lOMoARcPSD| 45734214
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
BÀI TẬP NHÓM
MÔN: LUẬT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
ĐỀ BÀI:
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp vi phạm hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo quy định của CISG và án lệ điển
hình
L
p
:
N04.TL
3
Nhóm
:
7
Hà Nội, 2021
lOMoARcPSD| 45734214
BIÊN BẢN XÁC ĐỊNH MỨC ĐỘ THAM GIA
KẾT QUẢ THAM GIA LÀM BÀI TẬP NHÓM
Nhóm số: 7 Lớp: N04_TL3
Tổng số sinh viên của nhóm: 7
sinh viên. Môn học: Luật thương mại quốc tế
Xác nhận mức độ tham gia và kết quả tham gia của từng sinh viên trong việc thực hiện bài
tập nhóm của bộ môn. Kết quả như sau:
-Kết quả bài viết TRƯỞNG NHÓM Giáo viên chấm :……………………..
Kết quả điểm thuyết trình:
LƯỜNG ĐỨC THẮNG
Thông tin liên hệ: Lường Đức Thắng
Số điện thoại: 0961322438
STT
Mã SV
Họ và tên
Đánh giá của SV
SV ký
tên
Đánh giá của GV
A
B
C
Điểm
(số)
Điểm
(chữ)
GV
ký tên
1
440845
Lường Đức Thắng
X
2
440846
Nguyễn Thị Thanh
Huyền
X
3
440847
Lê Thị Quỳnh
X
4
440848
Trần Thanh Hà
X
5
440849
Trần Lê Ngọc Khuê
X
6
440850
Ôn Thị n Anh
X
7
440851
Lại Kiều Vân
X
lOMoARcPSD| 45734214
Gmail: ducthangg26@gmail.com
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1
NỘI DUNG ..................................................................................................................... 1
I. Phân tích cụ thể quy định của CISG về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ................... 1
II. Tóm tắt tranh chấp ...................................................................................................... 4
III. Tóm tắt lập luận của nguyên đơn bị đơn, và cơ quan tài phán .................................. 5
IV. Đánh giá và bình luận về án lệ liên quan đến yêu cầu BTTH do người bán giao hàng
không đúng với hợp đồng ............................................................................................... 6
KẾT LUẬN ................................................................................................................... 10
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ........................................................................................ 10
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................... 10
lOMoARcPSD| 45734214
MỞ ĐẦU
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng mua bản quốc tế một loại
trách nhiệm dân sự, phát sinh kể từ lúc một bên vi phạm nghĩa vụ hợp đồng đã gây cho
bên kia một sự thiệt hại, bên vi phạm phải bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm của
mình gây ra cho bên kia. Theo đó, các điều khoản về BTTH là những điều khoản quan
trọng trong các quy định vluật hợp đồng. Về cơ bản, hợp đồng sinh ra nhằm giúp
các bên đạt được mục đích mà họ nhắm tới khi tiến hành giao kết. Tuy nhiên, khi xuất
hiện hành vi vi phạm và có thiệt hại xảy ra, điều mà các bên quan tâm nhiều nhất m
thế nào để bảo vệ được tối đa quyền lợi của mình. Công ước viên 1980 của Liên hợp
quốc về mua bán hàng hoá quốc tế (CISG) được đánh giá cao nhờ vào cấu trúc các điều
khoản của các chế tài khắc phục thiệt hại, mà trong đó bao gồm chế tài BTTH. Do vậy,
sau đây nhóm chúng em sẽ phân tích đề tài “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong
trường hợp vi phạm hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế theo quy định của CISG
án lệ điển hình.”
NỘI DUNG
I. Phân tích cụ thể quy định của CISG về trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Chế tài BTTH được quy định tĐiều 74 đến Điều 77 CISG, trong đó Điều 74 được
xem quy định mấu chốt, xác lập những nguyên tắc chung khi áp dụng chế tài. Điều
75, 76 CISG quy định cách tính thiệt hại trong trường hợp hợp đồng bị hủy và Điều 77
CISG đề cập đến vấn đề giảm tiền bồi thường do bên đòi bồi thường không tiến hành
các biện pháp hợp lí nhằm hạn chế tổn thất. Cụ thể như sau:
Ðiều 74:Căn cứ theo quy định tại Điều 74 này, cần làm rõ các vấn đề như sau:
- Có hành vi vi phạm hợp đồng: Biểu hiện cụ thể của hành vi vi phạm hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các nghĩa
vụ của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Vi phạm hợp đồng không chỉ là vi phạm
nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng còn vi phạm nghĩa vụ theo quy định của pháp
lOMoARcPSD| 45734214
luật. Hành vi vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế căn cứ để áp dụng đối với
chế tài bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng.
- Có thiệt hại xảy ra: Thiệt hại phát sinh do hành vi vi phạm hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế do các bên thỏa thuận trong hợp đồng theo quy định của pháp luật.
Thiệt hại do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế gây ra căn cứ bắt buộc
phải có khi áp dụng chế tải bồi thưởng thiệt hại. Thiệt hại được đền bù do vi phạm hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế bao gồm thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần.
- Phạm vi thiệt hại được đền bù: CISG quy định bên vi phạm hợp đồng phải bồi
thường thiệt hại phát sinh cho bên bị vi phạm. Tiền bồi thường thiệt hại xảy ra do một
bên vi phạm hợp đồng là một khoản tiền bao gồm tổn thất và khoản lợi bị bỏ lỡ bên
kia phải chịu do hậu quả của sự vi phạm hợp đồng .Tiền bồi thường thiệt hại không thể
cao hơn thiệt hại thực tế những khoản đáng lẽ thu được nhưng bị bỏ lỡ những
khoản bên bị vi phạm đã dự liệu được hoặc đáng lẽ phải dự liệu được vào thời điểm
ký hợp đồng.
1
Ðiều 75: Căn cứ quy định này, Công ước CISG đưa ra cách tính toán thiệt hại trong
trường hợp hợp đồng bị hủy và hợp đồng thay thế:
- Đối với trường hợp bên bị thiệt hại đã kết hợp đồng thay thế. Lúc này,
công thức tính tiền bồi thường bằng khoản chênh lệch giữa giá trị hợp đồng bị hủy( hợp
đồng gốc) và giá hợp đồng thay thế cho bên bị vi phạm. Còn phần chênh lệch thì thể
được điều chỉnh tăng thêm các khoản tiền bồi thường tại Điều 74 hay điều chỉnh giảm
1
󰈞 󰈨󰈨 󰈨󰈨 󰈨󰈨 󰈨󰈨 󰈨󰈨 
󰈨󰈨󰈚 󰉼󰉴 󰈨󰈨 󰈨 󰉴󰈨 󰈚 󰈘 󰈘 󰉴󰈖 󰈨
󰈨
lOMoARcPSD| 45734214
đi các khoản đáng lẽ ra phải ngăn ngừa được theo nguyên tắc hạn chế tổn thất tại Điều
77. Để áp dụng Điều 75 thì cần đáp ứng đủ hai điều kiện: tồn tại việc hủy hợp đồng;
tồn tại giao dịch thay thế giao dịch thay thế này phải tính hợp lý, nghĩa
được thực hiện “một cách hợp lý” “trong một thời gian hợp lý”. Trong một hợp đồng
mua bán hàng hóa, giao dịch thay thế khi có vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng có thể
thực hiện bởi cả bên mua hoặc bên bán. Tuy nhiên, việc xác định việc hủy hợp đồng có
thực cũng như xác định giao dịch thay thế đó đã thực hiện “một cách hợp lý” “trong
một thời gian hợp lý” không hề dễ dàng.
2
- Đối với trường hợp bên bị thiệt hại chưa kết hợp đồng thay thế: Trường
hợp này được áp dụng ng thức tại Điều 76. Điều kiện để áp dụng công thức theo Điều
76: Hợp đồng phải bị hủy; bên bị thiệt hại không ký kết hợp đồng thay thế; tồn tại giá
hiện hành trên thị trường.
Điều 76: [3]
Điều 76 Công ước CISG đưa ra cách tính toán thiệt hại trong trường hợp hủy hợp đồng
nhưng bên bị thiệt hại không ký hợp đồng thay thế. Trường hợp bên bị vi phạm không
ký hợp đồng thay thế, bên vi phạm bồi thường chênh lệch giữa giá hợp đồng bị hủy và
giá thị trường hiện hành cao hơn giá hợp đồng đã bị hủy.
Ðiều 77: [4]
Điều 77 Công ước Viên 1980 quy định bên nào viện dẫn sự vi phạm hợp đồng của bên
kia thì phải áp dụng những biện pháp hợp căn cứ vào các tình huống cụ thể để hạn
chế tổn thất kể cả khoản lợi bị bỏ lỡ do sự vi phạm hợp đồng gây ra. Các biện pháp hạn
2
󰈞 󰈨󰈞 󰈨 󰈨 󰉼󰉴󰈨󰈖 
󰈨󰉼󰉴 󰈨 󰈨 󰉼󰈨 󰈞 󰈖 󰈖 󰉴󰈨 󰈚 󰈚 󰉼󰉴 󰈨󰈨 
󰈨 󰉴󰈨 󰈚 󰈨󰈨󰉼󰈨󰈨
lOMoARcPSD| 45734214
chế tổn thất bao gồm: biện pháp do người mua thực hiện biện pháp do người bán
thực hiện.
3
Về mặt pháp lý bên bị vi phạm không bị bắt buộc thi hành những biện pháp
hợp lý cần thiết để ngăn chặn hoặc hạn chế tổn thất, nhưng về mặt kinh tế bên quyền
phải chịu hậu quả sẽ không được bồi thường đối với những khoản thiệt hại lẽ ra
thể ngăn chặn được hoặc hạn chế được bằng các biện pháp hợp lý cần thiết.
II. Tóm tắt tranh chấp
Các bên tham gia tranh chấp và giải quyết tranh chấp:
Các bên tham gia tranh chấp: Tranh chấp giữa công ty H.D của Pháp (bên mua)
và công ty M.C. S của Ý (bên bán).
Giải quyết tranh chấp: Tranh chấp giữa hai bên được giải quyết bằng Tòa án.
Công ty H.D nộp đơn khởi kiện tại Tòa án; Tranh chấp được xét xử tại Tòa Phúc thẩm
tại thành phố Rennes (Pháp), bản án ngày 27/05/2008.
Sự kiện pháp lý: người mua Pháp đã khởi kiện người bán Italia yêu cầu
chấm dứt hợp đồng cộng với tiền bồi thường thiệt hại.
•Vấn đề pháp lý: tranh chấp về số tiền bồi thường do hàng hóa người bán không
phù hợp với hợp đồng đã được quy định, người mua hủy hợp đồng đòi bồi thường
thiệt hại.
*Luật áp dụng giải quyết tranh chấp: Tòa án cho rằng hợp đồng được điều
chỉnh bởi (CISG) do Pháp Italia đều thành viên của Công ước này. Tòa án áp dụng
các điều 25, 35, 47, 49, 75, 77 (CISG)
3
󰉼 󰈖 󰈨󰈨 󰈨󰈨 󰈨 󰈨 󰉼󰉴 󰈨 󰈨 󰈨󰈘 
󰉴󰈨 󰈚 󰈘 󰈘 󰉼󰉴 
lOMoARcPSD| 45734214
III. Tóm tắt lập luận của nguyên đơn bị đơn, và cơ quan tài phán
Lập luận của nguyên đơn:
Công ty HD công ty MSC đã ký kết hợp đồng mua bán đầu tiên vào 19/6/2003.
Hợp đồng này đã không được người bán là công ty MSC thực hiện một cách chính xác
nghĩa vụ tuân thủ quy định tại Điều 35 của CISG không được tôn trọng và người bán
đã không thực hiện việc giao hàng tuân thủ trong thời hạn bổ sung mà họ đã đặt ra
hoãn ngày giao hàng đến tháng 1 năm 2004. Do đó, công ty HD cho rằng hợp đồng này
thể bị chấm dứt theo Điều 49 CISG. Hợp đồng thứ hai đã không được thực hiện theo
các điều kiện mà hai công ty đã thoả thuận ban đầu. Tuy nhiên, công ty HD đã thể hiện
thiện chí tiếp tục quan hệ với công ty MSC, nhưng sau đó, vào 19/11/2003, công ty
MSC đã không tôn trọng các điều khoản của thỏa thuận của đơn đặt hàng thứ ba, thời
gian giao hàng bị hoãn lại 5 tuần so với thỏa thuận. Do đó, công ty HD cho rằng công
ty hoàn toàn có căn cđể hủy đơn đặt hàng với công ty MSC theo Điều 26 và 49 CISG
và công ty HD đã thông báo cho công ty MSC hợp đồng đã bị chấm dứt. Việc công ty
HD đưa ra với các điều kiện giá ấn định trong hợp đồng đã giao kết trước đó đã không
được công ty MCS chấp nhận công ty MSC đã thông báo đơn giá được chỉ định
trong đơn đặt hàng cuối cùng sẽ tăng lên. Do đó, không có thỏa thuận về ý chí của các
bên về đơn đặt hàng này. Do đó, công ty HD cho rằng theo các khoản trong Điều 19
của CISG, công ty MCS đã hình thành một đề nghị ngược lại đề nghị của công ty HD,
có chứa một yếu tố (giá) làm thay đổi đáng kể các điều khoản của đề nghị ban đầu hay
biến đổi một cách bản nội dung của chào ng, vậy, công ty HD quyền phúc
đáp có khuynh hướng từ chối chào hàng.
Lập luận của bị đơn:
Sau đơn đặt hàng đầu tiên, công ty MCS cho rằng công ty HD thể đã tránh được
một phần thiệt hại bằng cách ngừng sản xuất càng sớm càng tốt, và công ty H.D đã
không thực hiện các biện pháp hợp lý để hạn chế tổn thất, theo nghĩa của Điều 77 của
lOMoARcPSD| 45734214
CISG. Công ty MCS giải thích rằng trách nhiệm của MCS đối với đơn đặt hàng thứ hai
thứ ba không được thiết lập, và thậm chí ít thiệt hại dẫn đến tđó theo Điều 75
CISG. Công ty MSC nói rằng không hợp đồng nào được kết vào ngày 17 tháng
11, liên quan đến đơn đặt hàng của 2100 chiếc áo lót, các bộ phận chưa thống nhất
về giá cả; do đó, trách nhiệm hợp đồng của MCS không thể phát huy tác dụng vào thời
điểm này.
Lập luận của cơ quan tài phán:
Tòa phúc thẩm cho rằng vấn đề đang được xử do CISG. Tòa án nhận thấy
rằng, hợp đồng vào tháng 6 năm 2003 đã không được thực hiện một cách hợp lệ,
người bán đã không giao hàng hóa phù hợp trong thời hạn bổ sung mà người mua cho
phép để thực hiện (điều 35 47 CISG). Tháng 7 năm 2003, các bên đã kết hợp
đồng thứ hai, nhưng sau đó người bán lại đề xuất tăng giá hoãn ngày giao hàng thì
bên mua đã chấm dứt hợp đồng một cách chính đáng theo đúng quy định của pháp luật
theo Điều 26 49 CISG. Tòa án loại trừ rằng các bên đã ký kết hợp đồng thứ ba liên
quan đến đơn đặt hàng được đặt vào tháng 11 năm 2003. Trên thực tế, câu trả lời của
người bán đối với đơn đặt hàng của người mua có các điều khoản khác nhau về cơ bản
liên quan đến đơn giá và thời gian giao hàng, do đó dẫn đến một đnghị ngược lại theo
Điều 19 CISG. Tòa án nhận thấy rằng, bằng cách chờ ba ngày kể từ khi phát hiện ra sự
thiếu phù hợp trước khi làm gián đoạn việc sản xuất hàng hóa, người mua đã không
giảm nhẹ tổn thất theo yêu cầu của Điều 77 CISG. Tòa án cho rằng người mua không
có quyền thu hồi phần chênh lệch giữa giá hợp đồng và giá của giao dịch thay thế được
kết sau khi tránh hợp đồng mua bán, việc đòi nhận phần chênh lệch giữa
giá hợp đồng và giá mua thế không thể được coi là “hợp lý” theo Điều 75 CISG.
IV. Đánh giá và bình luận về án lệ liên quan đến yêu cầu BTTH do người bán
giao hàng không đúng với hợp đồng
Theo lập luận của nguyên đơn (bên mua công ty H.D, Pháp), bị đơn (bên bán
– công ty M.C.S, Ý) đã không tôn trọng quy định tại điều 35 của công ước Vienna đối
lOMoARcPSD| 45734214
với đơn hàng thứ nhất thứ hai hợp lý, trên thực tế, theo như diễn biến vụ việc trong
bản án, lập luận này của nguyên đơn là có căn cứ. Bởi lẽ, sau khi bên bán kiểm tra hàng
và phát hiện hàng được giao không phù hợp với hàng hóa mà hai bên thỏa thuận trong
hợp đồng, cụ thể là đơn hàng thứ nhất lượng lớn hàng hóa không phù hợp, đơn hàng
thứ hai 13800 đơn vị hàng hóa không phù hợp trên tổng đơn 14100 đơn vị hàng hóa.
Đối với khiếm khuyết của hàng hóa cả hai hợp đồng, theo chúng em, H.D đều đã
thông báo cho M.C.S trong khoảng thời gian hợp lý theo quy định tại khoản 1 Điều 39
CISG. Chỉ riêng đối với đơn hàng thứ hai, các điều khoản vsố lượng, thời gian giao
hàng và điều kiện thanh toán được các bên thỏa thuận vào tháng 11/2003. Mặc dù hợp
đồng thứ hai đã không thể thực hiện được theo điều kiện mà hai công ty đặt ra ban đầu,
nhưng hai bên vẫn thể hiện thiện chí hợp tác qua việc trao đổi fax ngày 03/11
17/11/2003.
Theo đó, 03/11/2003, công ty M.C.S đề nghị trong fax rằng sẽ tái sản xuất lại
hàng hóa vận chuyển cho công ty H.D theo chi phí của mình, đồng thời cũng quy
định các điều khoản thanh toán nghiêm ngặt. 17/11/2003, Công ty H.D đã chấp nhận
chào hàng và đồng thời đưa ra điều kiện giảm 500 đơn vị hàng hóa.
Tuy nhiên, đến ngày 19/11/2003, công ty M.C.S đã không tôn trọng những điều khoản
các bên đã thỏa thuận và hoãn thời gian giao hàng lại 5 tuần so với thỏa thuận. Từ đó,
ta thể thấy rằng, vào ngày 19/11/2003 công ty M.C.S đã đưa ra một chào hàng ngược
lại với công ty H.D về việc hoãn thời gian giao hàng tăng giá đối với đơn vhàng
hóa (theo chi phí của M.C.S) khiến công ty H.D không thể không phản đối thời gian
giao hàng, điều khoản thanh toán giá của hàng hóa. Do vậy, việc H.D cho rằng với
điều kiện mà M.C.S đã đặt ra vào ngày 19/11/2003 một chào hàng ngược lại với điều
kiện mà công ty H.D đưa ra trước đó, có bao gồm yếu tố giá làm thay đổi đáng kể các
điều khoản của đề nghị ban đầu theo quy định của Điều 19 CISG, hợp lý. Do đó công
ty H.D có quyền từ chối chào hàng của công ty M.C.S.
lOMoARcPSD| 45734214
Đối với việc M.C.S không tôn trọng quy định tại Điều 35 CISG, giao cho công
ty H.D một lượng lớn hàng hóa không phợp cả 2 hợp đồng, mặc M.C.S thiện
chí hợp tác đối với việc khắc phục hàng hóa không phù hợp của đơn hàng thứ hai, tuy
nhiên những điều khoản M.C.S đưa ra vào ngày 19/11/2003 những điều khoản
H.D không thể chấp nhận được. Do vậy, H.D căn cứ hợp để hủy hai đơn đặt
hàng này yêu cầu công ty M.C.S bồi thường thiệt hại theo quy định tại điều 26
điều 49 của CISG.
Về yêu cầu bồi thường thiệt hại của công ty H.D đối với chi phí sản xuất
1800 chiếc áo bơi ở đơn đặt hàng đầu tiên là 16.290 EURO, theo quan điểm của chúng
em, M.C.S căn cứ để bác bỏ yêu cầu này công ty H.D đã không thực hiện các biện
pháp hợp để hạn chế tổn thất theo quy định tại Điều 77 CISG, lập luận bác bỏ của
M.C.S về vấn đề này hợp lý. Cụ thể đến ngày 26/9, khi TUNISIA mới sản xuất
được 860 chiếc áo bơi, nếu H.D dừng ngay việc sản xuất từ ngày 26/9 thay vì sau đó 3
ngày thì đã giảm được tổn thất. Do sự chậm trễ trong việc hạn chế tổn thất khi phát hiện
sự không phù hợp của hàng hóa nên mức bồi thường thiệt hại công ty H.D nhận
được sẽ bị giảm xuống bằng với mức thực tế nếu kịp thời ngăn chặn thiệt hại. Ngoài ra,
giá sản xuất áo bơi công ty H.D đưa ra (9,05 EURO/áo) chưa hợp do chi phí
nhân công trung bình ở TUNISIA thấp hơn ở Pháp rất nhiều (khoảng 1 EURO/áo), do
vậy, chúng em cho rằng, công ty H.D đã sự lạm dụng, thổi phồng thiệt hại của mình
lên một cách bất hợp lý, giá sản xuất hàng hóa phải được tính toán một cách hợp theo
thị trường.
Thêm vào đó, việc công ty H.D yêu cầu M.C.S phải trả khoản chênh lệch và lập
luận rằng để hạn chế tổn thất mà công ty này phải mua hàng một cách vội vàng với giá
cao hơn công ty M.C.S cung cấp (do không lợi thế đàm phán) không hợp
do giá chênh lệch quá lớn (theo hợp đồng là 0,93 và 0,98 EURO tương ứng với hai
cỡ hàng hóa khác nhau giá thay thế là 1,98 EURO). H.D viện dẫn Điều 75 của CISG
làm căn cứ buộc M.C.S phải bồi thường thiệt hại, tuy nhiên theo quy định tại điều 75
lOMoARcPSD| 45734214
của công ước này, việc mua hàng cả một nhà cung cấp khác với giá trị chênh lệch quá
lớn như vậy không được coi “cách thức hợp lý”, do vậy việc H.D yêu cầu M.C.S phải
trả khoản chênh lệch giữa hai hợp đồng là không thỏa đáng.
Chúng em đồng tình với phán quyết quan điểm Tòa án đưa ra khi nhận
định về các hành vi và sự kiện phát sinh trong vụ việc. Tòa án đã áp dụng phù hợp các
quy định của CISG, đưa ra phán quyết công bằng cho cả bên mua và bên bán. Theo đó,
bên bán - công ty M.C.S phải chịu trách nhiệm bồi thường cho thiệt hại của bên mua -
công ty H.D khi không tôn trọng quy định của Điều 35 CISG khiến bên mua bị tổn thất
vì hàng hóa hạ cấp. Công ty M.C.S, theo phán quyết của Tòa án, phải trả cho bên mua
một khoản bồi thường thiệt hại thỏa đáng 3000 EURO thay vì 32.490 EURO
công ty H.D yêu cầu vì lí do công ty H.D đã không thực hiện đúng quy định của Điều
77 CISG. Hơn nữa, do biện pháp khắc phục thiệt hại của công ty H.D khi mua sản phẩm
của một nhà cung cấp khác với giá trị chênh lệch quá lớn được đánh giá không phù
hợp với quy định tại Điều 75 CISG, do vậy nên công ty H.D không được bồi thường về
khoản chênh lệch giữa 2 hợp đồng là hoàn toàn thỏa đáng. Vì các lí do đã kể trên, Tòa
án đã ra phán quyết phù hợp với bản chất của vụ việc trên thực tế, căn cứ theo Điều 74
CISG, công ty M.C.S phải trả cho công ty H.D khoản bồi thường thiệt hại 3000
EURO.
Tranh chấp này cho thấy, để đòi bồi thường thiệt hại thành công, bên bị vi phạm
phải tuân thủ hai nguyên tắc rất quan trọng sau đây:
Thứ nhất nguyên tắc hạn chế tổn thất. theo đó, bên đòi bồi thường thiệt hại
phải áp dụng những biện pháp hợp lý để hạn chế tổn thất. dụ, trong trường hợp tranh
chấp này, một cách hợp , người mua Pháp đáng lẽ thể hạn chế đáng kể thiệt hại
bằng cách ngừng ngay dây chuyền sản xuất khi phát hiện sự không phù hợp của hàng
hóa. Hành động chậm trễ của người mua đã khiến người mua bị giảm tiền bồi thường
xuống tương ứng với những thiệt hại đáng lẽ ra thể hạn chế được nếu hành động
ngay lập tức.
lOMoARcPSD| 45734214
Thứ hai nguyên tắc các khoản thiệt hại phải được tính toán chứng minh một
cách hợp lý. Tính hợp lý ở đây được đánh giá một cách khách quan, dựa trên thực tiễn
các yếu tố của tranh chấp của thị trường. Nguyên tắc này. không cho phép các bên
thổi phồng thiệt hại của mình lên một cách căn cứ, bất hợp lý. Trong tranh chấp này,
tòa án đã dựa vào giá hàng, giá nhân công cũng như mức giá của thị trường để nhận
định rằng các thiệt hại mà người mua tính toán là bất hợp lý, không khách quan, không
phù hợp với thực tiễn.
KẾT LUẬN
Qua án lệ về yêu cầu bồi thường thiệt hại do người bán giao hàng không đúng với hợp
đồng, nhóm chúng em đã làm sáng tỏ một số vấn đề pháp bộ môn đưa ra. Trên
đây phần trình bầy của nhóm em qua quá trình nghiên cứu thảo luận, do kiến thức
còn hạn chế và thiếu tiếp xúc thực tiễn nên còn có sai sót. Chúng em mong nhận được
góp ý của thầy/cô để hoàn thiện vốn kiến thức của mình hơn. Chúng em xin chân thành
cảm ơn quý thầy cô!
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
1. BTTH: Bồi thường thiệt hại
2. CISG: Công ước của liên hợp quốc về mua bán hàng hóa quốc tế
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
3. Đại học Luật Nội, giáo trình Luật thương mại quốc tế năm 2017, nxb công
an nhân dân
4. https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Thuong-mai/Cong-uoc-vien-Lien-Hopquoc-
mua-ban-hang-hoa-quoc-te-11-04-1980-90153.aspx
lOMoARcPSD| 45734214
5. Nguyễn Đô, Luận văn thạc Luật học(2018), Viện hàn lâm Khoa học hội-
Học viện khoa học hội, “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp
đồng mua bán hàng hoá quốc tế ở việt nam hiện nay”
6. Nguyễn Thị Yên, ThS. Nguyễn Ngọc Biện Thuỳ Hương, ThS. Vũ Thị
Bích Hải, ThS. Đinh Lê oanh ( Khoa Luật, Trường đại học Văn Lang), “Thực tiễn hủy
bỏ hợp đồng và bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng theo CISG 1980 qua một án
lệ - Lưu ý cho doanh nghiệp Việt Nam”
7. Hữu Hải, Luận văn Thạc Luật học(2020), Đại học Huê- Trường đại học
Luật, Chế tài do vi pham hợp đồng mua bán hang hoá quốc tế theo công ước
viên 1980"

Preview text:

lOMoAR cPSD| 45734214
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI BÀI TẬP NHÓM
MÔN: LUẬT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
ĐỀ BÀI:
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp vi phạm hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo quy định của CISG và án lệ điển
hình L ớ p : N04.TL 3 Nhóm : 7
Hà Nội, 2021 lOMoAR cPSD| 45734214
BIÊN BẢN XÁC ĐỊNH MỨC ĐỘ THAM GIA VÀ
KẾT QUẢ THAM GIA LÀM BÀI TẬP NHÓM Nhóm số: 7 Lớp: N04_TL3
Tổng số sinh viên của nhóm: 7
sinh viên. Môn học: Luật thương mại quốc tế
Xác nhận mức độ tham gia và kết quả tham gia của từng sinh viên trong việc thực hiện bài
tập nhóm của bộ môn. Kết quả như sau:
Đánh giá của SV SV ký Đánh giá của GV tên STT Mã SV Họ và tên Điểm Điểm GV A B C (số) (chữ) ký tên
1 440845 Lường Đức Thắng X Nguyễn Thị Thanh X 2 440846 Huyền 3 440847 Lê Thị Quỳnh X 4 440848 Trần Thanh Hà X
5 440849 Trần Lê Ngọc Khuê X 6 440850 Ôn Thị Vân Anh X 7 440851 Lại Kiều Vân X -Kết quả bài viết
TRƯỞNG NHÓM Giáo viên chấm :……………………..
Kết quả điểm thuyết trình:
LƯỜNG ĐỨC THẮNG
Thông tin liên hệ: Lường Đức Thắng
Số điện thoại: 0961322438 lOMoAR cPSD| 45734214
Gmail: ducthangg26@gmail.com MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1
NỘI DUNG ..................................................................................................................... 1
I. Phân tích cụ thể quy định của CISG về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ................... 1
II. Tóm tắt tranh chấp ...................................................................................................... 4
III. Tóm tắt lập luận của nguyên đơn bị đơn, và cơ quan tài phán .................................. 5
IV. Đánh giá và bình luận về án lệ liên quan đến yêu cầu BTTH do người bán giao hàng
không đúng với hợp đồng ............................................................................................... 6
KẾT LUẬN ................................................................................................................... 10
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ........................................................................................ 10
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................... 10 lOMoAR cPSD| 45734214 MỞ ĐẦU
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng mua bản quốc tế là một loại
trách nhiệm dân sự, phát sinh kể từ lúc một bên vi phạm nghĩa vụ hợp đồng đã gây cho
bên kia một sự thiệt hại, bên vi phạm phải bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm của
mình gây ra cho bên kia. Theo đó, các điều khoản về BTTH là những điều khoản quan
trọng trong các quy định về luật hợp đồng. Về cơ bản, hợp đồng sinh ra là nhằm giúp
các bên đạt được mục đích mà họ nhắm tới khi tiến hành giao kết. Tuy nhiên, khi xuất
hiện hành vi vi phạm và có thiệt hại xảy ra, điều mà các bên quan tâm nhiều nhất là làm
thế nào để bảo vệ được tối đa quyền lợi của mình. Công ước viên 1980 của Liên hợp
quốc về mua bán hàng hoá quốc tế (CISG) được đánh giá cao nhờ vào cấu trúc các điều
khoản của các chế tài khắc phục thiệt hại, mà trong đó bao gồm chế tài BTTH. Do vậy,
sau đây nhóm chúng em sẽ phân tích đề tài “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong
trường hợp vi phạm hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế theo quy định của CISG và
án lệ điển hình.”
NỘI DUNG
I. Phân tích cụ thể quy định của CISG về trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Chế tài BTTH được quy định từ Điều 74 đến Điều 77 CISG, trong đó Điều 74 được
xem là quy định mấu chốt, xác lập những nguyên tắc chung khi áp dụng chế tài. Điều
75, 76 CISG quy định cách tính thiệt hại trong trường hợp hợp đồng bị hủy và Điều 77
CISG đề cập đến vấn đề giảm tiền bồi thường do bên đòi bồi thường không tiến hành
các biện pháp hợp lí nhằm hạn chế tổn thất. Cụ thể như sau:
Ðiều 74:Căn cứ theo quy định tại Điều 74 này, cần làm rõ các vấn đề như sau: -
Có hành vi vi phạm hợp đồng: Biểu hiện cụ thể của hành vi vi phạm hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế là việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các nghĩa
vụ của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Vi phạm hợp đồng không chỉ là vi phạm
nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng mà còn là vi phạm nghĩa vụ theo quy định của pháp lOMoAR cPSD| 45734214
luật. Hành vi vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là căn cứ để áp dụng đối với
chế tài bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng. -
Có thiệt hại xảy ra: Thiệt hại phát sinh do hành vi vi phạm hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế do các bên thỏa thuận trong hợp đồng và theo quy định của pháp luật.
Thiệt hại do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế gây ra là căn cứ bắt buộc
phải có khi áp dụng chế tải bồi thưởng thiệt hại. Thiệt hại được đền bù do vi phạm hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế bao gồm thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần. -
Phạm vi thiệt hại được đền bù: CISG quy định bên vi phạm hợp đồng phải bồi
thường thiệt hại phát sinh cho bên bị vi phạm. Tiền bồi thường thiệt hại xảy ra do một
bên vi phạm hợp đồng là một khoản tiền bao gồm tổn thất và khoản lợi bị bỏ lỡ mà bên
kia phải chịu do hậu quả của sự vi phạm hợp đồng .Tiền bồi thường thiệt hại không thể
cao hơn thiệt hại thực tế và những khoản đáng lẽ thu được nhưng bị bỏ lỡ là những
khoản mà bên bị vi phạm đã dự liệu được hoặc đáng lẽ phải dự liệu được vào thời điểm ký hợp đồng.1
Ðiều 75: Căn cứ quy định này, Công ước CISG đưa ra cách tính toán thiệt hại trong
trường hợp hợp đồng bị hủy và hợp đồng thay thế: -
Đối với trường hợp bên bị thiệt hại đã ký kết hợp đồng thay thế. Lúc này,
công thức tính tiền bồi thường bằng khoản chênh lệch giữa giá trị hợp đồng bị hủy( hợp
đồng gốc) và giá hợp đồng thay thế cho bên bị vi phạm. Còn phần chênh lệch thì có thể
được điều chỉnh tăng thêm các khoản tiền bồi thường tại Điều 74 hay điều chỉnh giảm
1 Nguyễ n Đô , Luậ n vậ n thậ c sĩ Luậ t hô c (2018), Viễ n hậ n lậ m Khôậ hô c xậ hô i- Hô c viễ n khôậ hô c
xậ hô i, “Trậ ch nhiễ m bô i thườ ng thiễ t hậ i dô vi phậ m hờ p đô ng muậ bậ n hậ ng hôậ quô c tễ ờ Viễ t Nậm hiễ n nậy” lOMoAR cPSD| 45734214
đi các khoản đáng lẽ ra phải ngăn ngừa được theo nguyên tắc hạn chế tổn thất tại Điều
77. Để áp dụng Điều 75 thì cần đáp ứng đủ hai điều kiện: Có tồn tại việc hủy hợp đồng;
Có tồn tại giao dịch thay thế và giao dịch thay thế này phải có tính hợp lý, nghĩa là
được thực hiện “một cách hợp lý” và “trong một thời gian hợp lý”. Trong một hợp đồng
mua bán hàng hóa, giao dịch thay thế khi có vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng có thể
thực hiện bởi cả bên mua hoặc bên bán. Tuy nhiên, việc xác định việc hủy hợp đồng có
thực cũng như xác định giao dịch thay thế đó đã thực hiện “một cách hợp lý” “trong
một thời gian hợp lý” không hề dễ dàng.2 -
Đối với trường hợp bên bị thiệt hại chưa ký kết hợp đồng thay thế: Trường
hợp này được áp dụng công thức tại Điều 76. Điều kiện để áp dụng công thức theo Điều
76: Hợp đồng phải bị hủy; bên bị thiệt hại không ký kết hợp đồng thay thế; tồn tại giá
hiện hành trên thị trường. Điều 76: [3]
Điều 76 Công ước CISG đưa ra cách tính toán thiệt hại trong trường hợp hủy hợp đồng
nhưng bên bị thiệt hại không ký hợp đồng thay thế. Trường hợp bên bị vi phạm không
ký hợp đồng thay thế, bên vi phạm bồi thường chênh lệch giữa giá hợp đồng bị hủy và
giá thị trường hiện hành cao hơn giá hợp đồng đã bị hủy. Ðiều 77: [4]
Điều 77 Công ước Viên 1980 quy định bên nào viện dẫn sự vi phạm hợp đồng của bên
kia thì phải áp dụng những biện pháp hợp lý căn cứ vào các tình huống cụ thể để hạn
chế tổn thất kể cả khoản lợi bị bỏ lỡ do sự vi phạm hợp đồng gây ra. Các biện pháp hạn
2 Nguyễ n Thi Yễ n, ThS. Nguyễ n Ngô c Biễ n Thuy Hường, ThS. Vu Thi Bĩ ch Hậ i, ThS. Đinh Lễ Oậnh
(Khôậ Luậ t, Trườ ng đậ i hô c Vậ n Lậng), “Thư c tiễ n hu y bô hờ p đô ng vậ bô i thườ ng thiễ t hậ i dô
vi phậ m hờ p đô ng thễô CISG 1980 quậ mô t ậ n lễ - Lưu y chô dôậnh nghiễ p Viễ t Nậm” lOMoAR cPSD| 45734214
chế tổn thất bao gồm: biện pháp do người mua thực hiện và biện pháp do người bán
thực hiện.3 Về mặt pháp lý bên bị vi phạm không bị bắt buộc thi hành những biện pháp
hợp lý cần thiết để ngăn chặn hoặc hạn chế tổn thất, nhưng về mặt kinh tế bên có quyền
phải chịu hậu quả là sẽ không được bồi thường đối với những khoản thiệt hại lẽ ra có
thể ngăn chặn được hoặc hạn chế được bằng các biện pháp hợp lý cần thiết.
II. Tóm tắt tranh chấp
• Các bên tham gia tranh chấp và giải quyết tranh chấp:
Các bên tham gia tranh chấp: Tranh chấp giữa công ty H.D của Pháp (bên mua)
và công ty M.C. S của Ý (bên bán).
Giải quyết tranh chấp: Tranh chấp giữa hai bên được giải quyết bằng Tòa án.
Công ty H.D nộp đơn khởi kiện tại Tòa án; Tranh chấp được xét xử tại Tòa Phúc thẩm
tại thành phố Rennes (Pháp), bản án ngày 27/05/2008.
• Sự kiện pháp lý: người mua Pháp đã khởi kiện người bán Italia yêu cầu
chấm dứt hợp đồng cộng với tiền bồi thường thiệt hại.
•Vấn đề pháp lý: tranh chấp về số tiền bồi thường do hàng hóa người bán không
phù hợp với hợp đồng đã được quy định, người mua hủy hợp đồng và đòi bồi thường thiệt hại.
*Luật áp dụng giải quyết tranh chấp: Tòa án cho rằng hợp đồng được điều
chỉnh bởi (CISG) do Pháp và Italia đều là thành viên của Công ước này. Tòa án áp dụng
các điều 25, 35, 47, 49, 75, 77 (CISG)
3 Lễ Hư u Hậ i, Luậ n vậ n Thậ c sĩ Luậ t hô c(2020), Đậ i hô c Huễ - Trườ ng đậ i hô c Luậ t, “ Chễ tậ i dô
vi phậm hờ p đô ng muậ bậ n hậng hôậ quô c tễ thễô Cô ng ườ c viễ n 1980" lOMoAR cPSD| 45734214
III. Tóm tắt lập luận của nguyên đơn bị đơn, và cơ quan tài phán
• Lập luận của nguyên đơn:
Công ty HD và công ty MSC đã ký kết hợp đồng mua bán đầu tiên vào 19/6/2003.
Hợp đồng này đã không được người bán là công ty MSC thực hiện một cách chính xác
vì nghĩa vụ tuân thủ quy định tại Điều 35 của CISG không được tôn trọng và người bán
đã không thực hiện việc giao hàng tuân thủ trong thời hạn bổ sung mà họ đã đặt ra mà
hoãn ngày giao hàng đến tháng 1 năm 2004. Do đó, công ty HD cho rằng hợp đồng này
có thể bị chấm dứt theo Điều 49 CISG. Hợp đồng thứ hai đã không được thực hiện theo
các điều kiện mà hai công ty đã thoả thuận ban đầu. Tuy nhiên, công ty HD đã thể hiện
thiện chí tiếp tục quan hệ với công ty MSC, nhưng sau đó, vào 19/11/2003, công ty
MSC đã không tôn trọng các điều khoản của thỏa thuận của đơn đặt hàng thứ ba, thời
gian giao hàng bị hoãn lại 5 tuần so với thỏa thuận. Do đó, công ty HD cho rằng công
ty hoàn toàn có căn cứ để hủy đơn đặt hàng với công ty MSC theo Điều 26 và 49 CISG
và công ty HD đã thông báo cho công ty MSC hợp đồng đã bị chấm dứt. Việc công ty
HD đưa ra với các điều kiện giá ấn định trong hợp đồng đã giao kết trước đó đã không
được công ty MCS chấp nhận mà công ty MSC đã thông báo đơn giá được chỉ định
trong đơn đặt hàng cuối cùng sẽ tăng lên. Do đó, không có thỏa thuận về ý chí của các
bên về đơn đặt hàng này. Do đó, công ty HD cho rằng theo các khoản trong Điều 19
của CISG, công ty MCS đã hình thành một đề nghị ngược lại đề nghị của công ty HD,
có chứa một yếu tố (giá) làm thay đổi đáng kể các điều khoản của đề nghị ban đầu hay
biến đổi một cách cơ bản nội dung của chào hàng, vì vậy, công ty HD có quyền phúc
đáp có khuynh hướng từ chối chào hàng.
• Lập luận của bị đơn:
Sau đơn đặt hàng đầu tiên, công ty MCS cho rằng công ty HD có thể đã tránh được
một phần thiệt hại bằng cách ngừng sản xuất càng sớm càng tốt, và công ty H.D đã
không thực hiện các biện pháp hợp lý để hạn chế tổn thất, theo nghĩa của Điều 77 của lOMoAR cPSD| 45734214
CISG. Công ty MCS giải thích rằng trách nhiệm của MCS đối với đơn đặt hàng thứ hai
và thứ ba là không được thiết lập, và thậm chí ít thiệt hại dẫn đến từ đó theo Điều 75
CISG. Công ty MSC nói rằng không có hợp đồng nào được ký kết vào ngày 17 tháng
11, liên quan đến đơn đặt hàng của 2100 chiếc áo lót, vì các bộ phận chưa thống nhất
về giá cả; do đó, trách nhiệm hợp đồng của MCS không thể phát huy tác dụng vào thời điểm này.
• Lập luận của cơ quan tài phán:
Tòa phúc thẩm cho rằng vấn đề đang được xử lý do CISG. Tòa án nhận thấy
rằng, hợp đồng vào tháng 6 năm 2003 đã không được thực hiện một cách hợp lệ, vì
người bán đã không giao hàng hóa phù hợp trong thời hạn bổ sung mà người mua cho
phép để thực hiện (điều 35 và 47 CISG). Tháng 7 năm 2003, các bên đã ký kết hợp
đồng thứ hai, nhưng sau đó người bán lại đề xuất tăng giá và hoãn ngày giao hàng thì
bên mua đã chấm dứt hợp đồng một cách chính đáng theo đúng quy định của pháp luật
theo Điều 26 và 49 CISG. Tòa án loại trừ rằng các bên đã ký kết hợp đồng thứ ba liên
quan đến đơn đặt hàng được đặt vào tháng 11 năm 2003. Trên thực tế, câu trả lời của
người bán đối với đơn đặt hàng của người mua có các điều khoản khác nhau về cơ bản
liên quan đến đơn giá và thời gian giao hàng, do đó dẫn đến một đề nghị ngược lại theo
Điều 19 CISG. Tòa án nhận thấy rằng, bằng cách chờ ba ngày kể từ khi phát hiện ra sự
thiếu phù hợp trước khi làm gián đoạn việc sản xuất hàng hóa, người mua đã không
giảm nhẹ tổn thất theo yêu cầu của Điều 77 CISG. Tòa án cho rằng người mua không
có quyền thu hồi phần chênh lệch giữa giá hợp đồng và giá của giao dịch thay thế được
ký kết sau khi né tránh hợp đồng mua bán, và vì việc đòi nhận phần chênh lệch giữa
giá hợp đồng và giá mua thế không thể được coi là “hợp lý” theo Điều 75 CISG.
IV. Đánh giá và bình luận về án lệ liên quan đến yêu cầu BTTH do người bán
giao hàng không đúng với hợp đồng
Theo lập luận của nguyên đơn (bên mua – công ty H.D, Pháp), bị đơn (bên bán
– công ty M.C.S, Ý) đã không tôn trọng quy định tại điều 35 của công ước Vienna đối lOMoAR cPSD| 45734214
với đơn hàng thứ nhất và thứ hai là hợp lý, trên thực tế, theo như diễn biến vụ việc trong
bản án, lập luận này của nguyên đơn là có căn cứ. Bởi lẽ, sau khi bên bán kiểm tra hàng
và phát hiện hàng được giao không phù hợp với hàng hóa mà hai bên thỏa thuận trong
hợp đồng, cụ thể là đơn hàng thứ nhất có lượng lớn hàng hóa không phù hợp, đơn hàng
thứ hai có 13800 đơn vị hàng hóa không phù hợp trên tổng đơn 14100 đơn vị hàng hóa.
Đối với khiếm khuyết của hàng hóa ở cả hai hợp đồng, theo chúng em, H.D đều đã
thông báo cho M.C.S trong khoảng thời gian hợp lý theo quy định tại khoản 1 Điều 39
CISG. Chỉ riêng đối với đơn hàng thứ hai, các điều khoản về số lượng, thời gian giao
hàng và điều kiện thanh toán được các bên thỏa thuận vào tháng 11/2003. Mặc dù hợp
đồng thứ hai đã không thể thực hiện được theo điều kiện mà hai công ty đặt ra ban đầu,
nhưng hai bên vẫn thể hiện thiện chí hợp tác qua việc trao đổi fax ngày 03/11 và 17/11/2003.
Theo đó, 03/11/2003, công ty M.C.S đề nghị trong fax rằng sẽ tái sản xuất lại
hàng hóa và vận chuyển cho công ty H.D theo chi phí của mình, đồng thời cũng quy
định các điều khoản thanh toán nghiêm ngặt. 17/11/2003, Công ty H.D đã chấp nhận
chào hàng và đồng thời đưa ra điều kiện giảm 500 đơn vị hàng hóa.
Tuy nhiên, đến ngày 19/11/2003, công ty M.C.S đã không tôn trọng những điều khoản
các bên đã thỏa thuận và hoãn thời gian giao hàng lại 5 tuần so với thỏa thuận. Từ đó,
ta có thể thấy rằng, vào ngày 19/11/2003 công ty M.C.S đã đưa ra một chào hàng ngược
lại với công ty H.D về việc hoãn thời gian giao hàng và tăng giá đối với đơn vị hàng
hóa (theo chi phí của M.C.S) khiến công ty H.D không thể không phản đối thời gian
giao hàng, điều khoản thanh toán và giá của hàng hóa. Do vậy, việc H.D cho rằng với
điều kiện mà M.C.S đã đặt ra vào ngày 19/11/2003 là một chào hàng ngược lại với điều
kiện mà công ty H.D đưa ra trước đó, có bao gồm yếu tố giá làm thay đổi đáng kể các
điều khoản của đề nghị ban đầu theo quy định của Điều 19 CISG, là hợp lý. Do đó công
ty H.D có quyền từ chối chào hàng của công ty M.C.S. lOMoAR cPSD| 45734214
Đối với việc M.C.S không tôn trọng quy định tại Điều 35 CISG, giao cho công
ty H.D một lượng lớn hàng hóa không phù hợp ở cả 2 hợp đồng, mặc dù M.C.S có thiện
chí hợp tác đối với việc khắc phục hàng hóa không phù hợp của đơn hàng thứ hai, tuy
nhiên những điều khoản mà M.C.S đưa ra vào ngày 19/11/2003 là những điều khoản
mà H.D không thể chấp nhận được. Do vậy, H.D có căn cứ hợp lí để hủy hai đơn đặt
hàng này và yêu cầu công ty M.C.S bồi thường thiệt hại theo quy định tại điều 26 và điều 49 của CISG.
Về yêu cầu bồi thường thiệt hại của công ty H.D đối với chi phí sản xuất
1800 chiếc áo bơi ở đơn đặt hàng đầu tiên là 16.290 EURO, theo quan điểm của chúng
em, M.C.S có căn cứ để bác bỏ yêu cầu này vì công ty H.D đã không thực hiện các biện
pháp hợp lý để hạn chế tổn thất theo quy định tại Điều 77 CISG, lập luận bác bỏ của
M.C.S về vấn đề này là hợp lý. Cụ thể là đến ngày 26/9, khi TUNISIA mới sản xuất
được 860 chiếc áo bơi, nếu H.D dừng ngay việc sản xuất từ ngày 26/9 thay vì sau đó 3
ngày thì đã giảm được tổn thất. Do sự chậm trễ trong việc hạn chế tổn thất khi phát hiện
sự không phù hợp của hàng hóa nên mức bồi thường thiệt hại mà công ty H.D nhận
được sẽ bị giảm xuống bằng với mức thực tế nếu kịp thời ngăn chặn thiệt hại. Ngoài ra,
giá sản xuất áo bơi mà công ty H.D đưa ra (9,05 EURO/áo) là chưa hợp lý do chi phí
nhân công trung bình ở TUNISIA thấp hơn ở Pháp rất nhiều (khoảng 1 EURO/áo), do
vậy, chúng em cho rằng, công ty H.D đã có sự lạm dụng, thổi phồng thiệt hại của mình
lên một cách bất hợp lý, giá sản xuất hàng hóa phải được tính toán một cách hợp lý theo thị trường.
Thêm vào đó, việc công ty H.D yêu cầu M.C.S phải trả khoản chênh lệch và lập
luận rằng để hạn chế tổn thất mà công ty này phải mua hàng một cách vội vàng với giá
cao hơn mà công ty M.C.S cung cấp (do không có lợi thế đàm phán) là không hợp lý
do giá chênh lệch là quá lớn (theo hợp đồng là 0,93 và 0,98 EURO tương ứng với hai
cỡ hàng hóa khác nhau và giá thay thế là 1,98 EURO). H.D viện dẫn Điều 75 của CISG
làm căn cứ buộc M.C.S phải bồi thường thiệt hại, tuy nhiên theo quy định tại điều 75 lOMoAR cPSD| 45734214
của công ước này, việc mua hàng cả một nhà cung cấp khác với giá trị chênh lệch quá
lớn như vậy không được coi là “cách thức hợp lý”, do vậy việc H.D yêu cầu M.C.S phải
trả khoản chênh lệch giữa hai hợp đồng là không thỏa đáng.
Chúng em đồng tình với phán quyết và quan điểm mà Tòa án đưa ra khi nhận
định về các hành vi và sự kiện phát sinh trong vụ việc. Tòa án đã áp dụng phù hợp các
quy định của CISG, đưa ra phán quyết công bằng cho cả bên mua và bên bán. Theo đó,
bên bán - công ty M.C.S phải chịu trách nhiệm bồi thường cho thiệt hại của bên mua -
công ty H.D khi không tôn trọng quy định của Điều 35 CISG khiến bên mua bị tổn thất
vì hàng hóa hạ cấp. Công ty M.C.S, theo phán quyết của Tòa án, phải trả cho bên mua
một khoản bồi thường thiệt hại thỏa đáng là 3000 EURO thay vì 32.490 EURO mà
công ty H.D yêu cầu vì lí do công ty H.D đã không thực hiện đúng quy định của Điều
77 CISG. Hơn nữa, do biện pháp khắc phục thiệt hại của công ty H.D khi mua sản phẩm
của một nhà cung cấp khác với giá trị chênh lệch quá lớn được đánh giá là không phù
hợp với quy định tại Điều 75 CISG, do vậy nên công ty H.D không được bồi thường về
khoản chênh lệch giữa 2 hợp đồng là hoàn toàn thỏa đáng. Vì các lí do đã kể trên, Tòa
án đã ra phán quyết phù hợp với bản chất của vụ việc trên thực tế, căn cứ theo Điều 74
CISG, công ty M.C.S phải trả cho công ty H.D khoản bồi thường thiệt hại là 3000 EURO.
Tranh chấp này cho thấy, để đòi bồi thường thiệt hại thành công, bên bị vi phạm
phải tuân thủ hai nguyên tắc rất quan trọng sau đây:
Thứ nhất là nguyên tắc hạn chế tổn thất. theo đó, bên đòi bồi thường thiệt hại
phải áp dụng những biện pháp hợp lý để hạn chế tổn thất. Ví dụ, trong trường hợp tranh
chấp này, một cách hợp lý, người mua Pháp đáng lẽ có thể hạn chế đáng kể thiệt hại
bằng cách ngừng ngay dây chuyền sản xuất khi phát hiện sự không phù hợp của hàng
hóa. Hành động chậm trễ của người mua đã khiến người mua bị giảm tiền bồi thường
xuống tương ứng với những thiệt hại đáng lẽ ra có thể hạn chế được nếu hành động ngay lập tức. lOMoAR cPSD| 45734214
Thứ hai là nguyên tắc các khoản thiệt hại phải được tính toán và chứng minh một
cách hợp lý. Tính hợp lý ở đây được đánh giá một cách khách quan, dựa trên thực tiễn
các yếu tố của tranh chấp và của thị trường. Nguyên tắc này. không cho phép các bên
thổi phồng thiệt hại của mình lên một cách vô căn cứ, bất hợp lý. Trong tranh chấp này,
tòa án đã dựa vào giá hàng, giá nhân công cũng như mức giá của thị trường để nhận
định rằng các thiệt hại mà người mua tính toán là bất hợp lý, không khách quan, không
phù hợp với thực tiễn. KẾT LUẬN
Qua án lệ về yêu cầu bồi thường thiệt hại do người bán giao hàng không đúng với hợp
đồng, nhóm chúng em đã làm sáng tỏ một số vấn đề pháp lý mà bộ môn đưa ra. Trên
đây là phần trình bầy của nhóm em qua quá trình nghiên cứu và thảo luận, do kiến thức
còn hạn chế và thiếu tiếp xúc thực tiễn nên còn có sai sót. Chúng em mong nhận được
góp ý của thầy/cô để hoàn thiện vốn kiến thức của mình hơn. Chúng em xin chân thành cảm ơn quý thầy cô!
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
1. BTTH: Bồi thường thiệt hại
2. CISG: Công ước của liên hợp quốc về mua bán hàng hóa quốc tế
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 3.
Đại học Luật Hà Nội, giáo trình Luật thương mại quốc tế năm 2017, nxb công an nhân dân 4.
https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Thuong-mai/Cong-uoc-vien-Lien-Hopquoc-
mua-ban-hang-hoa-quoc-te-11-04-1980-90153.aspx lOMoAR cPSD| 45734214 5.
Nguyễn Đô, Luận văn thạc sĩ Luật học(2018), Viện hàn lâm Khoa học xã hội-
Học viện khoa học xã hội, “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp
đồng mua bán hàng hoá quốc tế ở việt nam hiện nay” 6.
Nguyễn Thị Yên, ThS. Nguyễn Ngọc Biện Thuỳ Hương, ThS. Vũ Thị
Bích Hải, ThS. Đinh Lê oanh ( Khoa Luật, Trường đại học Văn Lang), “Thực tiễn hủy
bỏ hợp đồng và bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng theo CISG 1980 qua một án
lệ - Lưu ý cho doanh nghiệp Việt Nam” 7.
Lê Hữu Hải, Luận văn Thạc sĩ Luật học(2020), Đại học Huê- Trường đại học
Luật, “ Chế tài do vi pham hợp đồng mua bán hang hoá quốc tế theo công ước viên 1980"