Bài tập - Pháp luật đại cương (SSH1170) | Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
Thuyết Mác Lênin gỉaỉ thích sự ra đời của nhà nước
Preview text:
lOMoAR cPSD| 44729304
Bài tập pháp luật đại cưong
Câu 1: thuyết mác lênin gthich sự ra đời của nhà nước
Lịch sử cho thấy không phải khi nào xã hội cũng có nhà nước. Trong xã hội nguyên thủy, do kinh
tế còn thấp kém, chưa có sự phân hóa giai cấp, cho nên chưa có nhà nước. Đứng đầu các thị tộc
và bộ lạc là các tộc trưởng (hay tộc chủ) do những người dân ở đó bầu ra, quyền lực của những
người đứng đầu thuộc về uy tín và đạo đức, việc điều chỉnh các quan hệ xã hội được thực hiện
bằng những quy tắc chung, những tập quán trong cộng đồng. Trong tay họ không có và không
cần một công cụ cưỡng bức đặc biệt nào. HCo nên sự thống nhất và tuân theo 1 chuẩn mực quy
tắc chung là cần thiết là nhu cầu của thời đại của con người. dẫn đến tan rã chế độ thị tộc và
theo qua trình phát triển lực lượng lao đọng trở nên lớn mạnh phát triển dẫn đến năng suất lao
động tăng, của cải làm ra ngày càng nhiều, và dẫn đến có của cải dư thừa kèm theo đó là sự tích
trữ, đồng thời xuất hiện một bộ phận chiến đoạt của cải dư thừa đó (do nắm quyền quản lý, cai
quản) hoặc giàu lên nhờ tích trữ, đầu cơ từ đây đã có sự phân hóa giàu nghèo, giữa người có
của và người không có của, sự phân hóa giàu nghèo này dẫn đến hiện tượng phân tầng xã hội,
phân chia thành các tầng lớp khác nhau từ đó dẫn đến phân chia giai cấp đồng thời và kéo theo
xuất hiện mâu thuẫn giai cấp và điều không tránh khỏi là đấu tranh giai cấp, lúc này nhà nước đã
có tiền đề rõ ràng cho sự ra đời của mình. ực lượng sản xuất phát triển đã dẫn đến sự ra đời chế
độ tư hữu và từ đó xã hội phân chia thành các giai cấp đối kháng và cuộc đấu tranh giai cấp
không thể điều hoà được xuất hiện. Điều đó dẫn đến nguy cơ các giai cấp chẳng những tiêu diệt
lẫn nhau mà còn tiêu diệt luôn cả xã hội, tạo ra một tình trạng loạn lạc hỗn độn. Xã hội lúc này
đòi hỏi phải có một tổ chức mới đủ sức dập tắt cuộc xung đột công khai giữa các giai cấp ấy,
hoặc cùng lắm là để làm cho cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra trong lĩnh vực kinh tế, dưới một
hình thức gọi là hợp pháp và để thảm hoạ đó không diễn ra, một cơ quan quyền lực đặc biệt đã
ra đời và đó chính là nhà nước. Từ nhu cầu phải kiềm chế sự đối lập của các giai cấp, làm cho
cuộc đấu tranh của những giai cấp có quyền lợi về kinh tế mẫu thuẫn nhau đó không đi đến chỗ
tiêu diệt lẫn nhau và tiêu diệt luôn cả xã hội… và giữa cho sự xung đột đó năm trong vòng trật
tự. Và như vậy là Nhà nước đã xuất hiện một cách khách quan, nó là sản phẩm của một xã hội
đã phát triển đến một giai đoạn nhất định, nó không phải là một quyền lực từ bên ngoài áp đặt
và xã hội mà là một lực lượng nảy sinh từ xã hội, một lực lượng tựa hồ như đứng trên xã hội, có
nhiệm vụ làm dịu bớt sự xung đột và giữ cho sự xung đột đó nằm trong vòng trật tự.[8] Nhà
nước đầu tiên trong lịch sử là nhà nước Chiếm hữu nô lệ, xuất hiện trong cuộc đấu tranh không
điều hoà giữa giai cấp chủ nô và giai cấp nô lệ. Tiếp đó là Nhà nước Phong kiến, Nhà nước Tư sản
và sau cùng là Nhà nước Xã hội chủ nghĩa.
Như vậy, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tiền đề kinh tế cho sự ra đời nhà nước là chế
độ tư hữu tài sản. Tiền đề xã hội cho sự ra đời nhà nước là sự phân chia xã hội thành các giai cấp
(hoặc các tầng lớp xã hội) mà giữa các giai cấp, tầng lớp đó, những lợi ích cơ bản đối kháng nhau
đến mức không thể điều hòa được. lOMoAR cPSD| 44729304
Chính vì vậy, “nhà nước” được hiểu là hình thức tổ chức xã hội có giai cấp, là tổ chức quyền lực
chính trị công cộng đặc biệt, có chức năng quản lý xã hội để phục vụ lợi ích trước hết cho giai cấp
thống trị và thực hiện những hoạt động nảy sinh từ bản chất của xã hội.”
Thực tế lịch sử ra đời nhà nước sơ khai rất đa dạng, do rất nhiều nguyên nhân khác nhau. Ngoài
hai nguyên nhân kinh tế và nguyên nhân xã hội, sự xuất hiện nhà nước sơ khai còn có nhiều
nhân tố khác, với mức độ ảnh hưởng nhiều ít, trực tiếp hoặc gián tiếp rất khác nhau, trong đó có: –
Yếu tố bên trong, như vị trí địa lý, thổ nhưỡng, khí hậu, nguồn cung cấp thức ăn, giao
thông… Chính những yếu tố này là cơ sở để thu hút sự tập trung dân cư, khiến cho có nơi này
nhà nước ra đời sớm hơn nơi khác, trở thành trung tâm kinh tế – chính trị – văn hóa sớm hơn các vùng khác. –
Yếu tố bên ngoài, như nhu cầu hợp nhất các cộng đồng dân cư tạo sự thuận lợi cho phát
triểnkinh tế, giao lưu buôn bán; nhu cầu tự vệ trước khả năng chiến tranh; sự ra đời hay phát
triển của các nhà nước láng giềng; sự cạnh tranh về sinh thái và chủng tộc ; sự phát triển về vũ
khí quân sự của các nhà nước láng giềng . –
Các yếu tố văn hóa – kinh tế – khoa học, kĩ thuật, như sự ra đời của chữ viết, sự ra đời của
cácthành thị, sự tiến bộ về kĩ thuật, sự ra đời của tôn giáo, sự tập trung hóa về chính trị, sự thống
nhất về tư tưởng, ý thức hệ
Câu 2: Thuyết khế ước xã hội về sự ra đời của nhà nước
• Khái niệm về khế ước xã hội qua nhiều góc nhìn
Trong triết học và chính trị học Khế ước xã hội là một học thuyết mô tả việc con người cùng thỏa
thuận từ bỏ trạng thái tự nhiên để xây dựng cuộc sống cộng đồng.
Về mặt luật pháp, khế ước xã hội thể hiện cụ thể là một tờ khế ước, một bản hơp đồng trên đó
các thành viên xã hội thống nhất các nguyên tắc để cùng chung sống với nhau.
• Qua từng thời kì khế ước xã hội có sự khác nhau
-Thời Hy Lạp: Trong xã hội Hy Lạp người chủ trương thuyết khế ước xã hội là Êpiquya (341 - 270
trước Công nguyên). Êpiquya là nhà triết học duy vật, vô thần cổ Hi Lạp. Theo ông, cảm giác là cơ
sở của nhận thức, vật thể phát ra những làn sóng thâm nhập vào khí quan, tạo thành hình ảnh
của vật thể. Êpiquya phủ nhận sự can thiệp của thần linh vào việc đời, lấy tính chất tổn tại vĩnh
viễn của vật chất có vận động nội tại làm điểm xuất phát. Kế tục học thuyết duy vật, vô thần của
Đêmôcrit, một trong những nhà triết học duy vật lớn nhất của Hi Lạp cổ đại, khi đề cập đến lí do lOMoAR cPSD| 44729304
tổn tại của nhà nước và pháp luật, Êpiquya cho rằng, con người trong khi hướng tới lợi ích chung
đã củng nhau tham gia vào một khế ước, hợp đồng và đã đặt ra các đạo luật. Họ thoả thuận
không gây cho nhau điều gì tệ hại, nhờ thế họ thấy không phải sợ sệt nhau. Ông viết: những người
lần đầu tiên đưa ra pháp luật, thiết lập phương thức cầm quyền và chế độ hành chính tại các đô
thị, đã qua đó giúp đỡ việc đảm bảo an ninh cao nhất cho đời sống. Bởi lẽ, "nếu như ai đấy xoá
bỏ mọi thứ đó, thì chúng ta sõ lại phải sống như dã thú..." Theo ông, các đạo luật không còn thể
hiện tính công lí, nếu như chúng sinh ra không phải vì lợi ích giao tiếp chung giữa mọi người. Theo
ông, pháp luật là sản phẩm của một sự thoả thuận, theo sau một khế ước. Mác có nhận xét rằng,
"ở Épiquya lần đầu tiên bắt gặp nhận thức rằng nhà nước dựa trên sự đồng thuận của con người,
dựa trên một khế ước xã hội".
-Thời cận hiện đại: Trong thời cận - hiện đại, thuyết khế ước xã hội có một đại biểu xuất sắc là
Ruxô (Jean - Jacques Rousseau; 1712 - 1788) - nhà văn và nhà triết học lỗi lạc, lí luận gia tiêu
biểu của Cách mạng Pháp 1789. Ông là người có ảnh hưởng lớn đến các cuộc cách mạng tư sản,
văn học và triết học châu Âu.
Trong lĩnh vực nhà nước, pháp luật, tư tưởng Ruxô mang tính cấp tiến, vượt qua nhiều tư tưởng
tam quyền phân lập, quân chủ lập hiến, dân chủ đại diện của Môngtexkid. Trong học thuyết của
mình, Ruxô đặc biệt nhấn mạnh chủ quyền nhân dân. Có thể nói, đây ià tư tưởng trung tâm, như
sợi chỉ đỏ xuyên suốt tư duy sáng tạo của ông. Các quan điểm chính trị - xã hội của Ruxô nổi bật
ở tư tưởng dân : chủ thị dân, thấm đượm sâu sắc sự quan tâm đến ị người dân bình thường vốn
bị chế độ chuyên chế đè Ỉ nén hơn cả. Ruxô không đơn thuần chỉ phê phán các thiết chế vương
quyển tàn bạo mà chủ trương phá bỏ toàn bộ hệ thống chính trị của chế độ đó. Tác phẩm chủ
yếu của ông, tác phẩm đã đưa tên tuổi của ông vào hàng các vĩ nhân của nước Pháp, có sức cổ
vũ, động viên mạnh mẽ các tầng lớp nhân dân cách mạng đang đấu tranh lật đổ chế độ phong
kiến là "Khế ước xã hội" ra đời năm 1762 chứa đựng những tư tưởng tiên phong của cuộc cách mạng dân chủ.
Ruxô xuất phát tử giả thiết, ở trạng thái tự nhiên nguyên thuỷ ban đầu mọi người đều bình
đẳng, tự do, chưa biết gì đến bất công xã hội, quyền tư hữu, sự áp bức và chuyên quyền. Ở đó
chỉ có một dạng có thể nói là bất công, là do thể lực và tuổi tác, sức khoẻ của con rgười rất khác
nhau. Ruxô quy kết nguồn gốc của bất công xã hội là do xuất hiện quyền tư hữu nảy sinh trong
quá trình hoàn thiện công cụ sản xuất, còn quyền tư hữu ra đời kéo theo sự phân hoá dân cư
trong xã hội phân thành người giàu, người nghèo, làm suy đồi đạo đức xã hội: kẻ giàu càng
muốn giàu hơn bằng lao động của người khác. Mâu thuẫn, xung đột, đấu tranh giữa người và
người thường xuyên xảy ra và nhà nước xuất hiện để bảo vệ quyền tư hữu và quyền thống trị về
mặt chính trị và như vậy từ bất công kinh tế đã làm phát sình bất công chính trị rồi chuyển hoá
thành chuyên chế, lộng quyền, bạo lực hoành hành và bắt đầu giai đoạn cực đoan của bất công,
khi mọi người trở thành vô quyền như nhau trước một kẻ chuyên quyền - Ruxô cố gắng tìm
kiếm biện pháp hạn chế, xoá bỏ bất công xã hội. Ông viết: người ta sinh ra tự do, nhưng rồi đâu
đâu con người cũng sống trong xiểng xích. Có kẻ tưởng mình là ông chủ, mà thật ra còn nô lệ
hơn cả tôi tớ của họ. Ông phê phán mạnh mẽ những người theo quan niệm chấp nhận cái thực lOMoAR cPSD| 44729304
tại. Ngay Arixtôt, đầu óc uyên bác bậc nhất trong những nhà triết học Hi Lạp, nhà tư tưởng lớn
nhất cổ đại phương Tây cũng bị ông phê phán: Arixtôt đã nói rằng con người vốn không bình
đẳng, có kẻ sinh ra làm nô lệ, có kẻ sinh ra để trị vì. Arixtôt nói có Ii, nhưng ông đã lấy kết quả
làm nguyên nhân. Bất cứ ai sinh ra trong hàng nô lệ thì đều có thể là nô lệ; nói thế chẳng sai.
Nhưng sở dĩ có người nô lệ bẩm sinh là vì trước đó đã có những người nô lệ không bẩm sinh.
Họ bị cưỡng bức làm nô lệ... Ruxô khẳng định: ở trạng thái tự nhiên không có nô lệ và các chủ
nô, tự do cũng như bình đẳng là phúc lợi cao nhất của con người. Ruxô xác định: thể chế chính
trị hợp lí là con người liên kết với nhau thành xã hội, không bị mất đi quyền tự nhiên của mình
mà duy trì được tự do. Trật tự xã hội là một thứ quyền thiêng liêng làm nền tảng cho mọi thứ
quyền khác. Nhưng trật tự xã hội không phải tự nhiên mà có, nó được xác lập trên cơ sở những
công ước và Ruxô đã dành cả tác phẩm chính của mình là “Khế ước xã hội' để giải quyết nhiệm vụ này.
Ruxô đặt vấn đề là cần phải có một khế ước hoặc có khi ông dùng là “công ước” xã hội khi con
người đã thoát ra khỏi trạng thái tự nhiên để trở thành con người công dân, dân sự... Tự do là
từ bản chất con người mà có. Luật đầu tiên của tự do là mỗi người phải được chăm lo sự tồn tại
của mình. Những điều quan tâm đầu tiên là quan tâm đến bản thân. Ông chỉ rõ: phương pháp
duy nhất để con người tự bảo vệ là họ phải kết hợp lại với nhau thành một lực lượng chung,
được điều khiển bằng một động cơ chung, khiến cho mọi người đều bình đẳng một cách hài
hoà; tìm ra một hình thức kết liên với nhau để dùng sức mạnh chung mà bảo vệ mọi thành viên:
mỗi thành viên trong khi khép mình vào tập thể, dùng sức mạnh tập thể, vẫn được tự do đầy đủ
như trước, vẫn chỉ tuân theo bản thân mình. Đó là vấn đề cơ bản mà khế ước xã hội đề ra để
giải quyết và khế ước xã hội có thể quy vào một công thức sau: mỗi người đặt mình và quyền
lực của mình dưới sự điều khiển tối cao của ý chí chung và chúng tiếp nhận mỗi thành viên như
một bộ phận không thể tách rời của toàn thể.
Ý chí chung của toàn thể dân chúng được công bố lên sẽ là một hành động của chủ quyền tối
cao. Đó tức là luật. Chủ quyền tối cao là nhằm thực hiện ý chí chung. Cơ quan quyền lực tối cao
phải là một con người tập thể.
Kế thừa tư tưởng chủ quyền nhân dân của những người đi trước, đến lượt mình Ruxô đã phát
triển, nâng cao nó khi khẳng định: chủ quyền nhân dân là một thực thể tập thể, nó không thể
được đại diện bởi cá nhân nào, mà quyền lực được tiến hành bởi ý chí chung hay ý chí của đa số
không thể phân chia. Nó luôn luôn thuộc về nhân dân và không thể bị hạn chế bởi bất kì đạo luật nào.
Đặt ngược lại vấn đề, Ruxô đề cập trường hợp cá biệt, nhưng vẫn thường xảy ra: thật ra mỗi cá
nhân có thể có ý chí riêng, không giống hoặc trái với ý chí chung. Lợi ích riêng tư có thể nói với
anh ta không như tiếng nói của lợi ích chung, cho nên thường có những người hưởng quyền
công dân mà không muốn làm nghĩa vụ thần dân, và ông nhận xét, thái độ bất công đó nếu phát
triển mãi ra thì sẽ dẫn tới sự suy đồi của cơ chế chính trị. Vì vậy, muốn cho công ước xã hội
không thể trở thành một công thức suông thì nó phải bao hàm điều ràng buộc với cá nhân. lOMoAR cPSD| 44729304
Nhưng ông cũng lưu ý: Muốn cho một ý chí trở thành ý chí chung, không nhất thiết lúc nào cũng
phải tuyệt đối trăm người như một và điều cần thiết là mỗi tiếng nói đều được đếm xỉa tới. Nếu
gạt bỏ một tiếng nói nào thì tính chất chung sẽ bị tổn thương.