lOMoARcPSD| 40551442
BỘ TƯ PHÁP TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
BÀI TẬP NHÓM HỌC PHẦN: LUẬT BÌNH ĐẲNG GIỚI
Đề bài 06: Bình đẳng giới trong lĩnh vực y tế - quy định của pháp luật và
thực tiễn thực hiện
Nhóm: 06
Mã lớp HP: 24101007203. TL2
2024
lOMoARcPSD| 40551442
BIÊN BẢN XÁC ĐỊNH MỨC ĐTHAM GIA VÀ KẾT QUẢ THAM GIA
BÀI TẬP NHÓM
Địa điểm: Trường Đại học Luật Hà Nội
Nhóm: 06 Lớp: 24101007203. TL2
Tổng số sinh viên của nhóm:
+ Có mặt: … + Vắng mặt: …
Tên bài tập: Bài tập nhóm Học phần: Luật Bình đẳng giới
Biên bản nhằm xác định mức độ tham gia kết quả tham gia của từng thành viên
trong quá trình làm bài tập nhóm của nhóm 06. Kết quả như sau:
STT
Họ và tên
MSSV
Đánh giá của
nhóm trưởng
Đánh giá của
giảng viên
1
Phạm Minh Tuấn
461350
2
Nguyễn Trần Quốc Thái
470819
3
Vương Thị Phương Thảo
480261
4
Mai Hữu Thắng
461043
5
Đỗ Nguyễn Minh Thu
480463
6
Nguyễn Thị Thu
470452
7
Tuấn Vinh
470365
Kết quả điểm bài tập nhóm: … Hà Nội, ngày … tháng … năm 2024
Nhóm trưởng
MỞ ĐẦU...................................................................................................................
I. Những vấn đề lý luận chung về bình đẳng giới trong lĩnh vực y
tế.................
1. Khái niệm về bình đẳng giới trong lĩnh vực y tế......................................1
lOMoARcPSD| 40551442
2. Ý nghĩa về bình đẳng giới trong lĩnh vực y tế...........................................2
II. Quy định của pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực y tế - thực
trạng quy định hiện hành và cơ chế đảm bảo thực thi.........................................
1. Nội dung các quy định của pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực y
tế........................................................................................................................3
2. Cơ chế đảm bảo thực thi các quy định của luật bình đẳng giới trong lĩnh
vực y tế......................................................................................................6
III. Thực tiễn thực hiện các quy định pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh
vực y tế hiện nay và kiến nghị hoàn thiện..............................................................
1. Thực tiễn thực hiện các quy định pháp luật về bình đẳng giới tronglĩnh
vực y tế......................................................................................................8
2. Kiến nghị một số giải pháp để nâng cao hiệu quả áp dụng quy
địnhpháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực y
tế..........................................13
KẾT LUẬN.............................................................................................................
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................
MỞ ĐẦU
Trong lĩnh vực y tế, bình đẳng giới không chỉ vấn đề quyền lợi về sức
khỏe mà còn là một yếu tố quan trọng bảo đảm quyền tiếp cận các dịch vụ chăm
sóc sức khỏe một cách công bằng cho tất cả mọi người. Trong khi trước đây, vấn
đề này có thể chưa được quan tâm đầy đủ, thì trong những năm gần đây, các quy
định pháp luật về bình đẳng giới đã trở thành một phần không thể thiếu trong hệ
thống pháp lý của Việt Nam, nhằm bảo vệ quyền lợi sức khỏe của cả nam và nữ,
đặc biệt trong các dịch vụ y tế liên quan đến sinh sản, chăm sóc sức khỏe phụ nữ
nam giới. Đây thành công bước đầu trong việc thống nhất nhận thức vbình
đẳng giới, tăng cường hiệu quả cho công tác thực hiện bình đẳng giới.
lOMoARcPSD| 40551442
Với nội hàm mang tính cấp thiết như vậy, nhóm đã lựa chọn đề tài số 6 để
đi sâu phân tích đánh giá các quy định của pháp luật Việt Nam về bình đẳng
giới trong lĩnh vực y tế, làm những quyền lợi cả nam nữ được hưởng
trong việc tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, đồng thời chỉ ra những thách
thức hội trong việc thực hiện các quy định này trong thực tế. Rất mong nhận
được sự nhận xét của thầy cô.
I. Những vấn đề lý luận chung về bình đẳng giới trong lĩnh vực y tế
1. Khái niệm về bình đẳng giới trong lĩnh vực y tế
Trong lĩnh vực y tế, bình đẳng giới hai nhóm mục tiêu chính phải đảm
nhận. Thứ nhất là nhóm mục tiêu thực hiện sự bình đẳng trong lĩnh vực chăm sóc
sức khỏe, chăm sóc sức khỏe sinh sản của cả nam và nữ và mọi người nói chung.
Thứ hai là nhóm chỉ tiêu về đảm bảo quyền bình đẳng với các cán bộ y tế về việc
tăng cường sự tham gia của phụ nữ trong việc nắm giữ các vị trí cao trong toàn
ngành y tế. Theo đó, thể thấy pháp luật đã những quy định nhằm đảm bảo
nam, nữ được bình đẳng trong việc được tham gia, được hưởng các dịch vụ y
tế về chăm sóc sức khỏe.
Bình đẳng giới trong lĩnh vực y tế được điều chỉnh tại Điều 17 Luật Bình
đẳng giới 2006 quy định nsau: “1. Nam, nữ bình đẳng trong tham gia các hoạt
động giáo dục, truyền thông về chăm sóc sức khỏe, sức khỏe sinh sản và sử dụng
các dịch vụ y tế. 2. Nam, nữ bình đẳng trong lựa chọn, quyết định sử dụng biện
pháp tránh thai, biện pháp an toàn tình dục, phòng, chống lây nhiễm HIV/AIDS
c bệnh lây truyền qua đường tình dục. 3. Phụ nữ nghèo trú vùng sâu,
vùng xa, đồng bào dân tộc thiểu số, trừ các đối tượng tham gia bảo hiểm
hội bắt buộc, khi sinh con đúng chính sách dân số được hỗ trợ theo quy định của
Chính phủ.”
1
Như vậy, thể thấy quy định pháp luật trong lĩnh vực y tế đã xem xét
nhiều khía cạnh khác nhau. Từ đó có thể hiểu “Bình đẳng giới trong lĩnh vực y tế
1
Điều 17 Luật Bình đẳng giới 2006
lOMoARcPSD| 40551442
là việc nam, nữ được thừa nhận, coi trọng như nhau những đặc điểm về thể chất,
tinh thần của mỗi giới, được tạo điều kiện phù hợp trong việc chăm sóc sức khỏe,
sức khỏe sinh sản, bảo đảm vệ sinh trong lao động, vệ sinh dinh dưỡng, vệ sinh
môi trường và được sử dụng, thụ thưởng các dịch vụ y tế một cách bình đẳng.
2
2. Ý nghĩa về bình đẳng giới trong lĩnh vực y tế
Thứ nhất, bình đẳng giới trong lĩnh vực y tế mục tiêu quan trọng cần
hướng đến không chỉ ở Việt Nam mà còn mục tiêu hướng đến của nhiều nước
trên thế giới. Điều này đâu đó khẳng định rằng y tế là một lĩnh vực vô vùng quan
trọng để mỗi cá nhân dù là nam hay nữ đều có cơ hội, được tạo điều kiện tốt nhất
để thực hiện quyền con người. Đây tiền đề để thể đảm bảo tốt hơn sbình
đẳng trong nhiều lĩnh vực khác của đời sống.
Thứ hai, bình đẳng giới trong lĩnh vực y tế mang ý nghĩa to lớn trong việc
đóng góp vào sự phát triển bền vững của mỗi một quốc gia. Có thể hiểu rằng nếu
trong lĩnh vực y tế không có sự bình đẳng về giới, thì những vấn đề chăm sóc sức
khỏe, cụ thể nhất là sức khỏe sinh sản, thì tsuất người mẹ tử vong sẽ cao, và đây
sẽ là thiệt hại to lớn nhất cho gia đình và xã hội.
Thứ ba, mỗi nhân đều đang sự đóng góp lớn cho nền kinh tế của nước
nhà một thkhỏe mạnh cả về thể chất tinh thần mới khả năng thực
hiện được các quyền và nghĩa vụ của bản thân đình xã hội. Để tđó con người
thể thực sự được sóng trong một xã hội văn minh, phát triển bền vững, nhân
văn và lâu dài.
Thứ tư, trong thực tế hiện nay, trong nhận thức của một số người bao gồm
cả nữ giới cũng chưa sự nhận thức đầy đủ về quyền bình đẳng của mình
những người phụ nữ này họ chịu sự phân biệt đối xử coi đó một lẽ đương
nhiên. Vì vậy, bình đẳng giới trong lĩnh vực y tế góp phần thúc đẩy giáo dục làm
thay đổi nhận thức của người dân về vai trò của giới theo chiều hướng tích cực
hơn. Qua đó xóa bỏ các định kiến vgiới trong lĩnh vực y tế, bản thân nữ giới
2
Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình “Luật Bình đẳng giới”, Nxb.Tư pháp, Hà Nội, 2024, tr334.
lOMoARcPSD| 40551442
cũng sẽ có ý thức trong việc nâng cao trình độ để bảo vsức khỏe của bản thân
trong việc tham gia các hoạt động hội để khẳng định quyền được bình đẳng
của mình.
II. Quy định của pháp luật hiện hành về bình đẳng giới trong lĩnh vực y tế.
1. Nội dung các quy định của pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực y tế.
Bình đẳng giới trong lĩnh vực y tế là một vấn đề quan trọng, liên quan đến
quyền lợi và sức khỏe của tất cả mọi người. Hiện nay chủ trương chính sách này
đã được pháp luật Việt Nam quy định rõ ràng nhằm đảm bảo bất kể giới tính, đều
có quyền tiếp cận và sử dụng dịch vụ y tế một cách công bằng. Cụ thể, pháp luật
về bình đẳng giới trong lĩnh vực y tế được ghi nhận trong hệ thống văn bản Pháp
luật Việt Nam như Hiến pháp, các đạo Luật, Nghị quyết của Quốc hội,... và trong
các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh trực tiếp vấn đề bình đẳng giới.
Đầu tiên, quyền bình đẳng trong lĩnh vực y tế đã được ghi nhận tại Điều 38
Hiến pháp năm 2013 quy định về quyền con người, quyền công dân. Quy định
này là một điều khoản quan trọng khẳng định quyền cơ bản của mỗi công dân về
sức khỏe, thể hiện sự quan tâm của Nhà nước đối với sức khỏe của người dân
cam kết tạo điều kiện để mọi người được chăm sóc sức khỏe tốt nhất. Đây là một
quyền cơ bản, không ai được xâm phạm. Cũng như thể hiện rằng mỗi người dân
đều quyền bình đẳng trong việc tiếp cận sdụng các dịch vụ y tế, không
phân biệt đối xử nam hay nữ, dù là giới tính nào họ đều xứng đáng hưởng các
phúc lợi hội và phải cũng nghĩa vụ thực hiện các quy định về phòng bệnh,
khám bệnh, chữa bệnh. Bên cạnh đó, tại Điều 58 Hiến pháp 2013 còn khẳng định
vai trò của Nhà nước trong việc giữ cân bằng “cán cân” về giới trong lĩnh vực y
tế. Như vậy, ngay từ trong “đạo luật gốc” của Việt Nam, đã minh chứng ràng
cho sự quan tâm của Nhà nước đối với sức khỏe của người dân, nâng cao chất
lượng cuộc sống của người dân.
Thứ hai, vấn đề bình đẳng giới trong lĩnh vực y tế được điều chỉnh tại Điều
17 Luật Bình đẳng giới năm 2006. Đây thể coi một căn cứ pháp quan
lOMoARcPSD| 40551442
trọng để bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và đảm bảo bình đẳng giới trong lĩnh vực y
tế. Điều 17 đã khẳng định quyền bình đẳng giữa nam ntrong lĩnh vực y tế,
xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử. Không chỉ dừng lại ở đó, luật này còn bảo
vệ sức khỏe sinh sản, việc đặc biệt quan trọng đối với phụ nữ, giúp họ quyền
tự quyết định về sức khỏe sinh sản của mình. Cũng như góp phần xây dựng một
xã hội công bằng, nơi mọi người đều có cơ hội được chăm sóc sức khỏe tốt nhất.
việc thực hiện tốt quy định này sẽ góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống
của người dân và xây dựng một xã hội văn minh, tiến bộ.
Thứ ba, để làm rõ cho vấn đề bình đẳng nam, nữ trong lĩnh vực y tế còn có
Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân 1989; Luật Khám bệnh, chữa bệnh 2023; Bộ luật
lao động 2019, Luật Bảo hiểm hội 2014. Cụ thể về việc nam, nữ bình đẳng
trong việc sử dụng, hưởng thụ các dịch vụ y tế, dẫn theo Điều 2 Luật Bảo vệ sức
khỏe nhân dân 1989 quy định nguyên tắc chỉ đạo, công tác bảo vệ sức khỏe, trách
nhiệm của Nhà nước. quyền được khám bệnh, chữa bệnh của người dân đã
được đcập như sau: “Mọi người khi ốm đau, bệnh tật, btai nạn được khám
bệnh, chữa bệnh tại các sở khám bệnh, chữa bệnh nơi công dân trú, lao
động, học tập”
3
- Khoản 1 Điều 23; trách nhiệm của thầy thuốc trong khám, chữa
bệnh Điều 25 luật này. Thêm vào đó điểm tiến bộ của hệ thống pháp luật nước ta
còn thể hiện chỗ nam, ncòn được bình đẳng trong các vấn đề liên quan đến
sức khỏe sinh sản. Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân 1989 đã dành hẳn một chương
quy định về thực hiện kế hoạch hóa gia đình và bảo vệ sức khỏe phụ nữ, trẻ em.
Điều này đã thể hiện, vợ chồng bình đẳng trong việc lên kế hoạch sinh con, quyết
định khoảng cách giữa các lần sinh để bảo vệ sức khỏe sinh sản cho người phụ nữ
cũng như người đàn ông. Liên quan đến vấn đề sức khỏe sinh sản, Luật Bảo vệ
sức khỏe nhân dân 1989 cũng đặc biệt quan tâm đến vấn đề sức khỏe cho phụ nữ,
đặc biệt trong giai đoạn thực hiện thiên chức của mình. Người phụ nữ còn có
3
Khoản 1 Điều 23 Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân 1989.
lOMoARcPSD| 40551442
quyền quyết định việc giữ thai để sinh con hoặc phá thai để bảo vệ sức khỏe
mà không phụ thuộc vào ý chí của bất kỳ ai (Điều 44 - LBVSKND 1989).
Bổ trợ cho nguyên tắc công bằng bình đẳng trong y tế tại Luật Bảo vệ sức
khỏe nhân dân 1989 là quy định về nguyên tắc trong hành nghề khám bệnh, chữa
bệnh, cũng trong văn bản quy phạm pháp luật này ghi nhận mọi người bệnh không
phân biệt già, trẻ, gái, trai đều được hưởng quyền được khám bệnh, chữa bệnh
chất lượng phù hợp với điều kiện thực tế (Điều 9); quyền được tôn trọng danh dự,
bảo vệ sức khỏe tôn trọng bí mật đời tư riêng tư trong khám chữa bệnh (Điều
10). Qua đó, người bệnh không chỉ được công bằng trên phương diện giới tính
từ tuổi tác, dân tộc, địa vị kinh tế - xã hội hay tôn giáo đều được tôn trọng và đối
xử bình đẳng.
Cuối cùng, bên cạnh các bộ luật, việc ghi nhận nam và nữ bình đẳng trong
lĩnh vực y tế còn được thể hiện qua các chủ trương, chính sách thông tư của Đảng
Nhà nước. Đó Pháp lệnh Dân số năm 2003; hướng dẫn Nghị định số
39/2015/NĐ-CP; Thông tư số 01/2021/TT-BYT,...
Như vậy nhìn chung, Pháp luật Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể
trong việc đảm bảo bình đẳng giới trong lĩnh vực y tế. Những quy định lồng ghép
giới, xóa bỏ định kiến giới đã tạo ra một khung pháp vững chắc để bảo vệ quyền
lợi cho phụ nữ nói riêng và người dân Việt Nam nói chung.
2. Cơ chế đảm bảo thực thi các quy định của luật bình đẳng giới trong lĩnh
vực y tế
Bình đẳng giới trong lĩnh vực y tế nền tảng quan trọng tạo nên một hội
công bằng, bình đẳng về mọi mặt của đời sống xã hội; từ đó tạo điều kiện cho cả
hai giới khả năng tiếp cận với mọi dịch vụ chăm sóc sức khỏe, dịch vụ y tế
khác. Tuy nhiên, trong thực tiễn, vẫn tồn tại các cá nhân có hành vi vi phạm pháp
luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực này, ảnh hưởng tiêu cực đến quyền lợi ích
chính đáng của nhiều người. Chính lẽ đó, Nhà nước đã ban hành những quy
định để đảm bảo việc trừng trị hiệu quả những hành vi vi phạm pháp luật về bình
đẳng giới trong lĩnh vực y tế. Tuỳ thuộc vào tính chất, mức độ vi phạm mà người
lOMoARcPSD| 40551442
hành vi vi phạm thể phải chịu trách nhiệm xử kỷ luật, xphạt hành chính,
bồi thường thiệt hại, thậm chí chịu trách nhiệm hình sự (theo Điều 42 Luật Bình
đẳng giới 2006). Dù áp dụng xử phạt mức độ nào thì đều cần phải tuân theo các
nguyên tắc tại Điều 39 Luật Bình đẳng giới 2006. Đối với tất cả những hành vi
trái pháp luật này, Nhà nước đã đặt ra những quy định, biện pháp cần thiết để ngăn
chặn và loại bỏ những hành vi này. Cụ thể, Nhà nước đã đưa ra những hình thức
xử lý nhằm nâng cao việc giám sát việc thực hiện pháp luật.
Thứ nhất, hình thức xử kỷ luật sẽ được áp dụng trong trường hợp đối
tượng vi phạm là cán bộ, công chức, viên chức. Nếu trong phạm vi nhiệm vụ,
quyền hạn của mình mà họ có hành vi vi phạm pháp luật về bình đẳng giới thì sẽ
bị áp dụng hình thức xử kỷ luật theo Nghị định 112/2020/NĐ-CP về xử kỷ
luật cán bộ, công chức, viên chức.
Thứ hai, xhành chính được xem như một biện pháp quan trọng nhằm
nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về bình đẳng giới trong lĩnh vực y tế, giúp
ngăn chặn và phòng ngừa tình trạng vi phạm pháp luật bình đẳng giới. Theo quy
định tại Điều 12 Nghị định 125/2021/NĐ-CP ngày 2/12/2021 của Chính phủ quy
định xử phạt các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực bình đẳng giới liên
quan đến y tế. Tùy theo tính chất và mức độ của người có hành vi vi phạm có thể
bị áp dụng một trong các cách hình thức xử phạt hành chính như phạt cảnh cáo
đối với hành vi xúi giục người khác không tham gia các hoạt động giáo dục sức
khỏe, truyền thông chăm sóc sức khỏe; tùy vào mức độ của hành vi
vi phạm thể bị phạt tiền tương ứng với khoản 2, 3, 4, 5 của Điều này. Bên cạnh
đó, các quan, tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế có thể b
áp dụng hình thức xphạt bổ sung tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành
chính đối với hành vi quy định tại khoản 4 Điều này. Tại khoản 7 Điều 12 của
Nghị định này cũng quy định về biện pháp khắc phục hậu quả và tại khoản 5 của
Điều 12 Nghị định 125/2021/NĐ-CP ngày 2/12/2021 cũng đề cập tới các hành
vi vi phạm hành chính liên quan đến lựa chọn giới tính thai nhi. Như vậy, bất cứ
ai thực hiện các hành vi dưới bất kỳ hình thức nào nhằm mục đích lựa chọn giới
lOMoARcPSD| 40551442
tính của thai nhi đều vi phạm quy định tại Điều 10 Nghị định 104/2023/NĐ-CP.
Các hành vi cung cấp các biện pháp như: siêu âm, bói toán, bắt mạch,... nhằm tiết
lộ giới tính thai nhi thì sẽ bị xử lý Điều 98 của Nghị định 117/2020/NĐ-CP gồm
phạt tiền và có những hình phạt bổ sung như tước quyền sử dụng giấy phép hoạt
động, chứng chỉ hành nghề trong thời hạn từ 01 tháng đến 03 tháng đối với hành
vi quy định tại khoản 2 Điều này. Đối với hành vi cung cấp dụng cụ, thuốc, vật
để có được giới tính thai nhi theo ý muốn, hoặc hành vi đe dọa, ép buộc, uy hiếp
để người khác sử dụng các biện pháp này, sđối mặt với mức xử phạt quy định
tại Điều 99 Nghị định 117/2020/NĐCP. Xem xét các quy định trên, tại các Khoản
1, 2, 3, 4 của quy định này, các mức xử phạt được tăng dần theo mức độ vi
phạm. Bên cạnh đó, ngoài bị xử phạt tiền với các mức tiền phạt khác nhau, người
phạm tội còn thể bị áp dụng hình thức xử phạt bổ sung (tịch thu tang vật,
phương tiện thực hiện hành vi quy định tại Khoản 4). Thêm vào đó, người phạm
tội cũng sẽ phải thực hiện các biện pháp khắc phục hậu quả.
Thứ ba, xử lý hình sự là hình thức xử lý được đặt ra đối với những hành vi
vi phạm bình đẳng giới nghiêm trọng trong lĩnh vực y tế, đặc biệt là những hành
vi gây hậu quả lớn, Bộ luật Hình s2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) cũng quy
định xử lý hình sự tại Điều 165. Mức xử lý hình sự là mức hình phạt cao nhất đối
với các hành vi vi phạm quy định về bình đẳng giới trong lĩnh vực y tế, thể hiện
tính chất răn đe rất cao đối với loại hành vi này, đồng thời đảm bảo bảo vệ quyền
bình đẳng giới trong lĩnh vực y tế một cách hiệu quả và bền vững.
Thứ , quan, tổ chức, gia đình nhân thực hiện hành vi vi phạm
pháp luật bình đẳng giới gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp
luật dân sự. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại bao gồm trách nhiệm bồi thường
thiệt hại về vật chất (bao gồm tổn thất vtài sản, chi phí hợp để ngăn chặn, hạn
chế, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút) và trách nhiệm
bồi thường thiệt hại do tổn thất về tinh thần (bao gồm việc bồi thường một khoản
tiền để đắp tổn thất về tinh thần cho người bị hại). Qua xem xét các quy
định pháp luật về chế tài đối với hành vi vi phạm bình đẳng giới trong lĩnh vực y
lOMoARcPSD| 40551442
tế, ta thể thấy, Nhà nước và các cơ quan thẩm quyền đã đưa ra quy định một
cách rất chi tiết cho từng trường hợp cụ thể, từ mức độ nhẹ đến nghiêm trọng.
Điều này vừa đồng thời đảm bảo tính răn đe đối với người phạm tội, tính giáo dục
với toàn hội, vừa bảo đảm xây dựng một hội công bằng, bình đẳng trong
lĩnh vực y tế nói riêng và trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội nói chung.
III. Thực tiễn thực hiện các quy định pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh
vực y tế hiện nay.
1. Thực tiễn thực hiện các quy định pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh
vực y tế.
Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đã và đang đưa ra nhiều chủ trương, chính
sách đầy đủ, rõ ràng và tiến bộ trong những quy định pháp luật về bình đẳng giới
trong lĩnh vực y tế, đảm bảo sự công bằng, bình đẳng giữa nam giới nữ giới.
thể thấy, trong lĩnh vực y tế Việt Nam đã những quy định để để đảm bảo
bình đẳng giới như sau:
Thứ nhất, nam nữ đều quyền được hưởng những hội như nhau
trong tham gia vào các hoạt động giáo dục, truyền thông về chăm sóc sức khỏe,
sức khỏe sinh sản và sử dụng các dịch vụ y tế được ghi nhận tại khoản 1 Điều 17
Luật Bình đẳng giới 2006. Báo o của bộ Y tế năm 2023 cho thấy, tỷ lệ tử vong
của người mẹ trong quá trình mang thai và sinh nở là 46/100,000 ca sinh, dù chưa
đạt mục tiêu đra nhưng đã cho thấy nỗ lực của hệ thống y tế trong việc chăm sóc
sức khỏe sinh sản và giảm tử vong của người mẹ. Bên cạnh đó, chương trình tiêm
chủng mở rộng đã đạt tỷ lệ tiêm chủng lên tới 95% cho các loại vắc-xin bản,
đảm bảo phòng bệnh cho cả nam nữ giới.
4
Đây một phần của chiến lược y tế
quốc gia nhằm bảo vệ sức khỏe cộng đồng, trong đó phụ nữ và trẻ em gái tại các
vùng khó khăn được ưu tiên tiếp cận.
5
4
Báo cáo 237/BC-CP 2024 kết quả thực hiện các mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới năm 2023.
5
Báo cáo số 11/BC-BYT tổng kết công tác y tế năm 2023 và nhiệm vụ giải pháp năm 2024.
lOMoARcPSD| 40551442
Thứ hai, ngoài ra một số văn bản như Quyết định 5628/QĐ-BYT 2021 về
việc ban hành kế hoạch thực hiện chiến lược quốc gia về bình đẳng giới trong
ngành y tế giai đoạn 2021-2030 đặt ra mục tiêu nhằm tiếp tục tăng cường bình
đẳng giữa nam và nữ trong việc cung cấp và thụ hưởng các dịch vụ chăm sóc sức
khỏe, góp phần cải thiện chất lượng và nâng cao sức khỏe của mỗi cá nhân trong
hội theo định hướng công bằng, hiệu quả phát triển. Ngoài ra trong Nghị
quyết 28/NQ-CP 2021 về ban hành chiến lược quốc gia vbình đẳng giới trong
giai đoạn 2021-2030, cũng đặt ra mục tiêu về cân bằng tsố giới tính khi sinh
giữa nam và nữ đồng thời giảm mức thấp nhất tỷ lệ tử vong bà mẹ liên quan đến
thai sản.
Thứ ba, phụ nữ nghèo trú vùng sâu, vùng xa, đồng bào dân tộc thiểu
số, trừ các đối tượng tham gia bảo hiểm hội bắt buộc thì khi sinh con đúng
chính sách dân số sẽ được hỗ trợ theo đúng quy định của Chính phủ, được quy
định tại khoản 3 Điều 17 Luật Bình đẳng giới 2006. Để thực hiện được điều này
thì trên thực tế trong những năm qua, Bộ Y tế đã triển khai nhiều mô hình, đề án,
chương trình như tư vấn khám sức khỏe trước khi kết hôn, sàng lọc trước sinh và
sinh, can thiệp truyền thông để giảm thiểu hôn nhân cận huyết,....Như vậy, có
thể thấy Chính phủ đã những quy định và chính sách hợp trong việc thúc
đẩy bình đẳng giới trong thăm khám sức khỏe, sử dụng dịch vụ y tế. a. Thành
tựu đạt được
Thực tiễn chứng minh, nhờ có những quy định pháp luật về bình đẳng giới
trong lĩnh vực y tế, hệ thống y tế tại Việt Nam đã sự tiến bộ vượt bậc trong việc
thúc đẩy tính công bằng, bình đẳng và đảm bảo quyền lợi và cơ hội được tiếp cận
dịch vụ y tế cho tất cả mọi người, không phân biệt giới tính. Sau đây một số
thành tựu mà nước ta đã đạt được trong công tác bình đẳng giới trong lĩnh vực y
tế.
Thứ nhất, nhận thức về tầm quan trọng của nghiên cứu y học liên quan đến
nữ giới đã tăng lên. Các bệnh lý đặc thù của phụ nữ, như ung thư vú, ung thư cổ
tử cung, hội chứng tiền mãn kinh, đã được nghiên cứu sâu hơn phát triển các
lOMoARcPSD| 40551442
phương pháp điều trị mới. Cạnh đó, cũng nhiều nghiên cứu về cách các loại
thuốc phương pháp điều trị khác nhau ảnh hưởng đến phụ nữ nam giới, giúp
nhân hóa các phác đồ điều trị cho từng giới. Đồng thời, nhận thức về vấn đề
sức khỏe tinh thần của nam giới cũng được nâng cao, phá bỏ các định kiến
khuyến khích nam giới tìm kiếm sự trợ giúp khi cần.
Thứ hai, các cơ hội nghề nghiệp trong ngành y tế cho phụ nngày càng mở
rộng, với tỷ lệ nữ giới làm việc trong ngành y tế ngày càng tăng. Sự hiện diện của
phụ ntrong các vị trí quản lý và lãnh đạo y tế đã giúp đưa ra các quyết định
chính sách y tế cân bằng phù hợp hơn với cả hai giới. Như vậy, trên thực tiễn
lực lượng lao động y tế đã phát triển có sự đa dạng và bình đẳng hơn.
Thứ ba, đã sự tiến bộ trong hệ thống y tế cho cộng người LGBTQ+, ngày
càng nhiều sở y tế đã triển khai các dịch vụ chuyên biệt để hỗ trợ sức khỏe của
cộng đồng LGBTQ+, bao gồm vấn tâm lý, điều trị và hỗ trợ qtrình chuyển
đổi giới tính.
Cuối cùng, Nhà nước đã đặt ra nhiều chính sách tăng cường hỗ trợ cho nạn
nhân bị bạo lực giới và bạo lực gia đình nhằm quyết tâm chấm dứt tình trạng này
xảy ra trên thực tế. Việc bảo vệ và hỗ trợ nạn nhân được thực hiện một cách đồng
bộ và hiệu quả, nhiều quốc gia đã triển khai các chương trình hỗ trợ y tế tâm
cho nạn nhân của bạo lực gia đình bạo lực giới. Bên cạnh đó, một số bệnh
viện sở y tế cũng đã các đơn vchuyên biệt để hỗ trợ cung cấp dịch
vụ phục hồi cho những nạn nhân bị bạo hành. b. Những bất cập trong quá trình
thực hiện.
Thứ nhất, theo báo cáo của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), mặc những
tiến bộ, nhưng khoảng cách trong tiếp cận y tế giữa các khu vực thành thị và nông
thôn vẫn là một vấn đề lớn. Theo nghiên cứu của nhóm các nhà nghiên cứu khoa
học của Viện Hàn lâm Khoa học hội Việt Nam chỉ ra có “sự khác biệt đáng kể
trong hình bệnh tật hình thức khám chữa bệnh giữa nam nữ người dân
tộc thiểu số, đặc biệt đối với các dân tộc cư trú ở vùng miền núi, vùng sâu, vùng
xa, có tỷ lệ hộ nghèo cao. Tại các địa bàn này, tỉ lệ nam giới khám chữa bệnh tại
lOMoARcPSD| 40551442
các bệnh viện cao hơn, trong khi phụ nữ thường lựa chọn các địa điểm gần nhà
như y tế thôn bản hay trạm y tế xã”
5
. Ngoài ra, các cơ sở y tế thôn bản hay trạm y
tế xã thường không đủ nguồn lực và nhân lực để thực hiện việc khám chữa bệnh
hiệu quả. Đây trở ngại lớn khi thực hiện mục tiêu “Nam, nữ bình đẳng trong
tham gia các hoạt động giáo dục, truyền thông về chăm sóc sức khỏe, sức khỏe
sinh sản và sử dụng các dịch vụ y tế.”
Thứ hai, thiếu các biện pháp đảm bảo quyền lợi lao động cho phụ nữ: Quyết
định 5658/QĐ-BYTNghị quyết 28/NQ-CP chưa đưa ra được các biện pháp đ
mạnh để hỗ trợ phụ nữ trong các vấn đề như cân bằng giữa công việc và gia đình,
chăm sóc sức khỏe sinh sản, chế độ nghỉ thai sản phù hợp cho lao động nữ
trong ngành y tế. Những vấn đề này không chỉ ảnh hưởng đến đời sống của phụ
nữ mà còn tạo thêm áp lực tâm lý và thể chất, cản trở hiệu quả công việc của họ.
Thứ ba, thiếu cơ chế hỗ trợ phụ nữ trong vai trò lãnh đạo: Mặc các văn
bản này đề cập đến việc tạo hội bình đẳng cho phụ nữ, nhưng chưa các chính
sách cụ thể để giúp phụ nữ tham gia vào các vị trí lãnh đạo trong y tế.
Hiện nay, toàn ngành y tế hiện có 23 đơn vị trực thuộc, tổng số 9.537 công chức,
viên chức lao động, trong đó 6.565 người nữ (tỉ lệ 68,8%) tuy nhiên số cán
bộ lãnh đạo là nữ ch376/831 người, chiếm tỉ l45,24%
6
, con số còn khiêm tốn
so với các quốc gia trên thế giới.
Thứ tư, chưa xoá bỏ hoàn toàn định kiến về vai trò giới: Cả hai văn bản đều
chưa giải quyết hiệu quả các định kiến hội quan niệm truyền thống về vai
trò của nam và nữ trong y tế. Điều này dẫn đến việc phụ nữ thường đảm nhận các
công việc hành chính, chăm sóc hộ dưỡng,…trong khi nam giới có xu hướng giữ
các vị trí bác sĩ chính, lãnh đạo đơn vị. Điều này tạo nên một môi trường thiếu
bình đẳng, hạn chế cơ hội được tiếp cận và tiềm năng phát triển của phụ nữ. Bên
cạnh đó, định kiến giới trong xã hội không chỉ ảnh hưởng tới nhận thức của nam
5
https://dangcongsan.vn/binh-dang-gioi-trong-vung-dong-bao-dan-toc-thieu-so-va-mien-nui/thuc-day-binhdang-
gioi-trong-linh-vuc-cham-soc-suc-khoe-vung-dan-toc-thieu-so-645899.html (truy cập ngày 07/11/2024).
6
https://dongnaicdc.vn/day-manh-thuc-hien-binh-dang-gioi-trong-nganh-y-te, (truy cập ngày 12/11/2024).
lOMoARcPSD| 40551442
giới chính nữ giới cũng đang ngầm thừa nhận coi những quan niệm đó
bình thường. Do đó, những cán bộ nữ do mang tư tưởng như vậy nên họ an phận
không muốn phấn đấu trong sự nghiệp của mình. Đây cũng thách thức lớn
dẫn tới sảnh hưởng ít nhiều đến tỷ lệ nlãnh đạo, quản trong ngành Y tế hiện
nay.
Thứ năm, chưa chế tăng cường nhận thức bình đẳng giới trong ngành
y tế: Cả Quyết định QĐ-BYT Nghquyết 28/NQ-CP đều thiếu các chương
trình tuyên truyền hoặc tập huấn cụ thể giúp nâng cao nhận thức của các nhân viên
y tế về bình đẳng giới. Sự hiểu biết hạn chế về vấn đề này khiến nhiều cán bộ và
nhân viên y tế chưa nhận thức lợi ích tầm quan trọng của bình đẳng giới
trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe.
Cuối cùng, đối với các chương trình thúc đẩy thực hiện bình đẳng giới
các cơ quan, đơn vị thì kinh phí hoạt động là một bài toán nan giải. Kinh phí hoạt
động dành cho chương trình bình đẳng giới cũng tùy thuộc vào từng quan, đơn
vị bố trí, do đó việc triển các hoạt động chưa đa dạng, chưa gắn kết với các hoạt
động chuyên môn cũng như việc phối kết hợp với các đơn vị liên quan. Mặc
ngành Y tế đã thành lập Ban sự tiến bộ của phụ nữ, nhưng do thiếu nguồn
kinh phí nên các hoạt động của Ban vẫn còn nhiều hạn chế.
Nhìn chung, dù đã có nhiều tiến bộ nhưng sự bất bình đẳng giới trong lĩnh
vực y tế ở nước ta vẫn còn khá rõ nét, đòi hỏi cần có những biện pháp khắc phục
kịp thời những điều chỉnh phù hợp trong cả chính sách lẫn phương pháp triển
khai. Do đó, cần nhiều hơn những nỗ lực quyết tâm của các quan, các tổ
chức, nhân nhằm góp phần xây dựng một hệ thống y tế bình đẳng hơn, giúp
mọi người tiếp cận các dịch vụ y tế cần thiết một cách công bằng toàn diện
hơn.
2. Kiến nghị một số giải pháp để nâng cao hiệu quả áp dụng quy định pháp
luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực y tế.
Thứ nhất, nhà nước các quan chức năng thẩm quyền cần đẩy mạnh
công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức của cả hai giới về các quy
lOMoARcPSD| 40551442
định pháp luật liên quan đến các vấn đề chăm sóc sức khỏe. Triển khai thực hiện
có hiệu quả các chính sách và giải pháp nhằm hạn chế xu hướng gia tăng mất cân
bằng giới tính khi sinh và sdụng các dịch vụ y tế. Đây là vấn đề quan trọng để
trong mối quan hệ giới, họ sẽ có nhạy cảm giới, từ đó giúp cho họ chủ động đảm
bảo quyền lợi chính đáng cho cả hai giới khi tham gia vào các quan hệ xã hội. Khi
nam, nữ cùng tham gia với cách chủ thể của việc giảng dạy, tuyên truyền
kiến thức, quy định pháp luật cho các đối tượng khác thì họ cũng chủ động bảo
đảm được sự bình đẳng mà không có bất cứ sự hạn chế, loại trừ về giới nào.
Thứ hai, cần nâng cao kiến thức, năng vbình đẳng giới cho các nhân
viên y tế - những người trực tiếp cung cấp dịch vụ y tế, rất quan trọng. Các
chương trình đào tạo, hội thảo sẽ giúp họ có những nhận thứchơn về tâm quan
trọng của bình đẳng giới trong lĩnh vực của họ nói riêng trong mọi lĩnh vực
khác của đời sống hội nói chung. Từ đó, ta cũng tránh được tình trạng các hành
vi phân biệt đối xử về giới trong quá trình chăm sóc bệnh nhân. Đồng thời, các
nhân viên y tế cũng cần được đảm bảo làm việc trong môi trường bình đẳng, ng
bằng giữa nam và nữ.
Thứ ba, xây dựng triển khai thực hiện đề án lồng ghép truyền thông nâng
cao nhận thức về sức khỏe sinh sản, sức khỏe tình dục phòng chống HIV/AIDS
cho vị thành niên, phụ nữ và nam giới trong phạm vi cả nước. Trên thực tế trong
quan hệ tình dục phụ nữ thường thiếu tính tự quyết về tình dục, ngặp kkn
trong việc thương lượng với đối phương khi không nhu cầu khi muốn sử
dụng biện pháp an toàn. Điều này nguyên do chính dẫn tới phụ nữ thường
đối tượng chịu ảnh hưởng lớn về sức khỏe trong những vấn đề này. vậy, để
giúp phụ nữ bảo vệ bản thân không bị lây nhiễm bệnh truyền nhiễm, đặc biệt là
bệnh lây qua đường tình dục thì các nhà hoạch định cần những chính sách,
quản lý chương trình và cung cấp dịch vụ khi triển khai trong quá trình giáo dục,
tuyên truyền về chăm sóc sức khỏe, sức khỏe sinh sản của nam giới và nữ giới.
Thứ tư, thực hiện đánh giá tác động giới đối với các chính sách, chương trình
dự án liên quan đến y tế, thu thập phân tích dữ liệu về tình hình sức khỏe
lOMoARcPSD| 40551442
của nam và nữ để có những giải pháp can thiệp phù hợp. Ngoài ra, lồng ghép yếu
tố giới vào quá trình xây dựng triển khai các quy hoạch, kế hoạch phát triển
ngành y tế, đồng thời nâng cao hơn nữa vai trò năng lực, trình độ, kỹ năng của
chủ thể quyền của phụ nữ trong quá trình thực hiện quyền được giáo dục, quyền
tiếp cận thông tin về y tế, các quyền con người nói chung thông qua việc lồng
ghép các nội dung giáo dục về quyền của phụ nữ nói riêng quyền con người
nói chung vào hệ thống giáo dục quốc dân và giáo dục.
Cuối cùng, nâng cao hiệu quả chất lượng của công tác giám sát thực thi
luật và chính sách; quyết liệt thực hiện các biện pháp chế tài trong việc xử hành
vi lạm dụng, vi phạm các quy định pháp luật trong việc đào tạo, cũng như bảo
đảm các quyền và lợi ích của phụ nữ trong lĩnh vực y tế hiện nay. Tổ chức tập
huấn cho lãnh đạo đơn vị và cán bộ chuyên trách được tập huấn về lồng ghép giới
trong xây dựng triển khai chính sách ngành Y tế. Ngoài ra, tăng cường phối
hợp với các cơ quan, đơn vị có liên quan trong và ngoài ngành, các tổ chức quốc
tế, các tổ chức đoàn thể, hội để triển khai thực hiện Kế hoạch hành động về
bình đẳng giới của ngành Y tế.
KẾT LUẬN
Tóm lại, bình đẳng giới trong lĩnh vực y tế một yếu tố cốt lõi trong việc
bảo vệ nâng cao chất lượng cuộc sống của mỗi cá nhân trong xã hội. Các quy
định của pháp luật Việt Nam, từ Hiến pháp đến Luật Bình đẳng giới các văn
bản hướng dẫn thi hành, đã tạo ra nền tảng pháp lý vững chắc, đảm bảo quyền lợi
sức khỏe của mọi công dân, không phân biệt giới tính. Những quy định này không
chỉ chú trọng đến việc bảo vệ sức khỏe của phụ nữ mà còn tạo hội để nam giới
có thể tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe phù hợp với nhu cầu của họ.
Trong tương lai, để những quy định về bình đẳng giới trong y tế trở thành
hiện thực mang lại lợi ích lâu dài cho cộng đồng, cần tiếp tục hoàn thiện hệ
lOMoARcPSD| 40551442
thống pháp lý, khuyến khích sự tham gia của tất cả các đối tượng, đồng thời thúc
đẩy sự phối hợp chặt chẽ giữa các quan nhà nước, tổ chức xã hội cộng đồng.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình
- Trường Đại học Luật Nội, Giáo trình Luật Bình đẳng giới, Nhà
xuất bản Chính trị quốc gia sự thật 2. Bộ luật và văn bản pháp luật
- Bộ luật Hình sự 2015;
- Nghị định 112/2020/NĐ-CP về xử kỷ luật cán bộ, công chức,
viênchức
- Nghị định 125/2021/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính
tronglĩnh vực bình đẳng giới
- Nghị định 104/2023/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
mộtsố điều của pháp lệnh dân s
- Nghị định 117/2020/NĐ-CP quy định xphạt vi phạm hành chính
tronglĩnh vực y tế
- Quyết định 5658/QĐ-BYT 2021 thực hiện chiến lược quốc gia về
bìnhđẳng giới ngành y tế
- Nghị quyết 28/NQ-CP/2021 ban hành chiến lược quốc gia về bình
đẳnggiới giai đoạn 2021-2030
- Quyết định 822/QĐ-BYT phê duyệt Kế hoạch hành động về bình
đẳnggiới của ngành Y tế giai đoạn 2016-2020.
- Báo cáo s11/BC-BYT tổng kết công tác y tế năm 2023 nhiệm
vụgiải pháp năm 2024.
3. Bài viết, bài báo của các tác giả
- “Đẩy mạnh hơn việc thực hiện bình đẳng giới trong ngành Y tế Tác giả
ViệtHà Trang thông tin Báo Điện tử Chính Phủ” https://baochinhphu.vn/day-
manh-hon-viec-thuc-hien-binh-dang-gioi-trongnganh-y-te-102132936.htm
- “Việt Nam đạt được nhiều thành tựu về bình đẳng giới – Tác giả Hoài Thu
lOMoARcPSD| 40551442
( TTXVN) – Báo tin tức” https://baotintuc.vn/xa-hoi/viet-nam-dat-duoc-nhieu-
thanh-tuu-ve-binh-danggioi-20241105123004419.htm
- “Đẩy mạnh thực hiện bình đẳng giới trong ngành y tế Tác giả Bích Ngọc
–Trung tâm kiểm soát bệnh tật tỉnh Đồng Nai” https://dongnaicdc.vn/day-manh-
thuc-hien-binh-dang-gioi-trong-nganh-y-te -“Thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh
vực chăm sóc sức khỏe vùng dân tộc thiểu số Tác giả Bích T- Báo điện tử
Đảng Cộng Sản Việt Nam” https://dangcongsan.vn/binh-dang-gioi-trong-vung-
dong-bao-dan-toc-thieu-sova-mien-nui/thuc-day-binh-dang-gioi-trong-linh-vuc-
cham-soc-suc-khoe-vungdan-toc-thieu-so-645899.html
- “Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực hiện bộ luật
laođộng Việt Nam về bình đẳng giới Trang thông tin Tài liệu tham khảo
https://tailieuthamkhao.com/binh-dang-gioi-trong-bo-luat-lao-dong-viet-nam-
12-98884

Preview text:

lOMoAR cPSD| 40551442
BỘ TƯ PHÁP TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
BÀI TẬP NHÓM HỌC PHẦN: LUẬT BÌNH ĐẲNG GIỚI
Đề bài 06: Bình đẳng giới trong lĩnh vực y tế - quy định của pháp luật và
thực tiễn thực hiện Nhóm: 06
Mã lớp HP: 24101007203. TL2 2024 lOMoAR cPSD| 40551442
BIÊN BẢN XÁC ĐỊNH MỨC ĐỘ THAM GIA VÀ KẾT QUẢ THAM GIA BÀI TẬP NHÓM
Địa điểm: Trường Đại học Luật Hà Nội Nhóm: 06 Lớp: 24101007203. TL2
Tổng số sinh viên của nhóm:
+ Có mặt: … + Vắng mặt: …
Tên bài tập: Bài tập nhóm Học phần: Luật Bình đẳng giới
Biên bản nhằm xác định mức độ tham gia và kết quả tham gia của từng thành viên
trong quá trình làm bài tập nhóm của nhóm 06. Kết quả như sau: STT Họ và tên MSSV Đánh giá của Đánh giá của nhóm trưởng giảng viên 1 Phạm Minh Tuấn 461350 2 Nguyễn Trần Quốc Thái 470819 3 Vương Thị Phương Thảo 480261 4 Mai Hữu Thắng 461043 5 Đỗ Nguyễn Minh Thu 480463 6 Nguyễn Thị Thu 470452 7 Lê Tuấn Vinh 470365
Kết quả điểm bài tập nhóm: …
Hà Nội, ngày … tháng … năm 2024 Nhóm trưởng
MỞ ĐẦU...................................................................................................................
I. Những vấn đề lý luận chung về bình đẳng giới trong lĩnh vực y tế.................
1. Khái niệm về bình đẳng giới trong lĩnh vực y tế......................................1 lOMoAR cPSD| 40551442
2. Ý nghĩa về bình đẳng giới trong lĩnh vực y tế...........................................2
II. Quy định của pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực y tế - thực
trạng quy định hiện hành và cơ chế đảm bảo thực thi.........................................
1. Nội dung các quy định của pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực y
tế........................................................................................................................3
2. Cơ chế đảm bảo thực thi các quy định của luật bình đẳng giới trong lĩnh
vực y tế......................................................................................................6
III. Thực tiễn thực hiện các quy định pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh
vực y tế hiện nay và kiến nghị hoàn thiện..............................................................
1. Thực tiễn thực hiện các quy định pháp luật về bình đẳng giới tronglĩnh
vực y tế......................................................................................................8
2. Kiến nghị một số giải pháp để nâng cao hiệu quả áp dụng quy
địnhpháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực y
tế..........................................13
KẾT LUẬN.............................................................................................................
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................. MỞ ĐẦU
Trong lĩnh vực y tế, bình đẳng giới không chỉ là vấn đề quyền lợi về sức
khỏe mà còn là một yếu tố quan trọng bảo đảm quyền tiếp cận các dịch vụ chăm
sóc sức khỏe một cách công bằng cho tất cả mọi người. Trong khi trước đây, vấn
đề này có thể chưa được quan tâm đầy đủ, thì trong những năm gần đây, các quy
định pháp luật về bình đẳng giới đã trở thành một phần không thể thiếu trong hệ
thống pháp lý của Việt Nam, nhằm bảo vệ quyền lợi sức khỏe của cả nam và nữ,
đặc biệt trong các dịch vụ y tế liên quan đến sinh sản, chăm sóc sức khỏe phụ nữ
và nam giới. Đây là thành công bước đầu trong việc thống nhất nhận thức về bình
đẳng giới, tăng cường hiệu quả cho công tác thực hiện bình đẳng giới. lOMoAR cPSD| 40551442
Với nội hàm mang tính cấp thiết như vậy, nhóm đã lựa chọn đề tài số 6 để
đi sâu phân tích và đánh giá các quy định của pháp luật Việt Nam về bình đẳng
giới trong lĩnh vực y tế, làm rõ những quyền lợi mà cả nam và nữ được hưởng
trong việc tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, đồng thời chỉ ra những thách
thức và cơ hội trong việc thực hiện các quy định này trong thực tế. Rất mong nhận
được sự nhận xét của thầy cô.
I. Những vấn đề lý luận chung về bình đẳng giới trong lĩnh vực y tế
1. Khái niệm về bình đẳng giới trong lĩnh vực y tế
Trong lĩnh vực y tế, bình đẳng giới có hai nhóm mục tiêu chính phải đảm
nhận. Thứ nhất là nhóm mục tiêu thực hiện sự bình đẳng trong lĩnh vực chăm sóc
sức khỏe, chăm sóc sức khỏe sinh sản của cả nam và nữ và mọi người nói chung.
Thứ hai là nhóm chỉ tiêu về đảm bảo quyền bình đẳng với các cán bộ y tế về việc
tăng cường sự tham gia của phụ nữ trong việc nắm giữ các vị trí cao trong toàn
ngành y tế. Theo đó, có thể thấy pháp luật đã có những quy định nhằm đảm bảo
nam, nữ được bình đẳng trong việc được tham gia, và được hưởng các dịch vụ y
tế về chăm sóc sức khỏe.
Bình đẳng giới trong lĩnh vực y tế được điều chỉnh tại Điều 17 Luật Bình
đẳng giới 2006 quy định như sau: “1. Nam, nữ bình đẳng trong tham gia các hoạt
động giáo dục, truyền thông về chăm sóc sức khỏe, sức khỏe sinh sản và sử dụng
các dịch vụ y tế. 2. Nam, nữ bình đẳng trong lựa chọn, quyết định sử dụng biện
pháp tránh thai, biện pháp an toàn tình dục, phòng, chống lây nhiễm HIV/AIDS
và các bệnh lây truyền qua đường tình dục. 3. Phụ nữ nghèo cư trú ở vùng sâu,
vùng xa, là đồng bào dân tộc thiểu số, trừ các đối tượng tham gia bảo hiểm xã
hội bắt buộc, khi sinh con đúng chính sách dân số được hỗ trợ theo quy định của Chính phủ.”1
Như vậy, có thể thấy quy định pháp luật trong lĩnh vực y tế đã xem xét ở
nhiều khía cạnh khác nhau. Từ đó có thể hiểu “Bình đẳng giới trong lĩnh vực y tế
1 Điều 17 Luật Bình đẳng giới 2006 lOMoAR cPSD| 40551442
là việc nam, nữ được thừa nhận, coi trọng như nhau những đặc điểm về thể chất,
tinh thần của mỗi giới, được tạo điều kiện phù hợp trong việc chăm sóc sức khỏe,
sức khỏe sinh sản, bảo đảm vệ sinh trong lao động, vệ sinh dinh dưỡng, vệ sinh
môi trường và được sử dụng, thụ thưởng các dịch vụ y tế một cách bình đẳng. 2
2. Ý nghĩa về bình đẳng giới trong lĩnh vực y tế
Thứ nhất, bình đẳng giới trong lĩnh vực y tế là mục tiêu quan trọng cần
hướng đến không chỉ ở Việt Nam mà còn là mục tiêu hướng đến của nhiều nước
trên thế giới. Điều này đâu đó khẳng định rằng y tế là một lĩnh vực vô vùng quan
trọng để mỗi cá nhân dù là nam hay nữ đều có cơ hội, được tạo điều kiện tốt nhất
để thực hiện quyền con người. Đây là tiền đề để có thể đảm bảo tốt hơn sự bình
đẳng trong nhiều lĩnh vực khác của đời sống.
Thứ hai, bình đẳng giới trong lĩnh vực y tế mang ý nghĩa to lớn trong việc
đóng góp vào sự phát triển bền vững của mỗi một quốc gia. Có thể hiểu rằng nếu
trong lĩnh vực y tế không có sự bình đẳng về giới, thì những vấn đề chăm sóc sức
khỏe, cụ thể nhất là sức khỏe sinh sản, thì tỷ suất người mẹ tử vong sẽ cao, và đây
sẽ là thiệt hại to lớn nhất cho gia đình và xã hội.
Thứ ba, mỗi cá nhân đều đang có sự đóng góp lớn cho nền kinh tế của nước
nhà và một cơ thể khỏe mạnh cả về thể chất và tinh thần mới có khả năng thực
hiện được các quyền và nghĩa vụ của bản thân đình và xã hội. Để từ đó con người
có thể thực sự được sóng trong một xã hội văn minh, phát triển bền vững, nhân văn và lâu dài.
Thứ tư, trong thực tế hiện nay, trong nhận thức của một số người bao gồm
cả nữ giới cũng chưa có sự nhận thức đầy đủ về quyền bình đẳng của mình và
những người phụ nữ này họ chịu sự phân biệt đối xử và coi đó là một lẽ đương
nhiên. Vì vậy, bình đẳng giới trong lĩnh vực y tế góp phần thúc đẩy giáo dục làm
thay đổi nhận thức của người dân về vai trò của giới theo chiều hướng tích cực
hơn. Qua đó xóa bỏ các định kiến về giới trong lĩnh vực y tế, bản thân nữ giới
2 Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình “Luật Bình đẳng giới”, Nxb.Tư pháp, Hà Nội, 2024, tr334. lOMoAR cPSD| 40551442
cũng sẽ có ý thức trong việc nâng cao trình độ để bảo vệ sức khỏe của bản thân
trong việc tham gia các hoạt động xã hội để khẳng định quyền được bình đẳng của mình.
II. Quy định của pháp luật hiện hành về bình đẳng giới trong lĩnh vực y tế.
1. Nội dung các quy định của pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực y tế.
Bình đẳng giới trong lĩnh vực y tế là một vấn đề quan trọng, liên quan đến
quyền lợi và sức khỏe của tất cả mọi người. Hiện nay chủ trương chính sách này
đã được pháp luật Việt Nam quy định rõ ràng nhằm đảm bảo bất kể giới tính, đều
có quyền tiếp cận và sử dụng dịch vụ y tế một cách công bằng. Cụ thể, pháp luật
về bình đẳng giới trong lĩnh vực y tế được ghi nhận trong hệ thống văn bản Pháp
luật Việt Nam như Hiến pháp, các đạo Luật, Nghị quyết của Quốc hội,... và trong
các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh trực tiếp vấn đề bình đẳng giới.
Đầu tiên, quyền bình đẳng trong lĩnh vực y tế đã được ghi nhận tại Điều 38
Hiến pháp năm 2013 quy định về quyền con người, quyền công dân. Quy định
này là một điều khoản quan trọng khẳng định quyền cơ bản của mỗi công dân về
sức khỏe, thể hiện sự quan tâm của Nhà nước đối với sức khỏe của người dân và
cam kết tạo điều kiện để mọi người được chăm sóc sức khỏe tốt nhất. Đây là một
quyền cơ bản, không ai được xâm phạm. Cũng như thể hiện rằng mỗi người dân
đều có quyền bình đẳng trong việc tiếp cận và sử dụng các dịch vụ y tế, không
phân biệt đối xử là nam hay nữ, dù là giới tính nào họ đều xứng đáng hưởng các
phúc lợi xã hội và phải cũng có nghĩa vụ thực hiện các quy định về phòng bệnh,
khám bệnh, chữa bệnh. Bên cạnh đó, tại Điều 58 Hiến pháp 2013 còn khẳng định
vai trò của Nhà nước trong việc giữ cân bằng “cán cân” về giới trong lĩnh vực y
tế. Như vậy, ngay từ trong “đạo luật gốc” của Việt Nam, đã minh chứng rõ ràng
cho sự quan tâm của Nhà nước đối với sức khỏe của người dân, nâng cao chất
lượng cuộc sống của người dân.
Thứ hai, vấn đề bình đẳng giới trong lĩnh vực y tế được điều chỉnh tại Điều
17 Luật Bình đẳng giới năm 2006. Đây có thể coi là một căn cứ pháp lý quan lOMoAR cPSD| 40551442
trọng để bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và đảm bảo bình đẳng giới trong lĩnh vực y
tế. Điều 17 đã khẳng định quyền bình đẳng giữa nam và nữ trong lĩnh vực y tế,
xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử. Không chỉ dừng lại ở đó, luật này còn bảo
vệ sức khỏe sinh sản, việc đặc biệt quan trọng đối với phụ nữ, giúp họ có quyền
tự quyết định về sức khỏe sinh sản của mình. Cũng như góp phần xây dựng một
xã hội công bằng, nơi mọi người đều có cơ hội được chăm sóc sức khỏe tốt nhất.
Và việc thực hiện tốt quy định này sẽ góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống
của người dân và xây dựng một xã hội văn minh, tiến bộ.
Thứ ba, để làm rõ cho vấn đề bình đẳng nam, nữ trong lĩnh vực y tế còn có
Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân 1989; Luật Khám bệnh, chữa bệnh 2023; Bộ luật
lao động 2019, Luật Bảo hiểm xã hội 2014. Cụ thể về việc nam, nữ bình đẳng
trong việc sử dụng, hưởng thụ các dịch vụ y tế, dẫn theo Điều 2 Luật Bảo vệ sức
khỏe nhân dân 1989 quy định nguyên tắc chỉ đạo, công tác bảo vệ sức khỏe, trách
nhiệm của Nhà nước. Và quyền được khám bệnh, chữa bệnh của người dân đã
được đề cập như sau: “Mọi người khi ốm đau, bệnh tật, bị tai nạn được khám
bệnh, chữa bệnh tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh ở nơi công dân cư trú, lao
động, học tập”3 - Khoản 1 Điều 23; trách nhiệm của thầy thuốc trong khám, chữa
bệnh Điều 25 luật này. Thêm vào đó điểm tiến bộ của hệ thống pháp luật nước ta
còn thể hiện ở chỗ nam, nữ còn được bình đẳng trong các vấn đề liên quan đến
sức khỏe sinh sản. Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân 1989 đã dành hẳn một chương
quy định về thực hiện kế hoạch hóa gia đình và bảo vệ sức khỏe phụ nữ, trẻ em.
Điều này đã thể hiện, vợ chồng bình đẳng trong việc lên kế hoạch sinh con, quyết
định khoảng cách giữa các lần sinh để bảo vệ sức khỏe sinh sản cho người phụ nữ
cũng như người đàn ông. Liên quan đến vấn đề sức khỏe sinh sản, Luật Bảo vệ
sức khỏe nhân dân 1989 cũng đặc biệt quan tâm đến vấn đề sức khỏe cho phụ nữ,
đặc biệt trong giai đoạn thực hiện thiên chức của mình. Người phụ nữ còn có
3 Khoản 1 Điều 23 Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân 1989. lOMoAR cPSD| 40551442
quyền quyết định việc có giữ thai để sinh con hoặc phá thai để bảo vệ sức khỏe
mà không phụ thuộc vào ý chí của bất kỳ ai (Điều 44 - LBVSKND 1989).
Bổ trợ cho nguyên tắc công bằng bình đẳng trong y tế tại Luật Bảo vệ sức
khỏe nhân dân 1989 là quy định về nguyên tắc trong hành nghề khám bệnh, chữa
bệnh, cũng trong văn bản quy phạm pháp luật này ghi nhận mọi người bệnh không
phân biệt già, trẻ, gái, trai đều được hưởng quyền được khám bệnh, chữa bệnh có
chất lượng phù hợp với điều kiện thực tế (Điều 9); quyền được tôn trọng danh dự,
bảo vệ sức khỏe và tôn trọng bí mật đời tư riêng tư trong khám chữa bệnh (Điều
10). Qua đó, người bệnh không chỉ được công bằng trên phương diện giới tính mà
từ tuổi tác, dân tộc, địa vị kinh tế - xã hội hay tôn giáo đều được tôn trọng và đối xử bình đẳng.
Cuối cùng, bên cạnh các bộ luật, việc ghi nhận nam và nữ bình đẳng trong
lĩnh vực y tế còn được thể hiện qua các chủ trương, chính sách thông tư của Đảng
và Nhà nước. Đó là Pháp lệnh Dân số năm 2003; hướng dẫn Nghị định số
39/2015/NĐ-CP; Thông tư số 01/2021/TT-BYT,...
Như vậy nhìn chung, Pháp luật Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể
trong việc đảm bảo bình đẳng giới trong lĩnh vực y tế. Những quy định lồng ghép
giới, xóa bỏ định kiến giới đã tạo ra một khung pháp lý vững chắc để bảo vệ quyền
lợi cho phụ nữ nói riêng và người dân Việt Nam nói chung.
2. Cơ chế đảm bảo thực thi các quy định của luật bình đẳng giới trong lĩnh vực y tế
Bình đẳng giới trong lĩnh vực y tế là nền tảng quan trọng tạo nên một xã hội
công bằng, bình đẳng về mọi mặt của đời sống xã hội; từ đó tạo điều kiện cho cả
hai giới có khả năng tiếp cận với mọi dịch vụ chăm sóc sức khỏe, dịch vụ y tế
khác. Tuy nhiên, trong thực tiễn, vẫn tồn tại các cá nhân có hành vi vi phạm pháp
luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực này, ảnh hưởng tiêu cực đến quyền và lợi ích
chính đáng của nhiều người. Chính vì lẽ đó, Nhà nước đã ban hành những quy
định để đảm bảo việc trừng trị hiệu quả những hành vi vi phạm pháp luật về bình
đẳng giới trong lĩnh vực y tế. Tuỳ thuộc vào tính chất, mức độ vi phạm mà người lOMoAR cPSD| 40551442
có hành vi vi phạm có thể phải chịu trách nhiệm xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính,
bồi thường thiệt hại, thậm chí là chịu trách nhiệm hình sự (theo Điều 42 Luật Bình
đẳng giới 2006). Dù áp dụng xử phạt ở mức độ nào thì đều cần phải tuân theo các
nguyên tắc tại Điều 39 Luật Bình đẳng giới 2006. Đối với tất cả những hành vi
trái pháp luật này, Nhà nước đã đặt ra những quy định, biện pháp cần thiết để ngăn
chặn và loại bỏ những hành vi này. Cụ thể, Nhà nước đã đưa ra những hình thức
xử lý nhằm nâng cao việc giám sát việc thực hiện pháp luật.
Thứ nhất, hình thức xử lý kỷ luật sẽ được áp dụng trong trường hợp đối
tượng vi phạm là cán bộ, công chức, viên chức. Nếu trong phạm vi nhiệm vụ,
quyền hạn của mình mà họ có hành vi vi phạm pháp luật về bình đẳng giới thì sẽ
bị áp dụng hình thức xử lý kỷ luật theo Nghị định 112/2020/NĐ-CP về xử lý kỷ
luật cán bộ, công chức, viên chức.
Thứ hai, xử lý hành chính được xem như là một biện pháp quan trọng nhằm
nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về bình đẳng giới trong lĩnh vực y tế, giúp
ngăn chặn và phòng ngừa tình trạng vi phạm pháp luật bình đẳng giới. Theo quy
định tại Điều 12 Nghị định 125/2021/NĐ-CP ngày 2/12/2021 của Chính phủ quy
định xử phạt các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực bình đẳng giới liên
quan đến y tế. Tùy theo tính chất và mức độ của người có hành vi vi phạm có thể
bị áp dụng một trong các cách hình thức xử phạt hành chính như phạt cảnh cáo
đối với hành vi xúi giục người khác không tham gia các hoạt động giáo dục sức
khỏe, truyền thông chăm sóc sức khỏe; tùy vào mức độ của hành vi
vi phạm có thể bị phạt tiền tương ứng với khoản 2, 3, 4, 5 của Điều này. Bên cạnh
đó, các cơ quan, tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế có thể bị
áp dụng hình thức xử phạt bổ sung tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành
chính đối với hành vi quy định tại khoản 4 Điều này. Tại khoản 7 Điều 12 của
Nghị định này cũng quy định về biện pháp khắc phục hậu quả và tại khoản 5 của
Điều 12 Nghị định 125/2021/NĐ-CP ngày 2/12/2021 cũng có đề cập tới các hành
vi vi phạm hành chính liên quan đến lựa chọn giới tính thai nhi. Như vậy, bất cứ
ai thực hiện các hành vi dưới bất kỳ hình thức nào nhằm mục đích lựa chọn giới lOMoAR cPSD| 40551442
tính của thai nhi đều là vi phạm quy định tại Điều 10 Nghị định 104/2023/NĐ-CP.
Các hành vi cung cấp các biện pháp như: siêu âm, bói toán, bắt mạch,... nhằm tiết
lộ giới tính thai nhi thì sẽ bị xử lý Điều 98 của Nghị định 117/2020/NĐ-CP gồm
phạt tiền và có những hình phạt bổ sung như tước quyền sử dụng giấy phép hoạt
động, chứng chỉ hành nghề trong thời hạn từ 01 tháng đến 03 tháng đối với hành
vi quy định tại khoản 2 Điều này. Đối với hành vi cung cấp dụng cụ, thuốc, vật tư
để có được giới tính thai nhi theo ý muốn, hoặc hành vi đe dọa, ép buộc, uy hiếp
để người khác sử dụng các biện pháp này, sẽ đối mặt với mức xử phạt quy định
tại Điều 99 Nghị định 117/2020/NĐCP. Xem xét các quy định trên, tại các Khoản
1, 2, 3, 4 của quy định này, các mức xử phạt có được tăng dần theo mức độ vi
phạm. Bên cạnh đó, ngoài bị xử phạt tiền với các mức tiền phạt khác nhau, người
phạm tội còn có thể bị áp dụng hình thức xử phạt bổ sung (tịch thu tang vật,
phương tiện thực hiện hành vi quy định tại Khoản 4). Thêm vào đó, người phạm
tội cũng sẽ phải thực hiện các biện pháp khắc phục hậu quả.
Thứ ba, xử lý hình sự là hình thức xử lý được đặt ra đối với những hành vi
vi phạm bình đẳng giới nghiêm trọng trong lĩnh vực y tế, đặc biệt là những hành
vi gây hậu quả lớn, Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) cũng có quy
định xử lý hình sự tại Điều 165. Mức xử lý hình sự là mức hình phạt cao nhất đối
với các hành vi vi phạm quy định về bình đẳng giới trong lĩnh vực y tế, thể hiện
tính chất răn đe rất cao đối với loại hành vi này, đồng thời đảm bảo bảo vệ quyền
bình đẳng giới trong lĩnh vực y tế một cách hiệu quả và bền vững.
Thứ tư, cơ quan, tổ chức, gia đình và cá nhân thực hiện hành vi vi phạm
pháp luật bình đẳng giới gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp
luật dân sự. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại bao gồm trách nhiệm bồi thường
thiệt hại về vật chất (bao gồm tổn thất về tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn
chế, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút) và trách nhiệm
bồi thường thiệt hại do tổn thất về tinh thần (bao gồm việc bồi thường một khoản
tiền để bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bị hại). Qua xem xét các quy
định pháp luật về chế tài đối với hành vi vi phạm bình đẳng giới trong lĩnh vực y lOMoAR cPSD| 40551442
tế, ta có thể thấy, Nhà nước và các cơ quan có thẩm quyền đã đưa ra quy định một
cách rất chi tiết cho từng trường hợp cụ thể, từ mức độ nhẹ đến nghiêm trọng.
Điều này vừa đồng thời đảm bảo tính răn đe đối với người phạm tội, tính giáo dục
với toàn xã hội, vừa bảo đảm xây dựng một xã hội công bằng, bình đẳng trong
lĩnh vực y tế nói riêng và trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội nói chung.
III. Thực tiễn thực hiện các quy định pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh
vực y tế hiện nay.
1. Thực tiễn thực hiện các quy định pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực y tế.
Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đã và đang đưa ra nhiều chủ trương, chính
sách đầy đủ, rõ ràng và tiến bộ trong những quy định pháp luật về bình đẳng giới
trong lĩnh vực y tế, đảm bảo sự công bằng, bình đẳng giữa nam giới và nữ giới.
Có thể thấy, trong lĩnh vực y tế Việt Nam đã có những quy định để để đảm bảo
bình đẳng giới như sau:
Thứ nhất, nam và nữ đều có quyền được hưởng những cơ hội như nhau
trong tham gia vào các hoạt động giáo dục, truyền thông về chăm sóc sức khỏe,
sức khỏe sinh sản và sử dụng các dịch vụ y tế được ghi nhận tại khoản 1 Điều 17
Luật Bình đẳng giới 2006. Báo cáo của bộ Y tế năm 2023 cho thấy, tỷ lệ tử vong
của người mẹ trong quá trình mang thai và sinh nở là 46/100,000 ca sinh, dù chưa
đạt mục tiêu đề ra nhưng đã cho thấy nỗ lực của hệ thống y tế trong việc chăm sóc
sức khỏe sinh sản và giảm tử vong của người mẹ. Bên cạnh đó, chương trình tiêm
chủng mở rộng đã đạt tỷ lệ tiêm chủng lên tới 95% cho các loại vắc-xin cơ bản,
đảm bảo phòng bệnh cho cả nam và nữ giới.4 Đây là một phần của chiến lược y tế
quốc gia nhằm bảo vệ sức khỏe cộng đồng, trong đó phụ nữ và trẻ em gái tại các
vùng khó khăn được ưu tiên tiếp cận.5
4 Báo cáo 237/BC-CP 2024 kết quả thực hiện các mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới năm 2023.
5 Báo cáo số 11/BC-BYT tổng kết công tác y tế năm 2023 và nhiệm vụ giải pháp năm 2024. lOMoAR cPSD| 40551442
Thứ hai, ngoài ra một số văn bản như Quyết định 5628/QĐ-BYT 2021 về
việc ban hành kế hoạch thực hiện chiến lược quốc gia về bình đẳng giới trong
ngành y tế giai đoạn 2021-2030 đặt ra mục tiêu nhằm tiếp tục tăng cường bình
đẳng giữa nam và nữ trong việc cung cấp và thụ hưởng các dịch vụ chăm sóc sức
khỏe, góp phần cải thiện chất lượng và nâng cao sức khỏe của mỗi cá nhân trong
xã hội theo định hướng công bằng, hiệu quả và phát triển. Ngoài ra trong Nghị
quyết 28/NQ-CP 2021 về ban hành chiến lược quốc gia về bình đẳng giới trong
giai đoạn 2021-2030, cũng đặt ra mục tiêu về cân bằng tỷ số giới tính khi sinh
giữa nam và nữ đồng thời giảm mức thấp nhất tỷ lệ tử vong bà mẹ liên quan đến thai sản.
Thứ ba, phụ nữ nghèo cư trú ở vùng sâu, vùng xa, là đồng bào dân tộc thiểu
số, trừ các đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc thì khi sinh con đúng
chính sách dân số sẽ được hỗ trợ theo đúng quy định của Chính phủ, được quy
định tại khoản 3 Điều 17 Luật Bình đẳng giới 2006. Để thực hiện được điều này
thì trên thực tế trong những năm qua, Bộ Y tế đã triển khai nhiều mô hình, đề án,
chương trình như tư vấn khám sức khỏe trước khi kết hôn, sàng lọc trước sinh và
sơ sinh, can thiệp truyền thông để giảm thiểu hôn nhân cận huyết,....Như vậy, có
thể thấy Chính phủ đã có những quy định và chính sách hợp lý trong việc thúc
đẩy bình đẳng giới trong thăm khám sức khỏe, sử dụng dịch vụ y tế. a. Thành tựu đạt được
Thực tiễn chứng minh, nhờ có những quy định pháp luật về bình đẳng giới
trong lĩnh vực y tế, hệ thống y tế tại Việt Nam đã có sự tiến bộ vượt bậc trong việc
thúc đẩy tính công bằng, bình đẳng và đảm bảo quyền lợi và cơ hội được tiếp cận
dịch vụ y tế cho tất cả mọi người, không phân biệt giới tính. Sau đây là một số
thành tựu mà nước ta đã đạt được trong công tác bình đẳng giới trong lĩnh vực y tế.
Thứ nhất, nhận thức về tầm quan trọng của nghiên cứu y học liên quan đến
nữ giới đã tăng lên. Các bệnh lý đặc thù của phụ nữ, như ung thư vú, ung thư cổ
tử cung, hội chứng tiền mãn kinh, đã được nghiên cứu sâu hơn và phát triển các lOMoAR cPSD| 40551442
phương pháp điều trị mới. Cạnh đó, cũng có nhiều nghiên cứu về cách các loại
thuốc và phương pháp điều trị khác nhau ảnh hưởng đến phụ nữ và nam giới, giúp
cá nhân hóa các phác đồ điều trị cho từng giới. Đồng thời, nhận thức về vấn đề
sức khỏe tinh thần của nam giới cũng được nâng cao, phá bỏ các định kiến và
khuyến khích nam giới tìm kiếm sự trợ giúp khi cần.
Thứ hai, các cơ hội nghề nghiệp trong ngành y tế cho phụ nữ ngày càng mở
rộng, với tỷ lệ nữ giới làm việc trong ngành y tế ngày càng tăng. Sự hiện diện của
phụ nữ trong các vị trí quản lý và lãnh đạo y tế đã giúp đưa ra các quyết định và
chính sách y tế cân bằng và phù hợp hơn với cả hai giới. Như vậy, trên thực tiễn
lực lượng lao động y tế đã phát triển có sự đa dạng và bình đẳng hơn.
Thứ ba, đã có sự tiến bộ trong hệ thống y tế cho cộng người LGBTQ+, ngày
càng nhiều cơ sở y tế đã triển khai các dịch vụ chuyên biệt để hỗ trợ sức khỏe của
cộng đồng LGBTQ+, bao gồm tư vấn tâm lý, điều trị và hỗ trợ quá trình chuyển đổi giới tính.
Cuối cùng, Nhà nước đã đặt ra nhiều chính sách tăng cường hỗ trợ cho nạn
nhân bị bạo lực giới và bạo lực gia đình nhằm quyết tâm chấm dứt tình trạng này
xảy ra trên thực tế. Việc bảo vệ và hỗ trợ nạn nhân được thực hiện một cách đồng
bộ và có hiệu quả, nhiều quốc gia đã triển khai các chương trình hỗ trợ y tế và tâm
lý cho nạn nhân của bạo lực gia đình và bạo lực giới. Bên cạnh đó, một số bệnh
viện và cơ sở y tế cũng đã có các đơn vị chuyên biệt để hỗ trợ và cung cấp dịch
vụ phục hồi cho những nạn nhân bị bạo hành. b. Những bất cập trong quá trình thực hiện.
Thứ nhất, theo báo cáo của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), mặc dù có những
tiến bộ, nhưng khoảng cách trong tiếp cận y tế giữa các khu vực thành thị và nông
thôn vẫn là một vấn đề lớn. Theo nghiên cứu của nhóm các nhà nghiên cứu khoa
học của Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam chỉ ra có “sự khác biệt đáng kể
trong mô hình bệnh tật và hình thức khám chữa bệnh giữa nam và nữ người dân
tộc thiểu số, đặc biệt đối với các dân tộc cư trú ở vùng miền núi, vùng sâu, vùng
xa, có tỷ lệ hộ nghèo cao. Tại các địa bàn này, tỉ lệ nam giới khám chữa bệnh tại lOMoAR cPSD| 40551442
các bệnh viện cao hơn, trong khi phụ nữ thường lựa chọn các địa điểm gần nhà
như y tế thôn bản hay trạm y tế xã”5. Ngoài ra, các cơ sở y tế thôn bản hay trạm y
tế xã thường không đủ nguồn lực và nhân lực để thực hiện việc khám chữa bệnh
hiệu quả. Đây là trở ngại lớn khi thực hiện mục tiêu “Nam, nữ bình đẳng trong
tham gia các hoạt động giáo dục, truyền thông về chăm sóc sức khỏe, sức khỏe
sinh sản và sử dụng các dịch vụ y tế.”
Thứ hai, thiếu các biện pháp đảm bảo quyền lợi lao động cho phụ nữ: Quyết
định 5658/QĐ-BYT và Nghị quyết 28/NQ-CP chưa đưa ra được các biện pháp đủ
mạnh để hỗ trợ phụ nữ trong các vấn đề như cân bằng giữa công việc và gia đình,
chăm sóc sức khỏe sinh sản, và chế độ nghỉ thai sản phù hợp cho lao động nữ
trong ngành y tế. Những vấn đề này không chỉ ảnh hưởng đến đời sống của phụ
nữ mà còn tạo thêm áp lực tâm lý và thể chất, cản trở hiệu quả công việc của họ.
Thứ ba, thiếu cơ chế hỗ trợ phụ nữ trong vai trò lãnh đạo: Mặc dù các văn
bản này đề cập đến việc tạo cơ hội bình đẳng cho phụ nữ, nhưng chưa có các chính
sách cụ thể để giúp phụ nữ tham gia vào các vị trí lãnh đạo trong y tế.
Hiện nay, toàn ngành y tế hiện có 23 đơn vị trực thuộc, tổng số 9.537 công chức,
viên chức lao động, trong đó có 6.565 người là nữ (tỉ lệ 68,8%) tuy nhiên số cán
bộ lãnh đạo là nữ chỉ là 376/831 người, chiếm tỉ lệ 45,24%6, con số còn khiêm tốn
so với các quốc gia trên thế giới.
Thứ tư, chưa xoá bỏ hoàn toàn định kiến về vai trò giới: Cả hai văn bản đều
chưa giải quyết hiệu quả các định kiến xã hội và quan niệm truyền thống về vai
trò của nam và nữ trong y tế. Điều này dẫn đến việc phụ nữ thường đảm nhận các
công việc hành chính, chăm sóc hộ dưỡng,…trong khi nam giới có xu hướng giữ
các vị trí bác sĩ chính, lãnh đạo đơn vị. Điều này tạo nên một môi trường thiếu
bình đẳng, hạn chế cơ hội được tiếp cận và tiềm năng phát triển của phụ nữ. Bên
cạnh đó, định kiến giới trong xã hội không chỉ ảnh hưởng tới nhận thức của nam
5 https://dangcongsan.vn/binh-dang-gioi-trong-vung-dong-bao-dan-toc-thieu-so-va-mien-nui/thuc-day-binhdang-
gioi-trong-linh-vuc-cham-soc-suc-khoe-vung-dan-toc-thieu-so-645899.html (truy cập ngày 07/11/2024).
6 https://dongnaicdc.vn/day-manh-thuc-hien-binh-dang-gioi-trong-nganh-y-te, (truy cập ngày 12/11/2024). lOMoAR cPSD| 40551442
giới mà chính nữ giới cũng đang ngầm thừa nhận và coi những quan niệm đó là
bình thường. Do đó, những cán bộ nữ do mang tư tưởng như vậy nên họ an phận
và không muốn phấn đấu trong sự nghiệp của mình. Đây cũng là thách thức lớn
dẫn tới sự ảnh hưởng ít nhiều đến tỷ lệ nữ lãnh đạo, quản lý trong ngành Y tế hiện nay.
Thứ năm, chưa có cơ chế tăng cường nhận thức bình đẳng giới trong ngành
y tế: Cả Quyết định QĐ-BYT và Nghị quyết 28/NQ-CP đều thiếu các chương
trình tuyên truyền hoặc tập huấn cụ thể giúp nâng cao nhận thức của các nhân viên
y tế về bình đẳng giới. Sự hiểu biết hạn chế về vấn đề này khiến nhiều cán bộ và
nhân viên y tế chưa nhận thức rõ lợi ích và tầm quan trọng của bình đẳng giới
trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe.
Cuối cùng, đối với các chương trình thúc đẩy thực hiện bình đẳng giới ở
các cơ quan, đơn vị thì kinh phí hoạt động là một bài toán nan giải. Kinh phí hoạt
động dành cho chương trình bình đẳng giới cũng tùy thuộc vào từng cơ quan, đơn
vị bố trí, do đó việc triển các hoạt động chưa đa dạng, chưa gắn kết với các hoạt
động chuyên môn cũng như việc phối kết hợp với các đơn vị có liên quan. Mặc
dù ngành Y tế đã thành lập Ban vì sự tiến bộ của phụ nữ, nhưng do thiếu nguồn
kinh phí nên các hoạt động của Ban vẫn còn nhiều hạn chế.
Nhìn chung, dù đã có nhiều tiến bộ nhưng sự bất bình đẳng giới trong lĩnh
vực y tế ở nước ta vẫn còn khá rõ nét, đòi hỏi cần có những biện pháp khắc phục
kịp thời và những điều chỉnh phù hợp trong cả chính sách lẫn phương pháp triển
khai. Do đó, cần nhiều hơn những nỗ lực và quyết tâm của các cơ quan, các tổ
chức, cá nhân nhằm góp phần xây dựng một hệ thống y tế bình đẳng hơn, giúp
mọi người tiếp cận các dịch vụ y tế cần thiết một cách công bằng và toàn diện hơn.
2. Kiến nghị một số giải pháp để nâng cao hiệu quả áp dụng quy định pháp
luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực y tế.
Thứ nhất, nhà nước và các cơ quan chức năng có thẩm quyền cần đẩy mạnh
công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức của cả hai giới về các quy lOMoAR cPSD| 40551442
định pháp luật liên quan đến các vấn đề chăm sóc sức khỏe. Triển khai thực hiện
có hiệu quả các chính sách và giải pháp nhằm hạn chế xu hướng gia tăng mất cân
bằng giới tính khi sinh và sử dụng các dịch vụ y tế. Đây là vấn đề quan trọng để
trong mối quan hệ giới, họ sẽ có nhạy cảm giới, từ đó giúp cho họ chủ động đảm
bảo quyền lợi chính đáng cho cả hai giới khi tham gia vào các quan hệ xã hội. Khi
nam, nữ cùng tham gia với tư cách là chủ thể của việc giảng dạy, tuyên truyền
kiến thức, quy định pháp luật cho các đối tượng khác thì họ cũng chủ động bảo
đảm được sự bình đẳng mà không có bất cứ sự hạn chế, loại trừ về giới nào.
Thứ hai, cần nâng cao kiến thức, kĩ năng về bình đẳng giới cho các nhân
viên y tế - những người trực tiếp cung cấp dịch vụ y tế, là rất quan trọng. Các
chương trình đào tạo, hội thảo sẽ giúp họ có những nhận thức rõ hơn về tâm quan
trọng của bình đẳng giới trong lĩnh vực của họ nói riêng và trong mọi lĩnh vực
khác của đời sống xã hội nói chung. Từ đó, ta cũng tránh được tình trạng các hành
vi phân biệt đối xử về giới trong quá trình chăm sóc bệnh nhân. Đồng thời, các
nhân viên y tế cũng cần được đảm bảo làm việc trong môi trường bình đẳng, công bằng giữa nam và nữ.
Thứ ba, xây dựng và triển khai thực hiện đề án lồng ghép truyền thông nâng
cao nhận thức về sức khỏe sinh sản, sức khỏe tình dục và phòng chống HIV/AIDS
cho vị thành niên, phụ nữ và nam giới trong phạm vi cả nước. Trên thực tế trong
quan hệ tình dục phụ nữ thường thiếu tính tự quyết về tình dục, như gặp khó khăn
trong việc thương lượng với đối phương khi không có nhu cầu và khi muốn sử
dụng biện pháp an toàn. Điều này là nguyên do chính dẫn tới phụ nữ thường là
đối tượng chịu ảnh hưởng lớn về sức khỏe trong những vấn đề này. Vì vậy, để
giúp phụ nữ bảo vệ bản thân không bị lây nhiễm bệnh truyền nhiễm, đặc biệt là
bệnh lây qua đường tình dục thì các nhà hoạch định cần có những chính sách,
quản lý chương trình và cung cấp dịch vụ khi triển khai trong quá trình giáo dục,
tuyên truyền về chăm sóc sức khỏe, sức khỏe sinh sản của nam giới và nữ giới.
Thứ tư, thực hiện đánh giá tác động giới đối với các chính sách, chương trình
và dự án liên quan đến y tế, thu thập và phân tích dữ liệu về tình hình sức khỏe lOMoAR cPSD| 40551442
của nam và nữ để có những giải pháp can thiệp phù hợp. Ngoài ra, lồng ghép yếu
tố giới vào quá trình xây dựng và triển khai các quy hoạch, kế hoạch phát triển
ngành y tế, đồng thời nâng cao hơn nữa vai trò năng lực, trình độ, kỹ năng của
chủ thể quyền của phụ nữ trong quá trình thực hiện quyền được giáo dục, quyền
tiếp cận thông tin về y tế, các quyền con người nói chung thông qua việc lồng
ghép các nội dung giáo dục về quyền của phụ nữ nói riêng và quyền con người
nói chung vào hệ thống giáo dục quốc dân và giáo dục.
Cuối cùng, nâng cao hiệu quả và chất lượng của công tác giám sát thực thi
luật và chính sách; quyết liệt thực hiện các biện pháp chế tài trong việc xử lý hành
vi lạm dụng, vi phạm các quy định pháp luật trong việc đào tạo, cũng như bảo
đảm các quyền và lợi ích của phụ nữ trong lĩnh vực y tế hiện nay. Tổ chức tập
huấn cho lãnh đạo đơn vị và cán bộ chuyên trách được tập huấn về lồng ghép giới
trong xây dựng và triển khai chính sách ngành Y tế. Ngoài ra, tăng cường phối
hợp với các cơ quan, đơn vị có liên quan trong và ngoài ngành, các tổ chức quốc
tế, các tổ chức đoàn thể, xã hội để triển khai thực hiện Kế hoạch hành động về
bình đẳng giới của ngành Y tế. KẾT LUẬN
Tóm lại, bình đẳng giới trong lĩnh vực y tế là một yếu tố cốt lõi trong việc
bảo vệ và nâng cao chất lượng cuộc sống của mỗi cá nhân trong xã hội. Các quy
định của pháp luật Việt Nam, từ Hiến pháp đến Luật Bình đẳng giới và các văn
bản hướng dẫn thi hành, đã tạo ra nền tảng pháp lý vững chắc, đảm bảo quyền lợi
sức khỏe của mọi công dân, không phân biệt giới tính. Những quy định này không
chỉ chú trọng đến việc bảo vệ sức khỏe của phụ nữ mà còn tạo cơ hội để nam giới
có thể tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe phù hợp với nhu cầu của họ.
Trong tương lai, để những quy định về bình đẳng giới trong y tế trở thành
hiện thực và mang lại lợi ích lâu dài cho cộng đồng, cần tiếp tục hoàn thiện hệ lOMoAR cPSD| 40551442
thống pháp lý, khuyến khích sự tham gia của tất cả các đối tượng, đồng thời thúc
đẩy sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và cộng đồng.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo trình -
Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Bình đẳng giới, Nhà
xuất bản Chính trị quốc gia sự thật 2. Bộ luật và văn bản pháp luật - Bộ luật Hình sự 2015; -
Nghị định 112/2020/NĐ-CP về xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, viênchức -
Nghị định 125/2021/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính
tronglĩnh vực bình đẳng giới -
Nghị định 104/2023/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
mộtsố điều của pháp lệnh dân số -
Nghị định 117/2020/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính tronglĩnh vực y tế -
Quyết định 5658/QĐ-BYT 2021 thực hiện chiến lược quốc gia về
bìnhđẳng giới ngành y tế -
Nghị quyết 28/NQ-CP/2021 ban hành chiến lược quốc gia về bình
đẳnggiới giai đoạn 2021-2030 -
Quyết định 822/QĐ-BYT phê duyệt Kế hoạch hành động về bình
đẳnggiới của ngành Y tế giai đoạn 2016-2020. -
Báo cáo số 11/BC-BYT tổng kết công tác y tế năm 2023 và nhiệm vụgiải pháp năm 2024.
3. Bài viết, bài báo của các tác giả -
“Đẩy mạnh hơn việc thực hiện bình đẳng giới trong ngành Y tế – Tác giả
ViệtHà – Trang thông tin Báo Điện tử Chính Phủ” https://baochinhphu.vn/day-
manh-hon-viec-thuc-hien-binh-dang-gioi-trongnganh-y-te-102132936.htm -
“Việt Nam đạt được nhiều thành tựu về bình đẳng giới – Tác giả Hoài Thu lOMoAR cPSD| 40551442
( TTXVN) – Báo tin tức” https://baotintuc.vn/xa-hoi/viet-nam-dat-duoc-nhieu-
thanh-tuu-ve-binh-danggioi-20241105123004419.htm -
“Đẩy mạnh thực hiện bình đẳng giới trong ngành y tế – Tác giả Bích Ngọc
–Trung tâm kiểm soát bệnh tật tỉnh Đồng Nai” https://dongnaicdc.vn/day-manh-
thuc-hien-binh-dang-gioi-trong-nganh-y-te -“Thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh
vực chăm sóc sức khỏe vùng dân tộc thiểu số – Tác giả Bích Trà - Báo điện tử
Đảng Cộng Sản Việt Nam” https://dangcongsan.vn/binh-dang-gioi-trong-vung-
dong-bao-dan-toc-thieu-sova-mien-nui/thuc-day-binh-dang-gioi-trong-linh-vuc-
cham-soc-suc-khoe-vungdan-toc-thieu-so-645899.html -
“Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực hiện bộ luật
laođộng Việt Nam về bình đẳng giới – Trang thông tin Tài liệu tham khảo”
https://tailieuthamkhao.com/binh-dang-gioi-trong-bo-luat-lao-dong-viet-nam- 12-98884