I. Cơ sở lý luận
1. Khái niệm hội nhập kinh tế quốc tế
Khái niệm
- “Hội nhập” có nguồn gốc từ “liên kết” (integration) với nghĩa chung nhất là hành động
hoặc quá trình gắn kết các phần tử riêng rẽ với nhau; hợp chung các bộ phận vào một
chỉnh thể (nhất thể, hợp nhất) và kết hợp các thành tố khác nhau lại (tụ hội, tụ nhóm).
- Hội nhập kinh tế là sự sắp xếp giữa các quốc gia, thường bao gồm việc cắt giảm hoặc xóa
bỏ các rào cản thương mại và phối hợp các chính sách tài khóa và tiền tệ. Hội nhập kinh
tế nhằm giảm chi phí cho cả người tiêu dùng và nhà sản xuất và tăng cường thương mại
giữa các quốc gia tham gia hiệp định.
-
- Hội nhập kinh tế quốc tế được các quốc gia/vùng lãnh thổ thực hiện bằng những phương
thức chủ yếu và có thể phân biệt như: thỏa thuận thương mại ưu đãi, khu vực mậu dịch tự
do, hiệp định đối tác kinh tế, thị trường chung, liên minh thuế quan, liên minh kinh tế và
tiền tệ, diễn đàn hợp tác kinh tế.
Tính tất yếu khách quan của hội nhập kinh tế quốc tế
- Thứ nhất, do xu thế khách quan trong bối cảnh toàn cầu hoá thế giới
Toàn cầu hoá là quá trình tạo ra liên kết và sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng giữa các uốn
gia trên quy mô toàn cầu. Toàn cầu hoá diễn ra trên nhiều phương diện, trong đó toàn cầu hoá
kinh tế là xu thế nổi trội nhất; vừa là trung tâm vừa là cơ sở và cũng là động lực thúc đẩy toàn
cầu hoá các lĩnh vực khác. Toàn cầu hoá kinh tế là sự gia tăng nhanh chóng các hoạt động
kinh tế vượt qua mọi biên giới quốc gia, khu vực, tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền
kinh tế trong sự vận động và phát triển hướng tới một nền kinh tế thế giới thống nhất. Trong
toàn cầu hoá kinh tế, các yếu tố sản xuất được lưu thông trên phạm vi toàn cầu. Trong toàn
cầu hoá kinh tế, các yếu tố sản xuất được lưu thông trên phạm vi toàn cầu. Do đó, nếu không
hội nhập kinh tế quốc tế, các nước không thể tự đảm bảo được các điều kiện cần thiết cho sản
xuất trong nước.
Hội nhập kinh tế quốc tế tạo ra cơ hội để các quốc gia giải quyết những vấn đề toàn cầu đã và
đang xuất hiện ngày càng nhiều, tận dụng được các thành tựu của cuộc cách mạng công
nghiệp, biến nó thành động lực cho sự phát triển. -
Đối
với
các nước đang và kém phát triển, hội nhập kinh tế quốc tế là cơ hội để tiếp cận và sử dụng được
các nguồn lực bên ngoài như tài chính, khoa học công nghệ, kinh nghiệm của các nước cho
phát triển.
Hội nhập kinh tế quốc tế là con đường có thể giúp cho các nước đang và kém phát triển có thể
tận dụng thời cơ phát triển rút ngắn, thu hẹp khoảng cách với các nước tiên tiến, khắc phục
nguy cơ tụt hậu ngày càng rõ rệt.
Hội nhập kinh tế quốc tế của 1 quốc gia là quá trình quốc gia đó thực hiện gắn kết nền
kinh tế của mình với nền kinh tế thế giới dựa trên sự chia sẻ lời ích, đồng thời tuân thủ
các chuẩn mực quốc tế chun
g => Khái niệm
Thứ hai, hội nhập kinh tế quốc tế là phương thức phát triển phổ biến của các nước, nhất
là các nước đang và kém phát triển trong điều kiện hiện nay
Hội nhập kinh tế quốc tế giúp mở cửa thị trường, thu hút vốn, thúc đẩy công nghiệp hoá, tăng
tích lũy; tạo ra nhiều cơ hội việc làm mới và nâng cao mức thu nhập tương đối của các tầng
lớp dân cư.
Các nước đang và kém phát triển cần phải có chiến lược hợp lý, tìm kiếm các đối sách phù
hợp để thích ứng với quá trình toàn cầu hoá đa bình diện và đầy nghịch lý để hạn chế đối mặt
với những rủi ro, thách thức do các TBCN đem lại (Gia tăng sự phụ thuộc do nợ nước ngoài,
bất bình đẳng trong trao đổi mậu dịch – thương mại giữa các nước đang phát triển và phát
triển).
2. Nội dung hội nhập kinh tế quốc tế
Thứ nhất, chuẩn bị các điều kiện để thực hiện hội nhập thành công
- Quá trình hội nhập phải được cân nhắc với lộ trình và cách thức tối ưu, có sự chuẩn bị
các điều kiện trong nội bộ nền kinh tế cũng như các mối quan hệ quốc tế thích hợp
Thứ hai, thực hiện đa dạng hóa các hình thức, các mức độ hội nhập kinh tế quốc tế
- Hội nhập kinh tế quốc tế là toàn bộ các hoạt động kinh tế đối ngoại của một nước, gồm
nhiều hình thức như: ngoại thương, đầu tư quốc tế, hợp tác quốc tế, dịch vụ thu ngoại
tệ…
- Hội nhập kinh tế quốc tế được diễn ra theo nhiều mức độ từ thấp đến cao.: Như thỏa
thuận thương mại, ưu đãi (PTA), Liên minh thuế quan (CU), Thị trường chung (hay thị
trường duy nhất), Liên minh kinh tế - tiền tệ…
II. Tác động tiêu cực của hội nhập kinh tế ở Việt Nam
1. Thực trạng về hội nhập kinh tế ở Việt Nam
a. Những cơ hội của hội nhập kinh tế ở Việt Nam
Việc thực hiện có hiệu quả các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới sẽ tạo ra
hội mở rộng, đa dạng hóa thị trường với mức ưu đãi cao, tham gia sâu hơn vào chuỗi
cung ứng, mạng lưới sản xuất toàn cầu; góp phần tích cực vào quá trình đổi mới đồng bộ
và toàn diện, khơi dậy tiềm năng của đất nước và sức sáng tạo của các tầng lớp nhân dân,
cải thiện đời sống nhân dân, nâng cao trình độ phát triển, giảm dần tỷ trọng gia công lắp
ráp của nền kinh tế.
Nước ta cũng có cơ hội tham gia chủ động và sâu hơn vào quá trình định hình và cải cách
các định chế, cơ chế, cấu trúc khu vực và quốc tế có lợi cho ta và có điều kiện thuận lợi
để đấu tranh bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc, lợi ích của các tổ chức, cá nhân; bảo đảm
độc lập, tự chủ, củng cố và duy trì môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc.
Doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội để phát triển mạnh hơn, sáng tạo hơn và có sức cạnh
tranh hơn. Người tiêu dùng có thêm cơ hội lựa chọn hàng hóa, dịch vụ chất lượng cao,
giá cả cạnh tranh; bảo đảm tiêu chuẩn vệ sinh, môi trường.
Tạo cơ hội mở rộng thị trường xuất khẩu, thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa
b. Những thách thức về hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam
Trước hết, thách thức lớn nhất và dễ nhận thấy nhất xuất phát từ chỗ nước ta là một nước đang
phát triển có
và đội ngũ doanh nhân còn nhỏ bé, sức cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ nói riêng và của toàn bộ
nền kinh tế nói chung còn nhiều hạn chế, hệ thống chính sách kinh tế, thương mại chưa hoàn
chỉnh... Cho nên, nước ta sẽ gặp khó khăn lớn trong cạnh tranh cả ở trong nước cả trên trường quốc
tế, cạnh tranh sẽ diễn ra gay gắt hơn, với nhiều đối thủ hơn, trên bình diện sâu hơn, rộng hơn. Do
thực hiện những cam kết của một thành viên WTO, nhất việc phải cắt giảm mạnh thuế nhập
khẩu, mở cửa sâu rộng về kinh tế, trong đó có việc phải mở cửa các lĩnh vực thương mại hàng hoá
và dịch vụ nhạy cảm cao như: ngân hàng, bảo hiểm, viễn thông, năng lượng, vận tải, chuyển phát
nhanh, nông nghiệp... bởi vậy nguy rủi ro kinh tế, tình trạng phá sản doanh nghiệp luôn hiện
hữu trở nên rất tiềm tàng. Ngoài ra, trong hội nhập kinh tế quốc tế, nhiệm vụ phát triển khu vực
kinh tế nhân cũng đòi hỏi phải giải quyết nhiều vấn đề về nhận thức, cơ chế, chính sách,... Về
chế bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, nước ta còn nhiều khó khăn về nhãn hiệu thương mại, bản
quyền tác giả, bảo vệ thiết kế công nghiệp và người dân chưa có thói quen tuân thủ quyền sở hữu
trí tuệ.
Thứ hai, trong quá trình hội nhập quốc tế, cũng như các nước đang phát triển khác, nước
ta phải chịu sự ràng buộc của các quy tắc kinh tế, thương mại, tài chính - tiền tệ, đầu tư... chủ yếu
do các nước phát triển áp đặt; phải chịu sức ép cạnh tranh bất bình đẳng sự điều tiết vĩ mô bất
hợp lý của các nước phát triển hàng đầu. Dựa vào sức mạnh kinh tế và mức đóng góp vốn khống
chế ở các thiết chế tài chính, tiền tệ và thương mại quốc tế, các nước này đặt ra các “luật chơi” cho
phần còn lại của thế giới khi tham gia IMF, WB, WTO... Tự do hoá thương mại và tự do hoá kinh
tế, đáng lẽ phải là cái đích cần vươn tới, thì bị họ xác định như xuất phát điểm, như điều kiện tiên
quyết đối với các nước đang phát triển trong tiến trình hội nhập quốc tế. Trên thực tế, đây là hoạt
động lũng đoạn của tư bản độc quyền quốc tế. Trong hoàn cảnh này, sự cạnh tranh kinh tế quốc tế
sự điều tiết nền kinh tế thế giới vẫn tiếp tục trở nên bất bình đẳng bất hợp
nhiên phần bất lợi lớn thuộc về tuyệt đại đa số các nước đang phát triển trong đó có nước ta.
Thứ ba, trên lĩnh vực xã hội, quá trình hội nhập quốc tế trong xu thế toàn cầu hoá đặt ra
một thách thức nan giải đối với nước ta trong việc thực hiện chủ trương tăng trưởng kinh tế đi đôi
với xóa đói, giảm nghèo, thực hiện tiến bộ công bằng hội. Sở vậy lợi ích của toàn
cầu hoá được phân phối một cách không đồng đều, những nước có nền kinh tế phát triển thấp được
hưởng lợi ít hơn. Trong phạm vi mỗi quốc gia cũng vậy, một bộ phận dân cư được hưởng lợi ích ít
hơn, thậm chí còn bị tác động tiêu cực của toàn cầu hóa; nguy cơ thất nghiệp và sự phân hoá giàu
nghèo sẽ tăng lên mạnh mẽ. Sức ép toàn diện khi nước ta thực hiện các cam kết với WTO sẽ đè
nặng lên khu vực nông nghiệp nơi tới gần 70% dân số lực lượng lao động hội, đồng
thời chúng ta còn sự hạn chế lớn về sức cạnh tranh của hàng hóa, về sự chưa phù hợp của nhiều
chính sách... Trong tình hình như đã nêu, cấu hội thể biến động phức tạp khó lường,
làm cho sự phân tầng, phân hoá xã hội cũng trở thành yếu tố tiêu cực đối với bản thân sự phát triển
của đất nước.
Thứ tư, quá trình hội nhập quốc tế đặt ra những vấn đề mới về bảo vệ an ninh quốc gia,
giữ gìn bản sắc văn hoá truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Trên lĩnh vực an ninh quốc gia, các
nguy cơ đe doạ an ninh ngày càng phức tạp hơn, bên cạnh các hiểm hoạ mang tính truyền thống,
đã xuất hiện các nguy cơ phi truyền thống (an ninh môi trường, dịch bệnh, khủng bố...); cục diện
an ninh luôn thay đổi; công cụ, biện pháp, hình thức, chế bảo đảm an ninh cũng cần phải đổi
mới thường xuyên. Vấn đề gắn an ninh, quốc phòng với kinh tế an ninh, quốc phòng với đối
ngoại trở thành nhiệm vụ vừa bản vừa cấp bách hiện nay của nước ta. Hội nhập quốc tế trong
một thế giới toàn cầu hoá, tính tùy thuộc giữa các nước sẽ tăng lên. Sự biến động trên thị trường,
cũng như tình hình chính chính trị khu vực thế giới sẽ tác động mạnh đến thị trường và đời sống
chính trị trong nước. Điều đó đòi hỏi chúng ta phải có chính sách kinh tế vĩ mô đúng đắn, có năng
lực dự báo và phân tích tình hình quốc tế, đồng thời cơ chế quản lý phải tạo cơ sở để nền kinh tế
khả năng phản ứng tích cực, hạn chế được ảnh hưởng tiêu cực trước những biến động trên thị
trường thế giới, giữ vững an ninh kinh tế và ổn định chính trị- xã hội.
Trên lĩnh vực văn hoá, quá trình hội nhập quốc tế đặt nước ta trước nguy cơ bị các giá trị
ngoại lai (trong đó có lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền), nhất là các giá trị văn hoá phương
Tây xâm nhập ồ ạt, làm tổn hại bản sắc văn hoá dân tộc. Chưa bao giờ văn hoá nhân loại lại đứng
trước một nghịch phức tạp như trong kỷ nguyên toàn cầu hoá hiện nay: vừa khả năng giao
lưu rộng mở, vừa có nguy cơ bị nghèo văn hoá rất nghiêm trọng.
Thứ năm, trên lĩnh vực chính trị, tiến trình hội nhập quốc tế ở nước ta cũng đang đối diện
trước thách thức của một số nguy đe dọa độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh
thổ, sự lựa chọn định hướng chính trị, vai trò của nhà ớc... Đã xuất hiện những mưu đồ lấy sự
phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước để hạ thấp chủ quyền quốc gia; lấy một thị trường không biên
giới để phủ nhận tính bất khả xâm phạm của toàn vẹn lãnh thổ quốc gia; lấy các thiết chế quốc tế
làm hình siêu nhà nước đứng trên các nhà ớc quốc gia, áp đặt các giá trị dân chủ nhân
quyền phương Tây trong quan hệ quốc tế, đưa ra thuyết "nhân quyền cao hơn chủ quyền"... Hội
nhập quốc tế đối với nước ta rõ ràng không thể tách rời cuộc đấu tranh chống "diễn biến hoà bình"
của các thế lực chống đối trên nhiều lĩnh vực.
thể nói, hội nhập quốc tế nước ta một quá trình với hội thách thức đan xen
tồn tại dưới dạng tiềm năng và có thể chuyển hoá lẫn nhau. Cơ hội và thách thức chỉ trở thành hiện
thực trong những điều kiện cụ thể, mà ở đó vai trò của nhân tố chủ quan có tính quyết định rất lớn,
trước hết đó là hiệu quả hoạt động lãnh đạo của Đảng, sự điều hành quản lý của Nhà nước và tinh
thần tự lực tự cường, đoàn kết của toàn dân tộc. Thực tế đã chứng tỏ việc kiên định nhất quán
đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở,
đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế với chủ trương chủ động tích cực hội nhập
kinh tế quốc tế sự lựa chọn đúng đắn, tất yếu đối với nước ta trong bối cảnh toàn cầu hoá sôi
động hiện nay. Những thành tựu quan trọng giành được trong quá trình hội nhập quốc tế, trước hết
hội nhập kinh tế quốc tế sở đđất nước ta vững bước trên đường hội nhập phát triển,
sớm ra khỏi tình trạng m phát triển, công nghiệp hoá, hiện đại hoá thành công, hướng tới mục
tiêu chiến lược dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
c. Hiện trạng kinh tế nước ta hiện nay
Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế trong những
năm gần đây. Thực trạng hội nhập kinh tế của Việt Nam được nhấn mạnh như sau:
Thương mại Đối tác Tn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP): Năm 2018,
Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên ký kết và hoàn thành CPTPP. Bên cạnh
việc giảm thuế quan cho hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam với các nước thành viên, hiệp
định này tạo ra cơ hội thị trường lớn cho nước này.
Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện và Tiến bộ (RCEP): Ngoài ra, Việt Nam là một trong
15 quốc gia tham gia vào thỏa thuận thương mại lớn nhất trên thế giới, RCEP. RCEP cho
phép xuất khẩu và hợp tác kinh tế tăng lên bằng cách cung cấp cho các quốc gia châu Á
Thái Bình Dương cơ hội tiếp cận thị trường lớn.
Đầu tư nước ngoài (FDI): Việt Nam thu hút nhiều FDI, đặc biệt trong ngành chế biến,
dịch vụ và công nghệ thông tin. Các công ty nước ngoài đang đổ vốn vào Việt Nam vì lao
động rẻ và môi trường kinh doanh tốt.
Phát triển các khu công nghiệp và khu kinh tế mở (KCN/KKTM): Việt Nam đã đầu tư
vào việc xây dựng cơ sở hạ tầng cho các KCN/KKTM để thu hút đầu tư và tăng sản xuất
xuất khẩu.
Phát triển ngành công nghiệp công nghệ cao: Nền kinh tế của Việt Nam đang chuyển từ
một nền kinh tế tập trung vào lao động giá rẻ sang một nền kinh tế tập trung vào công
nghệ và sáng tạo. Các công ty công nghệ lớn như Samsung, Intel và Foxconn đã thành lập
các nhà máy và trung tâm phát triển ở Việt Nam.
Tuy nhiên, việc hội nhập kinh tế cũng gây ra một số vấn đề, chẳng hạn như sự cạnh tranh tăng
lên và cải thiện quản lý và nâng cao chất lượng lao động để đáp ứng yêu cầu của các thị trường
quốc tế.
2. Tác động tiêu cực của hội nhập kinh tế quốc tế
Bên cạnh những mặt tích cực của hội nhập kinh tế quốc tế, nó vẫn luôn tiềm ẩn nhiều khía
cạnh rủi ro đòi hỏi chính phủ Việt Nam phải sớm can thiệp để đưa ra giải pháp nhanh chóng.
Cụ thể những hạn chế mà nhóm chúng tôi thông qua khảo sát đã tìm được như sau:
Hạn chế
Phân tích cụ thể
Ví dụ
Hội nhập kinh tế quốc
tế- bộc lộ điểm yếu
kém cơ bản của nền
kinh tế Việt Nam
Cơ cấu kinh tế và chất lượng tăng
trưởng vẫn chưa được cải thiện về
căn bản
Việt Nam so với các nước trên thế
giới vẫn chưa có một chỗ đứng
nhất định trên thị trường lao động
tri thức, phát triển công nghệ cao.
Cụ thể như những phần mềm trí
tuệ nhân tạo đã được một số nước
áp dụng vào kinh tế, còn Việt
Nam vẫn đang loay hoay trong
vòng xoáy của lao động rẻ mà
thiếu đi việc gia tăng năng suất
lao động
Hiệu quả đầu tư chưa
cao như mong muốn,
chậm đổi mới chính
sách liên quan đến thu
hút FDI
Việc thu hút FDI có tăng về số
lượng song chất lượng chưa đảm
bảo, công nghệ chưa tốt đặc biệt
trong công nghệ mô hình tăng
trưởng
Cụ thể, ngân hàng thế giới (WB)
nhận xét: vốn FDI gắn kết với
trong nước còn yếu kém , kết nối
trong nước chủ yếu ở các lĩnh vực
có giá trị gia tăng thấp: Hầu hêt
đầu vào(70-80%) đều phải nhập
khẩu
Sức cạnh tranh của nền
kinh tế, doanh nghiệp
và sản phẩm của Việt
Nam vẫn còn yếu so
với các nước, kể cả
nước trong khu vực
Các ngành kinh tế, doanh nghiệp
mang tính mũi nhọn có khả năng
vương tầm thế giới để chiếm lĩnh
thị trường vẫn chưa nhiều, một số
sản phẩm còn khó khăn trong
việc cạnh tranh, tốc độ tăng
trưởng kim ngạch xuất khẩu có
xu hướng giảm
Ví dụ như môi trường cạnh tranh
quốc tế hiện nay: để có thể bắt
đầu kinh doanh phải thông qua 10
bước, mất 34 ngày và chi phí cho
việc thành lập doanh nghiệp
khoảng 5,3% thu nhập bình quân
đầu người. Mặc dù đã được đơn
giản hóa so với trước đây (12
bước và 59 ngày) nhưng vẫn chưa
bằng các nước trong khu vực như
Ma-lai-xi-a, Xin-ga-po hay các
nước trên thế giới như Đan Mạch,
Pháp, Hồng Kông, Hàn Quốc,
Niu Di-lân.
Việc phát triển nền
kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa
tuy đã có những
chuyển biến tích cực
nhưng vẫn còn nhiều
bất cập, chưa đồng bộ
Các nền kinh tế thị trường này đôi
khi còn lúng túng trong việc xác
định hướng đi, các thị trường bất
động sản, tài chính, lao động,
khoa học- công nghệ tuy đã hình
thành và phát triển nhưng vẫn cần
cải thiện
Đã xuất hiện những
điểm “cổ chai” về thể
chế, cơ sở hạ tầng,
nguồn lực
Điều này gây cản trở về quá trình
phát triển, trong đó nguồn nhân
lực và cơ sở hạ tầng là các nội
dung đặc biệt
Thủ tướng cũng chỉ ra tình trạng
chậm giải ngân đầu tư công trong
gần chục năm qua đã tạo ra “nút
thắt cổ chai” đối với nền kinh tế.
Tình trạng chậm giải ngân này
diễn ra trong nhiều năm qua và
đặc biệt năm nay giải ngân rất
thấp.
3. Phương hướng nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế
- Nhận thức sâu sắc về thời cơ và thách thức do hội nhập kinh tế mang lại
Thực chất là sự nhận thức quy luật vận động khách quan của lịch sử xã hội:
Nhận thức được rằng: không một quốc gia nào có thể quay lưng với hội nhập
Thấy rõ các mặt tác động tiêu cực và tích cực của hội nhập kinh tế vì tác động của nó
là đa chiều, đa phương diện
- Xây dựng chiến lược và lộ trình hội nhập phù hợp
Chiến lược hội nhập kinh tế về thực chất là một kế hoạch tổng thể về phương hướng, mục tiêu và
các giải pháp cho hội nhập kinh tế. Xây dựng chiến lược hội nhập kinh tế phải phù hợp với khả
năng điều kiện thực tế.
Đánh giá đúng bối cảnh quốc tế, xu hướng vận động kinh tế, chính trị thế giới…
Đánh giá được những điều kiện khách quan và chủ quan có ảnh hưởng đến hội nhập
kinh tế nước ta
Nghiên cứu kinh nghiệm các nước
=> đúc kết ra những bài học từ đó tránh mắc sai lầm
Xây dựng phương hướng, mục tiêu, giải pháp phải đề cao tính hiệu quả, phù hợp với
thực tiễn về năng lực kinh tế, khả năng cạnh tranh, tiềm lực khoa học công nghệ và lao
động theo hướng tích cực chủ động
Chiến lược phải gắn với tiến trình hội nhập toàn diện, đồng thời phải có tính mở, điều
chỉnh linh hoạt
Xác định lộ trình hội nhập một cách hợp lý
-
Đặc trưng của hội nhập kinh tế quốc tế là sự hình thành các liên kết quốc tế và khu vực
để tạo ra sân chơi chung giữa các nước
- Hoàn thiện thể chế kinh tế và pháp luật
Hiện tại, cơ chế thị trường của nước ta chưa hoàn thiện. Do đó
Hoàn thiện cơ chế thị trường
Đổi mới cơ chế nhà nước
=> Nhà nước cần rà soát, hoàn thiện hệ thống pháp luật, nhất là luật pháp liên quan đến hội nhập
kinh tế
- Nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế
Nhà nước cần tăng cường hỗ trợ các doanh nghiệp, giúp các doanh nghiệp vượt qua thách
thức của thời kỳ hội nhập
Các doanh nghiệp cần chú trọng đầu tư, cải tiến công nghệ để nâng cao khả năng cạnh
tranh của mình III. Liên hệ
-
tế thì cần rèn luyện để có lập trường tư tưởng vững vàng, có lòng yêu nước, có niềm tin
vào sự lãnh đạo của Đảng và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng
và lối sống lành mạnh; tích cực tham gia vào các cuộc đấu tranh bảo vệ Đảng, Nhà nước
và bảo vệ cương lĩnh, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; đấu tranh
chống lại âm mưu “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch và các tiêu cực, tệ nạn
xã hội, tham nhũng…
-
trong
nước và hội nhập quốc tế, thì bản thân cần nâng cao trình độ học vấn, tay nghề khả năng
thực tế, kỹ năng lao động để thích ứng với thị trường lao động trong nước và thị trường
lao động quốc tế. Cần coi trọng việc nâng cao kiến thức, kỹ năng, bản lĩnh cho chúng ta
thích ứng với thời đại số, khai thác mặt tích cực của Internet, mạng xã hội, tăng thông tin
tích cực, gương người tốt, việc tốt, giáo dục ý thức tuân thủ pháp luật. Tích cực trau dồi
các kỹ năng hội nhập trong thời kỳ mới, tiếp thu sự phát triển của công nghệ, phát triển
Tích cực, chủ động tham gia vào các liên kết kinh tế quốc tế và thực hiện đầy đủ cam kết
của Việt Nam trong các liên kết kinh tế quốc tế và khu vực
Thứ nhất, bản thân là một sinh viên phải tích cực tham gia học tập, nâng cao trình độ lý
luận chính trị, bồi đắp lý tưởng cách mạng trong sáng. Với bối cnh trong nước quốc
Thứ hai, bản thân cần tích cực học tập và tự học tập để nâng cao trình độ văn hóa,
chuyên môn, khoa học, kỹ thuật và tay nghề. Trong thời kỳ phát triển kinh tế - hội
bản thân phù hợp với hoàn cảnh gia đình và xã hội. Trong quá trình xây dựng phải chắt
lọc, kế thừa những thành tựu phù hợp với điều kiện phát triển của đất nước
- Thứ ba, bản thân phải tích cực tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và các đoàn thể nhân dân, phải biết nâng cao nhận thức chính trị, học tập chủ
nghĩa Mác-Lê nin, học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Hiện nay, các thiết bị công
nghệ hiện đại và hệ thống mạng xã hội đang ngày càng phát triển đã tạo ra nhiều ảnh
hưởng lớn đến sinh viên chúng ta, bao gồm cả những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực, một
trong số đó là khiến giới trẻ nói chung, trong đó có một số sinh viên sống tách biệt với xã
hội, hình thành lối sống vô tâm, vô cảm, thờ ơ chính trị. Vậy nên sinh viên chúng ta phải
có nhiệm vụ tự mình nâng cao nhận thức trị, học và làm theo Bác, hỗ trợ Đảng và Nhà
nước trong việc loại bỏ các thông tin xuyên tạc, tiêu cực khỏi các nền tảng mạng xã hội,
tuyên truyền đến người thân, bạn bè có cách tiếp nhận thông tin đúng đắn, chính xác.
- môi trường, suy thoái môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu.
-
nguyện, tự giác tham gia thực hiện nghĩa vụ quân sự, tham gia các hoạt động bảo vệ Tổ
quốc và giữ gìn an ninh trật tự an toàn xã hội.
- Thứ sáu, bản thân cần chủ động tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế; tham gia giải
quyết các vấn đề toàn cầu; tham gia vào công tác ngoại giao nhân dân để nâng tầm ảnh
hưởng của Việt Nam trên trường quốc tế; chủ động và tham gia có hiệu quả vào giải
quyết các vấn đề toàn cầu như: giữ gìn hòa bình, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, chống
khủng bố, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu, hạn chế sự bùng
nổ dân số, phòng ngừa và đẩy lùi các dịch bệnh hiểm nghèo…, nên là lực lượng có nhu
cầu và khả năng tiếp thu nhanh nhạy những thành tựu và đổi mới về khoa học công nghệ
hiện đại; năng động sáng tạo, luôn chủ động học hỏi những cái mới và tiến bộ của nhân
loại
- Thứ bảy, phải biết quyết tâm giữ gìn bản sắc văn hóa. Trước những thách thức và khó
khăn mà đất nước đang phải đối mặt, sinh viên chúng ta phải tự mình phấn đấu, rèn
luyện, tự trau dồi cho bản thân những kỹ năng cần thiết, không ngừng nâng cao trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ, nỗ lực rèn luyện vì lợi ích chung của cộng đồng và vì chính sự
phát triển của cá nhân. Quan trọng hơn, các bạn trẻ cần xây dựng bản lĩnh văn hóa, sẵn
sàng đấu tranh với những hoạt động, sản phẩm văn hóa không lành mạnh.
Cách mạng nước ta đang chuyển sang thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, hội nhập quốc tế với mục tiêu sớm đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển,
mục tiêu đó đã và đang đặt ra những yêu cầu, trọng trách lớn lao đối với thề hệ trẻ hôm nay.
Để kế tục xứng đáng sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và dân tộc ta, bản thân tôi cần
ra sức học tập, trau dồi lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; ra sức thi đua lao động
và rèn luyện để hình thành một thế hệ thanh niên tân tiến, xứng tầm đồi hỏi của đất nước và
thời đại.
Thứ tư, bản thân phải tích cực tham gia vào việc xây dựng môi trường xã hội lành mạnh
và môi trường sinh thái trong lành, sạch đẹp
. Tích cực tham gia phòng chống ô nhiễm
Thứ năm, bản thân phải xung kích đi đầu trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, bảo
đảm quốc phòng an nin
h. Tích cực tham gia các chương trình, dự án của địa phương; tự

Preview text:

I. Cơ sở lý luận
1. Khái niệm hội nhập kinh tế quốc tếKhái niệm
- “Hội nhập” có nguồn gốc từ “liên kết” (integration) với nghĩa chung nhất là hành động
hoặc quá trình gắn kết các phần tử riêng rẽ với nhau; hợp chung các bộ phận vào một
chỉnh thể (nhất thể, hợp nhất) và kết hợp các thành tố khác nhau lại (tụ hội, tụ nhóm).
- Hội nhập kinh tế là sự sắp xếp giữa các quốc gia, thường bao gồm việc cắt giảm hoặc xóa
bỏ các rào cản thương mại và phối hợp các chính sách tài khóa và tiền tệ. Hội nhập kinh
tế nhằm giảm chi phí cho cả người tiêu dùng và nhà sản xuất và tăng cường thương mại
Hội nhập kinh tế quốc tế của 1 quốc gia là quá trình quốc gia đó thực hiện gắn kết nền
kinh tế của mình với nền kinh tế thế giới dựa trên sự chia sẻ lời ích, đồng thời tuân thủ
các chuẩn mực quốc tế chun g => Khái niệm
giữa các quốc gia tham gia hiệp định. -
- Hội nhập kinh tế quốc tế được các quốc gia/vùng lãnh thổ thực hiện bằng những phương
thức chủ yếu và có thể phân biệt như: thỏa thuận thương mại ưu đãi, khu vực mậu dịch tự
do, hiệp định đối tác kinh tế, thị trường chung, liên minh thuế quan, liên minh kinh tế và
tiền tệ, diễn đàn hợp tác kinh tế. •
Tính tất yếu khách quan của hội nhập kinh tế quốc tế
- Thứ nhất, do xu thế khách quan trong bối cảnh toàn cầu hoá thế giới
Toàn cầu hoá là quá trình tạo ra liên kết và sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng giữa các uốn
gia trên quy mô toàn cầu. Toàn cầu hoá diễn ra trên nhiều phương diện, trong đó toàn cầu hoá
kinh tế là xu thế nổi trội nhất; vừa là trung tâm vừa là cơ sở và cũng là động lực thúc đẩy toàn
cầu hoá các lĩnh vực khác. Toàn cầu hoá kinh tế là sự gia tăng nhanh chóng các hoạt động
kinh tế vượt qua mọi biên giới quốc gia, khu vực, tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền
kinh tế trong sự vận động và phát triển hướng tới một nền kinh tế thế giới thống nhất. Trong
toàn cầu hoá kinh tế, các yếu tố sản xuất được lưu thông trên phạm vi toàn cầu. Trong toàn
cầu hoá kinh tế, các yếu tố sản xuất được lưu thông trên phạm vi toàn cầu. Do đó, nếu không
hội nhập kinh tế quốc tế, các nước không thể tự đảm bảo được các điều kiện cần thiết cho sản xuất trong nước.
Hội nhập kinh tế quốc tế tạo ra cơ hội để các quốc gia giải quyết những vấn đề toàn cầu đã và
đang xuất hiện ngày càng nhiều, tận dụng được các thành tựu của cuộc cách mạng công
nghiệp, biến nó thành động lực cho sự phát triển. -
Thứ hai, hội nhập kinh tế quốc tế là phương thức phát triển phổ biến của các nước, nhất
Đối là các nước đang và kém phát triển trong điều kiện hiện nay với
các nước đang và kém phát triển, hội nhập kinh tế quốc tế là cơ hội để tiếp cận và sử dụng được
các nguồn lực bên ngoài như tài chính, khoa học – công nghệ, kinh nghiệm của các nước cho phát triển.
Hội nhập kinh tế quốc tế là con đường có thể giúp cho các nước đang và kém phát triển có thể
tận dụng thời cơ phát triển rút ngắn, thu hẹp khoảng cách với các nước tiên tiến, khắc phục
nguy cơ tụt hậu ngày càng rõ rệt.
Hội nhập kinh tế quốc tế giúp mở cửa thị trường, thu hút vốn, thúc đẩy công nghiệp hoá, tăng
tích lũy; tạo ra nhiều cơ hội việc làm mới và nâng cao mức thu nhập tương đối của các tầng lớp dân cư.
Các nước đang và kém phát triển cần phải có chiến lược hợp lý, tìm kiếm các đối sách phù
hợp để thích ứng với quá trình toàn cầu hoá đa bình diện và đầy nghịch lý để hạn chế đối mặt
với những rủi ro, thách thức do các TBCN đem lại (Gia tăng sự phụ thuộc do nợ nước ngoài,
bất bình đẳng trong trao đổi mậu dịch – thương mại giữa các nước đang phát triển và phát triển).
2. Nội dung hội nhập kinh tế quốc tế
Thứ nhất, chuẩn bị các điều kiện để thực hiện hội nhập thành công -
Quá trình hội nhập phải được cân nhắc với lộ trình và cách thức tối ưu, có sự chuẩn bị
các điều kiện trong nội bộ nền kinh tế cũng như các mối quan hệ quốc tế thích hợp
Thứ hai, thực hiện đa dạng hóa các hình thức, các mức độ hội nhập kinh tế quốc tế
- Hội nhập kinh tế quốc tế là toàn bộ các hoạt động kinh tế đối ngoại của một nước, gồm
nhiều hình thức như: ngoại thương, đầu tư quốc tế, hợp tác quốc tế, dịch vụ thu ngoại tệ…
- Hội nhập kinh tế quốc tế được diễn ra theo nhiều mức độ từ thấp đến cao.: Như thỏa
thuận thương mại, ưu đãi (PTA), Liên minh thuế quan (CU), Thị trường chung (hay thị
trường duy nhất), Liên minh kinh tế - tiền tệ…
II. Tác động tiêu cực của hội nhập kinh tế ở Việt Nam
1. Thực trạng về hội nhập kinh tế ở Việt Nam
a. Những cơ hội của hội nhập kinh tế ở Việt Nam
Việc thực hiện có hiệu quả các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới sẽ tạo ra cơ
hội mở rộng, đa dạng hóa thị trường với mức ưu đãi cao, tham gia sâu hơn vào chuỗi
cung ứng, mạng lưới sản xuất toàn cầu; góp phần tích cực vào quá trình đổi mới đồng bộ
và toàn diện, khơi dậy tiềm năng của đất nước và sức sáng tạo của các tầng lớp nhân dân,
cải thiện đời sống nhân dân, nâng cao trình độ phát triển, giảm dần tỷ trọng gia công lắp ráp của nền kinh tế. •
Nước ta cũng có cơ hội tham gia chủ động và sâu hơn vào quá trình định hình và cải cách
các định chế, cơ chế, cấu trúc khu vực và quốc tế có lợi cho ta và có điều kiện thuận lợi
để đấu tranh bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc, lợi ích của các tổ chức, cá nhân; bảo đảm
độc lập, tự chủ, củng cố và duy trì môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. •
Doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội để phát triển mạnh hơn, sáng tạo hơn và có sức cạnh
tranh hơn. Người tiêu dùng có thêm cơ hội lựa chọn hàng hóa, dịch vụ chất lượng cao,
giá cả cạnh tranh; bảo đảm tiêu chuẩn vệ sinh, môi trường. •
Tạo cơ hội mở rộng thị trường xuất khẩu, thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
b. Những thách thức về hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam
Trước hết, thách thức lớn nhất và dễ nhận thấy nhất xuất phát từ chỗ nước ta là một nước đang
phát triển có trình độ kinh tế thấp, quản lý nhà nước còn nhiều yếu kém và bất cập, doanh nghiệp
và đội ngũ doanh nhân còn nhỏ bé, sức cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ nói riêng và của toàn bộ
nền kinh tế nói chung còn nhiều hạn chế, hệ thống chính sách kinh tế, thương mại chưa hoàn
chỉnh... Cho nên, nước ta sẽ gặp khó khăn lớn trong cạnh tranh cả ở trong nước cả trên trường quốc
tế, cạnh tranh sẽ diễn ra gay gắt hơn, với nhiều đối thủ hơn, trên bình diện sâu hơn, rộng hơn. Do
thực hiện những cam kết của một thành viên WTO, nhất là việc phải cắt giảm mạnh thuế nhập
khẩu, mở cửa sâu rộng về kinh tế, trong đó có việc phải mở cửa các lĩnh vực thương mại hàng hoá
và dịch vụ nhạy cảm cao như: ngân hàng, bảo hiểm, viễn thông, năng lượng, vận tải, chuyển phát
nhanh, nông nghiệp... bởi vậy nguy cơ rủi ro kinh tế, tình trạng phá sản doanh nghiệp luôn hiện
hữu và trở nên rất tiềm tàng. Ngoài ra, trong hội nhập kinh tế quốc tế, nhiệm vụ phát triển khu vực
kinh tế tư nhân cũng đòi hỏi phải giải quyết nhiều vấn đề về nhận thức, cơ chế, chính sách,... Về
cơ chế bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, nước ta còn nhiều khó khăn về nhãn hiệu thương mại, bản
quyền tác giả, bảo vệ thiết kế công nghiệp và người dân chưa có thói quen tuân thủ quyền sở hữu trí tuệ.
Thứ hai, trong quá trình hội nhập quốc tế, cũng như các nước đang phát triển khác, nước
ta phải chịu sự ràng buộc của các quy tắc kinh tế, thương mại, tài chính - tiền tệ, đầu tư... chủ yếu
do các nước phát triển áp đặt; phải chịu sức ép cạnh tranh bất bình đẳng và sự điều tiết vĩ mô bất
hợp lý của các nước phát triển hàng đầu. Dựa vào sức mạnh kinh tế và mức đóng góp vốn khống
chế ở các thiết chế tài chính, tiền tệ và thương mại quốc tế, các nước này đặt ra các “luật chơi” cho
phần còn lại của thế giới khi tham gia IMF, WB, WTO... Tự do hoá thương mại và tự do hoá kinh
tế, đáng lẽ phải là cái đích cần vươn tới, thì bị họ xác định như xuất phát điểm, như điều kiện tiên
quyết đối với các nước đang phát triển trong tiến trình hội nhập quốc tế. Trên thực tế, đây là hoạt
động lũng đoạn của tư bản độc quyền quốc tế. Trong hoàn cảnh này, sự cạnh tranh kinh tế quốc tế
và sự điều tiết vĩ mô nền kinh tế thế giới vẫn tiếp tục trở nên bất bình đẳng và bất hợp lý mà dĩ
nhiên phần bất lợi lớn thuộc về tuyệt đại đa số các nước đang phát triển trong đó có nước ta.
Thứ ba, trên lĩnh vực xã hội, quá trình hội nhập quốc tế trong xu thế toàn cầu hoá đặt ra
một thách thức nan giải đối với nước ta trong việc thực hiện chủ trương tăng trưởng kinh tế đi đôi
với xóa đói, giảm nghèo, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Sở dĩ vậy là vì lợi ích của toàn
cầu hoá được phân phối một cách không đồng đều, những nước có nền kinh tế phát triển thấp được
hưởng lợi ít hơn. Trong phạm vi mỗi quốc gia cũng vậy, một bộ phận dân cư được hưởng lợi ích ít
hơn, thậm chí còn bị tác động tiêu cực của toàn cầu hóa; nguy cơ thất nghiệp và sự phân hoá giàu
nghèo sẽ tăng lên mạnh mẽ. Sức ép toàn diện khi nước ta thực hiện các cam kết với WTO sẽ đè
nặng lên khu vực nông nghiệp là nơi có tới gần 70% dân số và lực lượng lao động xã hội, đồng
thời chúng ta còn sự hạn chế lớn về sức cạnh tranh của hàng hóa, về sự chưa phù hợp của nhiều
chính sách... Trong tình hình như đã nêu, cơ cấu xã hội có thể biến động phức tạp và khó lường,
làm cho sự phân tầng, phân hoá xã hội cũng trở thành yếu tố tiêu cực đối với bản thân sự phát triển của đất nước.
Thứ tư, quá trình hội nhập quốc tế đặt ra những vấn đề mới về bảo vệ an ninh quốc gia,
giữ gìn bản sắc văn hoá và truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Trên lĩnh vực an ninh quốc gia, các
nguy cơ đe doạ an ninh ngày càng phức tạp hơn, bên cạnh các hiểm hoạ mang tính truyền thống,
đã xuất hiện các nguy cơ phi truyền thống (an ninh môi trường, dịch bệnh, khủng bố...); cục diện
an ninh luôn thay đổi; công cụ, biện pháp, hình thức, cơ chế bảo đảm an ninh cũng cần phải đổi
mới thường xuyên. Vấn đề gắn an ninh, quốc phòng với kinh tế và an ninh, quốc phòng với đối
ngoại trở thành nhiệm vụ vừa cơ bản vừa cấp bách hiện nay của nước ta. Hội nhập quốc tế trong
một thế giới toàn cầu hoá, tính tùy thuộc giữa các nước sẽ tăng lên. Sự biến động trên thị trường,
cũng như tình hình chính chính trị khu vực và thế giới sẽ tác động mạnh đến thị trường và đời sống
chính trị trong nước. Điều đó đòi hỏi chúng ta phải có chính sách kinh tế vĩ mô đúng đắn, có năng
lực dự báo và phân tích tình hình quốc tế, đồng thời cơ chế quản lý phải tạo cơ sở để nền kinh tế
có khả năng phản ứng tích cực, hạn chế được ảnh hưởng tiêu cực trước những biến động trên thị
trường thế giới, giữ vững an ninh kinh tế và ổn định chính trị- xã hội.
Trên lĩnh vực văn hoá, quá trình hội nhập quốc tế đặt nước ta trước nguy cơ bị các giá trị
ngoại lai (trong đó có lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền), nhất là các giá trị văn hoá phương
Tây xâm nhập ồ ạt, làm tổn hại bản sắc văn hoá dân tộc. Chưa bao giờ văn hoá nhân loại lại đứng
trước một nghịch lý phức tạp như trong kỷ nguyên toàn cầu hoá hiện nay: vừa có khả năng giao
lưu rộng mở, vừa có nguy cơ bị nghèo văn hoá rất nghiêm trọng.
Thứ năm, trên lĩnh vực chính trị, tiến trình hội nhập quốc tế ở nước ta cũng đang đối diện
trước thách thức của một số nguy cơ đe dọa độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh
thổ, sự lựa chọn định hướng chính trị, vai trò của nhà nước... Đã xuất hiện những mưu đồ lấy sự
phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước để hạ thấp chủ quyền quốc gia; lấy một thị trường không biên
giới để phủ nhận tính bất khả xâm phạm của toàn vẹn lãnh thổ quốc gia; lấy các thiết chế quốc tế
làm mô hình siêu nhà nước đứng trên các nhà nước quốc gia, áp đặt các giá trị dân chủ và nhân
quyền phương Tây trong quan hệ quốc tế, đưa ra thuyết "nhân quyền cao hơn chủ quyền"... Hội
nhập quốc tế đối với nước ta rõ ràng không thể tách rời cuộc đấu tranh chống "diễn biến hoà bình"
của các thế lực chống đối trên nhiều lĩnh vực.
Có thể nói, hội nhập quốc tế ở nước ta là một quá trình với cơ hội và thách thức đan xen
tồn tại dưới dạng tiềm năng và có thể chuyển hoá lẫn nhau. Cơ hội và thách thức chỉ trở thành hiện
thực trong những điều kiện cụ thể, mà ở đó vai trò của nhân tố chủ quan có tính quyết định rất lớn,
trước hết đó là hiệu quả hoạt động lãnh đạo của Đảng, sự điều hành quản lý của Nhà nước và tinh
thần tự lực tự cường, đoàn kết của toàn dân tộc. Thực tế đã chứng tỏ việc kiên định nhất quán
đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở,
đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế với chủ trương chủ động và tích cực hội nhập
kinh tế quốc tế là sự lựa chọn đúng đắn, tất yếu đối với nước ta trong bối cảnh toàn cầu hoá sôi
động hiện nay. Những thành tựu quan trọng giành được trong quá trình hội nhập quốc tế, trước hết
là hội nhập kinh tế quốc tế là cơ sở để đất nước ta vững bước trên đường hội nhập và phát triển,
sớm ra khỏi tình trạng kém phát triển, công nghiệp hoá, hiện đại hoá thành công, hướng tới mục
tiêu chiến lược dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
c. Hiện trạng kinh tế nước ta hiện nay
Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế trong những
năm gần đây. Thực trạng hội nhập kinh tế của Việt Nam được nhấn mạnh như sau: •
Thương mại Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP): Năm 2018,
Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên ký kết và hoàn thành CPTPP. Bên cạnh
việc giảm thuế quan cho hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam với các nước thành viên, hiệp
định này tạo ra cơ hội thị trường lớn cho nước này. •
Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện và Tiến bộ (RCEP): Ngoài ra, Việt Nam là một trong
15 quốc gia tham gia vào thỏa thuận thương mại lớn nhất trên thế giới, RCEP. RCEP cho
phép xuất khẩu và hợp tác kinh tế tăng lên bằng cách cung cấp cho các quốc gia châu Á
và Thái Bình Dương cơ hội tiếp cận thị trường lớn. •
Đầu tư nước ngoài (FDI): Việt Nam thu hút nhiều FDI, đặc biệt trong ngành chế biến,
dịch vụ và công nghệ thông tin. Các công ty nước ngoài đang đổ vốn vào Việt Nam vì lao
động rẻ và môi trường kinh doanh tốt. •
Phát triển các khu công nghiệp và khu kinh tế mở (KCN/KKTM): Việt Nam đã đầu tư
vào việc xây dựng cơ sở hạ tầng cho các KCN/KKTM để thu hút đầu tư và tăng sản xuất xuất khẩu. •
Phát triển ngành công nghiệp công nghệ cao: Nền kinh tế của Việt Nam đang chuyển từ
một nền kinh tế tập trung vào lao động giá rẻ sang một nền kinh tế tập trung vào công
nghệ và sáng tạo. Các công ty công nghệ lớn như Samsung, Intel và Foxconn đã thành lập
các nhà máy và trung tâm phát triển ở Việt Nam.
Tuy nhiên, việc hội nhập kinh tế cũng gây ra một số vấn đề, chẳng hạn như sự cạnh tranh tăng
lên và cải thiện quản lý và nâng cao chất lượng lao động để đáp ứng yêu cầu của các thị trường quốc tế.
2. Tác động tiêu cực của hội nhập kinh tế quốc tế
Bên cạnh những mặt tích cực của hội nhập kinh tế quốc tế, nó vẫn luôn tiềm ẩn nhiều khía
cạnh rủi ro đòi hỏi chính phủ Việt Nam phải sớm can thiệp để đưa ra giải pháp nhanh chóng.
Cụ thể những hạn chế mà nhóm chúng tôi thông qua khảo sát đã tìm được như sau: Hạn chế Phân tích cụ thể Ví dụ Hội nhập kinh tế quốc
Cơ cấu kinh tế và chất lượng tăng Việt Nam so với các nước trên thế
tế- bộc lộ điểm yếu
trưởng vẫn chưa được cải thiện về giới vẫn chưa có một chỗ đứng kém cơ bản của nền căn bản
nhất định trên thị trường lao động kinh tế Việt Nam
tri thức, phát triển công nghệ cao.
Cụ thể như những phần mềm trí
tuệ nhân tạo đã được một số nước
áp dụng vào kinh tế, còn Việt
Nam vẫn đang loay hoay trong
vòng xoáy của lao động rẻ mà
thiếu đi việc gia tăng năng suất lao động Hiệu quả đầu tư chưa
Việc thu hút FDI có tăng về số
Cụ thể, ngân hàng thế giới (WB) cao như mong muốn,
lượng song chất lượng chưa đảm
nhận xét: vốn FDI gắn kết với chậm đổi mới chính
bảo, công nghệ chưa tốt đặc biệt
trong nước còn yếu kém , kết nối sách liên quan đến thu
trong công nghệ mô hình tăng
trong nước chủ yếu ở các lĩnh vực hút FDI trưởng
có giá trị gia tăng thấp: Hầu hêt
đầu vào(70-80%) đều phải nhập khẩu
Sức cạnh tranh của nền Các ngành kinh tế, doanh nghiệp
Ví dụ như môi trường cạnh tranh kinh tế, doanh nghiệp
mang tính mũi nhọn có khả năng
quốc tế hiện nay: để có thể bắt và sản phẩm của Việt
vương tầm thế giới để chiếm lĩnh đầu kinh doanh phải thông qua 10 Nam vẫn còn yếu so
thị trường vẫn chưa nhiều, một số bước, mất 34 ngày và chi phí cho với các nước, kể cả
sản phẩm còn khó khăn trong
việc thành lập doanh nghiệp nước trong khu vực
việc cạnh tranh, tốc độ tăng
khoảng 5,3% thu nhập bình quân
trưởng kim ngạch xuất khẩu có
đầu người. Mặc dù đã được đơn xu hướng giảm
giản hóa so với trước đây (12
bước và 59 ngày) nhưng vẫn chưa
bằng các nước trong khu vực như
Ma-lai-xi-a, Xin-ga-po hay các
nước trên thế giới như Đan Mạch,
Pháp, Hồng Kông, Hàn Quốc, Niu Di-lân. Việc phát triển nền
Các nền kinh tế thị trường này đôi
kinh tế thị trường định
khi còn lúng túng trong việc xác
hướng xã hội chủ nghĩa định hướng đi, các thị trường bất tuy đã có những
động sản, tài chính, lao động, chuyển biến tích cực
khoa học- công nghệ tuy đã hình nhưng vẫn còn nhiều
thành và phát triển nhưng vẫn cần
bất cập, chưa đồng bộ cải thiện Đã xuất hiện những
Điều này gây cản trở về quá trình Thủ tướng cũng chỉ ra tình trạng
điểm “cổ chai” về thể
phát triển, trong đó nguồn nhân
chậm giải ngân đầu tư công trong chế, cơ sở hạ tầng,
lực và cơ sở hạ tầng là các nội
gần chục năm qua đã tạo ra “nút nguồn lực dung đặc biệt
thắt cổ chai” đối với nền kinh tế.
Tình trạng chậm giải ngân này
diễn ra trong nhiều năm qua và
đặc biệt năm nay giải ngân rất thấp.
3. Phương hướng nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế
- Nhận thức sâu sắc về thời cơ và thách thức do hội nhập kinh tế mang lại
Thực chất là sự nhận thức quy luật vận động khách quan của lịch sử xã hội: •
Nhận thức được rằng: không một quốc gia nào có thể quay lưng với hội nhập
Thấy rõ các mặt tác động tiêu cực và tích cực của hội nhập kinh tế vì tác động của nó
là đa chiều, đa phương diện
- Xây dựng chiến lược và lộ trình hội nhập phù hợp
Chiến lược hội nhập kinh tế về thực chất là một kế hoạch tổng thể về phương hướng, mục tiêu và
các giải pháp cho hội nhập kinh tế. Xây dựng chiến lược hội nhập kinh tế phải phù hợp với khả
năng điều kiện thực tế. •
Đánh giá đúng bối cảnh quốc tế, xu hướng vận động kinh tế, chính trị thế giới… •
Đánh giá được những điều kiện khách quan và chủ quan có ảnh hưởng đến hội nhập kinh tế nước ta •
Nghiên cứu kinh nghiệm các nước
=> đúc kết ra những bài học từ đó tránh mắc sai lầm •
Xây dựng phương hướng, mục tiêu, giải pháp phải đề cao tính hiệu quả, phù hợp với
thực tiễn
về năng lực kinh tế, khả năng cạnh tranh, tiềm lực khoa học công nghệ và lao
động theo hướng tích cực chủ động •
Chiến lược phải gắn với tiến trình hội nhập toàn diện, đồng thời phải có tính mở, điều chỉnh linh hoạt •
Xác định lộ trình hội nhập một cách hợp lý
- Tích cực, chủ động tham gia vào các liên kết kinh tế quốc tế và thực hiện đầy đủ cam kết
của Việt Nam trong các liên kết kinh tế quốc tế và khu vực •
Đặc trưng của hội nhập kinh tế quốc tế là sự hình thành các liên kết quốc tế và khu vực
để tạo ra sân chơi chung giữa các nước
- Hoàn thiện thể chế kinh tế và pháp luật
Hiện tại, cơ chế thị trường của nước ta chưa hoàn thiện. Do đó •
Hoàn thiện cơ chế thị trường •
Đổi mới cơ chế nhà nước
=> Nhà nước cần rà soát, hoàn thiện hệ thống pháp luật, nhất là luật pháp liên quan đến hội nhập kinh tế
- Nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế •
Nhà nước cần tăng cường hỗ trợ các doanh nghiệp, giúp các doanh nghiệp vượt qua thách
thức của thời kỳ hội nhập •
Các doanh nghiệp cần chú trọng đầu tư, cải tiến công nghệ để nâng cao khả năng cạnh
tranh của mình
III. Liên hệ
- Thứ nhất, bản thân là một sinh viên phải tích cực tham gia học tập, nâng cao trình độ lý
luận chính trị, bồi đắp lý tưởng cách mạng trong sáng. Với bối cảnh trong nước và quốc
tế thì cần rèn luyện để có lập trường tư tưởng vững vàng, có lòng yêu nước, có niềm tin
vào sự lãnh đạo của Đảng và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng
và lối sống lành mạnh; tích cực tham gia vào các cuộc đấu tranh bảo vệ Đảng, Nhà nước
và bảo vệ cương lĩnh, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; đấu tranh
chống lại âm mưu “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch và các tiêu cực, tệ nạn xã hội, tham nhũng…
- Thứ hai, bản thân cần tích cực học tập và tự học tập để nâng cao trình độ văn hóa,
chuyên môn, khoa học, kỹ thuật và tay nghề. Trong thời kỳ phát triển kinh tế - xã hội trong
nước và hội nhập quốc tế, thì bản thân cần nâng cao trình độ học vấn, tay nghề khả năng
thực tế, kỹ năng lao động để thích ứng với thị trường lao động trong nước và thị trường
lao động quốc tế. Cần coi trọng việc nâng cao kiến thức, kỹ năng, bản lĩnh cho chúng ta
thích ứng với thời đại số, khai thác mặt tích cực của Internet, mạng xã hội, tăng thông tin
tích cực, gương người tốt, việc tốt, giáo dục ý thức tuân thủ pháp luật. Tích cực trau dồi
các kỹ năng hội nhập trong thời kỳ mới, tiếp thu sự phát triển của công nghệ, phát triển
bản thân phù hợp với hoàn cảnh gia đình và xã hội. Trong quá trình xây dựng phải chắt
lọc, kế thừa những thành tựu phù hợp với điều kiện phát triển của đất nước
- Thứ ba, bản thân phải tích cực tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và các đoàn thể nhân dân, phải biết nâng cao nhận thức chính trị, học tập chủ
nghĩa Mác-Lê nin, học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Hiện nay, các thiết bị công
nghệ hiện đại và hệ thống mạng xã hội đang ngày càng phát triển đã tạo ra nhiều ảnh
hưởng lớn đến sinh viên chúng ta, bao gồm cả những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực, một
trong số đó là khiến giới trẻ nói chung, trong đó có một số sinh viên sống tách biệt với xã
hội, hình thành lối sống vô tâm, vô cảm, thờ ơ chính trị. Vậy nên sinh viên chúng ta phải
có nhiệm vụ tự mình nâng cao nhận thức trị, học và làm theo Bác, hỗ trợ Đảng và Nhà
nước trong việc loại bỏ các thông tin xuyên tạc, tiêu cực khỏi các nền tảng mạng xã hội,
Thứ tư, bản thân phải tích cực tham gia vào việc xây dựng môi trường xã hội lành mạnh
và môi trường sinh thái trong lành, sạch đẹp . Tích cực tham gia phòng chống ô nhiễm
tuyên truyền đến người thân, bạn bè có cách tiếp nhận thông tin đúng đắn, chính xác.
- môi trường, suy thoái môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu.
- Thứ năm, bản thân phải xung kích đi đầu trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, bảo
đảm quốc phòng an nin h. Tích cực tham gia các chương trình, dự án của địa phương; tự
nguyện, tự giác tham gia thực hiện nghĩa vụ quân sự, tham gia các hoạt động bảo vệ Tổ
quốc và giữ gìn an ninh trật tự an toàn xã hội.
- Thứ sáu, bản thân cần chủ động tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế; tham gia giải
quyết các vấn đề toàn cầu; tham gia vào công tác ngoại giao nhân dân để nâng tầm ảnh
hưởng của Việt Nam trên trường quốc tế; chủ động và tham gia có hiệu quả vào giải
quyết các vấn đề toàn cầu như: giữ gìn hòa bình, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, chống
khủng bố, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu, hạn chế sự bùng
nổ dân số, phòng ngừa và đẩy lùi các dịch bệnh hiểm nghèo…, nên là lực lượng có nhu
cầu và khả năng tiếp thu nhanh nhạy những thành tựu và đổi mới về khoa học công nghệ
hiện đại; năng động sáng tạo, luôn chủ động học hỏi những cái mới và tiến bộ của nhân loại
- Thứ bảy, phải biết quyết tâm giữ gìn bản sắc văn hóa. Trước những thách thức và khó
khăn mà đất nước đang phải đối mặt, sinh viên chúng ta phải tự mình phấn đấu, rèn
luyện, tự trau dồi cho bản thân những kỹ năng cần thiết, không ngừng nâng cao trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ, nỗ lực rèn luyện vì lợi ích chung của cộng đồng và vì chính sự
phát triển của cá nhân. Quan trọng hơn, các bạn trẻ cần xây dựng bản lĩnh văn hóa, sẵn
sàng đấu tranh với những hoạt động, sản phẩm văn hóa không lành mạnh.
Cách mạng nước ta đang chuyển sang thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, hội nhập quốc tế với mục tiêu sớm đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển,
mục tiêu đó đã và đang đặt ra những yêu cầu, trọng trách lớn lao đối với thề hệ trẻ hôm nay.
Để kế tục xứng đáng sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và dân tộc ta, bản thân tôi cần
ra sức học tập, trau dồi lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; ra sức thi đua lao động
và rèn luyện để hình thành một thế hệ thanh niên tân tiến, xứng tầm đồi hỏi của đất nước và thời đại.