Bài tập nhóm ôn tập - Lí luận | Học viện Tòa án
1.2.2: Mô hình bảo hiến bằng toà án ở Hoa KỳMô hình bảo hiến Hoa Kỳ là mô hình bảo hiến được áp dụng phổ biến, hiệu quả trên thế giới. Mô hình bảo hiến bằng toà án tư pháp được đánh giá đã thể hiện được toàn bộ giá trị cần có của cơ chế bảo vệ Hiến pháp hiệu quả. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Preview text:
1.2.2: Mô hình bảo hiến bằng toà án ở Hoa Kỳ
Mô hình bảo hiến Hoa Kỳ là mô hình bảo hiến được áp dụng phổ biến, hiệu
quả trên thế giới. Mô hình bảo hiến bằng toà án tư pháp được đánh giá đã thể hiện
được toàn bộ giá trị cần có của cơ chế bảo vệ Hiến pháp hiệu quả.
Bối cảnh hình thành của mô hình:
Hoàn cảnh ra đời của mô hình bảo hiến kiểu Hoa Kỳ cũng mang đúng bản
chất sử dụng án lệ là nguồn luật của hệ thống pháp luật khi mô hình được xây dựng
từ vụ án cụ thể. Đầu thế kỷ 19, trong cuộc bầu cử tổng thống John Adams và đảng
Federalist của ông thất cử, Thomas Jefferson người của đảng Dân chủ và Cộng hòa
Hoa Kỳ trúng cử Tổng thống. Trước khi rời khỏi ghế tổng thống, nhằm đảm bảo
cho sự quyền lợi của mình sau khi rời vị trí, John Adams đã bổ nhiệm hàng loạt
thành viên của đảng Federalist vào chức vụ thẩm phán và thẩm phán hòa giải. Khi
Jefferson lên làm tổng thống, các quyết định của John Adams đã được ký và đóng
dấu nhưng lại chưa được chuyển đi hết. Jefferson chỉ đạo cho James Madison, lúc
đó là bộ trưởng bộ Ngoại giao không chuyển quyết định mà Adams đã ký cho
những người có tên để họ không thể nhận chức vụ Thẩm phán.Trong số những
người không nhận được quyết định đó có William Marbury. Khi không nhận được
quyết định, William Marbury đã khởi kiện James Madison yêu cầu giải thích lý do
tại sao các quyết định lại không được chuyển cho mình; đồng thời Marbury yêu cầu
tòa án tối cao quyết định buộc trao quyết định để những người có liên quan thực thi
nhiệm vụ của mình. Chánh án lúc đó là John Marshall lúc đó, vì những tình huống
chính trị, đã rất khó khăn khi giải quyết vụ việc này. John Marshall đã đưa ra phán quyết cho vụ việc này:
Thứ nhất, Madison đã vi phạm pháp luật vì không chuyển giao quyết định
cho những người liên quan.
Thứ hai, Đạo luật thành lập các tòa án tư pháp năm 1789 cho phép tòa án
ban hành mệnh lệnh trên là trái với Hiến pháp. Marshall đã tuyên bố tòa án tối cao
liên bang không có quyền giải quyết vấn đề này, mặc dù mục 13 của Đạo luật Tư
pháp liên bang trao cho tòa án thẩm quyền trong lĩnh vực đó nhưng quy định này
trái với điều 3 của Hiến pháp Hoa Kỳ năm 1787. Ông cho rằng Hiến pháp là luật cơ
bản của nhà nước và có hiệu lực pháp lý tối cao. Vì vậy khi một đạo luật thông
thường trái với Hiến pháp thì đạo luật đó phải bị tuyên bố là vô hiệu. Cuối cùng,
John Marshall đã đưa ra phán quyết lịch sử: Hiến pháp là luật tối cao của đất nước,
những luật hay quyết định được đưa ra bởi cơ quan lập pháp là một bộ phận của
Hiến pháp và không được trái với Hiến pháp. Thẩm phán, người đã từng tuyên thệ
bảo vệ Hiến pháp, phải tuyên bố hủy bỏ những luật, lệ quy định nào của cơ quan
lập pháp mâu thuẫn với Hiến pháp.
Ba phán quyết trên đây đã xác lập chức năng bảo vệ Hiến pháp của tòa án và
quyền tài phán của tòa án về các quyết định của lập pháp và hành pháp liên quan
đến Hiến pháp. Với những tuyên bố trên đây và những đóng góp lớn lao cho ngành
tư pháp, John Marshall được coi là Chánh án tòa án Tối cao vĩ đại nhất của Hoa
Kỳ. Ông đã thực sự khẳng định sức mạnh của nhánh quyền lực thứ ba trong ba
nhánh quyền lực nhà nước. Với phán quyết trên, lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến
thế giới, tòa án có quyền xem xét tính hợp hiến của một đạo luật đến từ hành pháp,
đây được coi là lần xuất hiện chính thức đầu tiên của chế định bảo vệ Hiến pháp.
Vụ việc này cũng dẫn những đặc trưng trong mô hình bảo hiến kiểu Mỹ sau này.
Đó là việc chứng minh một đạo luật vi hiến luôn luôn là trách nhiệm của bên
nguyên, và chỉ những người có quyền và lợi ích bị xâm phạm bởi đạo luật hay hành
vi mới được quyền khởi kiện xem xét tính vi hiến .
Đặc điểm của mô hình bảo hiến kiểu Hoa Kỳ:
Thứ nhất, cơ quan bảo hiến Hoa Kỳ hoạt động dựa trên mô hình tòa án tư
pháp thông thường. Từ tòa án địa phương cho đến tòa án liên bang đều có thẩm
quyền xét xử những vụ án liên quan đến vi hiến. Tuy quyền hạn trao cho tất cả các
tòa án các cấp quyền bảo hiến nhưng các quyết định của các tòa án cấp cao nhất có
ưu thế bởi chỉ những quyết định đó mới có tính bắt buộc với mọi tòa khác. Sau khi
tòa án cấp cao nhất phủ nhận tính hợp hiến của đạo luật thì đạo luật đó trên thực tế
mới mất hiệu lực pháp lý.
Thứ hai, tòa án thực hiện giám sát Hiến pháp sau khi văn bản pháp luật được
ban hành hoặc có hiệu lực. Đây là một cái nhìn thực tiễn sâu sắc, mang màu sắc của
án lệ, đặc trưng của hệ thống thông luật, mọi đạo luật đều được kiểm nghiệm tính
pháp lý thông qua thực tiễn chứ không phải chỉ trên giấy tờ. Sự ảnh hưởng của đạo
luật nhất định phải được chứng minh bằng thực tiễn áp dụng.
Thứ ba, tòa án bảo vệ Hiến pháp trong từng sự việc cụ thể, điều này một
phần xuất phát từ triết lý chân lý luôn mang tính cụ thể của Hoa Kỳ. Tòa án chỉ
giám sát tính hợp hiến của văn bản pháp luật khi có những sự kiện pháp lý nhất
định, hay nói cách khác kiện tụng chính là tiền đề để Tòa án phán xét tính hợp hiến
của một đạo luật. Đây là ưu thế lớn của mô hình bảo hiến kiểu Hoa Kỳ khi mà ngay
cả việc hình thành cơ chế bảo vệ Hiến pháp mang dáng dấp của án lệ (Án lệ đánh
dấu sự ra đời của Hiến pháp trong vụ kiến Marbury chống Madison với phán quyết
của Chánh án Tòa án Tối cao Marshall). Quyền bảo hiến chỉ được các Tòa án sử
dụng trong trường hợp tìm thấy sự liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp
pháp của người đề nghị xem xét tính hợp hiến của các đạo luật. Đặc điểm này xác
định rõ ràng hơn phạm vi của quyền giám sát, tránh sự trừu tượng và kém hiệu quả.
Từ đây, mô hình này cho phép các bên có tranh chấp trong vụ án bình thường, khi
nhận ra những phán quyết hay những hành động trái Hiến pháp của bên còn lại gây
ảnh hưởng đến lợi ích của mình thì đều có quyền đề nghị thực hiện quyền bảo vệ
Hiến pháp (xuất phát từ một hành vi vi hiến ảnh hưởng trực tiếp đến mình).
Sự Phát triển của mô hình bảo hiến toà án kiểu Hoa Kỳ:
Mô hình bảo hiến Hoa Kỳ mang đúng bản chất mô hình tài phán Hiến pháp
tập trung hoàn toàn vào việc xét xử những vấn đề vi hiến. Có thể khẳng định đây là
một trong ba mô hình bảo vẹ Hiến pháp lớn nhất trên thế giới. Sau khi ra đời ở Hoa
Kỳ, mô hình có sức lan toả vô cùng lớn, được rất nhiều quốc gia lựa chọn để học
tập kinh nghiệm để tiến hành xây dựng.
Đánh giá về hiệu quả, mô hình bảo hiến kiểu Hoa Kỳ hoạt động hiệu quả bảo
vệ giá tối ca của Hiến pháp, mọi đạo luật có dấu hiệu vi hiến đều bị xem xét và
được xử lý. Có thể khẳng định đây là mô hình vô cùng hiệu quả trong hoạt đọng
bảo vệ Hiến pháp. Mô hình này sẽ giúp Hiến pháp được bảo vệ giá trị pháp lý tối
cai, quyền con người được bảo đảm và thực hiện trên góc độ nhất định.
Cơ sở cho sự phát triển rộng rãi của mô hình chính là hiệu quả trong việc bảo
vệ Hiến pháp mà cơ chế bảo hiến mang lại, thừa nhận và lựa chọn mô hình bảo
hiến kiểu Hoa Kỳ đồng nghĩa với việc đảm bảo yêu cầu trong hoạt động vảo vệ Hiến pháp.
Mô hình bảo hiến bằng toà án tư pháp đã được lựa chọn áp dụng hiệu quả ở
rất nhiều quốc gia trên thế giới: Hoa Kỳ, các nước Trung Đông, Châu Âu, Bắc Mỹ
và các nước Mỹ La Tinh… Tuy nhiên, mô hình bảo hiến toà án tư pháp đòi hỏi yêu
cầu rất khắc khe để các quốc gia lựa chọn có thể áp dụng hiệu quả. Đó là yêu cầu
về hệ thống pháp luật hoàn thiện, sử dụng án lệ làm nguồn pháp luật, áp dụng cơ
chế phân quyền, các thức đào tạo và bổ nhiệm thẩm phán luôn ở yêu cầu rất cao.
Chính những yêu cầu trên vừa đem lại hiệu quả cho mô hình và cũng là hạn chế đi
sự phát triển, lan toả mô hình trên thế giới. Mô hình bảo hiến bằng toà án kiểu Hoa
Kỳ là mô hình chỉ có thể áp dụng hiệu quả khi có thể đáp ứng đầy đủ những yêu
cầu của mô hình. Các nước khi xác định lựa chọn mô hình cần có sự nghiên cứu
những điều kiện cụ thể sao cho đáp ứng được những yêu cầu khắt khe của mô hình. 1.2.3 Đức
Bối cảnh hình thành của mô hình
Giai đoạn 1918 được coi là "thời kỳ của nước Áo" (the Austrian Period).
Nước Áo áp dụng công trình nghiên cứu của hai nhà khoa học Hans Kelsen và
Adolf Merkl hình thành ra mô hình bảo hiến Tòa án Hiến pháp. Mô hình đã mở
đường cho hàng loạt các Tòa án Hiến pháp xuất hiện ở Châu Âu. Hiến pháp năm
1920 ở Áo xác nhận nền tảng của Tòa án Hiến pháp quốc gia. Mô hình Tòa án Hiến
pháp chịu trách nhiệm cơ bản bảo vệ Hiến pháp như là một nhiệm vụ độc lập đã
được xác nhận ở Áo và phổ biến ra nhiều quốc gia khác nhất là ở châu Âu, trở
thành một trong những mô hình cơ bản về cơ chế bảo hiến trên thế giới. Sau đó tại
Đức, dựa trên những yêu cầu thực tiễn về một cơ quan bảo hiến chuyên trách nhằm
bảo vệ giá trị tối cao của Hiến pháp, đồng thời đánh giá những ưu nhược điểm của
mô hình bảo hiến Hoa Kỳ và cộng hòa Áo, năm 1949, Cộng hòa Đức đã quyết định
xây dựng cơ quan chuyên trách theo hướng tòa án Hiến pháp, vẫn dựa vào học
thuyết của Hans Kelsen và Adolf Merkl để đặt nền tảng cho tòa án Hiến pháp ở
Đức. Tại thời điểm Đức xây dựng mô hình Tòa án Hiến pháp, cơ chế bảo hiến bằng
tòa án kiểu Hoa Kỳ đang thể hiện rất nhiều những nét ưu việt sau một thời gian sử
dụng trong thực tiễn, nếu có thể áp dụng sẽ đem lại những hiệu quả nhất định. Tuy
nhiên, mô hình tòa án bảo hiến kiểu Hoa Kỳ nếu muốn áp dụng sẽ tồn tại rất nhiều
khó khăn bởi nguyên tắc “nghị viện tối cao” vẫn tồn tại rất mạnh mẽ ở châu Âu và
Đức. Quyền lực tối cao của nghị viện sẽ bị ảnh hưởng khi mọi tòa án đều có quyền
đưa ra những phán quyết về tính hợp hiến văn bản pháp luật của nghị viện. Không
những thế, nhận định mô hình bảo hiến Hoa Kỳ đòi hỏi yêu cầu rất khắt khe về đội
ngũ thẩm phán cũng như cần một hệ thống nguồn pháp luật, án lệ hoàn chỉnh, mô
hình này cũng đi ngược lại việc vẫn đang sử dụng tập quán pháp trong hệ thống
pháp luật tại Đức. Vậy nên, mô hình bảo hiến Hoa Kỳ không được thừa nhận và áp
dụng tại Đức. Từ những nguyên nhân kể trên, dựa trên nền tảng mô hình bảo hiến
của Áo, nước Đức đã lựa chọn xây dựng tòa án Hiến pháp là cơ quan bảo hiến
chuyên trách với những điều chỉnh để phù hợp với bối cảnh đất nước.
Đặc điểm mô hình tòa án Hiến pháp ở Đức
Thứ nhất, tòa án Hiến pháp tiến hành hoạt động xem xét văn bản pháp lý,
hành vi, sự kiện một cách độc lập, có trình tự và thủ tục hoạt động riêng, thống nhất
và đồng bộ, không bị ảnh hưởng bởi hệ thống tư pháp. Trình tự thủ tục bảo hiến
được xây dựng theo tính đặc thù mô hình, không bị trùng lập với bất kỳ thủ tục tố
tụng dân sự, hình sự hay hành chính. Tòa án Hiến pháp xem xét tất cả những vấn
đề liên quan đến bảo vệ Hiến pháp, thụ lý không chỉ những vụ việc mang tính cụ
thể mà còn tiến hành xem xét cả những vấn đề có dấu hiệu vi hiến. Tòa án Hiến
pháp sẽ thụ lý tất cả những vụ việc được yêu cầu đúng trình tự thủ tục tố tụng.
Thứ hai, tòa án Hiến pháp hoạt động độc lập với hệ thống cơ quan quyền lực
nhà nước, không bị ảnh hưởng bởi bất kỳ nhánh quyền lực lập pháp, hành pháp hay
tư pháp. Tòa án Hiến pháp có quyền tuyên bố những văn bản pháp lý là vi hiến, có
quyền đình chỉ hay hủy bỏ văn bản pháp luật đã có hiệu lực pháp luật.
Thứ ba, tòa án Hiến pháp là hoạt động trên nguyên tắc công khai,thông
thường hướng đến việc xem xét kiểm hiến sau, kiểm tra các văn bản đã có hiệu lực
pháp luật chứ không thực hiện nhiệm vụ kiểm hiến trước. Điều này xuất phát từ
yêu cầu thực tiễn của nước Đức khi xây dựng cơ quan chuyên trách, đặc điểm trên
vừa mang tính đặc thù, vừa là hạn chế của tòa án Hiến pháp.
Sự phát triển của mô hình toà án Hiến pháp ở Đức:
Mô hình bảo hiến bằng toà hiến pháp với ưu điểm là một thiết chế tài phán
độc lập, riêng biệt, có quyền hạn đặc biệt so với hệ thống tư pháp cũng như các cơ
quan quyền lực nhà nước, là một trong những mô hình có thể áp dụng một cách
thống nhất và đồng bộ từ việc xây dựng cơ quan bảo hiến đến trình tự, thử tục xem
xét mô hình toàn án Hiến pháp.
Mô hình toà án hiến pháp là mô hình bảo vệ Hiến pháp được nhiều nước sử
dụng nhất trên thế giới, cớ sự phát triển và lan toản rộng rãi trên toàn thế giới. Mô
hình toà án Hiến pháp được đánh giá hiệu quả bậc nhất trong hoạt động bảo hiến.
Mô hình thể hiện ưu điểm tối ưu của một thiết chế bảo hiến tập trung với sức mạnh
phán quyết của cơ quan tư pháp. Mọi quyết định của toàn án Hiến pháp đều mang
lại tính độc lập, có thẩm quyền quyết định chung thẩm, bắt buộc với mọi đối tượng.
Mô hình toà án Hiến pháp ra đời với những ưu điểm của mình đã phát triển vô cùng
mạnh mẽ ở Châu Âu điển hình là Áo và Đức. Sau đó rất nhiều các quốc gia trên thế
giới lựa chọn và áp dụng cơ chế bảo vệ Hiến pháp. Đến nay, toàn án Hiến pháp đã
trở thành mô hình bảo hiến mà rất nhiều quốc gia ở khắp các khu vực trên thế giới
lựa chọn áp dụng: Đức, Tây Ban Nha, Bỉ, Ba Lan, Séc, Hunggari, Hàn Quốc, Thái Lan,…