào của xã hội, mỗi thành viên trong gia đình được bình đẳng,
tôn trọng lẫn nhau thì xã hội sẽ đạt được dân chủ, công bằng và văn minh. Để có
được bình đẳng giới bền vững trong xã hội phải bắt đầu từ trong mỗi gia đình. Đi từ
cái bé đến cái lớn, từ cái riêng đến cái chung, mỗi gia đình đều thực hiện tốt bình
đẳng giới từ bên trong thì xã hội sẽ càng một tốt hơn. Thực hiện tốt bình đẳng giới
trong gia đình là biện pháp hữu hiệu để xây dựng một xã hội no ấm, bình đẳng, tiến
bộ và hạnh phúc. Hiện nay, việc thực hiện bình đẳng giới so với trước đây đã có
bước tiến bộ hơn nhưng không phải hoàn toàn như thế, việc bất bình đẳng giới vẫn
còn tồn tại ở một số hộ gia đình. Vì vậy, chúng ta nên nâng cao ý thức bình đẳng giới
và nâng cao tầm quan trọng trong việc giữ gìn bình đẳng giới trong gia đình. lOMoAR cPSD| 40551442
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ luật dân sự 2015
2. Luật Bình đẳng giới 2006
3. Giáo trình Hôn nhân và gia đình
4. Văn hóa - Xã Hội, Bình đẳng giới và Hạnh phúc gia đình, Theo Trang thông
tin điện tử huyện Ngọc Hồi, Tỉnh Kon Tum, nguồn:
http://ngochoi.kontum.gov.vn/van-hoa-xa-hoi/Binh-dang-gioi-va-hanhphuc- gia-dinh-1233
5. TS. Ngô Thị Hường, “Nghiên cứu - Trao đổi Bình đẳng giới trong gia đình”
Tạp chí Luật học, số 5/2012.
6. “NỖ LỰC THỰC HIỆN BÌNH ĐẲNG GIỚI Ở VIỆT NAM, ĐÁP ỨNG
ĐƯỢC CÁC YÊU CẦU CỦA QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP.” Quốc Hội Việt Nam, 27 09 2023,
https://quochoi.vn/hoatdongcuaquochoi/cackyhopquochoi/quochoikhoaXIII/
Pages/danh-sach-ky-hop.aspx?ItemID=80396&CategoryId=0.Accessed 28 11 2023.
7. Trương Thị Điệp, “Bình đẳng giới ở Việt Nam, thành tựu và thách thức”,
TẠP CHÍ KHOA HỌC HỌC VIỆN PHỤ NỮ VIỆT NAM. Quyển 6 Số 2 - 2019, nguồn:
http://tapchikhoahoc.hvpnvn.edu.vn/sites/default/files/bai02_2_2019.pdf