












Preview text:
lOMoAR cPSD| 58511332 ĐỊA LÝ THUỶ VĂN
Đề Tài: Các đặc trưng hình thái và tài nguyên nước lưu vực sông Mã Nhóm 13 Các thành viên
1. Nguyễn Trần Vỹ Vỹ-11208530
2. Nguyễn Minh Quang-11203295
3. Phan Thị Minh Hiền-11201444
4. Nguyễn Minh Hiếu-11201492
5. Nguyễn Thị Uyên-11207406
CÁC ĐẶC TRƯNG HÌNH THÁI VÀ TÀI NGUYÊN NƯỚC LƯU VỰC SÔNG MÃ
I. TỔNG QUAN VỀ LƯU VỰC SÔNG MÃ VÀ ĐỒNG BẰNG SÔNG MÃ
1. Khái niệm lưu vực sông, đặc điểm của lưu vực sông Mã và ĐB sông Mã Các khái niệm:
-Sông là dòng nước chảy thường xuyên,tương đối ổn định trên bề mặt lục địa,được các
nguồn nước mưa,nước ngầm,nước băng tuyết tan nuôi dưỡng.
- Hệ thống sông là một mạng lưới các con sông nhỏ hợp thành cung cấp nước cho con sông
chính. Bao gồm: phụ lưu (cung cấp nước cho sông chính), sông chính và chi lưu (từ sông
chính đổ ra sông khác hoặc đổ ra biển).
-Lưu vực sông là vùng đất đai cung cấp nước thường xuyên cho sông.
Đặc điểm của lưu vực sông Mã và ĐB sông Mã:
-Lưu vực sông Mã có tổng diện tích là 28400 km2,trong đó diện tích thuộc Việt Nam là
17600 km2,phần thuộc Lào là 10800 km2 và chiều dài sông chính là 512 km.
-Sông Mã có tiềm năng nguồn nước khá dồi dào,tuy nhiên phân bố không đều theo thời
gian và không gian tạo ra những khó khăn cho khai thác và sử dụng tài nguyên nước cho phát triển bền vững.
-Lãnh thổ lưu vực sông Mã có khí hậu nhiệt đới gió mùa ẩm với mùa hè nóng,mưa nhiều
có gió Tây khô nóng,mùa đông lạnh ít mưa có sương giá,sương muối lại có gió mùa Đông
Bắc theo xu hướng giảm dần từ biển vào đất liền,từ Bắc xuống Nam.
-Hệ thống sông Mã gồm:sông Mã và sông Chu ngoài ra còn có hệ thống sông suối dày đặc
như:sông Bưởi,sông Đà,sông Cầu Chày,sông Lèn,... lOMoAR cPSD| 58511332
-Thảm thực vật nhân tác chủ yếu gồm:Lúa nước,rừng trồng,hoa màu,cây công nghiệp hàng
năm và cây trồng trong các khu dân cư.
-Nguồn tài nguyên,khoáng sản rất phong phú,đa dạng,gồm:kim loại sắt và hợp kim có
quặng sắt,sắt-mangan và sa khoáng,kim loại màu và kim loại hiếm đã phát hiện thấy 7 mỏ
và điểm quặng chì-kẽm,...
=>Sông Mã có vai trò đặc biệt quan trọng đối với kinh tế,xã hội và bảo vệ môi trường tỉnh Thanh Hoá
2. Hiện trạng chung của lưu vực sông Mã và Đồng bằng sông Mã
Trên toàn lưu vực sông Mã hiện có hơn 1800 công trình thủy lợi. Trong đó đáng kể nhất là
hồ chứa đa mục tiêu Cửa Đạt có dung tích 1,45 tỷ m3 nước nhằm giảm nhẹ lũ sông Chu,
cấp nước tưới ổn định cho 87000 ha, phát điện với công suất lắp máy 97 MW và tạo nguồn
cấp nước sinh hoạt, công nghiệp. Hệ thống đập dâng Bái Thượng được xây dựng từ thời
Pháp thuộc có nhiệm vụ tưới cho hơn 50.000 ha. Ngoài 2 công trình lớn trên, còn có 2 hê
thống trạm bơm lớn Hoàng Khánh, Nam sông Mã ̣
và một số hồ chứa có dung tích
khá lớn như: hồ Thung Bằng, hồ Tây Trác, Đồng Ngư, Cống Khê, Bai Manh, Bai Lim,
Minh Sơn, hồ sông Mực, hồ Yên Mỹ,... và đầu tư nâng cấp nhiều công trình đầu mối, kênh
mương đã hỗ trợ đắc lực cho cấp nước phát triển nông nghiệp .
Để bảo vệ sản xuất, trên lưu vực sông Mã đã xây dựng được khoảng hơn 500km đê sông,
đê biển, hình thành môt mạng lưới kh攃Āp kín. Các cửa lấy nước và nhậ n nước trên
các ̣ triền sông đều có cống khống chế. Hệ thống cống dưới đê khá ổn định về kết cấu để
chống lũ, các cánh cống đều kín nước. Tuy nhiên măt cắt các đê còn chưa đủ theo tiêụ
chuẩn thiết kế, chưa đủ cơ đê và các cống dưới đê đều ngắn hơn măt cắt đê. Các tuyến đệ
Sông Mã, sông Chu và các sông nhánh đều phần lớn nằm sát với khu dân cư nên khả năng
tôn cao và mở rông mặ t cắt đê v n có thể thực hiệ n được nhưng khó khăn.̣ lOMoAR cPSD| 58511332 Hồ chứa Cửa Đạt
3. Bối cảnh phát triển lưu vực sông Mã ở Việt Nam Bắt Nguồn
- Dòng chính sông Mã bắt nguồn từ sườn phía nam dãy Pu Huổi Long ở Tuần Giáo thuộc
tỉnh Điện Biên, chảy theo hướng tây bắc - đông nam qua Sơn La, Sầm Nưa (Lào), Hoà
Bình, Thanh Hoá rồi đổ ra biển tại 3 cửa: cửa Sung, cửa Lạch Trường và cửa Hới. Sông
Mã là sông lớn, có diện tích lưu vực đứng thứ 5 ở Việt Nam sau các sông Mê Kông, sông
Hồng _ Thái bình, sông Đồng Nai và sông Cả
Tiềm năng phát triển
Tiềm năng thủy điện lý thuyết của hệ thống sông Mã là 12 tỷ kW, tiềm năng có thể khai
thác là 4.732 triệu kW và tiềm năng kinh tế là 2,43 tỷ kW. Cùng với nhiệm vụ phát điện,
hệ thống này còn có nhiệm vụ thủy lợi: cấp nước cho nông nghiệp, chống lũ hạ du. Sông
Mã có độ dốc nhỏ, các công trình thủy điện chủ yếu tập trung vào phụ lưu của nó là sông
Chu. Tại Thanh Hóa có 14 dự án thủy điện nằm trong quy hoạch công bố 07/2015.
1. Quy hoạch thủy điện vừa và lớn có 9 dự án là Trung Sơn (260 MW), Thành
Sơn (30 MW), Hồi Xuân (102 MW), Bá Thước 1 (60 MW), Bá Thước 2 (80
MW), Cẩm Thủy 1 (28,6 MW), Cẩm Thủy 2 (32 MW), Cửa Đạt (97 MW) và Xuân Minh (15 MW).
2. Quy hoạch thủy điện nhỏ có 5 dự án là Trí Năng (3,6 MW), Dốc Cáy (15
MW), Sông Âm (13 MW), Bái Thượng (6 MW) và Tam Lư (7 MW). lOMoAR cPSD| 58511332
Trước đó năm 2011 có 5 dự án đã được dự tính thu hồi, song năm 2015 một số dự án được
khởi động lại. Trên dòng chính •
Thủy điện Sông Mã 3 công suất 29,5 MW, tại xã Phì Nhừ, huyện Điện Biên
Đông, tỉnh Điện Biên, khởi công 26/3/2016 dự kiến hoàn thành 2018. •
Thủy điện Mường Hung công suất 24 MW, tại xã Mường Hung, Chiềng Khoong,
Chiềng Cang huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La dự kiến khởi công Quý I năm 2017
phát điện vào tháng 2/2019. •
Thủy điện Trung Sơn20°36′46″B 104°50′9″Đ công suất lắp đặt 260 MW, trên
dòng chính sông Mã, ở xã Trung Sơn huyện Quan Hóa, tỉnh Thanh Hóa, khởi
công 2012, dự kiến hoàn thành 2017. •
Thủy điện Thành Sơn công suất 30 MW, tại xã Trung Thành và Thành Sơn,
huyện Quan Hóa, thời gian xây dựng 2015 - 2018. •
Thủy điện Hồi Xuân20°26′53″B 105°3′1″Đ công suất 102 MW, ở xã Hồi Xuân
và Thanh Xuân, huyện Quan Hóa, tỉnh Thanh Hóa, khởi công 2010, dự kiến hoàn thành 2015. •
Thủy điện Bá Thước 1 công suất 60 MW, tại xã Thiết Kế, huyện Bá Thước, khởi
công 11/2013, hoàn thành 12/2016. •
Thủy điện Bá Thước 220°19′27″B 105°19′19″Đ công suất 80 MW, tại xã Điền
Lư, huyện Bá Thước, khởi công 09/2009, hoàn thành 2013. •
Thủy điện Cẩm Thủy 120°14′24″B 105°22′27″Đ công suất 28,6 MW trên dòng
chính sông Mã, bờ phải tại phố Vạc xã Cẩm Thành, bờ trái tại thôn Kim M n
(Kim Mỗm) xã Cẩm Lương, huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa, khởi công
10/2013, dự kiến hoàn thành 12/2016. •
Thủy điện Cẩm Thủy 2 công suất 32 MW, tại xã Cẩm Ngọc và Cẩm Yên, huyện
Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa. Trên các phụ lưu •
Thủy điện Cửa Đạt19°52′53″B 105°16′40″Đ công suất 97 MW, trên sông Chu,
tại làng Cửa Đặt xã Xuân Mỹ, huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa, hoàn thành 2010. •
Thủy điện Xuân Minh công suất 15 MW, trên sông Chu, tại làng Xuân Minh xã
Xuân Cẩm, huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa, tái khởi động 2016. •
Thủy điện Dốc Cáy công suất 15 MW, tại xã Lương Sơn, huyện Thường Xuân,
tỉnh Thanh Hóa, hoàn thành 2013. Thủy điện Dốc Cáy lấy nước từ hồ Cửa Đạt
đoạn thuộc dòng sông Khao và xả về sông Âm. •
Thủy điện Sông Âm công suất 13 MW, trên sông Âm tại xã Tam Văn huyện
Lang Chánh tỉnh Thanh Hóa, khởi công 2010.
4. Điều kiện kinh tế - xã hội lưu vực sông Mã tại Việt Nam Điều kiện kinh tế
Tỉnh Thanh Hoá chiếm phần lớn diện tích ở lưu vực sông này. GDP chiếm 2,83%
GDP cả nước. Cơ cấu kinh tế là: nông nghiệp 35%, công nghiệp 32%, dịch vụ 33%. lOMoAR cPSD| 58511332
Tăng trưởng GDP hàng năm trung bình là 10,1% trong 5 năm vừa qua. Diện tích
đất nông nghiệp, đất canh tác không nhiều, trong đó diện tích đất trồng lúa chiếm
65%. Sản lượng lúa hàng năm thấp. Sản lượng chăn nuôi chỉ chiếm 25% tổng GDP
trong nông nghiệp. Đất lâm nghiệp chiếm 75% diện tích vùng, tuy nhiên giá trị sản
xuất không cao. Thuỷ sản phát triển nhanh, chủ yếu là nuôi trồng ở ven biển và đánh
bắt trên sông. Công nghiệp: phát triển chậm, chủ yếu là cây mía đường và sản xuất
vật liệu. Nhà máy xi măng Nghi Sơn và Khu công nghiệp Nghi Sơn là 2 cơ sở công
nghiệp chính ở tỉnh. Du lịch và thương mại tăng trưởng chậm, quy mô nhỏ. Khu du
lịch Sầm Sơn là điểm du lịch chính. Cơ cấu kinh tế và cơ cấu sử dụng đất lưu vực
sông Mã được thể hiện trên Hình 3.1.
Điều kiện xã hội Dân số: -
Quy mô dân số: Tính đến năm 2006, dân số trên lưu vực sông Mã là 4382,6
nghìn người, chiếm 5,21% so với tổng dân số toàn quốc và 5,3% so với dân số trong
vùng dự án. Trong đó Thanh Hoá: 3619,6 nghìn người, chiếm gần 82,6% dân số
toàn lưu vực. Tiếp đến tỉnh Sơn La: 559.1 nghìn người, chiếm 12,75%, thứ ba là
tỉnh Hoà Bình: 185 nghìn người, chiếm 4,23%, còn lại là tỉnh Nghệ An chỉ 18,1
nghìn người, chỉ chiếm 0,41% dân số lưu vực. Mật độ dân số: Mật độ dân số trung
bình là 247 người/km2. Trong lưu vực sông Mã, mật độ dân số không đồng đều:
Thanh Hoá có mật độ dân số trung bình cao nhất: 330 người/km2, tiếp đến Nghệ
An; 186 người/km2, Hoà Bình 175 người/km2. Thấp nhất là Sơn La chỉ có 71
người/km2 . Dân cư phân bố không đều, tập trung chủ yếu ở các thành phố như
thành phố Thanh Hoá, thị xã Sầm Sơn và các thị trấn, thị xã. Tỷ lệ tăng trưởng dân
số trung bình của lưu vực là: 1.11%. Tỷ lệ tăng trưởng dân số cao nhất thuộc tỉnh
Sơn La: 1,80%, tiếp đến là tỉnh Hoà Bình, và thấp nhất là Nghệ An. Tỷ lệ tăng
trưởng dân số cao của Sơn La có lẽ do tại tỉnh này đang xây dựng công trình Thuỷ
điện Sơn La và thu hút một lượng lao động đổ về đây. Dân số thành thị lưu vực sông lOMoAR cPSD| 58511332
Mã chiếm 10.5% dân số của toàn lưu vực sông, còn lại là dân cư nông thôn, chiếm 89,5%. Dân tộc: -
Dân tộc ít người chiếm 25,55%. Thanh Hoá có 14,4% và Nghệ An 13,25%.
Cácdân tộc ít người có tỷ lệ hộ nghèo cao. Dân tộc ít người chủ yếu sinh sống ở
vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa và sống bằng nghề nông nghiệp tự cung, tự túc là chủ yếu. Tỷ lệ hộ nghèo
- Trung bình của lưu vực chiếm tới 53,8%, xếp thứ nhất trong tổng số 16 lưu vực
sông và cao gấp gần 3 lần so với tỷ lệ nghèo trung bình của toàn quốc. Trong lưu
vực, tỷ lệ hộ nghèo cao nhất thuộc tỉnh Nghệ An 83,41% (tỷ lệ nghèo của huyện
Quế Phong), 40.8%, thứ ba là Thanh Hoá : 35,65%. Việc làm
- Việc làm chủ yếu v n tập trung trong lĩnh vực nông nghiệp, cao nhất là Sơn La
hơn 90%, tiếp đến là tỉnh Hoà Bình 82%. Nghệ An và Thanh Hoá xấp xỉ 70%. Như
vậy Lưu vực sông Mã v n chủ yếu phát triển nông nghiệp. Công nghiệp và dịch vụ
chưa phát triển. Công nghiệp phát triển mạnh nhất ở tỉnh Thanh Hoá và tập trung
chủ yếu ở khu vực đô thị: Thành phố Thanh Hoá.
5. Vai trò của sông Mã với Việt Nam
Sông Mã không chỉ được xem là một minh chứng sinh động cho lịch sử địa chất Việt
Nam nói chung, mà nó còn giữ vai trò vô cùng quan trọng tạo dựng nên diện mạo xứ Thanh
từ miền núi đến đồng bằng -
Sông Mã là nguồn cung cấp nước, là hình thái dòng chảy của nước trên mặt đất; -
Là môi trường sống của nhiều loại động thực vật; -
Cung cấp nước cho việc ăn uống, sinh hoạt, tưới tiêu, phục vụ đời
sống sinh hoạtcủa con người; -
Là nơi cho các loại thủy sản sinh sống và phát triển, từ đó cung cấp
thức ăn thủysản cho con người và góp phần phát triển ngư nghiệp; -
Là nguồn bồi đắp phù sa màu mỡ cho nông nghiệp phát triển;- Là
đường giao thông, bến đỗ cho nhiều loại tàu b攃Ā từ lớn đến nhỏ; - Giúp cân bằng hệ sinh thái.
II. ĐẶC TRƯNG HÌNH THÁI VÀ TÀI NGUYÊN NƯỚC LƯU VỰC SÔNG MÃ 1.
Đặc trưng hình thái sông Mã
a. Khái niệm về đặc trưng hình thái sông ngòi. lOMoAR cPSD| 58511332
-Khái niệm về đặc trưng hình thái sông ngòi
Là bao gồm các đặc trưng như vị trí nguồn sông, cửa sông, độ cao nguồn sông, chiều dài
sông, chiều dài lưu vực, diện tích hướng nước, độ cao bình quân lưu vực, độ dốc- độ rộng
bình quân lưu vực, mật độ lưới sông, hệ số uốn khúc và hệ số hình dạng, hệ số phát triển
đường phân nước, hệ số không đối xứng và hệ số không cân bằng lưới sông... Đây là các
đặc trưng quan trọng khi tính toán thuỷ văn hoặc phân tích địa lí thuỷ văn.
- Các phương pháp xác định hình thái đặc trưng của sông ngòi
Xác định vị trí của nguồn sông và của sông.
Dùng bản đồ tỷ lệ 1/100000 hay 1/500000 để xác định vị trí nguồn và cửa sông theo tên
làng, bản, xã hay tên đỉnh núi cao gần nhất. Ví dụ: nguồn sông Quay Sơn ở bản Phản Xỉn
Cảm; đỉnh sông Thái Bình là đỉnh núi Va Ôn Độ chính xác của nguồn và cửa sông lấy chính
xác bằng giây. Các sông có nhiều cửa thì lấy theo cửa chính như sông Thái Bình có cửa
Thái Bình,Văn ÚC, cửa Cấm thì lấy cửa Thái Bình. Do hạn chế về số liệu nên cửa sông
Mê Kông chưa xác định được chính xác nên đành phải ghi là Miến Điện. •
Xác định độ cao nguồn sông:
Lấy trên bản đồ tỷ lệ 1/100000 hay 1/50000 theo các đường đẳng cao. •
Xác định chiều dài sông:
Dùng bản đồ tỷ lệ 1/100000 hay 1/50000. Độ dài được xác định theo thước đo chiều dài,
phương pháp căng chỉ hoặc dùng kiến thức của GIS và máy vi tính để xác định. Độ chính
xác của độ dài lấy đến 0,5km với sông có độ dài dưới 100km và 1km với sông dài trên 100km. •
Xác định chiều dài lưu vực sông:
Chiều dài lưu vực sông được đo trực tiếp trên bản đồ tỷ lệ 1/100000 từ nguồn đến 122.
b. Đặc trưng hình thái sông Mã tại Việt Nam
Sông Mã là một con sông của Việt Nam và Lào có chiều dài 512 km, trong đó phần trên
lãnh thổ Việt Nam dài 410 km và phần trên lãnh thổ Lào dài 102 km. Lưu vực của sông
Mã rộng 28.400 km², phần ở Việt Nam rộng 17.600 km², cao trung bình 762 m, độ dốc
trung bình 17,6%, mật độ sông suối toàn lưu vực 0,66 km/km². Lưu lượng nước trung bình
năm 121m³/s tại Xã Là và 341m³/s tại Cẩm Thủy . Sông Mã chủ yếu chảy giữa vùng rừng
núi và trung du. Phù sa sông Mã là nguồn chủ yếu tạo nên đồng bằng Thanh Hóa lớn thứ ba ở Việt Nam.
Được ví như món quà mà tự nhiên đã ưu ái dành tặng cho xứ Thanh, sông Mã chảy qua địa
phận tỉnh Thanh Hóa có chiều dài 242 km, tạo nên một lưu vực rộng lớn gần 9.000 km2 lOMoAR cPSD| 58511332
và nhiều phụ lưu chính như sông Luồng (102km), sông Lò (74,5km), sông Bưởi (130km), sông Chu (325km)...
Sông Mã gắn liền với lịch sử khai phá vùng đất của những cư dân đầu tiên thời Tiền, Sơ
sử. Nằm cạnh dòng nước, từ nghìn đời nay là các nền văn hóa với nếp sống, nếp sinh hoạt,
phong tục tập quán, tín ngưỡng, câu hò, điệu hát, diễn xướng dân gian; với hàng trăm di
tích, danh thắng từ dòng sông bồi thành và cả sức lao động con người đổ xuống mà gây
dựng nên. Bởi vậy mới nói, sông Mã không chỉ nhờ vẻ đẹp tự nhiên hùng vĩ dọc đôi bờ nó
chảy qua, mà còn bởi một mạch nguồn văn hoá đã lắng đọng từ chiều sâu quá khứ.
Theo quan niệm của người Kinh, sông có tên gọi "Mã" vì dòng nước chảy xiết như ngựa
phi. Tuy nhiên, theo nghiên cứu về từ nguyên học thì Mã là âm một chữ Hán để ghi tên
thật: "sông Mạ", trong đó "mạ" là một từ tiếng Việt cổ còn lưu lại trong phương ngữ miền
Trung có nghĩa là "mẹ". Và tên gốc con sông có nghĩa là "sông lớn".
Sử Việt còn gọi sông Mã là Lỗi Giang.
Sông Mã chảy theo vùng trũng giữa hai dãy núi Su Xung Chảo Chai và Pu Sam Sao. Các
phụ lưu của sông Mã phần lớn bắt nguồn từ hai dãy núi này.
Sông Mã bắt đầu bằng hợp lưu các suối ở vùng biên giới Việt - Lào tại xã Mường Lói phía
nam huyện Điện Biên (phía nam tỉnh Điện Biên) 21°0′49″B 103°7′38″Đ. Bản Pu Lau phía
bắc xã Mường Lói nằm trên sống núi là đường phân thủy giữa Nậm Nứa chảy về tây bắc
và thuộc hệ thống sông Mê Kông, với Nậm Ma chảy về đông bắc là đầu nguồn sông Mã,
tên địa phương là suối Sẻ . Sông chảy sang địa bàn Điện Biên Đông, dọc đường tiếp nhận
nước từ một số dòng suối ở Háng Lìa, Điện Biên Đông.
Ở Lào, sông Mã chảy qua hai huyện Xiengkhor và Sop Bao của tỉnh Huaphanh, nhận thêm
nước từ dòng Nậm Ét ở Xiengkhor.
Sông trở lại Việt Nam ở cửa khẩu T攃Ān Tằn huyện Mường Lát tỉnh Thanh Hóa. Từ đây,
sông chảy qua Mường Lát, Quan Hóa, trong đó một đoạn nhỏ qua huyện Quan Hóa là ranh
giới hai tỉnh Thanh Hóa và Hòa Bình. Đồng thời, tại Quan Hóa, sông nhận thêm nước từ
sông Luông và Nậm Niêm từ Quan Sơn chảy sang. Sông chảy qua các huyện phía bắc
Thanh Hóa gồm Bá Thước, Cẩm Thủy, dọc theo ranh giới Vĩnh Lộc, Hoằng Hóa (tả ngạn
- phía bắc) và Yên Định, Thiệu Hóa, thành phố Thanh Hóa, Quảng Xương,
Sầm Sơn (hữu ngạn - phía nam) rồi đổ vào vịnh Bắc Bộ bằng ba cửa: cửa chính ở Lạch
Hới (cửa Hới) nằm giữa huyện Hoằng Hóa và thành phốSầm Sơn; cửa thứ hai tách ra từ
Phường Tào Xuyên, Thành phố Thanh Hóa đổ ra Lạch Sung (cửa Sung, Lạch Trường) nằm
giữa huyện Hậu Lộc và [Hoằng Hoá]; cửa thứ ba tách ra từ chỗ giáp ranh giữa Yên Định
và Hoằng Hóa thành sông Lèn chảy theo ranh giới Hà Trung, Nga Sơn với Hậu Lộc ra biển. lOMoAR cPSD| 58511332
2. Tài nguyên nước lưu vực sông Mã tại Việt Nam a. Những khó khăn thách thức về
tài nguyên nước ở Việt Nam
Mặc dù, chưa phải là quốc gia thiếu nước nghiêm trọng, tuy nhiên trong những năm
gần đây tài nguyên nước Việt Nam đang đối mặt với nhiều thách thức lớn, cụ thể là:
Thứ nhất là, nguồn nước của Việt Nam chủ yếu phụ thuộc vào nước ngoài. Phần
lớn các hệ thống sông lớn của Việt Nam đều là các sông xuyên biên giới mà Việt
Nam là quốc gia ở hạ nguồn. Tổng lượng nước từ nước ngoài chảy vào Việt Nam là
520 tỷ m3, chiếm 63% tổng lượng dòng chảy của các sống của nước ta.
Thứ hai là, tài nguyên nước phân bố không đều theo không gian và thời gian. Toàn
bộ phần lãnh thổ từ các tỉnh biên giới phía Bắc đến Thành phố Hồ Chí Minh, nơi có
80% dân số và trên 90% hoạt động sản xuất, kinh doanh dịch vụ nhưng chỉ có gần
40% lượng nước của cả nước; 60% lượng nước còn lại là ở vùng ĐBSCL, nơi chỉ
có 20% dân số và khoảng 10% hoạt động sản xuất, kinh doanh dịch vụ. Lưu vực
sông Đồng Nai, chỉ có 4,2% lượng nước, nhưng đang đóng góp khoảng 30% GDP
của cả nước. Lượng nước trong 3-5 tháng mùa lũ chiếm tới 70-80%, trong khi đó
7-9 tháng mùa kiệt chỉ xấp xỉ 20-30% lượng nước cả năm.
Thứ ba là, hiệu quả khai thác sử dụng nước trong các ngành còn thấp. Tỷ lệ thất
thoát nước cho cấp nước đô thị và nông thôn còn ở mức cao (khoảng 25%), công
suất khai thác nước thực tế còn thấp hơn rất nhiều so với năng lực thiết kế nhất là
khai thác nước trong thủy lợi, nông nghiệp. Hầu hết các hệ thống công trình thủy
lợi đều chưa khai thác đạt năng lực thiết kế mà chỉ ở mức từ 50 đến 90% tùy theo
từng khu vực. Trong khi, việc điều tiết nước, hiệu quả sử dụng nước thấp, chưa tiết
kiệm, thất thoát nước còn lớn (trong thủy lợi khoảng 30%).
Thứ tư là, áp lực phát triển kinh tế – xã hội, nhu cầu nước gia tăng, m u thuần khai
thác, sử dụng nước của các ngành, địa phương còn phổ biến. Theo thống kê, bình
quân trong vòng 10 năm qua, nhu cầu nước đã đóng gấp 3 lần. Trong vòng 25 năm
tới, nhu cầu sử dụng nước hàng ngày của dân cư ở các Khu đô thị dự kiến sẽ tăng
gấp đôi so với khả năng đáp ứng của hệ thống hiện tại. Theo mình toán, dự báo của
Ngân hàng thế giới, tổng nhu cầu nước mùa khô vào năm 2030 sẽ tăng 32% so với
hiện tại (theo kịch bản thông thường), gây áp lực, căng thẳng nguồn nước cho 11/16
lưu vực sông tại Việt Nam.
Thứ năm là, áp lực phát triển kinh tế – xã hội, ô nhiễm nguồn nước gia tăng. Áp
lực phát triển kinh tế đã và đang tác động và gây sức 攃Āp ngày càng lớn, trầm
trọng đến cả về số lượng và chất lượng nguồn nước các các sông, suối và các tầng
chứa nước, đặc biệt là các nguồn nước phục vụ để sản xuất nước sạch cấp cho mục
đích sinh hoạt. Hầu hết các đoạn sông chảy qua khu vực tập trung đông dân cư và lOMoAR cPSD| 58511332
các khu công nghiệp, các làng nghề đều đã và đang bị ô nhiễm với các mức độ khác
nhau. Đặc biệt, mức độ ô nhiễm tăng cao vào mùa khô, khi lượng nước chảy vào các con sống giảm.
Thứ sáu là, khả năng tiếp cận nước sạch, an toàn với chi phí hợp lý cho sản xuất,
sinh hoạt còn chưa cao. Mặc dù tổng trữ lượng nước bình quân cả nước và các tỉnh
tương đối phong phú nhưng một số địa phương v n còn khó khăn trong việc tiếp
cận nguồn nước sạch, an toàn. Trong khi nước được coi là quan trọng đối với sức
khỏe, vệ sinh và nông nghiệp, nước cũng là vấn đề sống còn đối với các doanh
nghiệp, đặc biệt là trong sản xuất. Theo khảo sát doanh nghiệp của Ngân hàng Thế
giới năm 2015 tại Việt Nam, khoảng 8% các doanh nghiệp sản xuất báo cáo có ít
nhất một sự cố cấp nước không đủ trong năm trước.
Thứ bảy là, duy trì và phát triển diện tích rừng, bảo vệ nguồn sinh thuỷ. Rừng đầu
nguồn bị suy giảm, tình trạng phá rừng ở Việt Nam đã ở mức báo động gây ảnh
hưởng nghiêm trọng đến nguồn sinh thủy trên các lưu vực sông. Mất thảm thực vật
là tác nhân lớn nhất d n đến xói mòn lưu vực, lớp đất bề mặt bị rửa trôi d n đến
tình trạng bồi lắng và làm giảm dung tích hữu ích các hồ chứa. Trong 3 năm 2016-
2018, diện tích rừng bị thiệt hại trung bình 2.430 ha/năm, giảm 270 ha/năm, tương
ứng giảm 10% so với giai đoạn 2011-2015. Ước giai đoạn 2016-2020 sẽ giảm 30%
so với giai đoạn 2011-2015.
Thứ tám là, tác động của biến đổi khí hậu và rủi ro do nước gây ra. Nước ta là một
trong những quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề nhất của biến đổi khí hậu, trong đó tài
nguyên nước sẽ chịu những ảnh hưởng lớn nhất và sớm nhất do những diễn biến
bất thường về lượng mưa và nước biển dâng, tập trung mạnh nhất ở hai khu vực sản
xuất lúa gạo và sản phẩm thủy sản chủ yếu của cả nước là vùng ĐBSCL và đồng
bằng sông Hồng, dự báo đến 2030 có 45% diện tích vùng ĐBSCL có nguy cơ nhiễm
mặn, làm giảm 9% năng suất lúa so với hiện nay.
Thứ chín là, vấn đề quản trị và nguồn lực để giải quyết tổng thể các nhiệm vụ về
tài nguyên nước cho trước mắt và 20 – 30 năm tới. Hiện nay, khung pháp lý về quản
trị tài nguyên nước đã tương đối toàn diện, tuy nhiên còn chưa cụ thể về trách nhiệm
của các Bộ, ngành, địa phương trong quản lý nhà nước về tài nguyên nước, với quản
lý, vận hành công trình khai thác, sử dụng nước, trách nhiệm bảo vệ, phát triển tài
nguyên nước, phòng chống tác hại do nước gây ra.
b. Đặc điểm tài nguyên nước lưu vực sông Mã tại Việt Nam •
Nước mặt lưu vực sông Mã: Theo kết quả nghiên cứu trên lưu vực sông Mã có
tổng lượng dòng chảy năm trung bình năm khoảng 18,0 (109 m3) tương ứng mô
đun lưu lượng 20 l/s.km2. Trong đó phần dòng chảy sản sinh tại Việt Nam là 14,1
(109m3) ứng với 25,3 l/s.km2 và tại Lào có 3,9 (109 m3) ứng với 11,4 l/s.km2. lOMoAR cPSD| 58511332
Dòng chảy năm phân phối không đều theo không gian và thời gian. Trên sông Mã,
tại Cẩm Thuỷ mùa lũ bắt đầu từ tháng 6 và kết thúc vào tháng 10 chiếm 75% tổng
lượng nước năm, trên sông Chu tại Cửa Đạt mùa lũ đến muộn hơn thường bắt đầu
từ tháng 7 và kết thúc vào tháng 11, chiếm 78% tổng lượng dòng chảy năm. •
Nước dưới đất: Thường tồn tại trong các khe nứt vỉa trầm tích lục nguyên và đới
phong hóa mà nước mưa là nguồn cung cấp chính. Trữ lượng nước dưới đất trên lưu
vực khá phong phú và tập trung ở vùng đồng bằng. Kết quả khảo sát tại đồng bằng
Thanh Hóa với diện tích 1480 km2 có trữ lượng khai thác tiềm năng 271.928
m3/ngày, tuy nhiên phụ thuộc vào nguồn cung cấp từ nước mặt và mức độ khai thác của các ngành kinh tế. •
Dòng triều thuỷ triều ở vùng cửa sông Mã: có ảnh hưởng lớn đối với khai thác
và quản lý tài nguyên nước. Biên độ triều lớn nhất tại Hoàng Tân cửa là 3,19m, và
tại Giàng 2,46 m. Mực nước đỉnh triều cao nhất đạt 2,9m tại Hoàng Tân cửa sông
Mã và thấp đạt -1,81m lúc chân triều. Do thủy triều ảnh hưởng mạnh vào mùa kiệt
nên tại vùng cửa sông Mã độ mặn đạt từ 26 - 28‰ và giảm dần về phía thượng lưu.
Tại Giàng cách cửa sông Mã 27km độ mặn là 0,016‰, nhỏ nhất là 0,008‰ •
Nước mưa: Theo số liệu quan trắc mưa (1980 - 2014) trên lưu vực sông Mã , cho
thấy vùng thượng nguồn dòng chính mùa mưa đến sớm và kết thúc sớm hơn vùng
trung và hạ lưu. Tuy nhiên mùa mưa thường bắt đầu từ tháng 6 và kết thúc vào tháng
11 với lượng mưa chiếm 65% - 70% cả năm. Trên lưu vực sông Mã có 2 tâm mưa
lớn là tâm mưa Bá Thước - Quan Hóa và tâm mưa Thường Xuân. •
Dòng chảy: Biến đổi mạnh theo thời gian và không gian. nhìn chung sự phân bố
dòng chảy trong năm của sông vừa và lớn đều có dạng 1 đỉnh với đỉnh cao nhất xuất
hiện vào tháng 9 hay thắng 8; riêng với các sông nhỏ ở lưu vực sông Chu thì dạng
phân phối có 2 đỉnh, trong đó đỉnh phụ khá lớn.
Tổng lượng dòng chảy mùa lũ chiếm 65-80% tổng lượng dòng chảy năm. Hằng
năm, sông Mã chảy ra biển một lượng nước 18 tỷ m3/năm.
Dòng chảy phân bố không đều: mùa khô tổng lượng dòng chảy chỉ có 4,76 tỷ m3
tương đương 26% dòng chảy năm trong khi mùa lũ chiếm tới 74% tổng lượng dòng chảy năm.
=> Như vậy có thể thấy một số đặc điểm chính của tài nguyên nước lưu vực sông Mã trong
bối cảnh hiện nay có liên quan trực tiếp đến an ninh nguồn nước là phân bố nguồn nước
mặt không đều theo không gian và thời gian tạo nên mùa khô rất thiếu nước so với nhu cầu
mặc dù đã có nhiều công trình thủy lợi; trữ lượng nước dưới đất chủ yếu tập trung ở vùng
đồng bằng và đang có xu hướng bị ô nhiễm do mặn xâm nhập và các hoạt động của con
người, đặc biệt là khu vực cửa sông, khu công nghiệp do tốc độ phát triển kinh tế, xã hội
trong lưu vực nhanh chóng mà thiếu biện pháp quản lý hiệu quả. Cơ chế, chính sách quản lOMoAR cPSD| 58511332
lý nước trên lưu vực chưa hoàn chỉnh, thống nhất theo hướng tổng hợp theo lưu vực sông
và chưa có cơ chế chia sẻ nguồn nước giữa các ngành, giữa các khu vực.
3. Vấn đề an ninh nguồn nước lưu vực sông Mã
a. Các thách thức về an ninh nguồn nước
An ninh nguồn nước là một trong ba vấn đề mang tính chiến lược của tất cả các quốc gia
trên thế giới, đó là “an ninh nguồn nước”, “an ninh lương thực” và “an ninh năng lượng”. •
Lưu vực sông Mã có một phần diện tích lưu vực và nguồn nước thuộc Lào, việc
phát triển và sử dụng nước ở phần này Việt Nam không thể kiểm soát được. •
Biến đổi phân phối nguồn nước là rất lớn theo thời gian và không gian, trong khi
thiên tai và biến đổi khí hậu ngày càng tác động lớn đến tài nguyên nước trên lưu vực sông Mã. •
Chất lượng nguồn nước một số vùng trên lưu vực đang có chiều hướng suy giảm
nghiêm trọng do áp lực phát triển kinh tế, xã hội, trong khi nhu cầu sử dụng nước
của tất cả các ngành ngày càng cao cả về số lượng và chất lượng.
b. An ninh nguồn nước trên lưu vực sông Mã
Theo nghiên cứu gần đây, nhu cầu nước cho phát triển kinh tế, xã hội trên lưu vực sông Mã
gia tăng nhanh chóng, tính đến năm 2009 tổng cộng nhu cầu nước đã tới 5,21 tỷ m3 và ước
tính đến 2020 là 8,37 tỷ m3
Như vậy theo dự báo, tổng nhu cầu dùng nước trên lưu vực sẽ tăng lên trong vòng hơn 10
năm (2009 - 2020) đạt tới 1,607 lần, trong đó tỷ lệ tăng nhiều nhất là công nghiệp lên tới
hơn 10 lần tập trung chủ yếu ở vùng hạ lưu sông Mã (tỉnh Thanh Hóa) do định hướng phát
triển kinh tế xã hội trên lưu vực theo hướng công nghiệp hóa, chuyển đổi sản xuất nông
nghiệp sang công nghiệp, sản xuất nông nghiệp năng suất thấp sang các giống có năng suất
và hiệu quả kinh tế cao, sản xuất tập trung quy mô lớn. Những gia tăng nhanh chóng về
nhu cầu nước trên lưu vực đã d n đến các mâu thu n trong sử dụng tài nguyên nước so
với tiềm năng tài nguyên nước có sẵn.
c. Một số vấn đề khác liên quan đến an ninh nguồn nước lưu vực sông Mã •
Mất cân bằng giữa bảo vệ, phát triển tài nguyên nước với an ninh nguồn nước:
+ Gia tăng cả mức độ và quy mô thiếu nước trong mùa khô trong bối cảnh áp lực dân số,
nhu cầu phát triển và biến đổi khí hậu.
+ Kết cấu hạ tầng khai thác nước xuống cấp, chưa được cải thiện cùng với tình trạng suy
thoái, cạn kiệt nguồn nước ở nhiều nơi mà chưa có biện pháp hiệu quả. lOMoAR cPSD| 58511332
+ Chưa tiếp cận quan điểm tổng hợp đa mục tiêu trong quản lý, sử dụng nước, d n đến
hiệu quả thấp, gây ô nhiễm nước ở nhiều khu vực. •
Các hạn chế về thể chế, quản lý tài nguyên nước trên lưu vực sông Mã:
Những vấn đề chính liên quan đến thể chế, pháp luật về phát triển, khai thác và sử dụng tài
nguyên nước còn một số tồn tại, hạn chế:
+ Các văn bản dưới luật chưa đầy đủ và thiếu đồng bộ, ngân sách Nhà nước v n phải gánh
chịu hầu hết các khoản đầu tư, vận hành các công trình cấp, thoát nước
+ Công tác quản lý tài nguyên nước còn phân tán, chồng ch攃Āo, phối hợp giữa các
ngành chưa hiệu quả d n đến tài nguyên nước bị suy giảm, mâu thu n sử dụng nước
gia tăng gây áp lực cho an ninh nguồn nước lưu vực sông Mã.
+ Thông tin, dữ liệu về tài nguyên nước trên lưu vực sông Mã chưađầy đủ, thiếu
đồng bộ và thiếu chia sẻ thông tin d n đến đánh giá thiếu thống nhất và chính xác. Mô
hình tổ chức lưu vực sông chưa được áp dụng, nội dung thích hợp về quản lý tổng hợp lưu vực sông.
=> Những vấn đề nêu trên đã ảnh hưởng trực tiếp đến quản lý, khai thác và sử dụng
tài nguyên nước lưu vực sông Mã trên quan điểm “an ninh nguồn nước”. Do vậy cần
phải có những thay đổi căn bản trong quan điểm về cơ chế, chính sách và quản lý tài nguyên nước.