



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 58702377
ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN BÀI TẬP NHÓM
MÔN KINH TẾ ĐẦU TƯ ĐỀ BÀI:
Nhóm sinh viên thực hiện: Trần Như Đức Lê Thị Hiền Khanh Lưu Nhật Khánh Ly Nguyễn Ngọc Yến Nhi Cao Phương Ngọc
Lớp tín chỉ: DTKT 1154(124) _05
Giáo viên: Hoàng THị Thu Hà
Hà Nội, tháng 11 năm 2024 lOMoAR cPSD| 58702377
NỘI DUNG...........................................................................................................2 I.
TỔNG QUAN VỀ MÔI TRƯỜNG ĐẦU TƯ.......................................2
1. Khái niệm, đặc điểm của môi trường đầu tư...............................................2
a. Khái niệm............................................................................................2 b.
Các yếu tố của môi trường đầu tư.......................................................2 c.
Đặc điểm của môi trường đầu tư.........................................................2
2. Phân loại......................................................................................................3
3. Vai trò..........................................................................................................3 II.
THỰC TRẠNG VÀ HẠN CHẾ CỦA MÔI TRƯỜNG ĐẦU TƯ CỦA
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2016 - 2023..................................................4
1. Thực trạng ..................................................................................................4 a. Tăng trưởng vốn đầu tư toàn xã
hội......................................................4 b. Diễn biến vốn đầu tư khu vực nhà
nước...............................................5 c. Diễn biến vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI)..................................6 d. Diễn biến vốn đầu tư tư
nhân................................................................7 2. Hạn
chế........................................................................................................7a.
Hạn chế của môi trường tự nhiên năm 2016-2023..............................7 b.
Hạn chế của môi trường chính trị năm 2016-2023.............................8 c.
Hạn chế của môi trường pháp lý hành chính năm 2016-2023............9 d.
Hạn chế của môi trường kinh tế năm 2016-2023..............................11 a. Kinh tế vĩ
mô.................................................................................11 b. Cơ sở hạn
tầng...............................................................................13 e.
Hạn chế của môi trường xã hội – văn hóa năm 2016-2023..............15 III.
CÁC GIẢI PHÁP VIỆT NAM CẦN THỰC HIỆN ĐỂ CẢI THIỆN
MÔI TRƯỜNG ĐẦU TƯ...................................................................17
a. Với môi trường tự nhiên............................................................................17
b. Với môi trường chính trị ..........................................................................17
c. Với môi trường pháp lý hành chính..........................................................17
d. Với môi trường kinh tế..............................................................................19
e. Với môi trường. văn hóa xã hội ...............................................................20
TỔNG KẾT........................................................................................................21
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................23 lOMoAR cPSD| 58702377 NỘI DUNG I.
TỔNG QUAN VỀ MÔI TRƯỜNG ĐẦU TƯ.
1. Khái niệm, đặc điểm của môi trường đầu tư. a. Khái niệm.
Cho đến hiện nay, khái niệm môi trường đầu tư được nhiều tác giả đề cập đến
nhưng vẫn còn chưa thống nhất. Khái niệm môi trường đầu tư được nghiên cứu
và xem xét theo nhiều khía cạnh khác nhau tùy theo mục đích, phạm vi, đối tượng
nghiên cứu. Với phạm vi nghiên cứu của chương này, khái niệm môi trường đầu
tư được định nghĩa như sau:
“ Môi trường đầu tư là tổng hòa các yếu tố của quốc gia, địa phương có ảnh
hưởng tới hoạt động đầu tư, và phát triển kinh tế.”
Môi trường đầu tư được đánh giá là tốt khi thu hút vốn đầu tư, và đầu tư hiệu quả
đối với cả nhà đầu tư và nền kinh tế. b.
Các yếu tố của môi trường đầu tư ● Đầu tư tài chính:
- Đầu tư tài chính là hoạt động tạo lập và phát triển ra giá trị thặng dư (mức
độ dôi ra so với ban đầu). Ở phạm vi nhỏ, đầu tư tài chính là việc sử dụng
nguồn tiền nhàn rỗi để đầu tư vào các kênh có thể sinh ra lợi nhuận. Một số
kênh như: Chứng khoán, cổ phiếu, trái phiếu, forex, vàng, gửi tiết kiệm…
● Đầu tư thương mại:
- Đầu tư thương mại được hiểu là loại đầu tư trong đó chủ đầu tư bỏ tiền ra
để mua hàng sau đó bán lại với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận. ● Đầu tư phát triển:
- Đầu tư phát triển là 1 phương thức đầu tư trực tiếp. Hoạt động đầu tư này
nhằm duy trì và tạo ra năng lực mới trong sản xuất kinh doanh dịch vụ
và trong sinh hoạt đời sống xã hội. c.
Đặc điểm của môi trường đầu tư
● Thứ nhất, môi trường đầu tư là sự tổng hợp của các yếu tố tác động đến nhà
đầu tư, người lao động và nền kinh tế. Khi đánh giá môi trường đầu tư cần
đánh giá tổng hợp các yếu tố và các mối quan hệ giữa các yếu tố. Khi cải
thiện môi trường đầu tư cần chú ý đến ảnh hưởng của việc cải thiện tất cả
các yếu tố của môi trường đầu tư từ đó đề ra giải pháp phù hợp.
● Thứ hai, môi trường đầu tư có tính tương tác cao. Giữa chính phú, môi
trường đầu tư, nhà đầu tư và các yếu tố khác có sự liên hệ qua lại, tác động
lẫn nhau. Nhà đầu tư căn cứ vào môi trường để có hưởng đầu tư đúng đắn,
nhà đầu tư cũng giúp nâng cao môi trường đầu tư và nâng cao trình độ
người lao động. Chính phủ thông qua vai trò quản lý của mình cải thiện
môi trường đầu tư và tạo ra các kênh thông tin thu hút nhà đầu tư.
● Thứ ba, môi trường đầu tư có tính động và mở. Tức là các yếu tố của môi
trường đầu tư luôn vận động biến đổi. Khi nhìn môi trường đầu tư, các nhà
đầu tư cần căn cứ trên sự vận động cũng như tác động qua lại của các yếu
tố với nhau. Sự vận động của các yếu tố môi trường đầu tư. lOMoAR cPSD| 58702377
● Thứ tư, môi trường đầu tư mang tính hệ thống. Môi trường đầu tư quốc gia
ảnh hưởng bởi môi trường đầu tư quốc tế, môi trường đầu tư quốc gia là
tổng hòa của môi trường đầu tư vùng, khu vực, tỉnh, ngành,...Khi thu hút
nhà đầu tư, chính phủ cần quản lý đầu tư một cách có hệ thống, tìm ra các
yếu tố ảnh hưởng đến môi trường đầu tư, quản lý và hoàn thiện các văn
bản, thủ tục hành chính.
2. Phân loại các yếu tố cấu thành môi trường đầu tư
● Môi trường tự nhiên: Tài nguyên thiên nhiên và khả năng khai thác.
● Môi trường chính trị: Sự ổn định của chính trị, năng lực quản lý của đội
ngũ lãnh đạo, thể chế chính trị, quan hệ ngoại giao, hợp tác quốc tế...
● Môi trường pháp lý: Hệ thống pháp luật công bằng, rõ ràng, ổn định, khả
năng thực thi pháp luật tốt....
● Môi trường kinh tế: Các chính sách kinh tế, chính sách bảo hộ thị trưởng
trong nước, khả năng đầu tư của chính phủ cho phát triển, hệ thống đường sá, giao thông,...
● Môi trường xã hội - văn hóa: Nguồn lao động và giá cả lao động cũng
nhưtrình độ của người lao động, tình hình an ninh, trật tự an toàn xã hội...
3. Vai trò của đầu tư trong thu hút đầu tư
Môi trường đầu tư có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc thúc đẩy đầu tư phát
triển nhanh và tạo điều kiện tốt nhất cho các nhà đầu tư nước ngoài, cụ thể:
- Thứ nhất, môi trường đầu tư tạo điều kiện và hướng dẫn hoạt động đầu tư:
Để thu hút đầu tư thì môi trường đầu tư phải tạo ra các cơ sở, điều kiện
thuận lợi để hoạt động đầu tư diễn ra. Căn cứ vào điều kiện hạ tầng, vào
chủ trương chính sách và các biện pháp khuyến khích, vào quan điểm của
địa phương thì nhà đầu tư sẽ nắm bắt và biết được địa phương định hướng
đầu tư họ đi vào hoạt động ở lĩnh vực nào. Từ đó nhà đầu tư lựa chọn đầu
tư dựa trên năng lực của bản thân và viễn cảnh tốt đẹp do môi trường đầu tư mang lại.
- Thứ hai, môi trường đầu tư tạo cơ sở hợp tác để nhà đầu tư và địa phương
cùng có lợi: Thu hút vốn đầu tư nhằm khơi dậy và phát huy tiềm năng của
địa phương. Do đó, môi trường đầu tư có vai trò tạo cơ sở để nhà đầu tư
và địa phương cùng hợp tác để mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội cho cả
hai. Chủ đầu tư thu được lợi nhuận từ hoạt động đầu tư còn địa phương
khai thác được tiềm năng, thế mạnh, giải quyết việc làm cho người lao động
và cải thiện bộ mặt kinh tế- xã hội.
- Thứ ba, thông qua nhà đầu tư, giới thiệu địa phương ở tất cả các lĩnh vực
nhằm thu hút và đón nhân đầu tư. Không có một hoạt động, vận động xúc
tiến nào kêu gọi đầu tư hiệu quả bằng chính sách các nhà đầu tư hiện có
giới thiệu về hoạt động đầu tư tại địa phương đó. Làm tốt công tác quản lý,
tạo mọi điều kiện giúp nhà đầu tư tháo gỡ khó khăn trong quá trình hoạt
động chính là cách thu hút vốn đầu tư, tạo nên môi trường đầu tư có hiệu quả nhất. lOMoAR cPSD| 58702377
II. THỰC TRẠNG VÀ HẠN CHẾ CỦA MÔI TRƯỜNG ĐẦU TƯ CỦA
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2016 - 2023
1. Thực trạng a. Tăng trưởng vốn đầu tư toàn xã hội
Trong giai đoạn 2016 - 2023, vốn đầu tư toàn xã hội của Việt Nam tăng đều,
nhưng tốc độ thay đổi không đồng đều do ảnh hưởng của đại dịch COVID 19 và
yếu tố kinh tế toàn cầu. Khu vực ngoài Nhà nước nổi bật với sự tăng trưởng ổn
định và ngày càng chiếm tỷ trọng lớn (từ 38,9% năm 2016 lên 56,1% năm 2023).
Trong khi đó, vốn FDI có sự biến động và tăng nhẹ vào cuối năm 2023, phản ánh
sự giảm phụ thuộc vào nguồn vốn này. Khu vực Nhà nước vẫn duy trì tăng trưởng
tích cực và ổn định. Năm 2020 là điểm sáng với sự tăng trưởng mạnh mẽ, giúp
nâng cao tổng vốn đầu tư.
Trong năm 2016, ngành chế biến, chế tạo chiếm 50% tổng vốn đầu tư với
771.450 nghìn tỷ đồng. Tuy nhiên vào năm 2023, ngành chỉ chiếm khoảng 40%
tổng vốn đầu tư với 920.000 tỷ đồng. Ngành xây dựng và dịch vụ, thương mại
cũng được tích cực đầu tư trong giai đoạn 2016 - 2023 với nguồn vốn dao động
từ khoảng 25% đến 17% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
Hình 1: Tăng trưởng vốn đầu tư toàn xã hội tại Việt Nam giai đoạn 2016 - 2023
b. Diễn biến vốn đầu tư khu vực nhà nước
Trong giai đoạn 2016 - 2023, vốn đầu tư khu vực Nhà nước ở Việt nam có
nhiều biến động, thể hiện xu hướng chuyển dịch trong chính sách đầu tư của Nhà
nước: tập trung vào các lĩnh vực then chốt và khuyến khích sự tham gia của khu
vực kinh tế tư nhân. Từ năm 2016 - 2018, vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước bắt
đầu tăng, đặc biệt trong lĩnh vực hạ tầng, giao thông và năng lượng. Nhiều dự án
lớn được khởi công nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Do ảnh hưởng bởi dịch
COVID-19, các dự án đầu tư Nhà nước năm 2019 và năm 2020 bị ảnh hưởng và
trì hoãn. Vốn đầu tư khu vực Nhà nước bắt đầu phục hồi trong giai đoạn 2020-
2023 nhờ vào việc tái khởi công các dự án, thúc đẩy cổ phần hóa và PPP (hợp tác
công tư). Ngành xây dựng được nhà nước tích cực đầu tư chiếm khoảng 60%
nguồn vốn từ khu vực Nhà nước (320.000 tỷ đồng). Tuy nhiên, trong năm 2023,
ngành giao thông và vận tải được chú trọng đầu tư hơn với khoảng 50% nguồn
vốn đầu tư từ khu vực Nhà nước (200.000 tỷ đồng). lOMoAR cPSD| 58702377
Hình 2: Tăng trưởng vốn đầu tư khu vực Nhà nước giai đoạn 2016 - 2023
c. Diễn biến vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI) tại Việt Nam trong giai đoạn
2016 - 2023 có những biến động nhất định, phản ánh sự nhạy cảm của dòng vốn
này với các yếu tố kinh tế vĩ mô trong nước và quốc tế. Số lượng dự án tăng giảm
thất thường qua các năm do những thay đổi của môi trường đầu tư và chính sách
thu hút FDI của Việt Nam. Tổng vốn đăng ký cũng biến động mạnh, giảm còn
28,53 tỷ USD năm 2020 và tăng mạnh trở lại vào năm 2023 với 36,6 tỷ USD.
Tổng vốn thực hiện duy trì được đà tăng trưởng ổn định với mức tăng trưởng bình
quân khoảng 5,4%/năm. Hiệu quả giải ngân vốn chưa ổn định, duy trì ở mức
61,22% trong giai đoạn 2016 - 2023. Quy mô bình quân 1 dự án có sự thay đổi và
có sự tăng nhẹ vào cuối năm 2023 (tăng 1,55 triệu USD so với 2016). Ngành công
nghiệp chế biến, chế tạo thu hút dòng vốn này nhiều nhất, chiếm 67% tổng vốn
đầu tư FDI (khoảng 1,3 tỷ USD) năm 2016. Năm 2023, ngành vẫn giữ được mức
tổng đầu tư FDI lớn nhất với 15 tỷ USD, chiếm khoảng 70% tổng vốn.
Vốn đăng Vốn thực hiện Vốn thực hiện/Vốn Quy mô bình quân 1 Năm Số dự án ký (tỷ USD) (tỷ USD) đăng ký (%) dự án (triệu USD) 2016 2.503 24,86 15,80 63,56 9,93 2017 2.591 35,88 17,50 48,77 13,85 2018 3.046 35,47 19,10 53,85 11,64 2019 3.883 38,02 20,38 53,60 9,79 2020 2.523 28,53 19,98 70,03 11,31 2021 1.738 31,15 19,74 63,36 17,92 2022 2.036 27,72 22,40 80,81 13,61 2023 3.188 36,60 23,20 63,38 11,48 Tổng số 21.508 258,23 158,10 61,22 12,44
Bảng 1: Số liệu FDI tại Việt nam trong giai đoạn 2016 - 2023 lOMoAR cPSD| 58702377
d. Diễn biến vốn đầu tư tư nhân
Đầu tư tư nhân tại Việt nam vẫn duy trì được đà tăng trưởng tích cực dù gặp
nhiều khó khăn từ các yếu tố ngoại biên. Trong năm 2016, khu vực kinh tế tư
nhân trong nước chiếm 38,6% GDP cả nước, dần khẳng định vị thế là động lực
chính cho những kết quả tăng trưởng đáng khích lệ của Việt Nam. Tỷ trọng vốn
đầu tư tư nhân tiếp tục tăng mạnh trong giai đoạn 2016 - 2023 với vốn đầu tư tư
nhân chiếm gần 45% GDP cả nước. Tuy có sự tăng trưởng vốn đầu tư tư nhân
giảm mạnh từ 8,9% năm 2022 xuống còn 2,7% năm 2023 do ảnh hưởng của lạm
phát toàn cầu và sự thắt chặt của chính sách tiền tệ, nguồn vốn này vẫn là động
lực chính thúc đẩy sự phát triển của nhiều ngành kinh tế. Ngành bất động sản thu
hút nguồn vốn này mạnh mẽ với khoảng 300.000 tỷ đồng đầu tư năm 2016, chiếm
khoảng 30% tổng vốn tư nhân. Năm 2023, ngành có sự giảm nhẹ trong nguồn vốn
đầu tư với khoảng 200.000 tỷ đồng, nhưng vẫn duy trì ở mức 30% tổng vốn đầu
tư từ khu vực này. Vốn đầu tư tư nhân vẫn là động lực chính thúc đẩy sự phát triển
của nhiều ngành kinh tế. 2. Hạn chế a.
Hạn chế của môi trường tự nhiên
Mặc dù sở hữu đường bờ biển dài, nằm ở vị trí trung tâm của dòng chảy
hàng hóa và có nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào, thực trạng lạm dụng và
phung phí tài nguyên, ô nhiễm môi trường và quản lý yếu kém khiến cho các nhà
đầu tư phải dè chừng khi rót tiền vào.
Thiên nhiên nước ta hiện nay bị phá hoại bởi hoạt động vô ý thức, thái độ
tủy tiện vô trách nhiệm, thiếu kế hoạch trong việc khai thác và sử dụng các nguồn
tài nguyên thiên nhiên. Theo thống kê trước năm 1945, rừng bao phủ chiếm tỉ lệ
43,8%, hiện nay chỉ còn hơn 28% (tức là dưới mức báo động 30%).
Diện tích đất trồng trọt đang bị sói mòn tăng mạnh lên khoảng 13,4 triệu ha.
Nguyên nhân chính của tình trạng này là do du canh du cư, khai thác gỗ vô tội vạ,
mở mang giao thông, xây dựng thủy điện …chưa theo quy hoạch thống nhất.
Vấn đề quy hoạch sử dụng đất chưa hợp lý, đang làm lãng phí nguồn tài nguyên
quý giá này của đất nước.
Tình trạng ô nhiễm môi trường sinh thái gia tăng đang là vấn đề nan giải
hiện nay. Nhiều nhà máy xả ra chất thải công nghiệp, sinh hoạt, chất độc hại của
quá trình sản xuất không được xử lý nghiêm túc mà đưa trực tiếp vào môi trường,
gây tình trạng ô nhiễm môi trường sinh thái, gây bệnh tật cho người dân. Theo
thống kê của Bộ tài nguyên Môi trường, hiện nay cả nước có hơn 5400 làng nghề,
riêng Hà Nội có hơn 1350 làng nghề, tuy nhiên 95% hoạt động sản xuất gây ô
nhiễm môi trường, hơn 50% gây ô nhiễm nghiêm trọng. Bên cạnh đó, vấn đề khai
thác mỏ, vật liệu xây dựng, vàng đá quý… chính thức và tự do cũng đã và đang
làm hủy hoại môi trường sinh thái. Việc sử dụng mìn khai thác ở nhiều lĩnh vực
đang làm phá hoại sự cân bằng về hệ sinh thái môi trường. lOMoAR cPSD| 58702377
Đã có sự chuyển biến tích cực trong đầu tư cho bảo vệ môi trường, nhưng mức độ
đầu tư hiện tại vẫn còn thấp. Vai trò của cơ quan quản lý tài nguyên và môi trường
ở địa phương trong việc xây dựng kế hoạch bảo vệ môi trường hàng năm còn hạn
chế. Cơ chế huy động vốn và đa dạng hóa nguồn đầu tư cho hạ tầng bảo vệ môi
trường tại các khu công nghiệp (KCN) và khu kinh tế (KKT) gặp nhiều khó khăn,
đặc biệt ở các tỉnh nghèo miền Nam. Các địa phương thường thiếu chủ động trong
việc thu hút đầu tư cho các công trình bảo vệ môi trường và phụ thuộc vào ngân sách trung ương.
Công tác thanh tra, kiểm tra chấp hành pháp luật về bảo vệ môi trường chưa hiệu
quả do quy trình thanh tra còn rườm rà và thiếu linh hoạt. Mạng lưới quan trắc
môi trường chưa đáp ứng yêu cầu thực tế, đặc biệt là quan trắc chất lượng không
khí. Hệ thống công nghệ thông tin quan trắc môi trường chưa được đầu tư đồng
bộ, dẫn đến việc truyền nhận và khai thác dữ liệu chưa hiệu quả.
Nhìn chung, các hạn chế trong quản lý môi trường và tài nguyên thiên nhiên đang
ảnh hưởng tiêu cực đến đầu tư tại Việt Nam, làm giảm khả năng thu hút và sử
dụng hiệu quả nguồn lực cho phát triển bền vững. b.
Hạn chế trong môi trường chính trị
Trong giai đoạn 2016-2023, khung thể chế của Việt Nam đã có những bước
chuyển biến đáng kể, tuy nhiên vẫn tồn tại những hạn chế cơ bản. Điều này thể
hiện qua việc tỷ lệ doanh nghiệp FDI phản ánh về sự chồng chéo trong chức năng
quản lý giảm từ 30% (2016) xuống còn 18% (2023). Mặc dù có sự cải thiện, song
con số này vẫn cho thấy tính kém hiệu quả trong cơ cấu tổ chức thể chế.
Thể chế chính trị là một yếu tố tối quan trọng của mỗi quốc gia, không dễ
dàng thay đổi và không chỉ phục vụ cho mục đích kinh tế mà cả chính trị, xã hội,
an toàn, an ninh quốc gia. Mặc dù chỉ số môi trường thể chế của Việt Nam đang
tiến triển theo hướng tích cực nhưng vẫn ở mức thấp hơn rất nhiều so với một số
nước khác trong cùng khu vực Đông Nam Á như Singapore hay Malaysia. Theo
Phí Mạnh Hồng (2017), tại Việt Nam sự phát triển các thể chế thị trường theo các
nguyên tắc chung của một nền kinh tế đang phát triển hiện đại vẫn chưa hoàn
thành. Tại Việt Nam, nhà nước vẫn can thiệp vào việc sử dụng các yếu tố sản xuất
và quyết định mức thu nhập cơ bản cho người lao động chứ không để cho thị
trường tự điều chỉnh, dẫn đến thị trường bị méo mó.
Chỉ số rủi ro chính trị (PRS) của Việt Nam đã cải thiện từ 65/100 điểm
(2016) lên 70/100 điểm (2023), phản ánh nỗ lực ổn định môi trường chính trị. Tuy
nhiên, tốc độ cải thiện này vẫn chưa đủ mạnh để thu hẹp khoảng cách với các nền
kinh tế phát triển trong khu vực.
Sự mất cân đối trong phân bố FDI giữa các vùng miền là một trong những
hạn chế lớn của môi trường đầu tư Việt Nam. Vùng Đông Nam Bộ luôn chiếm tỷ
trọng áp đảo với 44,1% (2016), duy trì ở mức 43,5% (2020) và tăng lên 45,2% lOMoAR cPSD| 58702377
(2023). Trong khi đó, vùng Tây Nguyên chỉ thu hút được tỷ lệ không đáng kể, dao
động từ 0,07% đến 0,7% trong cùng giai đoạn. Hiệu quả thực thi các FTA còn hạn
chế, thể hiện qua tỷ lệ tận dụng ưu đãi tăng chậm từ 32,5% (2016) lên 37,8%
(2023). Đặc biệt, các FTA thế hệ mới như EVFTA và CPTPP có tỷ lệ tận dụng còn
thấp, lần lượt là 24,6% và 6,84% (2023). c.
Hạn chế của môi trường pháp lý và hành chính giai đoạn 20162023
Trong giai đoạn 2016-2023, hệ thống pháp luật Việt Nam đã trải qua nhiều thay
đổi đáng kể nhằm tạo môi trường thuận lợi hơn cho đầu tư. Tuy nhiên, sự phức
tạp và thiếu nhất quán vẫn là một trong những hạn chế chính. Số lượng văn bản
quy phạm pháp luật liên quan đến đầu tư tăng từ 56 văn bản (giai đoạn 20162020)
lên 88 văn bản (tính đến 2023). Mặc dù sự gia tăng này phản ánh nỗ lực hoàn
thiện khung pháp lý, nó cũng tạo ra thách thức lớn cho cả nhà đầu tư và cơ quan
quản lý trong việc nắm bắt và áp dụng.
Đáng chú ý, tỷ lệ doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc hiểu và áp dụng quy định
pháp luật chỉ giảm nhẹ từ 45% (2016) xuống 35% (2023). Con số này vẫn ở mức
cao, cho thấy sự phức tạp của hệ thống pháp luật vẫn là rào cản đáng kể. So sánh
với các nước trong khu vực, như Singapore (15%) hay Malaysia (22%), Việt Nam
còn một khoảng cách dài để cải thiện tính rõ ràng và dễ tiếp cận của hệ thống pháp luật.
Sự thiếu ổn định và khó dự đoán trong chính sách là một yếu tố quan trọng ảnh
hưởng đến quyết định đầu tư. Trong giai đoạn 2016-2023, Việt Nam đã chứng
kiến nhiều thay đổi chính sách đột ngột, đặc biệt là trong lĩnh vực thuế và đất đai.
Chẳng hạn, việc điều chỉnh thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp từ 22% xuống
20% vào năm 2016, sau đó là các đề xuất tăng thuế suất đối với một số ngành
nghề cụ thể vào năm 2022, đã tạo ra sự không chắc chắn cho nhà đầu tư. Chỉ số
Ổn định chính sách của Việt Nam, theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới, đã cải
thiện từ 2.5/5 điểm (2016) lên 3.2/5 điểm (2023). Tuy nhiên, mức cải thiện này
vẫn chưa đủ để Việt Nam bắt kịp với các nền kinh tế phát triển trong khu vực như
Singapore (4.5/5) hay Malaysia (4.0/5). Sự chênh lệch này phản ánh nhu cầu cấp
thiết trong việc tăng cường tính ổn định và dự đoán được của môi trường chính sách tại Việt Nam.
Mặc dù đã có nhiều cải cách, hiệu quả thực thi pháp luật và chính sách vẫn là một
thách thức lớn. Theo báo cáo của VCCI, thời gian trung bình để giải quyết tranh
chấp thương mại qua tòa án giảm từ 400 ngày (2016) xuống còn 350 ngày (2023),
nhưng vẫn cao hơn nhiều so với mức trung bình của ASEAN-6 (250 ngày). Điều
này phản ánh những hạn chế trong năng lực thực thi của hệ thống tư pháp và hành chính.
Đặc biệt, tỷ lệ phán quyết được thi hành thành công trong các vụ tranh chấp đầu
tư chỉ đạt 65% (2023), tăng nhẹ so với 60% (2016). Con số này cho thấy vẫn còn lOMoAR cPSD| 58702377
tồn tại khoảng cách đáng kể giữa quy định pháp luật và thực tế thực thi, ảnh hưởng
nghiêm trọng đến niềm tin của nhà đầu tư vào hệ thống pháp lý Việt Nam.
Tính minh bạch trong môi trường pháp lý và hành chính đã có những cải thiện
đáng kể, nhưng vẫn còn nhiều hạn chế. Chỉ số Minh bạch của Việt Nam trong
Doing Business tăng từ 60/100 điểm (2016) lên 75/100 điểm (2023). Tuy nhiên,
vẫn còn tình trạng thiếu thống nhất trong việc công bố và giải thích các quy định
pháp luật giữa các cơ quan quản lý nhà nước.
Khảo sát của VCCI cho thấy, tỷ lệ doanh nghiệp phải trả chi phí không chính thức
để tiếp cận thông tin và giải quyết thủ tục hành chính giảm từ 58% (2016) xuống
45% (2023). Mặc dù có xu hướng giảm, tỷ lệ này vẫn ở mức cao, phản ánh những
bất cập trong tính minh bạch của hệ thống hành chính.
Sự chồng chéo trong phân cấp quản lý và thiếu phối hợp giữa các cơ quan vẫn là
một hạn chế lớn. Theo thống kê, một dự án đầu tư trung bình phải xin phép từ 35
cơ quan khác nhau (2023), giảm nhẹ so với 4-6 cơ quan (2016). Tình trạng này
không chỉ kéo dài thời gian xử lý thủ tục mà còn tạo ra những chi phí tuân thủ
không cần thiết cho doanh nghiệp.
Đáng chú ý, tỷ lệ doanh nghiệp nhận được phản hồi không thống nhất từ các cơ
quan quản lý về cùng một vấn đề vẫn ở mức 25% (2023), chỉ giảm nhẹ so với
30% (2016). Điều này cho thấy sự cần thiết phải tăng cường phối hợp liên ngành
và thống nhất trong cách hiểu, áp dụng pháp luật. d.
Hạn chế của môi trường kinh tế giai đoạn 2016-2023 a. Kinh tế vĩ mô
Đối với hoạt động đầu tư nước ngoài
Năm 2022, hoạt động thu hút FDI của Việt Nam gặp một số hạn chế và
thách thức lớn. Theo báo cáo của Cục Đầu tư nước ngoài, vốn FDI đăng ký vào
Việt Nam năm 2022 đạt 27,72 tỷ USD, giảm 11% so với năm 2021 do ảnh hưởng
kinh tế toàn cầu, sự tăng cao của lãi suất và lạm phát. Tuy nhiên, vốn FDI thực
hiện lại đạt kỷ lục 22,4 tỷ USD, tăng 13,5% so với cùng kỳ, cao nhất trong giai
đoạn 5 năm từ 2017-2022. Lũy kế từ năm 1986 đến 2022, Việt Nam đã thu hút
gần 438,7 tỷ USD vốn FDI, trong đó giải ngân 274 tỷ USD, chiếm 62,5% tổng
vốn đăng ký. Đến năm 2023, dòng vốn FDI đã có sự phục hồi, với vốn đăng ký
mới tăng nhẹ lên khoảng 28 tỷ USD, phần thực hiện tiếp tục ổn định ở mức 23 tỷ
USD, dù các doanh nghiệp vẫn chịu nhiều áp lực từ lạm phát, lãi suất cao, và chi phí vận hành.
Mặc dù có một số gia tăng trong vốn FDI từ EU và Hoa Kỳ vào Việt Nam,
nhưng mức đầu tư này vẫn chưa tương xứng với tiềm năng của các đối tác. Hoạt
động đầu tư trong các lĩnh vực năng lượng và công nghệ cao, dù có các dự án
hướng tới mục tiêu tăng trưởng xanh, vẫn còn hạn chế; 70,3% các dự án có quy
mô vốn đầu tư dưới 1 triệu USD, trong đó 59,5% dưới 500 nghìn USD, chiếm chỉ
2% tổng vốn đầu tư cả nước. Ngành điện tử thu hút nhiều dự án mới, nhưng Việt
Nam vẫn chủ yếu tham gia ở khâu đầu chuỗi giá trị, phụ thuộc nhiều vào các lOMoAR cPSD| 58702377
doanh nghiệp FDI, và các doanh nghiệp trong nước vẫn chưa tham gia nhiều vào
chuỗi giá trị toàn cầu.
Các hạn chế trong thu hút đầu tư vào Việt Nam từ các đối tác lớn như EU
và Hoa Kỳ xuất phát từ việc dù Việt Nam có một số dự án năng lượng và công
nghệ cao, phù hợp với định hướng tăng trưởng xanh và bền vững, quy mô các dự
án này vẫn chủ yếu là nhỏ lẻ, trong đó 70,3% có vốn đầu tư dưới 1 triệu USD và
59,5% dưới 500 nghìn USD. Điều này phản ánh một thực trạng là Việt Nam vẫn
đóng vai trò chủ yếu ở khâu đầu của chuỗi giá trị toàn cầu và phải phụ thuộc nhiều
vào các doanh nghiệp FDI về nguồn vốn cũng như công nghệ. Một phần nguyên
nhân nằm ở việc các doanh nghiệp trong nước chưa có đủ năng lực để tham gia
vào các lĩnh vực công nghệ cao, điện tử, hay năng lượng sạch ở quy mô toàn cầu.
Bên cạnh đó, môi trường đầu tư tại Việt Nam vẫn thiếu các cơ chế hỗ trợ đủ mạnh
cho các dự án quy mô lớn hoặc các lĩnh vực chiến lược này, dẫn đến việc khó thu
hút đầu tư lớn và các nhà đầu tư có ý định dài hạn. Các doanh nghiệp trong nước
cũng gặp khó khăn trong việc tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu do chưa đáp
ứng đủ tiêu chuẩn về công nghệ và quy mô sản xuất.
Đối với hoạt động đầu tư công:
Tình trạng giải ngân vốn đầu tư công còn chậm. Việc giải ngân vốn đầu tư
công tại Việt Nam đã gặp nhiều khó khăn trong suốt những năm qua. Theo Bộ Kế
hoạch và Đầu tư, tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công năm 2022 chỉ đạt khoảng
72% so với kế hoạch, trong khi con số này trong năm 2021 là 82%. Tính từ năm
2016 đến 2022, tổng vốn đầu tư công giải ngân đạt khoảng 58% so với kế hoạch
đặt ra, ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc cải thiện hạ tầng và phát triển kinh tế địa
phương. Trong năm 2023, tổng vốn đầu tư công được rót kỷ lục khoảng 725.000
tỷ đồng. Tuy nhiên, tỷ lệ giải ngân vẫn chưa đạt yêu cầu, với nhiều dự án vẫn gặp khó khăn.
Bên cạnh đó, cơ cấu đầu tư công của Việt Nam còn thiếu tính hợp lý, khi tỷ
lệ vốn đầu tư dành cho lĩnh vực công nghệ cao chỉ chiếm khoảng 10% tổng vốn
đầu tư công. Theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới, Việt Nam hiện chỉ đầu tư
khoảng 3-5% GDP vào nghiên cứu và phát triển (R&D), một con số thấp so với
các quốc gia khác trong khu vực như Hàn Quốc (4,8%) và Singapore (2,2%). Sự
thiếu hụt này dẫn đến việc Việt Nam không thể phát triển các sản phẩm công nghệ
cao, khiến nền kinh tế phụ thuộc vào các ngành truyền thống như nông nghiệp và
chế biến. Việt Nam còn nhiều khó khăn về nguồn tài chính. Nợ công đang ở mức
cao, với tỷ lệ nợ công trên GDP ước tính khoảng 62% vào cuối năm 2022, và dự
báo sẽ tiếp tục tăng trong các năm tiếp theo. Điều này tạo áp lực lớn lên ngân sách lOMoAR cPSD| 58702377
nhà nước, ảnh hưởng đến khả năng cấp vốn cho các dự án đầu tư công. Theo báo
cáo của Bộ Tài chính, nếu không có biện pháp kiểm soát chặt chẽ, nợ công có thể
đạt đến 65% GDP vào năm 2025, làm giảm khả năng thu hút đầu tư từ các nhà
đầu tư nước ngoài và gây khó khăn cho các chính sách phát triển kinh tế .
Mặc dù nhiều dự án đầu tư công được triển khai, nhưng nhiều trong số đó
không đảm bảo tính bền vững và hiệu quả. Nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Quản
lý Kinh tế Trung ương (CIEM) cho thấy khoảng 60% dự án đầu tư công không
đạt được mục tiêu về hiệu quả kinh tế-xã hội. Năm 2022, chỉ có 25% dự án hạ
tầng được đánh giá có tính khả thi và bền vững trong dài hạn. Việc thiếu kế hoạch
và đánh giá trước khi triển khai đã dẫn đến tình trạng lãng phí nguồn lực, khiến
nhiều nhà đầu tư hoài nghi về khả năng thực hiện của Việt Nam.
b. Cơ sở hạ tầng
Một trong những hạn chế lớn nhất là sự thiếu đồng bộ và chất lượng chưa
cao của hệ thống giao thông vận tải. Tình trạng hệ thống đường bộ quốc gia xuống
cấp và mật độ đường cao tốc thấp (1.5km/1000 dân) so với các nước trong khu
vực đã làm tăng chi phí logistics (Chi phí logistics chiếm tới 20.8% GDP, cao hơn
đáng kể so với mức trung bình của ASEAN.) , ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng
cạnh tranh của doanh nghiệp và sức hấp dẫn đối với nhà đầu tư nước ngoài.
Theo Báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2023), tổng vốn đầu tư cho cơ
sở hạ tầng của Việt Nam trong giai đoạn 2016-2023 đạt khoảng 190 tỷ USD, tương
đương 5.7% GDP hàng năm. Tuy nhiên, con số này vẫn thấp hơn nhiều so với nhu
cầu thực tế được ước tính là 278 tỷ USD cho giai đoạn này. Chỉ số Chất lượng Cơ
sở Hạ tầng (GCI) của Diễn đàn Kinh tế Thế giới xếp Việt Nam ở vị trí 77/141
quốc gia năm 2023, chỉ cải thiện nhẹ so với vị trí 79/138 năm 2016. Theo ADB
(2023), nhu cầu vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng của Việt Nam trong giai đoạn 2024-
2030 ước tính khoảng 480 tỷ USD. Tuy nhiên, khả năng huy động vốn từ ngân
sách nhà nước chỉ đáp ứng được 30% nhu cầu. Báo cáo của Bộ Tài chính (2023)
cho thấy tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công cho hạ tầng chỉ đạt 75.6% kế hoạch, phản
ánh những hạn chế trong quản lý và thực hiện dự án.
Theo Bộ Giao thông Vận tải (2023), 45% hệ thống đường bộ quốc gia đã
xuống cấp và cần được nâng cấp, trong đó 30% ở tình trạng nghiêm trọng. Mật
độ đường cao tốc của Việt Nam chỉ đạt 1.5km/1000 dân (2023), thấp hơn nhiều
so với Trung Quốc (3.5km/1000 dân) và Thái Lan (2.8km/1000 dân). Nghiên cứu
của Ngân hàng Thế giới (2023) chỉ ra rằng chi phí logistics của Việt Nam chiếm
20.8% GDP, cao hơn đáng kể so với mức trung bình của khu vực ASEAN (16.3%).
Hạn chế trong hệ thống cảng biển và hàng không cũng gây ra nhiều trở ngại
cho hoạt động thương mại quốc tế và du lịch. Thời gian xử lý container tại cảng
kéo dài và tình trạng quá tải tại các sân bay chính làm giảm hiệu quả vận chuyển
hàng hóa và di chuyển của hành khách, từ đó ảnh hưởng tiêu cực đến quyết định
đầu tư của các doanh nghiệp đa quốc gia và các nhà đầu tư trong lĩnh vực du lịch.
Báo cáo của Hiệp hội Cảng biển Việt Nam (2023) cho thấy chỉ 65% cảng biển lOMoAR cPSD| 58702377
được trang bị thiết bị hiện đại đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế. Thời gian trung bình
xử lý container tại cảng Việt Nam là 3.5 ngày (2023), cao hơn Singapore (1.5
ngày) và Malaysia (2 ngày). Về hàng không, theo Cục Hàng không Việt Nam,
70% sân bay đang hoạt động quá công suất thiết kế, trong đó Tân Sơn Nhất vượt
30% và Nội Bài vượt 25% (số liệu 2023).
Hạn chế trong hạ tầng công nghệ thông tin và viễn thông, đặc biệt là độ phủ
sóng 5G thấp so với các nước láng giềng, có thể làm chậm quá trình chuyển đổi
số và cản trở việc thu hút đầu tư vào các ngành công nghệ cao, fintech và các mô
hình kinh doanh số. Báo cáo của Bộ Thông tin và Truyền thông (2023) chỉ ra rằng
tốc độ Internet trung bình của Việt Nam đạt 71.3 Mbps, xếp hạng 58/176 quốc
gia, cải thiện từ vị trí 95/176 (2016). Tuy nhiên, độ phủ sóng 5G mới chỉ đạt 35%
dân số (2023), thấp hơn nhiều so với Singapore (95%) và Malaysia (65%). Chi
phí đầu tư cho hạ tầng số trong giai đoạn 2016-2023 chỉ đạt 3.5 tỷ USD, bằng 1/3 nhu cầu thực tế.
Nhà nước đầu tư vào đổi mới sáng tạo và phát triển công nghệ chưa hiệu
quả. Báo cáo của Bộ Khoa học và Công nghệ (2023) chỉ ra rằng đầu tư cho hạ
tầng khoa học công nghệ của Việt Nam chỉ đạt 0.44% GDP, thấp hơn nhiều so với
mức trung bình của OECD (2.4%). Số lượng phòng thí nghiệm trọng điểm quốc
gia tăng từ 16 (2016) lên 25 (2023), nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu nghiên
cứu và phát triển. Theo khảo sát của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương
(2023), 65% doanh nghiệp cho rằng thiếu hạ tầng khoa học công nghệ là rào cản
lớn cho đổi mới sáng tạo. Trình độ công nghệ của đa số các ngành kinh tế hiện
vẫn lạc hậu hơn so với khu vực. Tiến bộ công nghệ chủ yếu thông qua chuyển
giao công nghệ mà phổ biến là nhập khẩu máy móc thiết bị và nhập khẩu nước
ngoài, song Việt Nam rất hạn chế trong tiếp cận công nghệ nguồn. Hoạt động
chuyển giao công nghệ trong nước vẫn còn hạn chế. Hệ thống thông tin và dịch
vụ KHCN chưa làm tốt vai trò trung gian, thúc đẩy sự trao đổi thông tin giữa bên
cung cấp công nghệ và bên có nhu cầu đổi mới công nghệ. Việc đăng ký quyền sở
hữu công nghiệp còn nhiều thủ tục, khó khăn.
Trong lĩnh vực năng lượng, tỷ lệ tổn thất điện năng cao (6.5%) và chi phí
điện năng cho sản xuất công nghiệp cao hơn 15% so với các nước trong khu vực
là những yếu tố làm giảm lợi thế cạnh tranh của Việt Nam trong việc thu hút đầu
tư vào các ngành công nghiệp nặng và chế biến, chế tạo.
Tình trạng hạ tầng đô thị và xử lý môi trường chưa đáp ứng yêu cầu, với
chỉ 15% nước thải đô thị được xử lý đúng tiêu chuẩn và 60% hệ thống thoát nước
đô thị quá tải, không chỉ ảnh hưởng đến chất lượng sống mà còn tạo ra rủi ro về
môi trường và sức khỏe cộng đồng. Điều này có thể làm giảm sức hấp dẫn của
Việt Nam đối với các nhà đầu tư quan tâm đến phát triển bền vững và trách nhiệm xã hội. lOMoAR cPSD| 58702377
Hạn chế trong hạ tầng nông nghiệp và nông thôn, với tỷ lệ diện tích đất
nông nghiệp được tưới tiêu chủ động chỉ đạt 75% và hệ thống logistics nông
nghiệp yếu kém, làm giảm hiệu quả sản xuất và khả năng cạnh tranh của ngành
nông nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc tế. Điều này có thể làm giảm sức hấp
dẫn đối với các nhà đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao và chế biến nông sản.
Tóm lại, những hạn chế trong môi trường cơ sở hạ tầng đã và đang tạo ra
những rào cản đáng kể cho việc thu hút đầu tư vào Việt Nam. Chúng không chỉ
làm tăng chi phí hoạt động và giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp, mà còn ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh tổng thể của nền kinh tế trong
bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. e.
Hạn chế của môi trường văn hóa – xã hội giai đoạn 2016-2023
Tâm lý ngại thay đổi là một trong những yếu tố chính gây cản trở sự phát
triển của môi trường đầu tư tại Việt Nam. Việc chấp nhận thay đổi và đổi mới là
rất cần thiết để nâng cao tính cạnh tranh và thu hút vốn đầu tư. Theo khảo sát của
Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (CIEM), khoảng 40% doanh nghiệp
trong nước cho rằng sự ngại thay đổi này làm giảm khả năng cạnh tranh và thu
hút đầu tư. Sự chần chừ trong việc áp dụng công nghệ mới và các mô hình kinh
doanh sáng tạo đã khiến các nhà đầu tư nước ngoài trở nên e dè, đặc biệt là trong
các lĩnh vực công nghệ cao và đổi mới sáng tạo, những lĩnh vực mà Việt Nam
đang cần phát triển mạnh mẽ để đáp ứng yêu cầu của thị trường toàn cầu. Sự đa
dạng trong thói quen tiêu dùng giữa các vùng miền cũng là một thách thức lớn đối
với các nhà đầu tư nước ngoài. Theo báo cáo từ Nielsen, khoảng 60% doanh
nghiệp gặp khó khăn trong việc xác định thị trường mục tiêu do sự khác biệt trong
nhu cầu tiêu dùng. Sự không đồng nhất này khiến cho các nhà đầu tư nước ngoài
gặp khó khăn trong việc nắm bắt và điều chỉnh sản phẩm cho phù hợp với thị
trường Việt Nam, dẫn đến việc quyết định đầu tư bị chậm lại. Điều này không chỉ
ảnh hưởng đến sự phát triển của các doanh nghiệp trong nước mà còn làm giảm
sức hấp dẫn của Việt Nam trong mắt các nhà đầu tư quốc tế.
Lòng tin trong các mối quan hệ đầu tư đóng vai trò quyết định trong việc
xây dựng môi trường đầu tư bền vững. Theo chỉ số cảm nhận tham nhũng của
Transparency International, Việt Nam đứng thứ 77/180 quốc gia vào năm 2023,
cho thấy sự thiếu minh bạch trong môi trường đầu tư. Thực trạng này gây ra sự lo
ngại cho các nhà đầu tư nước ngoài và làm giảm hợp tác giữa các doanh nghiệp
trong nước và quốc tế. Điều này có thể dẫn đến việc các nhà đầu tư không muốn
đầu tư lâu dài, ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của nền kinh tế.
An toàn lao động và bảo vệ môi trường là những vấn đề đang được quan
tâm nhưng vẫn chưa được coi trọng đúng mức trong nhiều lĩnh vực. Theo báo cáo
từ Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, số vụ tai nạn lao động đã tăng 10% trong
năm 2022 so với năm trước, cho thấy tình trạng an toàn lao động cần được cải
thiện. Điều này không chỉ gây rủi ro cho người lao động mà còn làm giảm sức hấp
dẫn của môi trường đầu tư, khi mà các công ty phải chi trả thêm cho các biện pháp lOMoAR cPSD| 58702377
an toàn và bảo vệ môi trường, từ đó ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp.
Yếu tố nhân khẩu học cũng đóng vai trò quan trọng trong việc ảnh hưởng
đến môi trường đầu tư. Tính đến năm 2023, dân số Việt Nam ước khoảng 99 triệu
người, trong đó 60% là trong độ tuổi lao động (từ 15 đến 64 tuổi). Mặc dù có một
nguồn lao động trẻ dồi dào, nhưng vẫn còn thiếu hụt về trình độ chuyên môn và
kỹ năng. Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê, chỉ khoảng 15% lao động có trình
độ đại học, trong khi 53% là lao động phổ thông. Điều này dẫn đến việc nhiều nhà
đầu tư nước ngoài gặp khó khăn trong việc tìm kiếm nguồn nhân lực có kỹ năng
cao để đáp ứng nhu cầu công việc, điều này làm giảm khả năng cạnh tranh của
nền kinh tế Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa.
III. CÁC GIẢI PHÁP VIỆT NAM CẦN THỰC HIỆN ĐỂ CẢI THIỆN
MÔI TRƯỜNG ĐẦU TƯ
a. Với môi trường tự nhiên.
- Tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường. Bảo vệ, phát triển
bền vững các hệ sinh thái tự nhiên, bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học;
kịp thời giám sát, thích ứng với biến đổi khí hậu. Thực hiện có hiệu quả các
mục tiêu phát triển bển vững theo Chương trình nghị sự 2030 của Liên hợp quốc
- Ưu tiên thu hút các dự án đầu tư nước ngoài có công nghệ cao, không gây
ô nhiễm môi trường, quản trị hiện đại, có khả năng lan tỏa phát triển
b. Với môi trường chính trị
- Tiếp tục rà soát, bổ sung và hoàn thiện thể chế, tiếp tục cắt giảm thực chất
điều kiện kinh doanh đang là rào cản đối với hoạt động sản xuất kinh doanh
- Các Bộ ngành và địa phương cần chuẩn bị mọi điều kiện tốt nhất để hoàn
thành thủ tục đầu tư, tập trung làm tốt công tác chuẩn bị đầu tư, chuẩn bị
thực hiện dự án, nâng cao tính sẵn sàng, khả năng triển khai dự án, tích cực
thực hiện và giải ngân vốn đầu tư công ngay từ những tháng đầu năm, không để chậm chễ.
- Tăng cường hợp tác kinh tế với các nước khác: Sẽ giúp tăng cường sức
mạnh cạnh tranh của Việt Nam trên thị trường toàn cầu. Việc tham gia vào
các hiệp định thương mại tự do, tăng cường quan hệ đối tác và hợp tác với
các doanh nghiệp nước ngoài sẽ giúp tạo ra nhiều cơ hội cho các doanh
nghiệp Việt Nam tăng cường xuất khẩu và thu hút đầu tư từ các quốc gia khác.
- Nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại, chủ động, tích cực hội nhập quốc
tế toàn diện, sâu rộng, gìn giữ môi trường hoà bình, ổn định để phát triển
đất nước. Đẩy mạnh ngoại giao kinh tế phục vụ phát triển. Phát huy hơn
nữa ngoại giao văn hoá, quảng bá mạnh mẽ hình ảnh quốc gia và làm tốt
công tác bảo hộ công dân, người Việt Nam ở nước ngoài.
- Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ và giữ vững độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ; sẵn sàng ứng phó hiệu quả với các thách thức an
ninh truyền thống và phi truyền thống. Đẩy mạnh thực hiện Chiến lược phát lOMoAR cPSD| 58702377
triển bển vững kinh tế biển gắn với bảo vệ chủ quyền biển đảo, bảo đảm quốc phòng, an ninh.
c. Với môi trường pháp luật
- Đẩy mạnh cải cách hành chính, thực thi hiệu quả thủ tục một cửa tạo môi
trường kinh doanh thuận lợi cho doanh nghiệp thành lập và phát triển; rà
soát, sửa đổi cơ chế chính sách ưu đãi, thu hút đầu tư nước ngoài trong bối
cảnh áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu từ năm 2024, vì yếu tố ổn định chính
trị, nguồn lao động dồi dào, thì ưu đãi về thuế, tiền thuê đất là những yếu
tố quan trọng trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh của Việt Nam trong
thu hút đầu tư nước ngoài. Một số chính sách đang được triển khai như
chính sách thu hút đầu tư nước ngoài 2021-2030, Luật Đầu tư 2020, Điều
lệ Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) cũng đã
tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài đến Việt Nam.
- Tập trung rà soát, xử lý nhanh các thủ tục đầu tư xây dựng đối với các dự
án bất động sản đã đáp ứng đủ điều kiện để các doanh nghiệp sớm triển
khai dự án, tăng khả năng huy động và sử dụng vốn đầu tư.
- Tạo sự minh bạch trong quản lý đầu tư là yếu tố rất quan trọng để tạo lợi
thế cạnh tranh về môi trường đầu tư, đảm bảo các quy trình và quy định
liên quan đến đầu tư được công khai và minh bạch. Điều này giúp tạo sự
tin tưởng và động viên các doanh nghiệp và nhà đầu tư.Nâng cao hiệu lực,
hiệu quả quản lý nhà nước; tiếp tục cắt giảm thực chất thủ tục hành chính,
điều kiện kinh doanh. Rà soát, sắp xếp lại tổ chức bộ máy đội ngũ cán bộ,
công chức, viên chức. Tăng cường phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí.
- Xây dựng hệ thống pháp lý ổn định và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ: Là yếu
tố rất quan trọng để tạo lợi thế cạnh tranh về môi trường đầu tư. Chính phủ
xây dựng hệ thống pháp lý ổn định, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và đảm bảo
tuân thủ các quy định quốc tế về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Điều này giúp
tạo sự tin tưởng và động viên các doanh nghiệp và nhà đầu tư.
- Cụ thể, vào năm 2023, Chính phủ đã thực hiện các biện pháp nhằm cải thiện
thể chế và chính sách nhằm đáp ứng nhu cầu của nhà đầu tư nước ngoài,
đặc biệt là việc điều chỉnh các quy định liên quan đến đất đai và bất động
sản. Điều này đã góp phần vào sự tăng trưởng mạnh mẽ của vốn FDI, đặc
biệt trong lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo, đạt 23,5 tỷ USD, chiếm
64,2% tổng vốn đăng ký.
- Một yếu tố quan trọng khác để tăng cường thu hút FDI là cải thiện hiệu quả
giải ngân và thực hiện dự án. Trong ba năm qua, vốn giải ngân của các dự
án FDI đã liên tục tăng, từ 20 tỷ USD vào năm 2021 lên 22,4 tỷ USD vào
năm 2022, và dự kiến tiếp tục tăng trưởng mạnh vào năm 2023. Điều này
cho thấy sự cam kết của các nhà đầu tư nước ngoài trong việc mở rộng và
duy trì các dự án hiện có tại Việt Nam. lOMoAR cPSD| 58702377
d. Với môi trường kinh tế
- Tăng cưởng quản lý tài chính và kiểm soát lạm phát: Là yếu tố quan trọng
đối với sự phát triển của nền kinh tế. Chính phủ tăng cường quản lý tài
chính và kiểm soát lạm phát để đảm bảo sự ổn định của nền kinh tế và tạo
ra môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp.
- Các bộ ngành tiếp tục nghiên cứu, trình Chính phủ ban hành các cơ chế
chính sách nhằm thực hiện các chính sách hỗ trợ có trọng điểm như hỗ trợ
doanh nghiệp trong nước tiếp cận đất đai, tín dụng, nâng cao năng lực kỹ
thuật để áp dụng công nghệ mới, nắm bắt cơ hội của cách mạng công nghiệp
4.0 để các doanh nghiệp tư nhân trong nước phát triển lành mạnh về quy
mô, nâng cao năng suất lao động và khả năng cạnh tranh, hỗ trợ khởi
nghiệp. Đẩy mạnh xây dựng, phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng chiến lược
đồng bộ, hiện đại, nhất là hệ thống hạ tầng giao thông (đường bộ cao tốc,
đường hàng không đường sắt, đường thủy) ở các vùng kinh tế trọng điểm
và những vùng còn khó khăn.
- Một chiến lược quan trọng khác là tạo ra các liên kết giữa các doanh nghiệp
nội địa và doanh nghiệp FDI, giúp Việt Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi
cung ứng toàn cầu. Các tập đoàn lớn như Apple, Samsung và Foxconn đang
chuyển dịch sản xuất sang Việt Nam, tạo ra nhiều cơ hội cho các doanh
nghiệp nội địa tham gia vào chuỗi cung ứng quốc tế. Việc thúc đẩy liên kết
chuỗi cung ứng sẽ giúp Việt Nam nâng cao giá trị gia tăng từ dòng vốn FDI
và tăng cường sự kết nối giữa các ngành công nghiệp nội địa và các tập đoàn xuyên quốc gia.
- Cơ sở hạ tầng là yếu tố quan trọng để thu hút FDI, đặc biệt là hạ tầng số,
năng lượng và giao thông. Chính phủ cần đẩy mạnh quá trình hiện đại hóa
hạ tầng, tạo điều kiện thuận lợi cho các dự án đầu tư lớn trong các lĩnh vực
như công nghệ cao và sản xuất. Việc cải thiện cơ sở hạ tầng giao thông,
năng lượng và số hóa sẽ giúp giảm chi phí vận hành cho các nhà đầu tư, từ
đó làm tăng tính hấp dẫn của Việt Nam so với các quốc gia trong khu vực.
- Một trong những bài học từ ba năm qua là việc không chỉ tập trung vào quy
mô mà còn vào chất lượng của các dự án FDI. Thay vì chấp nhận tất cả các
dự án đầu tư, Việt Nam cần chọn lọc những dự án có giá trị gia tăng cao,
sử dụng công nghệ tiên tiến và mang lại lợi ích lâu dài cho nền kinh tế. Các
lĩnh vực như công nghệ cao, công nghiệp xanh và các dự án thân thiện với
môi trường đang được Chính phủ ưu tiên.
- Ví dụ, trong năm 2022, mặc dù tổng vốn FDI đăng ký giảm 18,4%, nhưng
vốn thực hiện lại đạt 22,4 tỷ USD, tăng 13,5% so với năm trước. Điều này
cho thấy, dù số lượng dự án giảm, nhưng chất lượng và hiệu quả của các dự án lại tăng cao.
- Ngoài ra, việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cũng là một yếu tố
quan trọng. Các doanh nghiệp FDI đang ngày càng yêu cầu nguồn nhân lực
có kỹ năng cao, đặc biệt là trong các lĩnh vực công nghệ cao như bán dẫn,
công nghệ thông tin, và sản xuất thông minh. Do đó, Việt Nam cần tăng lOMoAR cPSD| 58702377
cường đầu tư vào giáo dục và đào tạo, đồng thời thúc đẩy hợp tác giữa các
doanh nghiệp FDI và các cơ sở giáo dục để đảm bảo nguồn cung nhân lực có chất lượng cao.
e. Với môi trường xã hội-văn hóa
- Phát huy giá trị văn hoá, sức mạnh con người Việt Nam và sức mạnh đại
đoàn kết toàn dẫn tộc. Thực hiện hiệu quả các chương trình mục tiêu quốc
gia về giảm nghèo và an sinh xã hội bền vững, xây dựng nông thôn mới và
phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Nâng
cao chất lượng dịch vụ y tế, sức khỏe cho người dân, bảo đảm an sinh xã
hội, chủ động thích ứng với xu thế giả hóa dân số.
- Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực gắn với đẩy mạnh đổi mới sáng tạo,
ứng dụng và phát triển mạnh mẽ khoa học, công nghệ. Xây dựng cơ chế,
chính sách đặc thù, vượt trội để khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo
thực sự là động lực chính của tăng trưởng kinh tế. Tăng cường chất lượng
đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục các cấp, nâng cao chất lượng dạy và học. KẾT LUẬN
Qua quá trình phân tích, có thể khẳng định rằng môi trường đầu tư của Việt Nam
là một hệ thống phức hợp gồm nhiều yếu tố, trong đó bao gồm tự nhiên, chính trị,
pháp lý, kinh tế, văn hóa – xã hội. Mỗi yếu tố này không chỉ có vai trò độc lập mà
còn có tính tương tác và ảnh hưởng qua lại, đóng góp vào sức hút đầu tư và phát
triển kinh tế của quốc gia.
Đối với yếu tố tự nhiên, lợi thế về vị trí địa lý và tài nguyên phong phú là điểm
mạnh, tuy nhiên, những vấn đề về quản lý tài nguyên và ô nhiễm môi trường đang
cản trở khả năng khai thác tối ưu nguồn lực này. Điều này đòi hỏi Việt Nam cần
có các chiến lược bảo vệ môi trường và quy hoạch tài nguyên bền vững hơn để
đảm bảo tính ổn định lâu dài.
Trong môi trường chính trị, sự ổn định của hệ thống và các cam kết về hỗ trợ đầu
tư đã tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư, song các thủ tục hành chính phức
tạp và chưa nhất quán giữa các địa phương vẫn là một thách thức. Điều này không
chỉ làm tăng chi phí đầu tư mà còn ảnh hưởng đến tính minh bạch và lòng tin của
nhà đầu tư nước ngoài vào thị trường Việt Nam. Việc hoàn thiện hệ thống pháp
luật và chính sách, đặc biệt là các cải cách nhằm đơn giản hóa thủ tục hành chính,
là rất cần thiết để tạo môi trường kinh doanh thuận lợi hơn, khuyến khích các
doanh nghiệp đầu tư lâu dài và mở rộng quy mô hoạt động.
Môi trường kinh tế cũng là điểm nổi bật khi Việt Nam đã có những bước phát triển
đáng kể, thu hút dòng vốn đầu tư ổn định. Tuy nhiên, cơ sở hạ tầng chưa đồng bộ,
chi phí logistics cao, và hạ tầng công nghệ còn hạn chế là các điểm yếu cản trở
khả năng cạnh tranh của Việt Nam so với các quốc gia khác trong khu vực. Thêm
vào đó, tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công chưa đạt yêu cầu gây ra nhiều khó khăn
trong việc thực hiện các dự án lớn. Do đó, việc nâng cao chất lượng và tốc độ phát lOMoAR cPSD| 58702377
triển cơ sở hạ tầng là cần thiết để đáp ứng nhu cầu của các nhà đầu tư, đặc biệt là
trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu ngày càng gia tăng.
Môi trường văn hóa – xã hội cũng đóng vai trò quan trọng, tuy nhiên, các thói
quen tiêu dùng không đồng nhất giữa các vùng miền, tâm lý ngại thay đổi và sự
thiếu minh bạch trong môi trường kinh doanh là những trở ngại đáng kể. Để cải
thiện vấn đề này, cần có các biện pháp nhằm nâng cao nhận thức cộng đồng về
tầm quan trọng của hội nhập và phát triển bền vững. Ngoài ra, việc đầu tư vào
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và cải thiện chất lượng giáo dục và đào tạo
cũng sẽ là yếu tố quan trọng để Việt Nam không chỉ thu hút vốn đầu tư mà còn có
thể tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Mặc dù Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu trong việc cải thiện môi trường đầu
tư, vẫn còn nhiều thách thức cần giải quyết để nâng cao sức cạnh tranh và phát
triển bền vững. Các giải pháp cần hướng đến là cải cách thể chế, cải thiện cơ sở
hạ tầng, nâng cao năng lực quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường, cùng với
việc xây dựng một môi trường văn hóa kinh doanh minh bạch và chuyên nghiệp
hơn. Chỉ khi giải quyết được các vấn đề này, Việt Nam mới có thể tận dụng được
toàn diện các lợi thế sẵn có, từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế dài hạn và củng cố
vị thế trên thị trường đầu tư quốc tế. lOMoAR cPSD| 58702377 TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Giáo trình kinh tế đầu tư Trường Đại học Kinh tế Quốc dân.
[2] Kế hoạch giai đoạn 2020 - 2023 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư; niên giám thống
kê các năm của Tổng cục Thống kê.
[3] Cổng thông tin điện tử Viện chiến lược và chính sách tài chính
[4] Tạp chí ngân hàng: https://tapchinganhang.gov.vn/thu-hut-fdi-cua-viet- namnam-2022-va-trien-vong.htm
[5] Cục đầu tư nước ngoài: https://fia.mpi.gov.vn/List/MenuID/07edbbe1-67a3-
484b-a4e2-b5faef1b9de5/CatID/457641e2-2605-4632-bbd8-39ee65454a06
[6] Hiệp hội doanh nghiệp đầu tư nước ngoài: https://vafie.org.vn/fdi/bao-
caothuong-nien-fdi-nam-2023-dau-tu-nuoc-ngoai-vao-viet-nam-tang-321- 1372