











































Preview text:
  lOMoARcPSD| 42676072 Bài tập nhóm môn:  TỔNG QUAN DU LỊCH 
NHÓM 3: TÌM HIỂU NGUỒN LỰC DI SẢN VĂN HÓA CỦA TỈNH HÒA  
BÌNH ĐỂ PHÁT TRIỂN DU LỊCH    Thành viên nhóm:  Vũ Thị Thùy Trang  Hoàng Thị Diễm  Nguyễn Nam Trường  Vũ Trường Hoan  Phạm Ngọc Thắng  Dương Gia Huy 
Câu 1: Thành tố Di tích lịch sử văn hóa  Cấp tỉnh 
Tổng số di tích đã xếp hạng: 60 di tích. Trong đó: 
Loại hình di tích LSVH: 55 di tích 
Loại hình di tích danh lam, thắng cảnh: 05 di tích 
THÀNH PHỐ HOÀ BÌNH: 08 di tích LSVH  St  Tên di tích  Địa điểm 
Loại hình QĐ số, ngày, tháng,  t  năm  1 Đình Ngòi  phường Quỳnh Lâm  LSVH  Số 138/QĐ-UBND  ngày 20/1/2006 
2 Địa điểm Bác Hồ về thăm  LSVH  Số 742/QĐ-UBND  Trường TNLĐXHCN Hoà  ngày 02/4/2008  Bình  Xã Yên Mông 
3 Đền Ba cô tiên - Động Thăng xã Hòa Bình  LSVH  Số 01/ QĐ-UBND  ngày 04/01/2017      lOMoARcPSD| 42676072
4 Đình và Đền Thịnh Lang  phường Thịnh Lang  LSVH  Số 02/QĐ-UBND ngày          04/01/2017  5 Đình Mường Trại  phường Thịnh Lang, LSVH  Số 142/QĐ-UBND  ngày 23/01/2017  6 Đình Cả  xã Yên Mông  LSVH  Số 11/QĐ-UBND ngày  04/01/2018 
7 Địa điểm chiến thắng Cầu Mè xã Mông Hóa  LSVH  Số 931/QĐ-UBND  ngày 17/07/2012 
8 Khu căn cứ cuộc khởi nghĩa  LSVH  Số 287/QĐ-UBND 
chống Pháp của nghĩa quân  ngày 12 /02/2019  Tổng Kiêm Đốc Bang  Xã Mông Hóa, Quang  19091910  Tiến 
HUYỆN CAO PHONG: 01 di tích LSCM  Stt Tên di tích  Địa điểm  Loại  QĐ số, ngày, tháng, năm  hình 
9 Địa điểm thành lập Trung  Xã Dũng  LSCM Số 1967/QĐ UBND ngày  đoàn 12 Hòa Bình  Phong  13/9/2019 
HUYỆN TÂN LẠC: 05 di tích ( 02 di tích LSVH; 03 danh lam thắng cảnh)  Stt Tên di tích  Địa điểm  Loại  QĐ số, ngày, tháng, năm  hình  10 Hang Bụt 
thị trấn Mãn LSVH Số 138/QĐ-UBND ngày  Đức  20/1/2006  11 Miếu xóm Luỹ  xã Phong Phú LSVH 
Số 79/QĐ-UBND ngày 16/1/2009 
12 Núi Cột Cờ Mường xã Nhân Mỹ DLTC  Số 2408/QĐ-UBND, ngày  Bi  01/12/2017  13 Hang Núi Kiến  Xã Vân Sơn  DLTC  Số 11/QĐ-UBND ngày 04  /1/2019      lOMoARcPSD| 42676072 14 Thác Trăng 
xã Nhân Mỹ DLTC Số 2644/QĐ-UBND ngày  22/11/2019 
HUYỆN LẠC SƠN: 13 di tích ( 11 di tích LSVH; 02 di tích danh lam thắng  cảnh)  Stt Tên di tích  Địa điểm  Loại  QĐ số, ngày, tháng, năm  hình  15 Hang Khụ Dúng  Xã Nhân  DLTC Số 1076/QĐ-UB ngày  Nghĩa  18/7/2003 
16 Địa điểm thành lập Văn phòng Xã Nhân  LSVH Số 1268/QĐ-UBND  Tỉnh uỷ Hoà Bình.  Nghĩa  ngày 4/8/2010 
17 Nơi ghi dấu lịch sử trung đoàn Xã Thượng LSVH Số 930 QĐ-UBND ngày  52 Tây tiến  Cốc  17/07/2012  18 Đình Cổi  Xã Vũ  LSVH Số 38/QĐ-UBND ngày  Bình  14/01/2014  19 Đền Cây Đa 
Thị trấn Vụ LSVH Số 128/QĐ-UBND ngày  Bản  25/01/2016  20 Thác Mu 
Xã Tự Do DLTC Số 1870/QĐ-UBND  ngày 29/9/2017  21 Đền Thượng 
Thị trấn Vụ LSVH Số 12/QĐ-UBND ngày  Bản  04/01/2018  22 Đền Cây Si 
Thị trấn Vụ LSVH Số 347/QĐ-UBND ngày  Bản  05/02/2018  23 Đền Mẫu 
Xã Vũ Bình LSVH Số 1462/QĐ UBND ngày  22/6/2018  24 Đền Trường Khạ 
Thị trấn Vụ LSVH Số 12/QĐ-UBND ngày  Bản  04/1/2019  25 Đình Khênh 
Xã Văn Sơn LSVH Số 13/QĐ-UBND ngày          06/1/2020      lOMoARcPSD| 42676072 26 Đền Băng  Xã Ngọc  LSVH Số 1294/QĐ-UBND  Lâu  ngày 11/6/2020  27 Đình Khói  Xã Ân  LSVH Số 151/QĐ-UBND ngày  Nghĩa  22/1/2021 
HUYỆN YÊN THUỶ: 09 di tích LSVH  Stt Tên di tích  Địa điểm Loại  QĐ số, ngày, tháng, năm  hình  28 Đình Thượng 
xã Yên Trị LSVH Số 1076/QĐ-UB ngày  18/7/2003  29 Đình Xàm 
xã Phú Lai LSVH Số 1076/QĐ-UB ngày  18/7/2003 
30 Cụm di tích đình Đại Xã, đình xã Ngọc  LSVH Số 1076/QĐ-UB ngày  và Phủ Thung  Lương  18/7/2003  31 Hang Chùa Thượng  xã Ngọc  LSVH Số 138/QĐ-UBND ngày  Lương  20/1/2006  32 Đình Phù Vệ  xã Đoàn  LSVH Số 483/ QĐ-UBND ngày  Kết,  19/04/2012  33 Đình Trung 
xã Yên Trị LSVH Số 127/QĐ-UBND ngày  25/01/2016  34 Đình Rậm  xã Lạc 
LSVH Số 2913/QĐ- UBND ngày  Thịnh  16/11/2016 
35 Quần thể Núi Chùa Nghìa  xã Ngọc  LSVH Số 2649/QĐ-UBND ngày  Lương  18/10/2016  36 Chùa Tác Đức  xã Lạc  LSVH Số 09/QĐ-UBND ngày  Thịnh  05/01/2016 
HUYỆN LẠC THUỶ: 11 di tích LSVH        lOMoARcPSD| 42676072 Stt  Tên di tích  Địa điểm  Loại  QĐ số, ngày, tháng, năm  hình  37 Đình làng Chùa  xã Phú  LSVH Số 557/QĐ-UBND ngày  Thành  20/3/2007  38 Đình và đền Vai 
Xóm Vai, LSVH Số 1076/QĐ-UB ngày  xã Thanh  18/7/2003  Nông  39 Đình Vôi 
Xóm Vôi, LSVH Số 2618/QĐ-UBND ngày  Xã Thanh  29/10/2007  Nông  40 Đình làng Đồi 
Xóm Đồi, LSVH Số 1707/QĐ-UBND ngày  xã Thanh  13/10/2010  Nông  41 Đình Niếng  Thôn 
LSVH Số 821/ QĐ- UBND ngày  Niếng, xã  17/05/2011  Hưng Thi  42 Chùa An Linh  Xã Yên  LSVH Số 610/ QĐ-UBND ngày  Bồng,  18/5/2012  huyện Lạc  Thủy  43 Đền Rem 
Thị trấn Chi LSVH Số 78/QĐ-UBND ngày  Nê  21/01 /2014 
44 Đài phát thanh Pa Thét Lào 
Xã An Bình LSVH Số 2514/QĐ-UBND ngày  04/10/2016 
45 Tổ Đảng thôn Hoàng Đồng- 
Xã Khoan LSVH Số 2513/QĐ-UBND ngày 
Tổ Đảng đầu tiên của tỉnh Hòa Dụ  04/10/2016  Bình      lOMoARcPSD| 42676072
46 Trường Cán bộ Dân tộc Miền Khu 11, Thị LSVH Số 338/QĐ-UBND ngày  Nam  trấn Chị  14/3/2017  Nờ, huyện  Lạc Thủy   
HUYỆN ĐÀ BẮC: 01 di tích LSVH 
Stt Tên di tích Địa điểm  Loại  QĐ số, ngày, tháng, năm  hình 
47 Đền Thác Xã Vầy Nưa, huyện Đà LSVH  Số 1858/QĐ-UBND ngày  Bờ  Bắc  27/8/2008 
HUYỆN LƯƠNG SƠN: 08 di tích LSVH  Stt  Tên di tích 
Địa điểm Loại QĐ số, ngày, tháng, năm  hình 
48 Địa điểm Bác Hồ về thăm Tập  xã Lâm  LSVH Số 1959/ QĐ-UBND 
đoàn sản xuất Chí Hoà năm 1958 Sơn  ngày 09/10/2009  49 Đình và miếu Bá Lam 
xã Thanh LSVH Số 821/QĐ-UBND ngày  Cao  05/5/ 2009  50 Đình Đồng Sương  xã Liên  LSVH Số 2050/ QĐ-UBND  Sơn  ngày 27/10/2011  51 Đình Cời  Xã Tân  LSVH Số 1053/QĐ-UBND  Vinh  ngày 30/7/2013  52 Chùa Quất Lâm  Xã Hòa  LSVH Số 1068/QĐ-UBND  Sơn  ngày 31/7/2014  53 Tứ Đền  Thanh  LSVH Số 2641/QĐ-UBND  Sơn  ngày 18/10/2016  54 Đình Hàng Xã 
Xã Thanh LSVH Số 1341/QĐ-UBND  Cao  ngày 5/6/2018 
55 Cơ sở A2 – Báo Nhân Nhân 
Xã Lâm LSVH Số 2997/QĐ-UBND  Sơn  ngày 31/12/2019      lOMoARcPSD| 42676072
HUYỆN KIM BÔI: 05 di tích LSVH  Stt Tên di tích  Địa điểm Loại  QĐ số, ngày, tháng,  hình  năm 
56 Địa điểm Bác Hồ về thăm Huyện ủy Thị trấn Bo LSVH Số 2240/QĐ-UBND,  Kim Bôi  ngày 13/11/2017  57 Đình Chiềng Động 
Xã Vĩnh LSVH Số 0343/QĐ-UBND  Đồng  ngày 27/12/2018  58 Chùa Bôi  Xã Nam  LSVH Số 89/ QĐ-UBND  Thượng  ngày 15/1/2019 
59 Địa điểm Tổ chức Đại hội Đảng bộ Xã Kim  LSVH Số 24 /QĐ-UBND 
tỉnh Hòa Bìnhlần thứ I - năm 1948 Lập  ngày 05/1/2019  tại đình lập  60 Đình Ba Bị 
Xã Hùng LSVH Số 2941/QD-UBND  Sơn  ngày 26/12/2019  Quốc gia 
Tổng số di tích đã xếp hạng: 41 di tích. Trong đó:  
Loại hình di tích LSVH: 02 di tích 
Loại hình di tích danh lam, thắng cảnh: 18 di tích 
Loại hình di tích LSCM: 09 di tích 
Loại hình Khảo cổ: 12 di tích 
THÀNH PHỐ HOÀ BÌNH: 03 di tích (02 LSCM, 01 thắng cảnh)  Stt Tên di tích  Địa điểm 
Loại hình QĐ số, ngày, tháng, năm  1 Động Tiên Phi  Phường Tân Thắng  Số 06/2000/QĐ -BVHTT ngày  Hòa  cảnh  13/4/2000  2 Nhà tù Hoà Bình 
Phường Tân LSCM Số 06/2000/QĐ -BVHTT ngày  Thịnh  13/4/2000      lOMoARcPSD| 42676072
3 Địa điểm huấn luyện chính Phường Dân LSCM 
Số 5033/ QĐ - BVHTTDL ngày  trị và tổ chức  Chủ  25/12/2012 
HUYỆN CAO PHONG: 03 di tích (02 LSCM, 01 Thắng cảnh)  Stt Tên di tích  Địa điểm 
4 Nơi lưu dấu chiến công của anh hùng Cù  xã Bình Thanh  Chính Lan năm 1951 
5 Khu căn cứ cách mạng Cao Phong - Thạch Xã Thạch Yên, xã Hợp Phong, xã  Yên  Thu Phong 
6 Quần thể hang động tại Núi Đầu Rồng  Thị trấn Cao Phong 
HUYỆN TÂN LẠC: 06 di tích ( 02 di tích Khảo cổ; 04 danh lam thắng cảnh)  St Tên di tích  Địa điểm  t  7 Hang Muối  Thị trấn Mãn Đức 
8 Động Mường Chiềng Thị trấn Mãn Đức  9 Hang Bưng  xã Suối Hoa  10 Động Hoa Tiên  xã Suối Hoa  11 Động Nam Sơn  Xã Vân Sơn  12 Động Thác Bờ  Xã Suối Hoa 
HUYỆN LẠC SƠN: 03 di tích ( 01 di tích LSCM; 02 Khảo cổ)  Stt Tên di tích  Địa điểm Loại  QĐ số, ngày, tháng, năm  hình  13 Chiến khu Mường  xã Ân 
LSCM Số 281 QĐ/BT ngày 24/3/1993  Khói  Nghĩa  14 Hang xóm Trại 
xã Tân Lập Khảo cổ Số 53/2001/QĐ-BVHTT ngày  28/12/2001 
15 Mái đá Làng Vành xã Yên 
Khảo cổ Số 15/2003/QĐ-BVHTT ngày  Phú  14/4/2003      lOMoARcPSD| 42676072
HUYỆN YÊN THUỶ: 03 di tích ( 01 LSVH, 02 Thắng cảnh)  Stt Tên di tích  Địa điểm 
Loại hình QĐ số, ngày, tháng, năm  16 Hang Chùa và Chùa  xã Yên Trị LSVH 
Số 372 QĐ/BT ngày 10/3/1994  Hang  17 Hang nước và động  xã Ngọc  Thắng  Số 2890 VH/QĐ ngày  Thiên Tôn  Lương  cảnh  27/9/1997  18 Động Thiên Long  xã Lạc  Thắng  Số 15/2003/QĐ-BVHTT ngày  Lương  cảnh  14/4/2003 
HUYỆN LẠC THUỶ: 06 di tích ( 03 Thắng cảnh; 02 Khảo cổ; 01 LSCM)  Stt Tên di tích  Địa điểm  19 Hang Luồn  Thị trấn Chi Nê  20 Động Tiên  xã Phú Nghĩa 
21 Địa điểm Nhà máy in tiền tại Đồn điền Chi Nê (1946 Xã Phú Nghĩa  - 1947) 
22 Hang Làng Đồi(hang đồng thớt)  Thị trấn Ba hàng đồi 
23 Quần thể Hang động khu vục Chùa Tiên  Xã Phú Nghĩa 
24 Quần thể hang động danh thắng Núi Niệm  Xã Phú Nghĩa 
HUYỆN ĐÀ BẮC: 03 di tích LSCM  Stt Tên di tích  Địa điểm 
25 Khu căn cứ cách mạng Tu Lý - Hiền 
Xã Hiền Lương, xã Tu lý và Xã Cao  Lương  Sơn 
26 Khu căn cứ cách mạng Mường Diềm  xã Trung Thành 
27 Địa điểm chiến thắng Dốc Tra  xã Toàn Sơn 
HUYỆN LƯƠNG SƠN: 08 di tích LSVH  Stt Tên di tích  Địa điểm 
Loại hình QĐ số, ngày, tháng, năm      lOMoARcPSD| 42676072 28 Hang Tằm 
xã Lâm Sơn Khảo cổ Số 06/2000/QĐ -BVHTT ngày  13/4/2000  29 Hang Chổ 
xã Cao Sơn Khảo cổ Số 06/2000/QĐ -BVHTT ngày  13/4/2000  30 Hang Núi Sáng 
xã Cao Sơn Khảo cổ Số 06/2000/QĐ -BVHTT ngày  13/4/2000 
31 Động Mãn Nguyện xã Cao Sơn Thắng  Số 06/2000/QĐ -BVHTT ngày  cảnh  13/4/2000  32 Động Đá Bạc  xã Liên Sơn Thắng  Số 06/2000/QĐ -BVHTT ngày  cảnh  13/4/2000  33 Động Trung Sơn  xã Liên Sơn Thắng  Số 15/2003/QĐ-BVHTT ngày  cảnh  14/4/2003 
34 Hang Khụ Thượng xã Cao Sơn Thắng  Số 40/2005/QĐ-BVHTT ngày  cảnh  22/8/2005 
35 Đền và miếu Trung xã Thanh  LSVH 
Số 1543 QĐ/VH ngày 18/6/1997  Báo  Cao 
HUYỆN MAI CHÂU: 05 di tích ( 02 khảo cổ, 03 thắng cảnh)  Stt Tên di tích  Địa điểm 
Loại hình QĐ số, ngày, tháng, năm  36 Hang Khoài 
Xã Săm Khoè Khảo cổ Số 141 QĐ/VH ngày 23/1/1997  37 Hang Mỏ  Thị trấn Mai thắng  Số 06/2000/QĐ -BVHTT ngày  Luông  Châu  cảnh  13/4/2000 
38 Hang Chiều Thị trấn Mai  Thắng  Số 53/2001/QĐ-BVHTT ngày  Châu  cảnh  28/12/2001  39 Hang Láng 
xã Chiềng Châu Khảo cổ Số 38/2005/QĐ-BVHTT ngày  22/8/2005  40 Hang Piềng  xã Chiềng Châu Thắng  Số 39/2005/QĐ-BVHTT ngày  Kẻm  cảnh  22/8/2005 
HUYỆN KIM BÔI: 01 di tích khảo cổ      lOMoARcPSD| 42676072 Stt Tên di tích  Địa điểm  Loại  QĐ số, ngày, tháng, năm  hình  41 Khu mộ cổ Đống  xã Vĩnh 
Khảo cổ Số 141 QĐ/VH ngày  Thếch  Đồng  23/1/1997 
Câu 2: Thành tố Lễ hội, phong tục tập quán 
Lễ hội khai hạ của người Mường  
Lễ hội Khai Hạ dân tộc Mường tỉnh Hòa Bình hay còn gọi là Lễ xuống đồng, Lễ mở 
cửa rừng - lễ hội dân gian truyền thống lớn nhất của người Mường Hòa Bình, gắn 
liền với nền nông nghiệp lúa nước, mang nhiều dấu ấn của văn minh Việt cổ. Đây là 
hoạt động văn hóa - tín ngưỡng không thể thiếu của người Mường ở Hòa Bình, đặc 
biệt là ở bốn vùng Mường lớn: Bi, Vang, Thàng, Động. Lễ hội mang ý nghĩa tôn 
kính các vị thần linh, tưởng nhớ những người đã có công lập đất, lập mường và cầu 
mong vạn vật phát triển thuận lợi, mùa màng bội thu, cuộc sống ấm no, hạnh phúc. 
Tùy từng vùng Mường mà lễ hội được tổ chức vào các ngày và địa điểm thực hiện 
nghi trình, nghi thức có sự khác nhau. 
Đối với Lễ hội Khai hạ Mường Bi (Tân Lạc) thường được tổ chức vào ngày mồng 7 
– 8 tháng Giêng hàng năm (tức ngày 6, 7 tháng tư theo lịch Mường Bi) tại miếu thờ 
xóm Lũy, xã Phong Phú, nơi gắn liền với truyền thuyết Quốc Mẫu Hoàng Bà, thân 
mẫu của Đức Thánh Tản - người đã chỉ dạy cho con dân Mường Bi cách làm ruộng, 
cách ăn, ở; Tản viên Sơn Thánh, con rể của Vua Hùng Vương thứ 18, người có công 
giúp vua chống giặc ngoại xâm, mang lại sự bình yên cho nhân dân; Ải Lý, Ải Lo - 
hai vị thần đã dạy cho con dân Mường Bi cách đào mương dẫn nước. 
Đối với Lễ hội Khai hạ Mường Vang được tổ chức và mồng 4 tháng Giêng tại miếu 
Áng Ka và tại mái đá làng Vành, xã Yên Phú (Lạc Sơn) vào ngày mồng 7 tháng  Giêng. 
Lễ hội Khai hạ Mường Thàng (Cao Phong) tổ chức vào ngày mồng 5 – 6 tháng Giêng 
tại miếu Cả, xã Dũng Phong. 
Đối với phần lễ ở lễ hội Mường Động (Kim Bôi) tổ chức ngày mồng 3 tháng 5 âm 
lịch tại miếu Mường Chanh, xã Vĩnh Đồng. Mỗi địa điểm nơi diễn ra lễ hội đều gắn 
liền với lịch sử của các vị thánh thần là người có công lập đất, lập mường.      lOMoARcPSD| 42676072
Được chia làm hai phần gồm phần lễ và phần hội; trong đó phần lễ là hoạt động thờ 
cúng Thành Hoàng với các nghi trình, nghi thức ở mỗi vùng Mường có sự khác nhau. 
Xưa kia thì ở cả 4 Mường lớn và một số huyện khác đều có nghi thức rước kiệu hoặc 
cúng tại mó nước và xin rước nước; cúng tại ruộng xin rước mạ hoặc cúng tại ruộng 
để xin làm lễ cày, bừa đầu tiên… Nhưng ngày nay do nhiều nguyên nhân nên phần 
rước kiệu chỉ còn ở lễ hội ở Mường Bi và Mường Thàng; cúng tại ruộng để xin làm 
lễ cày, bừa đầu tiên chỉ còn diễn ra tại huyện Tân Lạc và huyện Lạc Sơn. Phần hội 
là các hoạt động vui chơi, thi các trò chơi dân gian, biểu diễn các hình thức nghệ 
thuật dân gian. Được tổ chức ngay sau khi kết thúc phần lễ chức với các trò chơi dân 
gian như: Hội đánh Chiêng, hội ném còn, thi bắn nỏ, giã gạo, đánh cù, đánh mảng, 
kéo co, thi hát đối, hát sức bùa hay còn gọi là “séc púa”, thi các mâm cơm, trình diễn 
trang phục, thi người đẹp xứ Mường và c=phần thi đấu các môn thể thao…  Lễ hội làng Vai  
Ngày hội truyền thống của làng bắt đầu từ ngày 11 đến hết ngày 13/11 hàng năm tại 
đình và đền làng Vai. Hội làng là dịp để nhân dân làng Vai tỏ lòng thành kính và 
nhớ ơn Tam vị Tản Viên Sơn và Cảnh Tiên Công chúa, cảm ơn các vị thần linh đã 
phù hộ cho họ một năm yên bình, ấm no, hạnh phúc. Ngày này, những người con 
của làng dù đi đâu xa cũng về ngày hội truyền thống của làng còn là dịp để mọi 
người đoàn tụ, thắt chặt tình người, tình quê hương, làng xóm. 
Hội được chia làm hai phần, phần lễ và phần hội. Phần lễ được tiến hành uy nghi, 
trang trọng, những nghi thức trong phần lễ vẫn được người dân truyền giữ, vun đắp 
từ đời này sang đời khác, phần hội đã bị mai một đi nhiều. Làng Vai gồm có 2 giáp, 
được chia làm giáp trong và giáp ngoài, đứng đầu mỗi giáp có giáp trưởng, trong 
ngày 11, dân làng tổ chức đưa kiệu đến nhà trưởng hàng giáp để rước sắc về đình 
thờ. Đi đầu là kiệu đặt bài vị của thần thành hoàng làng, đi sau là kiệu hoa quả, xôi, 
gạo, bánh chưng…. Đi sau cỗ kiệu có tàn lọng, đao, mũ, bia rất long trọng. Đi trước 
kiệu có đội múa sinh tiền, rồng bay, phượng múa có gươm trùng, bát bửu, bát tiên  hai hàng uy nghi. 
Sau khi rước sắc về đình thờ, dân làng lại tổ chức rước cỗ (gọi là cỗ đốn) của các gia 
đình có cụ cao tuổi hoặc những người có chức sắc trong xóm đến đình thờ và tổ chức 
thi cỗ, cỗ nhà ai to nhất, ngon nhất, đẹp nhất được đặt ở bàn thứ nhất và cứ như vậy, 
cỗ nhà ai kém hơn thì đặt ở bàn nhì, bàn ba.      lOMoARcPSD| 42676072
Ngay trong buổi chiều ngày 11, khi các nghi thức của buổi lễ đang tiến hành thì các 
hoạt động vui hội cũng được bắt đầu ở sân nhà văn hóa của làng nằm phía sau đình. 
Các trò chơi dân gian như kéo co, bịt mắt bắt dê, đánh cờ người, tổ chức giao lưu 
bóng chuyền giữa các đội bóng trong xã… Buổi tối dân làng tổ chức biểu diễn và 
giao lưu văn nghệ giữa các đội văn nghệ ở các vùng lân cận với các chủ đề ca ngợi 
Đảng, Bác Hồ và tình yêu quê hương đất nước đổi mới. 
Ngày 12 là ngày chính hội. Buổi sáng tổ chức rước cỗ lễ hàng giáp về đình thờ. Ngày 
này, cả dân làng tập trung đông tại đình làng để tham dự lễ hội. Trong buổi lễ, ông 
lang (ông Từ) làm chủ tế. Sau buổi lễ lý trưởng (trưởng thôn) đọc hương ước của 
làng để nhân dân nghe và thực hiện trong năm mới. Buổi chiều tiếp tục mở hội , 
thanh niên nam nữ trong làng tổ chức các trò chơi như buổi chiều ngày 11 và kết  thúc vào ngày 13. 
Sự ấm áp trong những ngày hội làng với lưu giữ nét đẹp văn hóa đặc sắc cổ truyền 
là những bài học lịch sử thực tế, hiệu quả nhất cho thế hệ trẻ, cũng là dịp để nhân 
thêm niềm tự hào, tự tôn dân tộc, giáo dục con cháu nhớ về quê hương, nguồn cội. 
Hội làng Vai đã trở thành một nét đẹp văn hóa giàu ý nghĩa, như một mạch ngầm 
chảy mãi, bừng lên sức sống, bản sắc của quê hương làng Vai. 
Tết cơm Đe Mường Rậm  
Hàng năm, cứ vào ngày 26 tháng 10 âm lịch, người dân Mường Rậm, xã Lạc Thịnh, 
huyện Yên Thủy (Hòa Bình) lại gác công việc đồng áng, ruộng nương thường ngày 
để tất bật chuẩn bị đón Tết cơm Đe. Người Mường Rậm ở Lạc Thịnh thường ăn ba 
tết lớn là Tết Nguyên đán, Tết Độc lập và Tết cơm Đe, trong đó Tết cơm Đe được 
tổ chức to hơn, đông hơn và vui hơn cả vì cả nước duy chỉ có xã Lạc Thịnh mới có  cái tết độc đáo này. 
Nét độc đáo trong Tết cơm Đe của người Mường Rậm là ăn chay và chỉ có phần lễ. 
Trong mâm cúng, bao giờ cũng phải có quả đu đủ, mướp, măng giang lấy từ rừng 
về đồ lên hoặc luộc chín, vừng rang giã nhỏ không cho muối hay bất kỳ gia vị nào. 
Món đặc biệt không thể thiếu trong mâm cúng là cơm Đe. Cơm được làm từ gạo nếp 
nhưng phải là gạo ngon, đồ lên rồi trộn ủ với men lá cây rừng. Để có cơm Đe vừa 
ngon, ngọt, đậm đà, người Mường Rậm phải chuẩn bị trước đó vài ngày, thường là  từ 20/10 âm lịch.      lOMoARcPSD| 42676072
Những người con của quê hương dù đi công tác, làm ăn, sinh sống ở nơi xa đều cố 
thu xếp công việc để về thưởng thức Tết cơm Đe. Trong vùng, chỉ có dòng họ Bùi 
làm Tết cơm Đe, còn các dòng họ khác như Quách, Nguyễn… không làm mà đến 
chia vui. Để chuẩn bị cho mâm cúng tết được chu tất, ngay từ tờ mờ sáng, gia đình 
đã dậy, chuẩn bị bày mâm cúng. 
Theo quan niệm của người Mường Rậm, phải cúng trước khi mặt trời mọc, vì thời 
gian này là linh thiêng và mát mẻ hơn cả. Mâm cúng được đặt ở hướng chính giữa 
ngôi nhà sàn (đặt mấy mâm là tùy từng gia đình). Măng giang, đu đủ, mướp được 
đồ chín bày lên tàu lá chuối xanh. Sau khi sắp lễ xong, một thầy mo có uy tín nhất 
trong làng được mời đến cúng, cầu cho mưa thuận, gió hòa, mùa màng bội thu, vạn 
vật tốt tươi, con người khỏe mạnh. 
Trong khi cúng, tất cả con cháu phải ngồi ở phía trong ngôi nhà sàn để nghe và xem 
thầy làm lễ. Bài cúng kết thúc cũng là lúc cả gia đình tổ chức ăn Tết trong sáng sớm, 
từ người già đến trẻ em đều thưởng thức cơm Đe để được may mắn, mạnh khỏe. 
Ngày nay khi cuộc sống khá dần lên, người Mường Rậm ở xã Lạc Thịnh, huyện Yên 
Thủy (Hòa Bình) đã no ấm và càng coi trọng Tết cơm Đe. Ai đã từng đặt chân đến 
vùng đất này, thưởng thức món cơm Đe chắc hẳn không quên được hương vị độc 
đáo của nó và càng không quên tấm lòng hiếu khách của bà con nơi đây. Đó là nét 
văn hóa truyền thống lâu đời của người Mường Rậm, cần được quan tâm bảo tồn và  phát huy. 
Lễ hội Chá Chiêng của dân tộc Thái  
Được tổ chức vào tháng Giêng hằng năm để tạ ơn Then Luông. Trung tâm của lễ hội 
là cây Chá Chiêng được làm từ thân cây tre, có 2 tầng. Chủ trì buổi lễ là ông mùn 
lớn, tức là thầy mo, thầy cúng có uy tín trong vùng. Sau các lớp vỏ tín ngưỡng dân 
gian, lễ hội Chá Chiêng là một sinh hoạt văn hóa của cộng đồng người Thái. Qua đó, 
bày tỏ lòng biết ơn tổ ctieen và những người cứu giúp mình trong lúc khó khăn, ốm 
đau, đồng thời cũng thể hiện ước mong về một cuốc sống ấm no, hạnh phúc. 
Cứ 3 năm, ông Mùn lại tổ chức lễ tạ ơn Then Luông và các then khác trên Mường 
Trời. Lễ vật dùng cho việc này đều do các con nuôi, con ruồng (lục biển, lục nà) 
những người đau ốm được ông Mùn cúng khỏi trở thành người con phụ thuộc vào 
thầy Mùn đóng góp. Địa điểm tiến hành lễ thường là ngôi nhà sàn của chính ông 
Mùn. Ngày đó, ngôi nhà được trang trí sặc sỡ bằng những tấm vải thổ cẩm. Chính      lOMoARcPSD| 42676072
giữa nhà đặt cây hoa chá – cây hoa trung tâm của lễ hội. Tham gia vào cuộc lễ gồm 
có: ông Mùn luông chủ lễ, ông Mùn lam, ông nhồm (phụ trò), ông thổi pí mùn, các 
con nuôi và đông đảo dân chúng.Cây hoa chá đợc làm bằng tre, đục nhiều lỗ để cắm 
các cành hoa do các con nuôi làm và mang đến. Hoa được làm bằng thân cây mềm, 
xốp gọt nhiều cánh và nhuộm nhiều màu. Cây đươc phân ra làm hai tầng: Tầng cao 
nhất là tầng của trời, tầng chủ lễ; tầng dưới là tầng của trần gian treo những vật đan 
kết bằng sợi lạt tre, nứa tượng trưng cho vạn vật trên mặt đất như ếch, nhái , ve sầu, 
chim, chim, cá, quả trứng, cái bừa, khung cửi, cái trống, con dao… Biểu tượng cho 
sư sống sinh sôi nảy nở ở trần gian. Mâm cỗ cúng đặt trước bàn thờm gồm có một 
con gà luộc, gói xôi, quả trứng, cuộn vải trằng, vòng đeo tay bằng bạc, đĩa trầu cau, 
thanh kiếm và các đồ cúng khác của ông mo. 
Lễ hội diễn ra hai ngày một đêm. Ngày thứ nhất, ông Mùn luông cúng xôi phát hạn 
ho xin phép trời được hành lễ chá và cho phép thuật được nhập vào Mùn luông. Lễ 
này gọi là lễ “pồn cốn pời mường”. Ngày hôm sau, ông Mùn luông bắt đầu hành lễ, 
những người khác giúp việc nhà… Sau mo này mới được phép mổ lợn và các con 
nuôi dâng cỗ. Ông mùn làm lễ “an pàn kháu” điểm mâm cỗ các con nuôi. Nhiều trò 
chơi cùng lúc hòa nhịp với lời mo: múa kiếm,múa khăn dập bóng bu… Các con nuôi 
hòa vào cuộc múa của thầy mùn đóng vai các ma (phi), các loại người như người 
mù, người què, mẹ Mường (mẹ trời sinh ra con người), kẻ trộm cắp, kẻ tham ăn, 
nàng Sen Bèn (thần ái tình), trai Lào, khách buôn, người bán,… diễn tả các động tác 
lao động như cưỡi voi, phi ngựa, dắt trâu, dệt vải, hái nấm, xúc cá, đắp bai, làm 
mương, cày, bừa, cấy, gặt,… 
Sau những phần diễn trên là phần hát nhặt hoa. Hát nhặt hoa là hát đoán số mệnh 
các con nuôi, do ông mùn hát. Hát mo tiễn Mường Then về trời được coi là phần kết 
thúc lễ hội. Ông mùn luông cầm con gà trống mào đỏ rực vừa đi vòng quanh cây 
hoa vừa hát. Hát dứt một chặng mo, Mùn luông lại cất lên một tiếng gà gáy “càng lế 
ốc” báo hiệu đường lên trời bước sang ngày mới. 
Lễ hội Chá Chiêng của đồng bào Thái tỉnh Hoà Bình mang ý nghĩa cộng đồng đã 
tạo được không khí náo nức và phấn chấn cho mọi người trong bản, trong mường. 
Ngày nay, với sự tiến bộ về y học nên việc chữa trị bệnh của ông Mùn không còn 
tồn tại nữa mà nó chỉ còn là di sản văn hóa tâm linh, còn những nhịp điệu của lễ hội 
Chá Chiêng cũng đã dần trở thành nét đặc trưng trong vũ điệu dân gian của đồng 
bào Thái nói chung và của đồng bào Thái Mai Châu (Hoà Bình) nói riêng.      lOMoARcPSD| 42676072
 Câu 3: Thành tố Ẩm thực, Âm nhạc dân gian 
5:Ẩm thực, âm nhạc dân gian  5.1: Ẩm thực 
Hòa Bình luôn tạo ấn tượng, sức hút đối với du khách gần xa bởi bản sắc văn hóa đa 
dạng, phong phú (kiến trúc nhà cửa, trang phục, dân ca, dân vũ, lễ hội…), trong đó, 
ẩm thực của đồng bào các dân tộc thiểu số cũng chứa đựng nhiều điều cần khám phá.  1. Cơm lam 
 Giá tham khảo: 15.000 - 30.000 VND/ ống cơm  Địa chỉ: 
1. Nhà hàng Mường Động: Hạ Bì, Kim Bôi, thành phố Hòa Bình, tỉnh HòaBình 
2. Mai Châu Ecolodge: Nà Chiềng, Mai Châu, Hòa Bình 
3. Nhà hàng Hải Đăng: Tiểu khu 4, Mai Châu, Hòa Bình 
Cơm lam là một món ăn đặc sản đầu tiên mà bạn có thể thưởng thức khi tới Hòa 
Bình. Cơm lam tại đây lại có một hương vị rất riêng bơi nó được người dân chế biến 
từ gạo cao cấp vô cùng thơm và dẻo. Người Mường xưa khi phải đi làm nương, đi 
rừng xa nhà, họ mang theo ít gạo nếp để phòng khi quá bữa sẽ chặt ống tre tươi cho 
vào ống tre một ít gạo, một ít nước và nướng ống tre tươi đó trên lửa để tạo thành 
cơm ăn những khi đói lòng. Giờ đây món ăn đó đã trở thành một đặc sản của vùng  núi Tây Bắc. 
Món cơm lam có rất ở nhiều nơi, người Tày, nguời Thái, người Nùng, người 
Mường… đều có loại cơm này. Tuy nhiên, vùng đất Mường Động (Kim Bôi, Hoà 
Bình) là nổi tiếng hơn cả vì nơi đây có loại gạo nương thơm, dẻo nổi tiếng. Cơm lam 
Hoà Bình không có hạt lạc, hạt đậu nhưng nguyên liệu chọn lựa kỹ càng là gạo nếp 
nương thơm ngon trộn với nước cốt dừa, chọn ống tre, nứa nhỏ tươi bánh tẻ sau đó 
nướng trên bếp than hồng. Tất cả các bước sẽ tạo nên "troóng” cơm lam xứ Mường 
Hòa Bình thơm dẻo gạo nếp nương, quyện với vị ngọt bùi ngậy của cốt dừa và mùi 
thơm đặc trưng của tre, nứa làm nên một món ăn ngon ít nơi nào có được 
2. Thịt trâu nấu lá lồm  • 
Giá tham khảo: 100.000 - 200.000 VND/ đĩa  Địa chỉ: 
1. Nhà hàng Quán Ngon Hòa Bình: Đường Trương Hán Siêu, Tân Thịnh,  HòaBình      lOMoARcPSD| 42676072
2. Nhà hàng Bếp Mường: Khu du lịch suối khoáng, Kim Bôi, Hòa Bình 
3. Nhà hàng Lạc Thịnh: Đối diện UBND P. Tân Thịnh, TP Hòa Bình, HòaBình 
4. Nhà hàng Gia Hân: Đà Giang, Phường Đồng Tiến, TP Hòa Bình, Hòa 
BìnhThịt trâu nấu lá nồm là món ăn đặc sản Hòa Bình được lòng các du khách 
nhất nhờ vào hương vị thơm ngon lạ miệng. Món ăn này có hương vị rất riêng, 
đặc trưng của vùng Tây Bắc. 
Để có thể chế biến món ăn này, người làm phải tốn rất nhiều công sức. Trước hết 
phải sơ chế thịt trâu như đã làm với thịt lợn mán (thui vàng lớp da và cạo sạch lông) 
sau đó mới đem thịt đi bung mềm rồi thái miếng và cho vào hầm cùng với gạo và lá 
lồm – một loại lá chua của Hòa Bình. 
3. Măng chua nấu thịt gà  • 
Giá tham khảo: 150.000 - 250.000 VND/ bát  •  Địa chỉ: 
1. Nhà hàng Cá Thác Bờ: 159- Tổ 5- Phường Tân Thịnh - Thành Phố HòaBình,  Hòa Bình 
2. Nhà hàng Tuyết Sơn: Tổ 5 - Phường Đồng Tiến, Thành Phố Hoà Bình,  HoàBình 
3. Nhà hàng Lan Dũng: 55 Trần Phú, Phường Phương Lâm, TP Hòa Bình,  HòaBình 
4. Nhà hàng Gia Hân: Đà Giang, Phường Đồng Tiến, TP Hòa Bình, Hòa 
BìnhMăng chua nấu thịt gà là một món ăn đặc trưng của vùng núi Tây Bắc 
vào mùa lạnh. Gà Lạc Sơn và măng rừng tươi ngon là hai loại đặc sản nổi 
tiếng của Hòa Bình, người dân bản địa đã khéo léo khi kết hợp hai nguyên 
liệu đặc trưng của vùng đất nơi đây để tạo nên món ăn hài hòa cả hương vị 
lẫn thanh sắc – măng chua nấu thịt gà. 
4. Xôi nếp nương Mai Châu  • 
Giá tham khảo: 40.000 - 50.000 VND/ đĩa    Địa chỉ: 
1. Nhà Hàng Hợp Thủy: Tiểu Khu 2, Mai Châu, Hòa Bình 
2. Nhà hàng Hằng Thản: Tổ 13, phường Đồng Tiến, thành phố Hòa Bình 
3. Nhà hàng Thúy Nga: Ngã 3 Đồng Bảng, Mai Châu, Hòa Bình 
4. Nhà hàng 99 Bản Lác Mai Châu: Số nhà 99 Bản lác 1, Chiềng Châu, MaiChâu,  Hòa Bình      lOMoARcPSD| 42676072
Điểm độc đáo của món xôi nếp nướng này chính là được làm từ loại gạo nếp ở nướng 
Mai Châu và được nấu với nhiều màu sắc rực rỡ. Màu sắc của xôi hoàn toàn làm từ 
những nguyên liệu tự nhiên, không hóa chất nên khi ăn vừa ngon mà lại vừa bổ  dưỡng nữa. 
Đây là món ăn đặc trưng của đồng bào dân tộc vào mỗi dịp lễ Tết, hội hè. Bạn nhớ 
hãy thử món ăn mang đậm nét văn hóa độc đáo của vùng đất này khi có dịp ghé tới 
nơi đây nhé! 5. Rượu cần  • 
Giá tham khảo: 350.000 - 400.000 VND/ 5 lít    Địa chỉ: 
1. Rượu cần Quang Đông: Lương Sơn, Hòa Bình, Việt Nam 
2. Xưởng rượu cần Ông Văn: Xuất Hóa, Lạc Sơn, Hòa Bình, Việt Nam 
3. Rượu cần Mường Vang: Lạc Sơn, Hòa Bình, Việt Nam 
4. Rượu cần San Hằng: Thượng Cốc, Lạc Sơn, Hòa Bình, Việt Nam 
Rượu cần là một món đặc sản thích hợp mang về làm quà cho người thân, bạn bè và 
sếp. Bởi vì rượu cần Hòa Bình rất đặc trưng, nó không chỉ có vị đắng nhẹ và còn có 
thêm vị chua chua, ngọt ngọt, uống rất cuốn. 
Người dân bản địa thường dùng rượu cần để chiêu đãi khách quý vào mỗi dịp Tết 
đến xuân về. Rượu hết đến đâu nước lại được thêm vào miệng vò sao cho mặt nước 
trong vò rượu lúc nào cũng mấp mé chực tràn miệng. Tục uống rượu cần cũng thể 
hiện phong cách chất phác, thật thà của người Mường. 
6. Lợn mán thui luộc  • 
Giá tham khảo: 150.000 - 250.000 VND/ đĩa   Địa chỉ: 
1. Nhà Hàng Quán Quê: Đường Lê Thánh Tông, phường Hữu Nghị, thành  phốHòa Bình, Hòa Bình 
2. Nhà hàng Mạnh Ngân: Đầu đường Trần Hưng Đạo, Hòa Bình 
3. Nhà Hàng Xuân Bắc: Năm Lu , Xã Hoà Sơn ,Thị Trấn Lương Sơn ,TỉnhHoà  Bình 
Nhiều du khách khi đến thăm Hòa Bình rất yêu thích món lợn mán thui luộc. Được 
mệnh danh là đặc sản Hòa Bình, tới với mảnh đất này mà bạn không thử món ăn này 
thì tiếc hùi hụi luôn đó. Món ăn này được làm từ thịt lợn rừng được nuôi thả tự nhiên 
trên các lưng đồi nên bảo đảm thơm và chắc thịt. Hơn nữa công đoạn chế biến cũng 
vô cùng công phu, khó mà chúng ta có thể làm được.      lOMoARcPSD| 42676072
7. Thịt lợn muối chua  • 
Giá tham khảo: 40.000 - 50.000 VND/ hộp  Địa chỉ: 
1. Nhà hàng Hợp Thủy: Tiểu khu 2, Mai Châu, Hòa Bình 
2. Nhà hàng trong khu nghỉ dưỡng Mai Châu Ecolodge 
Món đặc sản tiếp theo mà bạn có thể thử khi đến Hòa Bình chính là thịt lợn muối 
chua. Không giống với những món thịt muối chua ở các vùng miền khác, thịt lợn 
muối chua Hòa Bình mang trong mình hương vị riêng biệt, được chế biến dựa theo 
công thức độc đáo và gia truyền mới tạo ra được.  8. Tỏi tía  • 
Giá tham khảo: 130.000 150.000 VND/kg  • 
Địa chỉ: Xã Loo'ng Luông huyện Mai Châu,  Hòa Bình 
Tỏi tía cũng là một món đặc sản hấp dẫn được nhiều du khách tìm đến khi đi du lịch 
Hòa Bình. Tỏi ở đây đặc biệt là vì tép tỏi có màu vàng nhưng củ thì nhỏ, thơm và 
nhiều dầu, vị cay nồng rất đặc trưng. 
Hơn nữa chỉ có ở xã Loo’ng Luông tại huyện Mai Châu mà thôi. Vậy nên nếu như 
bạn muốn mua tỏi tía thì nên đến đây để mua được về làm quà cho bạn bè và người 
thân nhé. Khi chế biến các món ăn mà có thêm tỏi tía sẽ khiến cho bữa ăn của bạn 
trở nên hấp dẫn hơn nhiều đó. 
9. Chả cuốn lá bưởi  • 
Giá tham khảo: 100.000 - 120.000 VND/ đĩa   Địa chỉ: 
1. Nhà Hàng Hằng Thản: Số 64 tổ 8, phường Ðồng Tiến, Hòa Bình 
2. Nhà hàng Hợp Thủy: Tiểu Khu 2, Thị trấn Mai Châu, Huyện Mai Châu,Tỉnh  Hoà Bình 
3. Nhà hàng 1983: 103 Lê Thánh Tông, Phường Tân Thịnh, Hòa BìnhChả cuốn 
lá bưởi là món ăn đặc sản cực kỳ nổi tiếng tại Hòa Bình. Khi ăn bạn sẽ cảm 
thấy món chả này vô cùng độc đáo bởi nó được chế biến công phu ở phần 
nhân, bởi nhân của món ăn này chính là thịt thái hình con chì, được bọc lá 
bưởi lại rồi mới mang đi nướng bằng kẹp tre.      lOMoARcPSD| 42676072   10. Món cá nướng  • 
Giá tham khảo: 40.000 - 300.000 VND/ đĩa  Địa chỉ: 
1. Nhà Hàng Nổi Thung Nai: Khu du lịch lòng hồ thủy điện Hòa Bình -  ThungNai 
2. Nhà Hàng Đảo Xanh: Thung Nai, Cao Phong, Hòa Bình 
3. Nhà hàng Mạnh Cường: Thung Nao, Cao Phong, Hòa Bình 
4. Nhà Tàu Lương Dương: Cảng du lịch, Thung Nai, Cao Phong, Hòa BìnhNhắc 
đến đặc sản Hòa Bình thì món cá nướng đồ là một trong những món ăn hấp 
dẫn mà bạn nên thử khi đến đây. Những mẻ cá thiểu, ngão sẽ được tẩm ướp 
muối tiêu và nướng. Sau đó sẽ được bày lên lá chuối xanh, ăn kèm với lá sấu 
non, lá mơ và lá lốt. Thịt cá ngọt, dai và thơm một hương thơm khó tả.    11. Măng đắng  • 
Giá tham khảo: 120.000 - 140.000 VND/kg  • 
Địa chỉ: Dọc đường Hòa Bình có nhiều chỗ bán 
Hòa Bình có rất nhiều loại măng khác nhau, từ nhỏ như ngón tay cho tới to như bắp 
chân. Mỗi một loại sẽ có cách chế biến và hương vị khác nhau. Vào độ tháng 3 sẽ 
dễ mua được loại măng này. Măng đắng có thể chế biến thành nhiều món khác nhau 
như xào, luộc, nấu xương hay nấu với vịt, thịt lợn đều ngon.    12. Cam Cao Phong  • 
Giá tham khảo: 30.000 - 50.000 VND/kg  Địa chỉ: 
1. Phố Bưng, Cao Phong, Hòa Bình 
2. Số 142, Khu 8, Thị Trấn Cao Phong, Cao Phong, Hòa Bình      lOMoARcPSD| 42676072
Đến với Hòa Bình, chắc chắn bạn sẽ nhớ tới cam Cao Phong phải không nào? Cam 
ở đây nổi tiếng bởi nó vừa thơm ngon lại vô cùng mọng nước. Khi ăn vào sẽ thấy 
ngọt chứ không có vị chua hay chát đâu nhé. Loại cam này cũng rất ít hạt nữa. 
Cam Cao Phong gồm có cam lòng vàng, cam xã Đoài, quýt Tân Châu, tạo nên thương 
hiệu cam nổi tiếng mà chỉ có tại vùng Cao Phong mới cho ra được những trái cam  ngon tuyệt.    13. Quả lặc lày  • 
Giá tham khảo: 25.000 - 30.000 VND/kg  • 
Địa chỉ: Chợ phiên xã Bao La, Mai Châu, Hòa  Bình 
Đây là một loại quả đặc sản tại vùng đất Hòa Bình và nó còn có một cái tên khác là 
quả mướp rừng. Loại quả này chỉ có ở vùng cao với khí hậu trong lành. Điểm độc 
đáo là khi chế biến và ăn nó sẽ đem lại nhiều dưỡng chất và có lợi cho sức khỏe của  con người.    14. Măng khô  • 
Giá tham khảo: 80.000 - 150.000 VND/kg    Địa chỉ: 
1. Nhà máy măng Kim Bôi, Hòa Bình 
2. Các chợ tại TP Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình 
Măng là một thực phẩm dễ ăn và cũng là món khoái khẩu của nhiều người. Măng ở 
đây được chế biến và phơi sấy vô cùng cẩn thận, thủ công hoàn toàn nên vừa bảo 
đảm an toàn lại thơm ngon, hấp dẫn.    15. Canh loóng  • 
Giá tham khảo: 40.000 - 50.000 VND/ bát    Địa chỉ: 
1. Nhà hàng bếp Mường: Khu du lịch suối khoáng, Kim Bôi, Hòa Bình.      lOMoARcPSD| 42676072
2. Bếp Mường Đà Giang: Số 317 Đê, Đà Giang, Phú Lâm, Hòa Bình. 
Canh loóng cũng là một món ăn hấp dẫn mà bạn có thể thưởng thức khi đến với Hòa 
Bình. Nó rất dễ chế biến và cũng đơn giản về mặt nguyên liệu chứ không cầu kỳ như 
nhiều món khác. Và khi nấu cũng cần canh thời gian cẩn thận mới có thể làm ra 
được món canh ngon được. 
5.2:Âm nhạc dân gian  
5.2.1: Cồng chiêng: nhạc cụ thiêng liêng của thế giới Mường 
Nghệ thuật cồng chiêng: Cồng chiêng của người Mường là một nhạc cụ truyền 
thống đặc sắc, gắn bó với mỗi người Mường từ khi lọt lòng mẹ đến khi qua đời. 
Cồng chiêng là một nhạc cụ truyền thống không thể thiếu được trong cuộc đời mỗi 
con người Mường. Chiêng được đánh trong các dịp lễ tết, trong đám cưới, đám ma. 
Chiêng được dùng cho các phường sắc bùa đi chúc tụng các gia đình vào đầu năm 
mới. Chiêng được dùng cho các đoàn đi săn.   
Những dịp như vậy, khắp núi rừng vang tiếng chiêng rộn rã. Vào những ngày lễ hội, 
tiếng chiêng vang lên trầm bổng cùng những cuộc vui hội của mọi người. Khi mừng 
nhà mới, tiếng cồng cũng được đánh lên vui nhộn mừng gia chủ. Có thể nói, tiếng 
cồng , tiếng chiêng có mặt ở khắp mọi nơi, mọi thời khắc đáng ghi nhớ trong cuộc 
đời của người Mường.   
Vì vậy xưa kia khi nhà nào cũng phải sắm cho nhà mình một vài chiếc cồng. 
Cồng chiêng là những vật báu tượng trưng cho sự giàu có, sang trọng của mỗi gia 
đình người Mường. Sử thi đẻ đất đẻ nước còn ghi rõ những không khí có sự tham  gia của chiêng cồng:   
Con trai đi trước khiêng trống 
Con gái đi sau xách cồng 
Đến Mường đánh lên hồi trống cái 
Cồng bảy cồng mười lên tiếng cho giòn 
Cồng cái cồng con kêu cho rộn…   
Cồng chiêng có giá trị rất lớn cả về tinh thần lẫn vật chất. Trước đây, người 
Mường dùng trâu to, bò lớn để đổi được chiếc cồng, chiêng. Tuy vậy, những giá trị 
cụ thể ấy cũng chỉ là tương đối, còn nói chung, cồng chiêng của người Mường là  một tài sản vô giá.        lOMoARcPSD| 42676072
Xưa kia người ta cũng tiến hành đúc chiêng, thợ đức có cả thợ người Mường lẫn 
thợ người kinh ở xuôi lên, có cả việc trao đổi, buôn bán cồng chiêng giữa vùng này 
và vùng khác. Một đoạn thường rang của người Mường đã cho thấy việc trao đổi và  sản xuất cồng chiêng:    Chiêng này từ xưa 
Chiêng từ chợ, từ thợ mà ra 
Nó nặn không nồi, không tra bằng đất 
Bên dưới nó chất bằng than 
Cháy lửa tràn hai bên miệng bễ 
Đứa em vào đổ lên cái thành 
Đứa anh đúc nên cái chiêng bảy 
Nó đổ nên chiếc chiêng ba 
Người thợ già già nó bảo buôn lên 
Đi bốn mươi đầu làng dưới 
Đến chín mươi cuối làng trên 
Ai cũng thấy nên nghe được 
Quan tiền đem ra trác (mua) 
Lạng bạc đem ra mua 
Mua được chiếc chiêng bảy, chiêng ba…   
Theo loại hình và chất liệu, người Mường chia chiêng thành hai loại chiêng hơ 
và chiêng nay. “Chiêng hơ là chiêng cổ xưa, cái núm chiêng sáng hồng và bóng lên. 
Mặt chiêng thường nổi mụn nhỏ li ti, sờ vào thấy ráp ráp. Cũng có nơi gọi là chiêng 
chô cóc. Chiêng hơ thường được thấy nhiều ở cỡ từ loại chiêng mốt tới chiêng sáu. 
Còn chiêng nay thì đồng đỏ như chiêng thau, có những nốt tựa như búa ghè. Xét về 
toàn diện thì chiêng nay kém giá trị hơn chiêng hơ rất nhiều. Xét về âm thanh thì độ 
vang của chiêng nay không được vang lắm và âm cũng không được đẹp bằng chiêng  hơ”.   
Trải qua quá trình phát triển và ổn định, một dàn chiêng Mường phải có đủ 12 
chiếc mới thành một bộ hoàn chỉnh.   
Ngoài ý nghĩa về âm nhạc, dàn chiêng đủ 12 chiếc này còn mang một ý nghĩa 
khác nữa: “Người ta cho rằng với con số ấy là biểu tượng cho 12 tháng của một năm. 
Tính theo vòng quay của mặt trăng. Một năm là sự giao thoa của bốn mùa thời tiết 
để bắt đầu từ con số 1. Sự giao thoa của từng chiếc chiêng là sự âm hưởng của 12 
tháng. Vì vậy người Mường lấy 12 chiếc trong một giàn là ở chỗ ấy”.      lOMoARcPSD| 42676072  
Một bộ chiêng đầy đủ là 12 chiếc, nhưng nếu không đầy đủ vẫn có thể là một bộ, 
song ít nhất bộ ấy phải có 4 - 5 chiếc trở lên. Bộ chiêng đầy đủ 12 chiếc được chia  làm 3 nhóm, gồm:   
- 4 chiêng dàm - có vùng còn gọi là chiêng khầm, là loại có kích thước lớn,âm 
thoát ra thuộc âm khu trầm trong dàn. 
- 4 chiêng bồng – còn được gọi là chiêng đục bồng hoặc chiêng bòong beng,chiêng 
bôông bêêng, gồm những chiếc có kích thước vừa phải, trung bình, âm phát ra 
thuộc âm khu giữa trong dàn. 
- 4 chiêng tlé – còn được gọi là chiêng chót, chiêng bóng, chiêng poóng,chiêng 
đón, chiêng lắp, chiêng lóng, là những chiếc có kích thước nhỏ nhất, phát ra 
những thuộc âm khu cao nhất trong dàn. 
Ngoài ra, người Mường còn có tên gọi cho 12 chiếc chiêng trong giàn theo thứ 
tự chiêng mốt, chiêng hai, cho đến chiêng mười hai với phân loại âm chiêng mốt 
là cao nhất, chiêng 12 là trầm nhất. Khi trình diễn dàn chiêng người ta thường 
đánh những tiếng chiêng mở đầu gọi là chiêng gióng với ý nghĩa gióng lên trước 
để hướng dẫn giàn chiêng cũng như sự chú ý của người nghe. Bộ này gọi là bộ 
gióng với các chiêng từ chiêng ba đến chiêng bảy. Dùi để đánh cồng, chiêng được 
làm từ gỗ ổi, gỗ sến hay gỗ cây vông ( cây quả nhấm), đầu dùi được bọc bằng da, 
bằng vải có đan sợi gai bên ngoài. Da bọc dùi thường được chọn từ da của bộ 
phận sinh dục các loại trâu, nai, hoẵng, bò…Chiêng có buộc dây để khi đánh 
người ta xách chiêng trên tay. Dây chiêng thường được buộc bện bằng dây sợi 
gai hoặc bằng vỏ cây Dó cho êm và không bị mất tiếng.   
Chiêng, cồng chiếm một vị trí vô cùng quan trọng trong đời sống của người 
Mường, theo suốt cuộc đời họ từ khi sinh ra đến lúc trở về cõi vĩnh hằng, có mặt 
ở cả những cuộc vui lẫn khi có chuyện buồn để chia sẻ cùng họ. Vì vậy nghệ 
thuật cồng chiêng là loại hình âm nhạc quan trọng nhất của người Mường.   
Ngoài dàn cồng chiêng nổi tiếng, người Mường còn có loại nhạc cụ phổ biến 
khác như trống, sáo, cò ke, kèn gỗ, ống ôi, bỉ đôi, boòng beng, trống đồng, trống 
gỗ, đàn máng ( đàn bầu), đàn tam, đàn tớ ính ( đàn môi), kiểng, chiếm chọc…Tất 
cả các nhạc cụ này được sử dụng vào các nghi lễ, các cuộc vui trong sinh hoạt, 
trong lao động sản xuất của người Mường ( như đi săn). Cùng với các làn điệu 
dân ca, các loại nhạc cụ của người mường đã tạo nên một nền âm nhạc dân gian 
phong phú và đặc sắc của họ. Những bài dân ca được trình bày có kèm theo các 
điệu nhạc để làm tăng thêm cái hay, cái đẹp cho bài hát, cũng có loại dân ca      lOMoARcPSD| 42676072
không dùng âm nhạc thì lại được thể hiện bằng làn điệu, bằng nhịp và giọng hát 
của người trình bày và bằng nội dung trữ tình, lãng mạn của lời hát tạo nên một 
đời sống âm nhạc phong phú của người Mường trong quá khứ cũng như trong  hiện tại. 
5.2.2.Sáo ôi: tiếng thiên thai 
Câu chuyện của dân tộc Mường kể về tiếng Sáo ôi: Ngày nọ có một tràng trai đi săn 
bắn ban đêm, lúc trở về trời đã khuy, đường về nhà còn xa mà chỉ có một mình nên 
tràng trai ngần ngại không muốn về trong lúc đêm khuya. Chàng đi đến một ngôi 
nhà ở đầu làng liền lấy Sáo ôi ra thổi, dùng tiếng Sáo ôi để thay cho tiếng gọi, lời 
xin được vào nhà ngủ trọ. Cứ thế tiếng Sáo ôi văng vẳng trong đêm khuya vang lên, 
lúc trầm, lúc bổng. Nghe thổi ngoài cổng, tiếng Sáo ôi vọng vào nhà, lúc đầu gia chủ 
mới được nghe tiếng Sáo ôi thấy rất lạ tai không biết gì, sau thấy tiếng Sáo ôi cứ 
vang lên tha thiết, êm êm, mát dịu vấn vương trong đêm khuy thanh vắng, chủ nhà 
không sao ngủ được bèn thức dậy. 
Nhưng tiếng Sáo ôi vẫn cứ tiếp tục văng vẳng bên tai làm cho chủ nhà đứng ngồi 
không yên đành phải ra mở cổng đón chàng trai đó vào nhà cùng uống nước và nghe 
chàng trai kể chuyện về sự ra đời của Sáo ôi và thổi Sáo ôi cho chủ nhà nghe đến hết  đêm. 
Tiếng Sáo ôi nghe thật đằm thắm, thiết tha. Sáo Ôi người Mường gọi là Kháo ôi 
(Ống ôi). Ống ôi, có nghĩa là ống than thở, ống gọi bạn, gọi tình, gọi người yêu 
đương thương nhớ. Ống ôi, ống bạn, ống bạn đường, bạn đời, bạn lòng, bạn tình 
nghĩa thương, Ống ôi thổi rất nhiều từ “ôi” như: ôi hỡi (bạn hỡi), ôi hày (bạn à), ôi 
hạ (bạn ạ), ôi hởi (bạn ôi), ôi dửa (bạn nhỉ), hỡi ôi (hỡi bạn)… mà cả nam, nữ đều 
gọi nhau là “ôi” ơi như các câu: Lời chi họ ví bạn ơi (Ôi hởi)/ Lý chi họ rằng bạn ạ  (Ôi hà) và … 
Nhiều chàng trai Mường, từ việc biết thổi Sáo ôi đã đón nhận được những tình cảm 
đặc biệt của các cô gái, để từ đó cùng nhau xây dựng một gia đình ấm no, hạnh phúc. 
5.2.3. Âm nhạc cò ke- ống sáo 
Không biết từ bao giờ âm nhạc cò ke ống sáo xuất hiện trong đời sống của người 
Mường, chỉ biết rằng nó đã gắn bó máu thịt với đời sống tinh thần của người Mường 
từ thời mới “đẻ đất đẻ nước”.   
 Cư trỳ trên mảnh đất Hòa Bình từ khi “đất còn bạc lạc, nước còn bời lời”, trong 
quá trình lao động sản xuất để xây dựng cuộc sống người Mường đã sáng tạo ra một 
nền âm nhạc dân gian phong phú để phục vụ đời sống tinh thần của mình. Với những 
nguyên liệu sẵn có trong cuộc sống thường ngày như cây bương, nứa, mây, gai…. 
họ đã sang tạo ra nhiều nhạc cụ khác nhau và khi kết hợp chúng lại thì đã tạo nên      lOMoARcPSD| 42676072
một dàn nhạc tấu lên những cung bâc âm thanh của cuộc sống đất Mường, cú lẽ nhạc 
cò ke ống sáo ra đời như vậy. 
Dàn nhạc cò ke ống sáo của người Mường thường có từ 5 đến 7 nhạc công tương 
ứng với từ 5 đến 7 nhạc cụ. Các nhạc công trong ban nhạc cò ke ống sáo thường là 
đàn ông, họ là những người có năng khiếu âm nhạc bẩm sinh, có người là con nhà 
nòi gia truyền và có người do say mê, yêu thích nhạc cò ke ống sáo, họ tự nguyện 
hợp lại với nhau tạo thành một ban nhạc hay còn gọi là một phường cò ke ống sáo. 
Nhạc cò ke ống sáo là âm nhạc dân gian, được người dân sáng tạo và truyền miệng 
từ đời này sang đời khác do đó nhạc cò ke ống sáo rất phong phú về thể loại và giai 
điệu. Do đây là những tác phẩm của sự sáng tạo tập thể nên mỗi một giai điệu của 
từng vùng, từng mường hoặc thậm chí là của từng nhóm nhạc lại có những mầu sắc 
khác nhau. Cũng vì tính chất của nhạc cò ke ống sáo là như vậy nên mỗi ban nhạc 
lại có những ngón đàn hay thủ thuật riêng. Chính sự hợp ngón đàn của các thành 
viên trong ban nhạc mà mỗi ban nhạc cò ke ống sáo lại có cái hồn riêng. Một ban 
nhạc cò ke ống sáo thường sử dụng từ 5 đến 7 nhạc cụ bao gồm: nhị, sáo trúc, đàn 
tam, kiêu cảnh, trống con và xênh tiền, có ban nhạc còn sử dụng cả xênh ban. Có 
ban nhạc sử dụng hai sáo trúc. Các loại nhạc cụ trong dàn nhạc thì đàn nhị người 
Mường gọi là cò ke, sáo trúc gọi là ôống sáo, hai nhạc cụ này là chủ công tham gia 
phần giai điệu chính khi hòa tấu nên người Mường gọi chung cho loại hình âm nhạc 
này là nhạc cò ke ống sáo. Sau nhị (cò ke), sáo trúc (ôống sáo) thì đàn tam là nhạc 
cụ cũng rất quan trọng, đây là nhạc cụ chơi tỉa tót lúc trầm lúc bổng. Tiếp theo là 
kiêu cảnh và trống con là bộ gỗ không thể thiếu được trong khi hòa tấu có vai trò giữ 
nhịp cho dàn nhạc. Đặc biệt nữa là cây xênh tiền, đây cũng là nhạc cụ có vai trò giữ 
nhịp cho dàn nhạc nhưng người nhạc công chơi xênh tiền lại được biểu diễn ngẫu 
hứng bằng các đông tác múa điêu luyện đẹp mắt gây không khí vui nhộn và sôi nổi  cho buổi hòa tấu nhạc.   
 Nhạc cò ke ống sáo của người Mường có từ đời hơ và không chỉ một vùng một 
mường nào mà ở đâu có người Mường sinh sống thì ở đó đều có các ban nhạc cò ke 
ống sáo. Nhạc cò ke ống sáo của người Mường có rất nhiều bài bản và được sử dụng 
trong rất nhiều hoàn cảnh khác nhau như: lễ hội, lễ cưới, ngày giỗ, ngày tết hay trong 
tang ma...nhưng được sử dụng nhiều nhất trong những lúc nhàn rỗi, đêm khuya, 
trong các cuộc vui cơm rượu hay lúc uống rượu cần. Số lượng bài nhạc cò ke ông 
sáo cũng rất phong phú và tương ứng với những bối cảnh khi chơi nhạc, tiêu biểu 
như các bài: Đi đường, Thượng thẳng, Long âm ngũ đối, Đón dâu, Đưa dâu, Đêm 
khuya, Da duối hay Cơm tẻ nước canh.....Khi tấu các bản nhạc cò ke ống sáo người 
nghe sẽ tìm thấy ở đó thiên nhiên và tâm hồn Mường thơ mộng, vui vẻ và khiêm  nhường biết bao.        lOMoARcPSD| 42676072
 Nhạc cò ke ống sáo của người Mường là âm nhạc dân gian cổ truyền, vì vậy các 
bản nhạc không có sự hòa âm phối khí của các nhạc sĩ chuyên nghiệp mà âm nhạc 
này tồn tại và được phát triển theo sự sáng tạo trong hòa tấu của các nghệ nhân chơi 
nhạc. Các nghệ nhân trong dàn nhạc thường không biết về lý thuyết nhạc lý nhưng 
họ đã đạt được tới trình độ hòa thanh cao. Tùy theo từng bài nhạc từng hoàn cảnh 
khác nhau mà người chơi nhạc cò ke ống sáo tấu nhanh hay chậm, vui hay buồn, âm 
thanh lúc nhẹ nhàng sâu lắng, lúc rộn ràng tươi vui mang đậm chất tâm hồn Mường. 
 Từ thời xa xưa người Mường đã sáng tạo ra nhạc cò ke ống sáo để thỏa mãn 
nhu cầu tinh thần của mình và cũng chính từ sự sáng tạo đó mà nhạc cò ke ống sáo 
là sản phẩm được chắt lọc từ những gì đẹp nhất tinh túy nhất của tâm hồn Mường. 
Hơn thế âm nhạc cò ke ống sáo cũng đã góp phần làm cho nền văn hóa Mường càng 
thêm đậm đà và nổi tiếng. 5.2.4. Dân ca Mường: khúc tình tự 
Có thể tạm phân dân ca Mường ra thành bốn loại chính như: Thể loại hát giao duyên; 
Thể loại hát ru; Thể loại hát Mo, Mỡi; Thể loại hát kể. 
Trong các thể loại dân ca của dân tộc Mường, nổi bật hơn cả là hát giao duyên. Trong 
thể loại này nổi bật nhất là điệu hát Rằng thường (Đang cặp). Thời xưa còn chế độ 
phong kiến, không ít người con trai Mường vì quá nghèo khó, không có tiền mua 
sắm lễ vật để mang cho nhà gái, vì thách lễ quá nhiều thứ... Vì vậy họ chỉ có hai con 
đường, một là chịu cuộc sống cô đơn chọn đời, hai là phải chịu khó học hát Rằng 
thường cho giỏi, muốn vậy, họ phải tự rèn luyện tính nhanh nhậy, hoạt bát, có được 
tri thức cần thiết, để mang những điều ấy, những tri thức ấy đi hát Rằng thường 
(Đang cặp) với các cô thiếu nữ. Rồi nhờ tài năng mà người con gái thấy quý, thấy 
mến và khâm phục, thương cảnh nghèo khó mà họ đem cả cuộc đời mình tình nguyện 
chia sẻ, cùng chung sướng khổ, vui buồn có nhau để cùng nhau chung sống một gia  đình ấm no hạnh phúc. 
Còn loại hát Thường hát Đang phổ biến, họ chỉ dùng hát giao lưu với nhau bình 
thường trong cuộc sống sinh hoạt và đây là loại hát thi nhau, thi tiếng, thi lời, chứ 
không phải như thể loại hát Rằng thường (Đang cặp) để tìm hiểu nhau giữa đôi nam 
nữ, (chưa vợ, chưa chồng). Thể loại này, người Mường họ gọi là “Đăng cặp”. 
Rằng thường (Thường đang) là một thể loại hát tự do, họ hát ngẫu hứng, hát trong 
lúc lao động, hát trong lúc nghỉ ngơi... Họ hát đối đáp nhau giữa một bên là một tốp 
nam, một bên là tốp nữ, giữa một tốp trai của làng này hát đối với tốp gái của làng 
kia, cứ như vậy họ hát đối đáp nhau cho hết đêm, có những cuộc hai bên hát đối 
nhau kéo dài hàng ba bốn đêm liền. 
Không gian diễn xướng của thể loại hát Rằng thường này là rất phong phú, họ có thể 
hẹn hò để hát với nhau ở bất kỳ một không gian nào, có thể là ngoài trời hay trong 
nhà, có thể lúc đang lao động sản xuất, trong ngày vui, mừng đám cưới, mừng nhà 
mới hay trong các ngày hội, ngày lễ, ngày tết…      lOMoARcPSD| 42676072
Điệu hát lời thương, đây là thể loại dân ca hát cặp tình yêu nam nữ, họ thi lời, thi 
tiếng và ca ngợi với hai nhánh: Rằng thường (lời thương) hay Thường rang (lời 
thường - lời đối đáp) và hát Bộ Mẹng (hát nói). 
5.2.5.Những khúc hát muôn đời 
Thể loại hát ru, đây là thể loại hát mà người Mường chỉ dùng để ru con, ru cháu, hát 
ru của người Mường có hai loại hát khác nhau. Có loại hát ru ban ngày, họ dùng 
bằng giai điệu khác. Loại hát ru ban đêm, họ dùng giai điệu khác, với các giọng ru 
“í í” của người Mường huyện Đà Bắc với giọng “da ới hơi” của người Mường huyện 
Kim Bôi, giọng “dơ hợi” của người Mường Lạc Sơn, “da hới” của người Mường 
vùng Đại Đồng, “ru hảy” của người Mường huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình... 
Loại hát Mỡi, loại hát này chỉ dùng trong tế lễ hay cúng bái, người Mường thường 
gọi thầy cúng này là bà Mỡi, đây là thể loại chỉ có phụ nữ mới sử dụng, bà Mỡi 
thường đi chữa bệnh, hay giải trừ ma, cúng bái ... cho dân bản. Hát Mỡi là loại hát 
có đóng vai nhân vật, có nhiều điệu. Loại hát này nghe rất mềm mại, đằm thắm, trữ 
tình có âm sắc trong sáng, thiết tha. 
Hát Mo, loại hát (khấn) trong tang lễ, phản ảnh thần thoại huyền tích lịch sử, phong 
tục tập quán, cõi sống, cõi chết của con người với các hình thức mo Vái, mo Đuông, 
mo Lễ, mo Ma chay... thể loại này dành cho đàn ông và người Mường thường gọi là 
thầy “Clượng”. Thầy Clượng, chuyên đi khấn, làm phép chữa trị cho dân trong xóm, 
trong Mường. Thầy Clượng khấn với những giai điệu gần giống với thể loại hát kể. 
Thể loại hát kể, loại hát này họ dùng bằng hát có giai điệu, nhịp điệu có lúc đều đều, 
có lúc to, lúc nhỏ, lúc trầm, lúc bổng, nội dung để kể về một câu chuyện dân gian 
dài của dân tộc Mường như chuyện “Vì Nga hai mối”... 
Hát Ví, đây là loại hát giao duyên, nghe rất trữ tình, giữa hai bên, họ hát mang tính 
chất tự do, phóng khoáng, nội dung và giai điệu ngẫu hứng, họ hát giữa một bên là 
tốp nam và một bên là tốp nữ, họ hát thi nhau, thi tiếng, thi lời, họ hát bằng những 
lời ví von, xa sôi, hỏi thăm nhau trong cuộc sống, gia đình làng xóm .v.v. 
Hát Chèo đình, đây là loại hát trong ngày hội, chỉ có ở xã Đình Cổi, Đình sàohuyện 
Lạc Sơn - tỉnh Hòa Bình. 
Hát chơi trẻ em (đồng dao) người Mường gọi là hát Đập Nàng khọt, đây là một thể 
loại gần giống với thể loại hát đồng giao của trẻ em dân tộc Kinh, thể loại này dùng 
cho lứa tuổi thanh thiếu niên, nhi đồng hát vui chơi, nhảy múa lúc ban đêm dưới ánh 
trăng. Với giai điệu vui nhộn, nhí nhảnh... 
Trừ hát chèo Đình ra, trong số các loại hát ở trên, tất cả các vùng mường từ xa xôi 
hẻo lánh, ở các triền thung lũng cao, không ở đâu không có, nhưng nổi bật hơn cả là 
Hát lời thương “Rằng thường, Thường đang” đây là loại hát lúc có đôi, họ hát đối      lOMoARcPSD| 42676072
đáp nhau giữa một bên là một nữ, một bên là một nam, hay một bên là tốp nam, một 
bên là tốp nữ, cứ như vậy họ hát đối đáp nhau cho hết đêm. Từ đầu họ hát, họ thường 
dùng những ý tứ ví von, xa xăm để thăm dò nhau và thường là nam hát trước, sau đó 
họ làm quen dần dần, đêm trước họ chưa làm quen được, chưa hiểu được hết lòng 
nhau họ hẹn gặp lại đêm sau và cứ như vậy… 
Với những nét độc đáo, những cái tinh túy, nết na, thụy mỵ, uyển chuyển, duyên 
dáng, những cái hay cái đẹp trong âm nhạc Mường, chúng ta cần có biện pháp để 
bảo tồn âm nhạc Mường, để âm nhạc Mường sống mãi không những với cộng đồng 
người Mường, mà âm nhạc Mường còn được lưu truyền trong nền âm nhạc dân gian  nước nhà. 
Câu 4: Thành tố Ngữ văn dân gian của các dân tộc tỉnh Hòa Bình 
Phần I: Thần thoại 
Đáng chú ý nhất trong thể loại thần thoại phải kể đến thần thoại của người Mường. 
Thần thoại Mường nổi bật và bao quát nhất là ở trong Mo Mường- một hệ thống các 
tác phẩm "tang ca" tiễn đưa người chết, song lại chứa đựng cả một kho tàng trí tuệ, 
kiến thức cũng như tư tưởng của người Mường. Đây là một "thiên tình sử bi thảm 
nhất của văn học truyền khẩu Mường. Nó thuyết phục, giải thích, hướng dẫn hồn 
người chết, thậm chí cả giải trí nữa. Thái độ nương nhẹ đó đối xử với ma (người 
chết)- một thực thể mà người ta mến thương tuy sợ hãi- cách đối xử với ma như với 
người còn sống, sự săn sóc chu đáo của người sống đối với người chết, tất cả những 
biểu hiện tâm lý ấy vượt lên các hình thức méo mó của pháp luật, hé cho ta thoáng 
thấy một khía cạnh sâu kín của tâm hồn Mường, mối cộng cảm gắn bó với nhau, một 
thành viên của cộng đồng, thể hiện tình cảm thiết tha giữa người với người, và bên 
trên cái chết, duyên nợ khăng khít giữa các thế hệ nối tiếp nhau trên mặt đất" 
(Nguyễn Từ Chi trong cuốn Góp phần nghiên cứu văn hoá và tộc người). 
Mo Mường trước hết là một sinh hoạt văn hoá cộng đồng của người Mường để đoàn 
kết người sống trước sự ra đi của một thành viên trong cộng đồng. Đây là dịp những 
người sống, với sự có mặt của tất cả mọi thế hệ, cũng tập hợp nhau lại để chia tay 
vĩnh viễn người chết. Sự tập hợp của cộng đồng trong giờ phút thiêng liêng này như 
một sợi dây tình cảm gắn bó chặt chẽ họ với nhau. Bằng những đêm mo, người ta 
nhắc nhở lại lịch sử nguồn gốc của người Mường, truyền dạy cho nhau những kinh 
nghiệm, những tri thức của cuộc sống, những phong tục tập quán. Họ truyền dạy 
bằng thực tế những công việc khi có người chết, cách tổ chức đám tang, cách ăn mặc 
trang phục, cách làm lễ vật dâng cũng cho hồn và những thái độ ứng xử tinh thần,      lOMoARcPSD| 42676072
sắp xếp thứ bậc trong lúc có đám… Từ đó, người đã được biết rồi thì khẳng định, 
ghi nhớ thêm điều mình đã biết; kẻ chưa biết thì qua đó mà biết, nghe đó mà nhớ. 
Cứ như vậy, năm này qua năm khác, thế hệ này đến thế hệ kia, những tri thức, kinh 
nghiệm, phong tục của dân tộc được lưu truyền, khẳng định và ghi nhớ vào tâm trí  mỗi người. 
Qua Mo Mường cả thế giới người Mường được thể hiện trong đó. Những bài mo răn 
dạy con người ứng xử với thế giới đó như thế nào. Điều thú vị hơn nữa là cả một 
kho tàng trí tuệ ấy được thể hiện dưới dạng nghệ thuật ngôn từ và nghệ thuật biểu 
diễn. Do đó, nó không chỉ có tác dụng giáo dục mà còn đáp ứng một nhu cầu sinh 
hoạt văn hoá đối với người tham dự. Những đêm mo không chỉ dừng lại ở một cuộc 
sinh hoạt cộng đồng với những triết lý khô khan, mà nó trở thành những sinh hoạt 
nghệ thuật, vì thế tác dụng truyền cảm của nó còn cao hơn rất nhiều bởi sự giáo dục 
được thông qua những nghi lễ mang màu sắc nghệ thuật. 
Mo Mường nhắc nhở người chết rằng họ đã trải qua một chu trình của cuộc sống, an 
ủi người chết hãy yên tâm mà ra đi, đồng thời chỉ cho người sống hãy nhớ cội nguồn 
của mình và biết mình đang ở đâu để mà tiếp tục sống. Mặt khác, những đêm mo 
cũng là khi người sống vỗ về người chết hãy an tâm ra đi, hãy giúp đỡ người sống 
được yên lành và tốt hơn, đừng quấy rầy họ, đừng làm khó cho họ… Để bù đắp lại, 
người sống sẽ sống tốt hơn, sẽ luôn luôn nhớ đến người chết với lòng biết ơn sâu sắc 
và sẽ không bỏ một cơ hội nào để bày tỏ sự biết ơn đó. 
Bên cạnh tính chất nhân văn ấy, Mo Mường còn phản ánh một hệ thống thần thoại 
của người Mường hết sức phong phú. Đó là các truyện kể về nguồn gốc của trời, của 
đất, của muôn loài, nguồn gốc của con người cũng những hiện tượng sinh hoạt văn  hoá của họ. 
Vũ trụ của người Mường trong Đẻ đất đẻ nước ra đời sau khi trời và đất tách khỏi 
nhau. Vũ trụ này được Bua Kloi (Vua trời) là vị thần tối thượng cai quản. Cũng theo 
thần thoại Mường thì con người sinh ra đầu tiên là Ta Cai (Tá Cài), Ta Can (Tá Cần) 
là hai anh em trai và Ya Kit (Dạ Kịt) là em gái út. Người anh cả là Tá Cài đã tiến 
hành mọi việc để làm nên cuộc sống của con người như bây giờ, song ông bị thất 
bại. Chỉ đến người em mới thành công được những công việc của anh mình và sau 
đó kết hợp với em gái mình để thành tổ tiên đầu tiên của loài người. 
Thần thoại của Mường cũng xây dựng vũ trụ riêng cho họ là Mường Trời, Mường 
Người, Mường Pưa Tín, Mường Vua Khú, mỗi mường đều có tổ chức chặt chẽ, trên 
dưới rõ ràng theo quan niệm của họ.      lOMoARcPSD| 42676072
Mọi vật được tập dượt bước đầu, được Tá Cần (có chỗ viết là Đá Cầm) làm và dạy  cho mọi người: 
Đá Cầm chọn ngày lành tháng tốt 
Đá Cầm từ dốc vàng hang trứng  Điếng  Ra làm con kẻ song 
Dậy bước chân đi trước 
Ra làm leng kẻ Mường 
Nàng Dạ Kịt dậy cất bước theo sau. 
Ra nuôi Mường chiếm dân 
Ngoài tự mình làm thử, rồi hướng dẫn ngýời khác, Tá Cần, Dạ Kịt và các vị thần 
khác còn làm ra nhiều thứ khác như cuộc sống hôm nay. Tất cả những việc đó được 
thần thoại Mường kể đến qua các phần của Đẻ đất đẻ nước: 
Con trai Mường Trời đi đánh chài 
Khung Mường Trời mới cao mới  đánh lưới  thoáng 
Còn gặp nhau với gái Mường Trần đi 
Khoảng Mường Bưa, Mường Trần  hái lá dâu  mới rộng, mới xa 
Có Dạ Nhần mới có Theng Rẻ 
Từ xưa đến nay người ta truyền miệng 
Đẻ Dạ Nhần mới đẻ Theng Rông 
chuyện ấy Ông mo Mường kể vậy 
Theng Rẻ có giỏ néo đồng 
Cho người được biết được hay 
Theng Rông có giỏ néo sắt 
Sáng sớm trưa mai về ngày 
Mới vắt được mặt trời lên cao  Người nhớ lấy 
Thần thoại của người Thái chứa đựng trong pho sử thi Ẳm Ệt ở Mai Châu. Trong 
đó, Ẳm Ệt Luông kể về chuyện sinh ra những cái lớn: vũ trụ, trời đất, còn Ẳm Ệt 
Nọi kể về việc sinh ra cái nhỏ: lúa. 
Thần thoại về vũ trụ của người Thái bắt đầu từ hỗn mang tăm tối, rồi Tạo Ính và 
nàng On có trước trời và đất ăn nằm với nhau đẻ ra mây gió. Tạo Ính chõi với nàng 
gió sinh ra mảnh đất bằng lá đa, mảnh trời bằng vẩy ốc. Mọi vật lần lượt được sinh 
ra, được hình thành trải qua những cuộc sinh nở thần kỳ... Nạn hồng thuỷ xảy ra do 
sự giận dữ của Then làm cho mọi vật bị tiêu huỷ. Chỉ có Tạo Cặp, nàng Kè kịp chạy 
vào hang đá mà thoát chết và cũng sau bao gian nan, vất vả và thử thách đôi trai, gái 
ấy mới trở về được Mường Trần mà tạo nên sự sống cho muôn loài trên mặt đất. 
Cuộc sống ở trần gian bắt đầu với bao nhiêu cuộc đấu tranh vật lộn để xây dựng xã      lOMoARcPSD| 42676072
hội các mường, các dân tộc như bây giờ. Lời kể của mo trong cộng đồng say sưa, có 
đầu có cuối để người ta nhờ rồi lại truyền lại cho đời sau:  Ngày xửa ngày xưa 
Ăn nằm với nhau mới sinh thành mây  gió  Ngày xưa thời lâu 
Tạo Ính ra chơi nàng Gió 
Cái gì có trước trời 
Ăn ở với nhau như cơm bữa 
Cái gì có trước đất 
Ăn nằm với nhau như cơm sáng cơm 
Tạo Ính, nàng On có trước trời chiều 
Tạo Ính, nàng On có trước đất 
Nàng Gió mới sinh ra 
Ăn ở với nhau mới sính ra trời 
Mảnh đất bằng lá đa 
Đất Mường Bằng cho bay xuống xếp  sắp 
Mảnh trời bằng "vảy ốc" 
"Chuồng" Mường Dưới cho bay 
Khe núi mới bằng chân gà xuống cai quản 
Then bảo đất Mường Bằng 
Có cây Then cho có lá  Không ai xếp sắp 
Thành người cho cái đầu biết nghĩ 
Đất Mường Dưới không ai cai quản 
Họ đi chặt cây về làm chày  Then sai bả 
Giã đất cho đất tụt xuống 
Tạo Cặp và nàng Kè 
Chọc trời cho trời cao lên. 
Qua hai bộ sử thi khá đồ sộ của người Mường và người Thái, có thể thấy rằng, thần 
thoại của các dân tộc này được xây dựng thành một hệ thống khá chặt chẽ. Ngoài 
việc giải thích sự hình thành vũ trụ và muôn loài đang tồn tại và sinh sôi nảy nở trên 
trái đất, thần thoại của người Mường, người Thái còn cho thấy một đời sống tinh 
thần phong phú, một lối tý duy nguyên thuỷ vừa hồn nhiên vừa hàm súc khi giải 
thích quan niệm về thế giới quanh mình.      lOMoARcPSD| 42676072
Phần II: Truyền thuyết - Bộ sử thi của bản mường 
Lọc từ bộ sử thi của người Mường và người Thái cũng có thể thấy được nhiều truyền 
thuyết của các dân tộc sống ở Hoà Bình. Người Mường, người Thái cũng như các 
dân tộc khác đều có những truyền thuyết gắn với các địa danh, những nhân vật, tín 
ngưỡng, phong tục... Vì gắn chặt với đời sống cũng như nơi cư trú của các dân tộc 
bản địa nên truyền thuyết thể hiện rất rõ tính bản địa. Nó bắt nguồn từ những hiện 
tượng, sự vật cụ thể, được con người sáng tạo ra phù hợp với lối tư duy, quan niệm  của họ. 
Truyền thuyết Mường rất phong phú, bám sát những sự kiện lịch sử của xã hội 
Mường từ thời đại nguyên thuỷ đến thời đại có giai cấp, từ những sinh hoạt: dựng 
nhà, đúc trống, tìm lửa, lấy nước, đến những thành tựu khai mỏ, luyện kim, từ những 
cuộc đàn áp và đấu tranh giai cấp, đến sự thịnh suy, ma chay, cũng giỗ và ăn chơi  của từng dòng lang... 
Sự phong phú của các truyền thuyết ấy trước hết phải kể đến những truyền thuyết 
liên quan đến các nhân vật lịch sử. Đó là chuyện Lê Lợi đi đánh giặc ở Mường Lễ 
qua thác Bờ hiểm trở được nhân dân giúp đỡ hết sức tận tình, nhất là hai bà người 
Mường và người Dao ở đây. Sau thắng lợi, nhà vua đã không quên công lao của dân, 
cho lập bia ghi chép sự việc. Khi hai bà chết, vua đã truy phong công trạng, lập đền 
thờ. Đó là truyền thuyết liên quan đến vua Lê Trang Tôn ở đền và miếu Trung Báo. 
Khi đi đánh giặc ở phía Nam, nhà vua qua đây, dừng chân nghỉ và dâng lễ ở miếu 
Beo cầu thần phù hộ. Đột nhiên chiếc lọng vàng của vua được gió cuốn lên cao rồi 
lại rơi xuống chỗ cũ, đó là điều ứng nghiệm sự thỉnh cầu của vua. Vì thế, khi thắng 
lợi trở về, nhà vua đã thăng tước hiệu cho thần Tản Viên được thờ ở đây và sau này 
mãi được dân tôn thờ. Hay, truyền thuyết về thành hoàng Đô Khúc Đại Vương ở 
xóm Xàm, xã Phú Lai, Yên Thuỷ, một nhân vật người địa phương đã có công với 
triều đình được vua gả con gái cho và sau này trở thành vị thần bảo trợ cho dân làng. 
Tiếp sau hệ thống truyền thuyết về các danh nhân phải kể đến những truyền thuyết 
liên quan đến các vị thần núi, thần sông suối, hang động, các tên núi, sông… Số 
lượng nhiều nhất ở nhóm này phải kể đến các truyền thuyết liên quan đến Tản Viên 
sơn thần. Ở Hoà Bình, thần Tản Viên có mặt ở khắp nơi trong khu vực của người 
Mường và có vai trò như một vị vua chủ. Thánh Tản ở đây phổ biến là một bộ ba 
gồm: Tản Viên và hai vị thần núi khác cùng được thờ với ngài là: Cao Sơn Đại 
Vương Thượng đẳng thần và Quý Minh Đại Vương Thượng đẳng thần. 
Ngoài thần núi là thần đá với các truyền thuyết về Bụt mọc như trường hợp ở lễ hội 
đu tre thờ vị thần đá là hòn đá có hình người mà người ta cho đó là hình Bụt. Hiện 
tượng này có rải rác ở nhiều nơi trong tỉnh. Tương tự như vậy, trường hợp hai hòn      lOMoARcPSD| 42676072
đá to trên đồng Khậm Mụ ở xã Bình Chân, Lạc Sơn, tương truyền là do hai con voi  biến thành… 
Bên cạnh những truyền thuyết của người Mường và người Thái, truyền thuyết của 
các dân tộc Dao, Mông, Tày tuy chưa được sưu tầm và phổ biến rộng rãi, song ở 
mỗi dân tộc ấy cũng có những sáng tạo riêng của họ. Những truyền thuyết này liên 
quan đến những vị trí địa lý, các nhân vật lịch sử hay những danh nhân đã có công 
gắn bó với mảnh đất mà các dân tộc đang sinh sống, những vị thần ngày ngày che 
chở cho cuộc sống của họ. Mỗi dân tộc có một quan niệm khác nhau để xây dựng 
nên những hình ảnh về các vị thần riêng của mình. 
Phần III: Giá trị văn hóa dân gian qua truyện cổ 
Kho tàng truyện cổ của người Mường khá phong phú, được bà con kể cho nhau nghe, 
đời này truyền lại cho đời kia. Người Mường có những truyện liên quan đến những 
địa điểm cụ thể, nhân vật hay hiện tượng riêng của từng địa phương, mỗi vùng một 
vẻ. Cũng có những truyện mà tất cả những người Mường, vùng Mường đều biết. Có 
những truyện dài có nhiều tình tiết và được sắp xếp rất chặt chẽ, song cũng có những 
truyện ngắn kể về một sự tích nào đó mà thôi. 
Ở truyện cổ, mảng truyện về sự tích là rất phong phú. Đó là sự tích liên quan đến 
các công trình kiến trúc như: Sự tích nhà sàn; nói về nguồn các cảnh quan thiên 
nhiên như Sự tích thác Bờ, sự tích núi Bưa Phi, sự tích ba hòn nục, sự tích đá mỡ ở 
Sông Đà…; nói về sự hình thành các vùng Mường như sự tích Mường Bi; một vùng 
đất như Sự tích đất Do Nhân hoặc nói về sự hình thành thung lũng như Sự tích thung 
Giác… Bằng những câu chuyện này, người Mường giải thích những hiện tượng tự 
nhiên, sự xuất hiện của những sự vật gần gữi với họ hàng ngày. Chẳng hạn như việc 
làm nhà sàn, giống như con rùa là do sự giúp đỡ của rùa làm nhà bồn cột như bốn 
chân con rùa, mái nhà như mai rùa chia thành các “chốn ăn ngăn ở” vừa tránh được 
thú dữ, vừa tránh được gió bão, mưa dông qua việc kể lại những thất bại lần này đến 
lần khác phải rút kinh nghiệm mà làm lại, truyện cổ cho thấy sự phát triển tư duy 
nhận thức của người xưa giống như quá trình phát triển của lịch sử vậy. Tất cả các 
chuyện liên quan đến các sự tích thiên nhiên đều phản ánh một quá trình chinh phục 
môi trường xung quanh đầy gian khổ của người Mường ở vùng núi hiểm trở. 
Tương tự như vậy là những truyện cổ về sự tích các loài vật nói về sự xuất hiện của 
chúng và những nét riêng biệt mà tạo hoá sinh ra chúng. Đó là các truyện Vì sao ve 
sầu không có ruột, Tại sao tê tê không có răng, Sự tích con thạch sùng… Trước 
những hiện tượng thiên nhiên khó hiểu, do trình độ tư duy còn chưa cao, người      lOMoARcPSD| 42676072
Mường có cách giải thích riêng của mình. Đồng thời, những truyện cổ ấy cũng phản 
ánh sự quan sát tinh tế của người Mường đối với thiên nhiên xung quanh. Thiên 
nhiên đối với họ vừa hãi hùng vừa bí hiểm, song cũng thật thân thuộc, gần gũi. Chỉ 
khi con người có thái độ xấu, ác ý, phá huỷ thiên nhiên thì mới bị trừng phạt, còn 
nếu con người có sự ân cần, có tình yêu tha thiết với thiên nhiên thì sẽ được thiên 
nhiên đền đáp một cách thoả đáng. 
Truyện cổ tích thế sự có lẽ là thể loại phong phú nhất, liên quan đến đời sống hàng 
ngày của con người, như tình cảm gia đình, tình vợ chồng, con cái, tình yêu nam 
nữ… Những câu chuyện mộc mạc, chân thật mà chứa chan tình cảm. Bên cạnh 
những ước vọng về tình yêu, lý tưởng, tình cảm gia đình, những truyện cổ tích của 
người Mường còn đặt ra nhiều vấn đề khác của cuộc sống như việc phê phán, răn 
dạy những kẻ lười biếng (Chàng lười), những thói ích kỷ tham lam, sống không có 
tình nghĩa (Cười ra vàng), phê phán những lối sống phi nhân tính. Tựu trung, truyện 
cổ tích thể hiện nỗi khát khao về một sự hoàn thiện cả về vật chất lẫn tinh thần- một 
ước vọng ngàn đời của con người trên trái đất này. 
Trong mảng truyện cổ tích thế sự, những truyện liên quan đến quan hệ giữa lang và 
dân chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng. Do điều kiện địa lý và xã hội, đất Mường 
xưa được chia thành nhiều khu vực cai trị khác nhau của nhà lang. Mỗi một lãnh địa 
có một vị quan lang đứng đầu được gọi là thổ lang. Các dòng họ lang này thay phiên 
nhau, cha truyền con nối mà cai quản đất Mường. Chế độ lang đạo kéo dài cho đến 
đầu thế kỷ XX. Một người Việt khi thăm đất Mường đã nhận xét: “Ở đất Mường, lạ 
nhất và có khi cổ nhất, đặc biệt nhất mà cũng áp chế nhất, là cái sự người Mường 
phân chia tách bạch ra làm hai hạng: một hạng đem quá lên trời xanh gọi là lang, 
một hạng dìm hản xuống vực sâu tức là dân”. Lang thì được mọi quyền ưu đãi, sung 
sướng, nhàn hạ đời nối đời. Nhà lang giàu có, sung túc còn dân thì nghèo đói và luôn 
luôn là nô lệ, là con nợ của lang. Mọi việc ăn chơi, tiêu xài của lang đều đổ lên đầu 
dân như câu nói cửa miệng của vùng người Mường: “Lang đi chợ để nợ cho dân”. 
“Dân là chân tay sai khiến của lang, dân là đất ruộng bù đắp cho lang đủ ăn sung 
mặc sướng, dân là kho tiền cung cấp cho lang đủ chi tiêu mọi khoản. Dân phải đóng 
thuế, dân phải đi phu, dân phải làm đường, dân phải khiêng vác” (Nguyễn Văn Ngọc 
trong cuốn Người Mường) 
Chính vì thế, dưới sự áp bức của lang, người dân luôn luôn có một khát vọng tự do, 
vươn tới. Khi cuộc đấu tranh bằng sức mạnh chưa thực hiện được thì vũ khí đấu 
tranh của họ là những câu chuyện được lưu truyền trong dân gian. Trong những 
truyện kể ấy, hình ảnh nhà lang được vẽ ra là một kẻ tham lam, ích kỷ và tàn ác,      lOMoARcPSD| 42676072
luôn tìm cách bóc lột, chèn ép dân lành. Những tên quan lang ấy vừa thiếu nhân tính 
lại vừa đần độn, đần độn đến nực cười. 
Như vậy những câu chuyện kể này được người Mường sử dụng như một vũ khí 
chống áp bức bóc lột mình. Khi chưa có điều kiện vùng lên bằng sức mạnh vật chất 
thì họ gửi gắm vào những câu chuyện ấy sự căm ghét, lòng khát khao tự do, bình 
đẳng, khát khao về một xã hội công bằng hơn, nhân tính hơn. Cũng qua những truyện 
cổ này, có thể thấy trí tuệ dân gian của người Mường thật thông minh, sâu sắc lại 
không kém phần hóm hỉnh, hài hước. Điều này càng khẳng định đời sống tinh thần 
phong phú của người Mường. 
Bên cạnh các mảng đề tài lờn kể trên, truyện cổ Mường còn đề cập đến nhiều vấn 
đề khác nữa, từ việc răn dạy lối đối nhân xử thế của con người, nêu cao đạo đức xã 
hội… cho đến việc phê phán những thới hư, tật xấu trong cuộc sống sinh hoạt hàng 
ngày của con người. Nó thực sự là một bộ phận đáng kể trong kho tàng truyện cổ 
của các dân tộc Việt Nam. 
Tương tự như người Mường, các dân tộc anh em khác ở Hoà Bình như người Thái, 
Mông, Dao, Tày cũng có những hệ thống truyện cổ tương tự, tuy mức độ phong phú 
có khác nhau. Nếu như người Mường có những truyện cổ thế sự phê phán lang 
Mường thì người Thái có các truyện cổ lên án các phìa tạo. Về cơ bản, nội dung đề 
tài truyện cổ của các dân tộc đều có những nét giống nhau, cùng phản ánh một thực 
trạng xã hội ở vùng đất này. Cái khác nhau ở các truyện cổ thể hiện ở phong tục, tập 
quán, tư duy, quan niệm của mỗi dân tộc do điều kiện địa lý và xã hội của họ quyết 
định. Sự phong phú, đa dạng của từng mảng nội dung của hệ thống truyện cổ của 
các dân tộc cũng có sự khác nhau. Sự phong phú ấy phụ thuộc vào số lượng dân số 
của mỗi dân tộc sống trên mảnh đất Hoà Bình. Vì vậy, có thể ở mảng nội dung này, 
truyện cổ của dân tộc này trội hơn truyện cổ của dân tộc khác, nhưng ở mảng nội 
dung khác lại có phần ít nổi trội hơn dân tộc kia. Người Mường là dân tộc sống chủ 
yếu ở Hoà Bình, còn các dân tộc khác chỉ chiếm một bộ phận không lớn. Điều đó 
giải thích vì sao có sự khác nhau về số lượng truyện cổ của các dân tộc. 
Với truyện ngụ ngôn, người Mường có những truyện khá đặc sắc như: Hổ, kẻ trộm 
và rùa, Cuội và hổ… Dù ít hay nhiều, ở mức độ cao hay thấp, mỗi dân tộc đều có 
những thể loại truyện phù hợp với đời sống tinh thần và xã hội của họ. 
IV. Những sáng tác văn vần dân gian  Ca dao, tục ngữ      lOMoARcPSD| 42676072
 Ca dao, tục ngữ của người Mưòng khá phong phú, trước hết là những câu nói về 
các địa danh, vùng đất và đặc sản nổi tiếng của xứ mường như:  - 
Nhất Bi, nhì Vang, tam Thàng, - Măng cuốc núi Chù tứ Động. 
Ăn ngoan hơn thịt trâu xóm Bả  - 
Cơm đồ, nhà gác, nước vác,lợn thui, ngày lui, tháng tới.  - 
Rau tớn mường Kha, 
Ăn ngon hơn cá pạng sông Bờ 
Ăn ngon hơn thị gà xóm Mận. 
- Rau đắng Bưa Cà,  - 
Rau mẹ mường Khang 
Ngon hơn thịt gà Bái Thiện. 
 Hoặc những câu nói về kinh nghiệm sản xuất, tri thức dân gian của người mường  như:  - 
Sấm Mường Lạ, để dạ mà ăn. 
May kéo xuống chẳng có ruộng mà 
- Mây kéo ngược chẳng có nước mà  uống, 
Người Thái có những câu ca dao, tục ngữ về kinh nghiệm sản xuất  như:  - 
Sấm Mường Ngay, quăng  cấy.  bừacày lên gác.  - 
Ruộng có phân như đụm  - 
Sấm Mường Khời, vẫy tay  cólúa.  đàocủ mài.  - 
Cấy sớm hơn bừa trưa.  - 
Sấm đầu năm trên đầu sông 
Làm ruộng đợi mạ thì không tốt -  đàsửa gác, 
Chuối đã trồng không nên nhổ Dâu  - 
Sấm đầu năm trên nguồn 
đã trồng không nên bới.
sôngMã sửa thuổng.     - 
Rét vừa tốt mạ, Rét quá tốt  - 
Nắng tháng 6 được lúa  rau. 
 Nắng tháng 9 mất mùa  - 
Nương rợp mắt không  - 
Làm nhà đợi danh thì 
bằngruộng một thửa.  khôngtốt,      lOMoARcPSD| 42676072 - 
Ngắm mây thì mất, ngắm đất  - 
Phép quan không bằng  còn. 
 Ca dao, tục ngữ của các dân tộc ở Hoà Bình có những câu nói về ứng xử xã hội và 
sinh hoạt cộng đồng. Chẳng hạn như ở người Mường: 
thì- Nòi nhà lang là dòng  tuầnrượu 
máu chó Nòi kẻ khó là máu  - 
Rượu ai người ấy uống,  khú máu rồng. 
Vóngai người ấy ngồi -  - 
Gần lang mất gàXa làng sợ kẻ 
Quan tài nằm ngang họ lang  chợ. 
Quan tài nằm dọc họ dân.  - 
Lang đi chợ để nợ cho dân  - 
Hiểu con trai xem bờ ruộng  - 
Lang đến nhà như ma đến cửa 
Xét đàn bà nhìn gấu váy  - 
Con lang thì lại làm lang  - 
Dao sắc gãy chuôi. Ngườingay  dễ chết. 
Con nhà tầm thàng thì vẫn là dân  - 
Ngủ trưa quen mắt, mắng  - 
Một người đàn ông không  vặtquen mồm.  dựngnổi nhà 
 Một người đàn bà không cắt nổi  gianh.  Ở người Thái thì:  - 
Thóc không phơi nắng sao  khôvở  
Người không đi đây đó sao khôn.  - 
Ruộng hoang quý trâu đực 
Mường có giặc quý người gan dạ  - 
Gáy của ai, người ấy không  -  tựthấy 
Ruộng nhiều nương thì tốt Bản nhiều 
Ngày chết, không ai tự đoán được. 
tạo thì khổ. - Nghe lời hay chớ  - 
Chưa gặp giặc chớ khoe 
vội phi ngựa Nghe lời dở chớ vội  giỏivõ 
thắt cổ. - Hỏi đường hỏi người 
Chưa qua sông chớ vội khoe giỏi bơi. 
già Xin cơm xin gái trẻ.  - 
Người khôn lo tính về 
dàiNgười dại lo tính lùi sau.      lOMoARcPSD| 42676072 - 
Càng ăn cơm càng thấy rét  - 
Cây trong rừng không 
Nhiều người, nhiều ý khác nhau. 
Ca dao, tục ngữ của người dân tộc ở Hoà Bình còn có các câu nói về ứng xử gia 
Càng muốn làm đẹp càng tháy méo  bằngngọn  mó.  - 
Bản nào, bản không có gàvàng  - 
Lên núi này thấy thấp 
Mường nào, mường không có người 
Nhìn núi nọ thấy cao  giỏi. 
đình, quan hệ nam nữ. Chẳng hạn như:  - 
Được con dâu, sâu mặt mẹ 
chồng.- Bé con cha, lớn con  Ở người Mường:  chú, con ông.  - 
Uốn cây uốn khi còn non  - 
Em trai chồng với chị dâu 
nhưtrầu với lá mướp
Uốn con uốn khi còn nhỏ     - 
Em chồng với chị dâu như  - 
Trai bỏ vợ không mất một  đồng 
măngmu rau tróc. - Yêu 
Gái chê chồng mất một thành hai
nhau đắp vó cũng ấm,   
 Chẳng yêu nhau chăn bông đệm  - 
Đám cưới có đôi  ấm chẳng nên. 
 Cột nóc phải lẻ  - 
Ngọt như dấm mẻ.  - 
Diện như nàng dâu đi quạt 
Lành như con kẻ (con chồng) mẹ ý  - 
Đánh con người, con người  (mẹ ghẻ).  chạy rabúi bái  - 
Trăm thứ hoa không bằng 
Đánh con mình, con mình chạy lại  hoacon cái (gái).  lòng.  - 
Trăm thứ trái không bằng  - 
Anh em nơi xa không bằng ba 
tráihồng cơm (lúa gạo).  nhàbúng rộc.  - 
Không lấy được em, 
Không phải chê em xấu, em  nghèo,      lOMoARcPSD| 42676072
Mà tại tiền cheo trâu cưới  Truyện thơ  Ở người Thái thì: 
-Của do mình làm ra tựa nước mạch 
Của cha mẹ để lại tựa như của trôi 
Ở Hoà Bình, truyền thống thơ ca của người Mường, người Thái là nổi bật nhất. Điều 
này thể hiện rõ nhất ở những áng sử thi dài hàng ngàn câu. Chủ đề chính ở các tác 
phẩm truyện thơ là tình yêu nam nữ với những mối tình say đắm của những đôi trai, 
gái do hoàn cảnh mà trở thành những bi kịch của cuộc đời. Chính nỗi đau thương, 
day dứt của sự tan vỡ, mất mát, thất vọng về tình cảm ấy lại trở thành nguồn cảm 
hứng cho các nghệ sỹ dân gian sáng tác ra những truyện thơ nổi tiếng như Nàng 
Nga- Hai Mối, Út Lót- Hồ Liêu, Vườn hoa núi cối… Tất cả những truyện thơ này 
đều là chuyện về tình yêu nam nữ với chủ đề lên án chế độ hôn nhân cưỡng ép của 
chế độ gia đình phụ quyền rất rõ rệt… Các truyện đều có cái kết dữ dội bằng những 
cái chết đau xót của các nhân vật chính và phụ. 
Tuy chủ đề tình yêu là cối lõi của tất cả các truyện, song trên cái nền ấy là cả một 
bức tranh sinh hoạt văn hoá vô cùng đa dạng và phong phú của chủ nhân sinh ra nó. 
Chỉ cần điểm qua vài nét chính trong truyện Nàng Nga- Hai Mốt ta sẽ thấy rất rõ 
điều ấy. Đây là quang cảnh ngày mở chợ:  Ngày mở chợ 
Hết làng trên xóm dưới 
Ba hồi trống đánh  Con trai đầy sân,   
-Đi nương nhớ mang theo chó,  sông. 
Đi ruộng, chớ mang theo con nhỏ 
-Chồng làm nên ông, nên quan  - 
Anh em cãi nhau ba ngày 
Bởi vợ khôn ngoan, hiền lành.  không mất 
-Chồng tốt như lạt buộc nhiều vòng 
Vợ chồng cãi nhau một buổi thành 
Chồng hư như tổ ong buộc cổ người dưng.    
-Chiều chồng không dệt được vải 
-Bố mẹ khuyên chưa bằng thầy bảo, 
Chiều con không có ăn
Thầy bảo chưa bằng tự mình suy.       - 
Anh em đến nhà chớ đánh chó 
Chú bác đến nhà chớ mắng con.      lOMoARcPSD| 42676072
Con gái đến đầy cửa đầy nhà 
Dưới sông thả cạm, thả bẫy. 
Cơm trong mồm chưa kịp nhá 
Cuộc kiếm tìm người yêu không ngại 
Cá trong mồm chưa kịp nuốt 
ngần gian khổ: Chàng lại ra đi 
Trầu trong khăn chưa kịp lấy, 
Hết rừng trúc qua rừng mai 
Chín mươi làng trên 
Tìm đến chùa Thái Thúc xin Bụt phù  hộ 
Đều mang bương gianh ra mở chợ. 
Rồi chàng lại ra đi bốn đêm trắng 
Nếu sai hẹn ước Sẽ chết nơi  Bảy ngày liền 
sông Chu bến Động. 
Chẳng thấy đâu là làng là xóm  Nhưng: 
Chỉ thấy ngàn cây bát ngát xanh  Mẹ nàng tham bạc  xanh. 
Chú bác họ hàng đã tham ăn tham 
Hỡi hồn anh ở dưới đất thì lên  uống 
Hỡi hồn anh ở trên trời thì xuống 
Đã gả nàng cho ông vua Ai Ước. 
Hỡi hồn anh ở sông Chu bến Động thì  vào. 
Quang cảnh đánh giặc của chàng Hai 
Sống ta không nên cửa nên nhà  Mối: 
Đợi em chết xuống làm nhà bên ma. 
Giặc bên Bắc đang muốn tiến vào 
Khấn xong, nàng cởi chiếc áo đang 
Giặc bên Lào, bên Ngô đang thì tiến  mặc  xuống 
Cầm cái gương, cái lược đang cài 
Ta phải cất công sang sông Chu, bến  Động 
Là vật kỷ niệm ngày trước 
Trên bờ cắm chông 
Lao đầu xuống sông Chu, bến Động 
Để về cùng chàng Hai Mốt. 
Rõ ràng, truyện thơ không chỉ kể về các mối tình tuyệt vọng của các đôi trai gái, mà 
đã được nâng lên thành những vấn đề xã hội, thể hiện khát vọng hôn nhân tự do, 
khát vọng đôi lứa, vượt ra khỏi những ràng buộc khắt khe của gia đình, của phong      lOMoARcPSD| 42676072
tục, tín ngưỡng, tôn giáo… Truyện thơ của người Mường được lưu truyền từ thế hệ 
này qua thế hệ khác, trở thành những áng văn bất hủ. 
Ở người Thái, những tác phẩm nổi tiếng như Xống chụ xôn xao hay Khum LúNàng 
Ủa được phổ biến ở hầu hết các vùng Thái. Đó là những truyện thơ dài mang đậm 
chất dân ca Thái, hàm chứa những tâm tư, tình cảm, nỗi lòng thầm kín của tình yêu 
đôi lứa, đồng thời cũng bày tỏ những khắc khoải của sự mất mát, chia lìa. Từ chỗ: 
Anh đến thăm, em thương nghĩa, 
Anh đến thăm, em thương tình, 
Như thể cá chép ở chung khoang 
Như thể rượu nếp ở chung vò 
Thương nhau đã quyết nên bạn 
Yêu nhau đã quyết nên tình Lời 
tình trao, thề có trời có đất…  Vậy mà: 
Lòng anh chết đi sống lại nhiều lần 
Bởi anh thấy khách mường ngoài 
Đem lễ vật đến hỏi em yêu 
Khách đến hỏi, bố mẹ em ưng gả. 
Khách đến nhà, bố mẹ em nhận lời. 
Những truyện thơ dài của người Thái, người Mường rõ ràng đã ăn sâu vào đời sống 
tinh thần của các thế hệ. Được lưu truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác, truyện thơ 
dài là một giá trị văn hoá của dân tộc cần được giữ gìn, bảo vệ. Đồng thời, nó cũng 
được lưu truyền như một bài học kinh nghiệm về những kỷ niệm đau buồn đã qua, 
một sự nhắc nhở, sám hối, an ủi, chia sẻ đối với những bất hạnh của người đi trước 
thiếu may mắn. Cứ tưởng tượng giữa trùng điệp của núi rừng bạt ngàn xưa, những 
truyện thơ ấy được kể bằng những lời trầm bổng của người dẫn chuyện, chúng ta sẽ 
thấy một khung cảnh đầy thơ mộng và lãng mạn thế nào. Điều này cho thấy, vượt      lOMoARcPSD| 42676072
lên những bi kịch, những nỗi buồn sâu xa là một cuộc sống tinh thần hết sức phong 
phú của những con người vùng sơn cước này. 
Ở người Dao, người Mông, người Tày Hoà Bình tuy không thấy những tác phẩm 
truyện thơ dài hơi, song hình thức này cũng tồn tại ở những truyện ngắn hơn với các  chủ đề khác nhau.  Sử thi 
Dưới dạng những truyện thơ dài, song tầm vóc của sử thi là những áng thơ văn bất 
hủ của người Mường và người Thái với các tác phẩm như Đẻ đất đẻ nước của người 
mường và Ẳm Ệt của người Thái. 
Đẻ đất đẻ nước là một bộ sử thi đồ sộ dài hàng ngàn câu. Nội dung của nó là toàn bộ 
tư duy cổ của người Mường về sự sinh thành ra vũ trụ, ra con người và vạn vật xung 
quanh nó. Bộ sử thi này chứa đựng cả một kho tri thức về văn hóa truyền thống của 
người Mường trong quá khứ. 
Theo những công bố mới nhất của các tác giả Trương Sỹ Hùng, Bùi Thiện vào năm 
1995 thì Đẻ đất đẻ nước (với ý nghĩa là toàn bộ tang ca) dài tới 61 roóng, mỗi roóng 
là một truyện về một vấn đề nào đó. Ví dụ như Đẻ gươm, Đẻ xống áo, Điềm gở, 
Nhòm Mường Bi… Tất cả những roóng ấy được kể trong 12 đêm, thậm chí còn dai 
hơn mới hết. Sử thi Đẻ đất đẻ nước được kể khi người Mường làm ma cho người 
chết nhằm giải thích và dẫn dắt hồn người chết, an ủi, vỗ về họ yên tâm về thế giới 
bên kia, đừng gây chuyện gì cho những người sống. Vì vậy, các nhà nghiên cứu còn 
gọi Đẻ đất đẻ nước là tang ca của người Mường. Tang ca này được một ông thầy mo  trình bày. 
Riêng phần “Đẻ đất đẻ nước” dù dưới dạng dị bản dàn trải nhất cũng chỉ chiếm một 
đêm trong số mười hai đêm kể của thầy mo về toàn bộ tác phẩm. Công trình nghiên 
cứu gần đây nhất về tác phẩm đẻ đất đẻ nước do Quỹ Toyota tài trợ được lấy tên 
chung hơn là Mo Mường, ngoài phần nghiên cứu, các tác giả chia Mo mường thành 
9 phần từ khởi đầu đến kết thúc với độ dài hơn 400 trang (phần tác phẩm). Có thể 
nói, sử thi Mo Mường là tác phẩm đồ sộ nhất của văn học dân gian Mường. Không 
những vậy, nó còn là một kho kiến thức nhiều vấn đề văn hóa, xã hội khác của người 
Mường ở Hòa Bình. Không phải ngẫu nhiên mà áng sử thi này lại được trình bày ở 
đám tang. Những lời kể không chỉ là sự vỗ về, an ủi, chia ly với người chết mà điều 
quan trọng hơn đây là dịp người sống cùng tụ họp lại ôn lại lịch sử của cha ông mình, 
cho các lớp trẻ biết mình sinh ra từ đâu nguồn gốc ra sao và phải làm gì để tiếp tục 
những cái mà người đi trước đã làm.      lOMoARcPSD| 42676072
Rõ ràng đám tang trở thành một cuộc sinh hoạt cộng đồng trước cái chết của một 
thành viên của cộng đồng. Đây là dịp cả cộng đồng cùng thắt chặt lại bên nhau để 
vươn lên tồn tại và phát triển trước những thử thách đang đợi họ. Sử thi Mường như 
một sợi dây vô hình nhưng hết sức bền chặt và mạnh mẽ xâu chuỗi, gắn kết từng 
thành viên lại với nhau trong cộng đồng. Vòng quay ấy cứ vận động liên tục làm cho 
cộng đồng ngày một vững chắc hơn. 
Sử thi người Thái có Ẳm Ệt. Về quy mô và tầm vóc thì Ẳm Ệt của người Thái cũng 
là một bộ sử thi lớn nói về toàn bộ lịch sử xã hội, những mối quan hệ của con người 
với tự nhiên, sự hình thành vũ trụ và con người theo quan niệm của người Thái.. Giá 
trị nội dung và ý nghĩa xã hội của Ẳm Ệt của người Thái giống như Đẻ đất đẻ nước 
của người Mường: Ẳm Ệt chứa đựng cả vốn văn hóa dân gian của dân tộc bao gồm 
các triết lý dân gian, những nhận thức đơn giản về vũ trụ, nhân sinh quan, thế giới 
quan, dưới hình thức diễn xướng, diễn xuất có hóa trang, lời diễn xuất có âm điệu, 
có dàn nhạc phụ họa.” 
Ngoài những áng sử thi được kể dưới hình thức mo, còn nhiều bài mo khác của cả 
người Mường, người Thái và một số dân tộc khác ở Hòa Bình có giá trị như truyện 
dài. Những bài mo đó có thể là những bài cúng hay kể chuyện, độ dài có thể lên tới 
hàng trăm câu hoặc vài chục câu. Như vậy, những bài mo này có giá trị như những 
truyện thơ. Mặt khác, những bài mo đó có nhiều chủ đề khác nhau như mo thành 
hoàng, mo cúng đức thánh Tản, mo khuống mùa…