Bài tập triết học - Triết học Mác - Lênin | Đại học Tôn Đức Thắng

Quy luật lượng chất là một trong ba quy luật cơ bản của phân biện chứng duy vật trong Triết học Mác – Lenin, dùng để chỉ cách thức vận động, phát triển của một sự vật, hiện tượng nào đó mà sự vận động. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

QUY LUẬT LƯỢNG-CHẤT
Quy luật lượng chất là quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay
đổi về chất và ngược lại.
Vai trò:
- Quy luật lượng chất là một trong ba quy luật cơ bản của phân biện chứng duy vật trong
Triết học Mác – Lenin, dùng để chỉ cách thức vận động, phát triển của một sự vật, hiện
tượng nào đó mà sự vận động, phát triển đó được thực hiện theo cách thức thay đổi lượng
trong mỗi sự vật dẫn đến sự thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng và đứa sự vật, hiện
tượng đó đến một trạng thái phát triển tiếp theo.
- Ph. Ăng-Ghen cũng đã khái quát về quy luật lượng chất như sau:Những thay đổi đơn
thuần về lượng, đến một mức độ nhất định, sẽ chuyển hóa thành những sự khác nhau về
chất.
Việt Nam là quốc gia quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư
bản, vì vậy việc nhận thức đúng đắn về quy luật lượng chất có ý nghĩa rất lớn trong việc hình
thành và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong những quy luật khách quan ấy thì quy luật lượng – chất là một trong ba quy luật
của phép biện chứng duy vật, nó cho biết những phương thức của sự vận động, phát
triển.
Nội dung:
- Mỗi sự vật, hiện tượng tồn tại ở một thể thống nhất bao gồm phần chất và phần lượng.
Trong đó phần chất là phần tương đối ổn định còn phần lượng là phần thường xuyên có
sự biến đổi.
Sự biến đổi này của lượng sẽ tạo nên sự mâu thuẫn giữa lượng và chất.
- Trong một điều kiện nhất định đáp ứng được sự biến đổi về lượng, một sự vật, hiện tượng
sẽ có sự biến đổi về lượng, đến một mức độ nhất định, nó sẽ phá vỡ chất cũ. Lúc này mâu
thuẫn giữa lượng và chất được giải quyết, chất mới được hình thành với một lượng mới.
Tuy nhiên bản chất của lượng là vận động nên nó sẽ không đứng yên mà sẽ tiếp tục vận
động đến một thời điểm nào đó nó sẽ làm phá vỡ chất hiện tại.
- Quá trình vận động giữa hai mặt Lượng và chất tác động với nhau qua hai mặt: Chúng
tạo nên sự vận động liên tục và không dừng lại. Lượng sẽ biến đổi dần dần và tạo nên
chất mới, hay nói cách khác, lượng biến đổi dần dần và tạo nên bước nhảy vọt. Sau đó
chúng tiếp tục biến đổi dần và tạo nên bước nhảy vọt tiếp theo.
Nói một cách ngắn gọn thì nội dung quy luật lượng chất là bất cứ một sự vật, hiện
tượng nào cũng đều vận động và phát triển.
- Biến đổi về lượng đến một mức nhất định sẽ dẫn đến biến đổi về chất, sản sinh chất mới.
Rồi trên nền tảng của chất mới lại bắt đầu biến đổi về lượng. Biến đổi về lượng là nền
tảng và chuẩn bị tất yếu của biến đổi về chất. Biến đổi về chất là kết quả tất yếu của biến
đổi về lượng. Quy luật biến đổi về chất và lượng cho thấy trạng thái và quá trình phát
triển của sự vật.
-
Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật lượng chất
- Mỗi một quy luật trong đời sống đều đem đến những ý nghĩa nhất định, phương
pháp luận của quy luật lượng chất cũng vậy.
- Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật lượng chất đem đến hai ý nghĩa cơ bản sau
đây:
Ý nghĩa trong nhận thức:
+ Nhờ có phương pháp luận lượng chất mà chung ta hiểu rằng bất cứ sự vật, hiện tượng
nào cũng đều vận động và phát triển.
+ Sự vật, hiện tượng nào cũng đều tồn tại hai mặt: Lượng và Chất. Do đó khi nhận thức,
chúng ta cần nhận thức về cả hai mặt lượng và chất để có có cái nhìn phong phú hơn về
những sự vật, hiện tượng tồn tại xung quanh chúng ta.
+ Cần phải làm rõ quy luật phát triển của sự vật, hiện tượng bằng cách xác định giới hạn độ,
điểm nút, bước nhảy.
Ý nghĩa trong thực tiễn:
+ Muốn có sự biến đổi về chất thì cần kiên trì để biến đổi về lượng (bao gồm độ và điểm nút);
+ Cần tránh hai khuynh hướng sau:
hứ nhất, nôn nóng tả khuynh: Đây
việc một nhân không kiên trì
nỗ lực để sự thay đổi về lượng
nhưng lại muốn có sự thay đổi về chất;
T
hứ hai bảo thủ hữu khuynh: Lượng,
đã được tích lũy đến mức điểm nút
nhưng không muốn thực hiện bước
nhảy để có sự thay đổi về chất.
T
+ Nếu không muốn có sự thay đổi về chất thì cần biết cách kiểm soát lượng trong giới hạn độ.
+ Bước nhảy là một giai đoạn hết sức đa dạng nên việc thực hiện bước nhảy phải được thực hiện
một cách cẩn thận.
Chỉ thực hiện bước nhảy khi đã tích lũy lượng đến giới hạn điểm nút và thực hiện bước nhảy một
cách phù hợp với từng thời điểm, điều kiện và hoàn cảnh cụ thể để tránh được những hậu quả
không đáng có như không đạt được sự thay đổi về chất, dẫn đến việc phải thực hiện sự thay đổi
về lượng lại từ đầu.
Nói chung, từ quy luật lượng chất, ta hiểu được mọi sự vật đều vận động và phát triển
nhưng cần thời gian và sự tác động từ bên ngoài, từ đó chúng ta biết cách để bố trí thời
gian và nỗ lực hợp lý cho bất cứ một kế hoạch nào đó đã được bản thân đặt mục tiêu.
Quy luật mâu thuẫn
- Quy luật mâu thuẫn là 01 trong những quy luật cơ bản trong phép biện chứng duy
vật và biện chứng duy vật lịch sử, có vai trò khẳng định rằng: mọi sự vật, hiện
tượng trong tự nhiên đều có sự tồn tại và mâu thuẫn bên trong.
- Quy luật mâu thuẫn là quy luật thống nhất và đấu tranh giữa những mặt đối lập.
Hiểu một cách rõ hơn thì mọi sự vật hoặc hiện tượng đều chứa đựng các mặt
đối lập, các khuynh hướng khác nhau từ đó tạo thành những mâu thuẫn trong
bản thân mỗi sự vật, hiện tượng đó. Sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt
đối lập sẽ tạo ra xung lực của sự vận động, phát triển, kết quả là mất đi cái cũ và
thay thế bởi cái mới
Vai trò
Mâu thuẫn đóng vai trò và có ý nghĩa to lớn. Mâu thuẫn trong xã hội nói chung, mâu
thuẫn trong cuộc sống nói riêng là động lực của sự vận động xã hội, giúp thúc đẩy các
quá trình hoạt động. Mâu thuẫn còn là động lực, nguồn gốc của sự vận động, biến đổi,
phát triển, có tính khách quan phổ biến. Cụ thể:
- Biến đổi, phát triển chính là quá trình chuyển đổi giữa sự vật này thành sự vật khác,
hoặc chuyển đổi giai đoạn này sang giai đoạn khác của một sự vật.
Mỗi sự vật đều tồn tại trong bản thân chúng nhiều mâu thuẫn: mâu thuẫn giữa bên trong
và bên ngoài, mâu thuẫn cơ bản và không cơ bản, mâu thuẫn chủ yếu và thứ yếu,… Tuy
nhiên giữa các mặt đối lập đó vừa có tính thống nhất lại vừa diễn ra quá trình đấu tranh
với nhau.
Tính chất thống nhất
giữa các mặt đối lập
trong mâu thuẫn làm cho
sự vật ổn định tương đối
ở một chất nhất định,
chưa biến đổi. Tuy nhiên
giữa chúng vừa có sự
thống nhất vừa diễn ra
sự đấu tranh giữa các
mặt đối lập. Sự đấu tranh
này là nguồn gốc của sự
chuyển hoá giữa các mặt
đối lập.
-Sự chuyển hoá này sẽ
làm cho sự vật chuyển
hoá thành cái khác có thể
là sang giai đoạn mới
hoặc sự vật mới.
-Do đó, có thể hiểu phát
triển chính là cuộc đấu
tranh giữa (của) các mặt
đối lập.
-Bên cạnh mặt lợi ích mà
mâu thuẫn mang lại thì
mâu thuẫn cũng có thể
gây ảnh hưởng xấu đến
các chủ thể, vấn đề trong
cuộc sống gây bất hòa
tranh cãi, thậm chí xảy
ra các xung đột nghiêm
trọng nếu không có sự
thống nhất và giải quyết
được.
Nội dung:
Quy luật mâu thuẫn gồm các nội dung:
Về mặt đối lập
- Là những mặt có những thuộc tính, đặc điểm,… có khuynh hướng biến đổi trái
ngược và tồn tại khách quan ở trong tự nhiên, tư suy và xã hội.
Về mâu thuẫn biện chứng
- Là một trạng thái mà mặt đối lập có liên hệ, tác động qua lại với nhau. Mâu thuẫn
biện chứng được tồn tại khách quan, phổ biến ở trong tư duy, xã hội và tự nhiên.
- Tư duy có sự phản ánh mâu thuẫn với hiện thực, nguồn gốc phát triển nhận thức
trong mâu thuẫn biện chứng.
- Sự thống nhất của các mặt đối lập chính là sự tồn tại nhưng không tách rời và là sự
nương tựa lẫn nhau, nhưng không tách rời nhau của các mặt đối lập, tạo nên những
nhân tố đồng nhất của các mặt đối lập.
- Sự thống nhất của các mặt đối lập cũng tác động ngang nhau, được xem là trạng
thái vận động khi có sự diễn ra căn bằng.
- Sự đấu tranh của các mặt đối lập chính là sự tác động qua lại với nhau theo xu
hướng bài trừ, phủ định lẫn nhau giữa các mặt đó.
- Tùy thuộc vào mối quan hệ qua lại của điều kiện diễn ra cuộc đấu tranh, hình thức
đấu tranh giữa mặt đối lập rất phong phú, đa dạng.
Có thể thấy các mâu thuẫn tồn tại phổ biến trong đời sống, dù nhìn nhận là trái
ngược nhau nhưng không thể tách biệt hoàn toàn với nhau mà có những mối
liên hệ với nhau.
Ý nghĩa
+ Vì mâu thuẫn là động lực cho sự phát triển, nên chúng ta phải biết phát hiện, phân tích
mâu thuẫn để tìm ra khuynh hướng vận động của sv/ht.
+ Vì mâu thuẫn rất đa dạng, nên khi giải quyết nó cần có quan điểm lịch sử cụ thể.
QUY LUẬT PHỦ ĐỊNH CỦA PHỦ ĐỊNH
Quy luật phủ định của phủ định là gì?
uy luật phủ định của phủ định là quy luật nói lên mối liên hệ, sự kế thừa giữa
cái bị phủ định và cái phủ định; do sự kế thừa đó, phủ định biện chứng không
phải là sự phủ định sạch trơn, bác bỏ tất cả sự phát triển trước đó, mà là điều
kiện cho sự phát triển, nó duy trì và gìn giữ nội dung tích cực của các giai đoạn
trước, lặp lại một số đặc điểm cơ bản của cái xuất phát nhưng trên cơ sở mới cao hơn; do
vậy, sự phát triển có tính chất tiến lên không phải theo đường thẳng mà theo đường xoáy
ốc.
Q
Vai trò:
Phủ định biện chứng có hai đặc điểm cơ bản là: .tính khách quan và tính kế thừa
Tính khách quan:
- Phủ định biện chứng mang tính khách quan do nguyên nhân của sự phủ định nằm
ngay trong bản thân sự vật. Nguyên nhân đó chính là kết quả giải quyết những
mâu thuẫn bên trong sự vật.
- Nhờ việc giải quyết những mâu thuẫn mà sự vật luôn phát triển. Vì thế, phủ định
biện chứng là một tất yếu khách quan trong quá trình vận động, phát triển của sự
vật. Đương nhiên, mỗi sự vật có phương thức phủ định riêng tùy thuộc vào sự giải
quyết mâu thuẫn của bản thân chúng.
- Phủ định biện chứng không phụ thuộc vào ý muốn, ý chí chủ quan ủa con người.
Con người chỉ có thể tác động mà cho quá trình phủ định ấy diễn ra nhanh hay
chậm trên cơ sở nắm vững quy luật phát triển của sự vật.
Tính kế thừa:
- Phủ định biện chứng là kết quả của sự phát triển tự thân của sự vật nên nó không
thể là sự thủ tiêu, sự phá hủy hoàn toàn cái cũ.
- Cái mới chỉ có thể ra đời trên nền tảng cái cũ, chúng không thê từ hư vô. Cái mới
ra đời là sự phát triển tiếp tục của cái cũ trên cơ sở gạt bỏ những mặt tiêu cực, lỗi
thời, lạc hậu của cái cũ và chọn lọc, giữ lại, cải tạo những mặt còn thích hợp,
những mặt tích cực, bổ sung những mặt mới phù hợp với hiện thực.
- Trong quá trình phủ định biện chứng, sự vật khẳng định những mặt tốt, tích cực và
chỉ phủ định những cái lạc hậu, cái tiêu cực.
Có thể nói, sự phát triển chẳng qua chỉ là sự biến đổi trong đó những giai đoạn
sau bảo tồn tất cả những mặt tích cực được tạo ra ở giai đoạn trước và bổ sung
thêm những mặt mới phù hợp với hiện thực.
Phủ định biện chứng không chỉ là sự khắc phục cái cũ, sự vật cũ, mà còn là sự liên kết
giữa cái cũ và cái mới, sự vật cũ với sự vật mới, quá khứ và hiện tại. Phủ định biện chứng
là một khâu tất yếu của mối liên hệ và sự phát triển.
Ví dụ quy luật phủ định của phủ định:
+ Một quả trứng là sự khẳng định ban đầu (trong điều kiện được ấp) Phủ định lần 1 tạo
ra gà mái con Phủ định lần 2 (gà mái con lớn lên) sinh ra nhiều quả trứng.
+ Một hạt thóc là sự khẳng định ban đầu (được gieo trồng) Phủ định lần 1 tạo ra cây
lúa Phủ định lần 2, cây lúa sinh ra nhiều hạt thóc.
Ở 2 ví dụ trên ta có một chu kỳ phát triển: Từ một quả trứng ban đầu đến nhiều quả trứng
mới. Từ một hạt thóc ban đầu đến nhiều hạt thóc mới. Từ một đến nhiều tức là có sự phát
triển lên nấc thang cao hơn. Đó là kết quả phủ định của phủ định.
Nội dung:
Sự ra đời và tồn tại của sự vật đã khẳng định chính nó. Trong quá trình vận động của sự
vật, những nhân tố mới xuất hiện sẽ thay thế những nhân tố cũ, sự phủ định biện chứng
diễn ra. Sự vật đó không còn nữa và bị thay thế bởi sự vật mới, trong đó có những nhân
tố tích cực được giữ lại. Song sự vật mới này sẽ lại bị phủ định bởi sự vật mới khác.
Sự vật mới khác ấy dường như là sự vật đã tồn tại, song không phải là sự trùng lặp hoàn
toàn, mà nó có được bổ sung những nhân tố mới và chỉ bảo tồn những nhân tố tích cực,
thích hợp với sự phát triển tiếp tục của nó. Sau khi sự phủ định diễn ra hai lần thì sự phủ
định của phủ định được thực hiện, sự vật mới hoàn thành một chu kỳ phát triển. Sự phát
triển biện chứng thông qua những lần phủ định biện chứng như trên là sự thống nhất hữu
cơ giữa lọc bỏ, bảo tồn và bổ sung thêm những nhân tố tích cực mới. Do đó, thông qua
những lần phủ định biện chứng của bản thân, sự vật sẽ ngày càng phát triển.
Phạm trù phủ định biện chứng mới nói lên một giai đoạn, một mắt khâu, một nấc thang
trong quá trình phát triển nhất định. Với tư cách là cái phủ định (lần 1), cái mới cũng
chứa đựng trong mình xu hướng dẫn tới sự phủ định lần thứ hai (phủ định của phủ định).
Trong sự vận động vĩnh viễn của thế giới vật chất, dây chuyền của những lần phủ định
biện chứng là vô tận, cái mới phủ định cái cũ, nhưng rồi cái mới lại trở nên cũ và lại bị
cái mới sau phủ định. Cứ như vậy, sự phát triển của sự vật, hiện tượng diễn ra theo
khuynh hướng phủ định của phủ định từ thấp đến cao một cách vô tận theo đường “xoáy
ốc” hay “vòng xoáy trôn ốc”. Sau mỗi chu kỳ phủ định của phủ định, cái mới được ra đời
lặp lại cái cũ nhưng trên cơ sở cao hơn.
Sự phát triển theo đường “xoáy ốc” là sự biểu thị rõ ràng, đầy đủ các đặc trưng của quá
trình phát triển biện chứng của sự vật: tính kế thừa, tính lặp lại, tính tiến lên. Mỗi vòng
của đường “xoáy ốc” thể hiện sự lặp lại nhưng cao hơn, thể hiện trình độ cao hơn của sự
phát triển.
Ý nghĩa
Quy luật phủ định của phủ định biểu hiện sự phát triển của sự vật là do mâu thuẫn trong
bản thân sự vật quyết định. Mỗi lần phủ định là kết quả đấu tranh và chuyển hóa giữa các
mặt đối lập trong bản thân sự vật – giữa mặt khẳng định và mặt phủ định. Sự phủ định lần
thứ nhất diễn ra làm cho sự vật cũ chuyển thành cái đối lập với cái khẳng định ban đầu.
Sự phủ định lần thứ hai, sự vật mới với tư cách là cái phủ định của phủ định đối lập với
cái phủ định và trở lại cái ban đầu nhưng không giống nguyên vẹn như cái cũ mà trên cơ
sở cao hơn, tốt hơn.
Phủ định của phủ định là sự thống nhất biện chứng của cái khẳng định và phủ định, là kết
quả của sự tổng hợp tất cả nhân tố tích cực của cái khẳng định ban đầu và cái phủ định
lần thứ nhất, cũng như các giai đoạn trước đó. Cái tổng hợp này là sự lọc bỏ những giai
đoạn đã qua, vì vậy, nó có nội dung phong phú hơn, toàn diện hơn.
Kết quả của sự phủ định của phủ định là điểm kết thúc của một chu kỳ phát triển và cũng
là điểm khởi đầu cho chu kỳ phát triển tiếp theo. Sự vật lại tiếp tục biện chứng chính
mình để phát triển. Cứ như vậy sự vật mới ngày càng mới hơn. Theo triết học Mác-Lênin
thì quy luật phủ định của phủ định là quy luật phổ biến của sự phát triển của tự nhiên, xã
hội và tư duy.
THỰC TIỄN VÀ VAI TRÒ CỦA THỰC TIỄN
Phạm trù thực tiễn:n thức là gì?
– Trước hết, hoạt động thực tiễn là hoạt động mà con người sử dụng những công cụ vật
chất tác động vào những đối tượng vật chất làm biến đổi chúng theo những mục đích của
mình.
– Thực tiễn là hoạt động vật chất có mục đích.
Hoạt dộng thực tiễn là hoạt động bản
chất của con người. Nói vậy tức là chỉ có
con người mới có hoạt động thực tiễn.
Con vật không hoạt động thực tiễn.
Chúng chỉ hoạt động theo bản năng
nhằm mục đích thích nghi một cách thụ
động với thế giới bên ngoài. Ngược lại,
con người hoạt động có mục đích rõ ràng
nhằm cải tạo thế giới để thỏa mãn nhu
cầu của mình, thích nghi một cách chủ
động, tích cực với thế giới và làm chủ
thế giới.
Con người không thể thỏa mãn với
những gì có sẵn trong tự nhiên. Con
người phải tiến hành lao động sản xuất
của cải vật chất để nuôi sống mình. Để
lao động hiệu quả, con người phải chế
tạo và sử dụng công cụ lao động. Như
thế, bằng hoạt động thực tiễn, trước hết
là lao động sản xuất, con người tạo ra
những vật phẩm vốn không có sẵn trong
tự nhiên. Không có hoạt động thực tiễn,
con người và xã hội loài người không thể
tồn tại và phát triển được
+ Tuy nhiên, không phải mọi hoạt động có mục đích của con người đều là thực tiễn.
+ Hoạt động tư duy, hoạt động nhận thức hay hoạt động nghiên cứu khoa học đều là
những hoạt động có mục đích của con người. Tuy nhiên, chúng không phải là hoạt động
thực tiễn.Đây là những hoạt động tinh thần, là hoạt động trong hệ thần kinh trung ương
của bộ não người chứ không phải diễn ra ngoài thực tế.
Hoạt động thực tiễn còn mang tính lịch sử – xã hội.
Thực tiễn luôn là dạng hoạt động cơ bản và phổ biến của xã hội loài người mặc dù trình
độ và các hình thức hoạt động thực tiễn có những thay đổi qua các giai đoạn lịch sử. Hoạt
động đó chỉ có thể được tiến hành trong các quan hệ xã hội. Thực tiễn có quá trình vận
động và phát triển của nó. Trình độ phát triển của thực tiễn nói lên trình độ chinh phục tự
nhiên và làm chủ xã hội của con người
+ Hoạt động thực tiễn ở mỗi thời đại là khác nhau, tùy thuộc tình hình đất nước mà hoạt
động thực tiễn lại biểu hiện khác nhau.
+ Do đó, thực tiễn mang tính lịch sử- xã hội cho từng thời đại.
Các hình thức của hoạt động thực tiễn
Thực tiễn biểu hiện rất đa dạng với nhiều hình thức ngày càng phong phú.
Mỗi hình thức hoạt động của thực tiễn có một chức năng khác nhau, không thể thay thế
được cho nhau. Nhưng giữa các hình thức ấy lại có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tác
động qua lại lẫn nhau
Nhìn chung, hoạt động thực tiễn có ba hình thức cơ bản: Hoạt động sản xuất vật chất;
Hoạt động chính trị xã hội và Hoạt động thực nghiệm khoa học.
Hoạt động sản xuất vật chất
+ Là hình thức hoạt động cơ bản, đầu tiên của thực tiễn.
+ Là hoạt động phổ biến khắp mọi nơi trong cuộc sống, rất dễ nhận diện như hoạt động
trồng lúa, hoạt động trồng rau, trồng hoa màu hay các hoạt động dệt vải, sản xuất giày
dép, hoạt động sản xuất ô tô, xe máy…
+ Đây cũng là hoạt động mà con người sử dụng những công cụ lao động tác động vào
giới tự nhiên để tạo ra những của cải và các điều kiện thiết yếu nhằm duy trì sự tồn tại và
phát triển của mình và xã hội.
Hoạt động chính trị xã hội
+ Là hoạt động của các tổ chức cộng đồng người khác nhau trong xã hội nhằm cải biến
những mối quan hệ xã hội để thúc đẩy xã hội phát triển.
+ Cụ thể như những hoạt động liên quan đến chính trị xã hội như những hoạt động bỏ
phiếu của nhân dân đi bầu cử đại biểu Quốc hội.; hoạt động bỏ phiếu tán thành sự ra đời,
sửa đổi của các bộ Luật, Nghị định .. của các đại biểu; hoạt động tình nguyện giúp đỡ
nhân dân vùng núi vùng sâu xa xây dựng đường xá, …
Thực nghiệm khoa học
+ Là một hình thức đặc biệt của thực tiễn.
+ Đây là hoạt động được tiến hành trong những điều kiện do con người tạo ra gần giống,
giống hoặc lặp lại những trạng thái của tự nhiên và xã hội nhằm xác định các quy luật
biến đổi và phát triển của đối tượng nghiên cứu.
+ Dạng hoạt động thực tiễn này ngày càng có vai trò quan trọng trong sự phát triển của xã
hội, đặc biệt là trong thời kỳ cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại.
Các hoạt động cơ bản của thực tiễn
Phạm trù thực tiễn là một phạm trù triết học được các nhà triết học sớm quan tâm. Tuy
nhiên, các trào lưu triết học trước đó không giải quyết chính xác vấn đề thực tiễn. Kế
thừa và phát triển sáng tạo những yếu tố hợp lý trong các quan niệm trước đó, Các Mác
và Ph.Angwghen đã có quan niệm đúng đắn và khoa học về thực tiễn. Thực tiễn được
định nghĩa là toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích, mang tính lịch sử-xã hội của con
người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội.
Từ quan điểm nêu trên, thực tiễn có ba nét đặc trưng riêng biệt, đó là:
Thực tiễn là hoạt động khách quan có tính vật chất
Tính vật chất của thực tiễn được thể hiện qua sự tồn tại khách quan bên ngoài ý thức của
con người, con người có thể cảm biết được, thực tiễn chịu sự chế ước và chi phối của quy
luật khách quan.
Các yếu tố cấu thành thực tiễn bao gồm: con người (chủ thể của thực tiễn), thế giới bên
ngoài (đối tượng của thực tiễn), công cụ (phương tiện của thực tiễn),…
Thực tiễn là hoạt động năng động của tự giác
Tức là, thực tiễn là hoạt động có tính sáng tạo của con người nhằm cải tạo thế giới vật
chất. Tính mục đích, tính tự chủ, tính sáng tạo của hoạt động thực tiễn biểu thị rõ thực
tiễn có tính năng động, tự giác. Tính năng động tự giác không chỉ là đặc điểm của thực
tiễn, mà còn là một trong những thước đo trình độ phát triển của thực tiễn.
Thực tiễn là hoạt động lịch sử xã hội
Hoạt động thực tiễn được thực hiện thông qua việc con người sử dụng những công cụ vật
chất tác động trực tiếp vào những đối tượng làm cho chúng biến đổi theo những mục đích
nhất định. Hoạt động này không ngừng phát triển qua các thời kỳ, do đó thực tiễn luôn là
hoạt động mang tính lịch sử – xã hội.
Hoạt động thực tiễn đa dạng với ba hình thức cơ bản đó là họa động sản xuất vật chất,
hoạt động chính trị-xã hội và hoạt động thực nghiệm.
Vai trò thực tiễn đối với nhận thức:
Thứ nhất: Thực tiễn là cơ sở, mục đích, là động lực chủ yếu và trực tiếp của nhận thức
Thực tiễn là cơ sở của nhận thức:
Điều này có nghĩa là thực tiễn cung cấp tài liệu cho nhận thức, cho lý luận. Mọi tri thức
dù trực tiếp hay gián tiếp đối với người này hay người kia, thế hệ nay hay thế hệ khác, ở
trình độ kinh nghiệm hay lý luận, xét đến cùng đều bắt nguồn từ thực tiễn.
Bằng hoạt động thực tiễn, con người tác động vào thế giới, buộc thế giới phải bộc lộ
những thuộc tính, những tính quy luật để cho con người nhận thức chúng.
Sở dĩ như vậy, bởi con người quan hệ với hế giới không phải bắt đầu bằng lý luận mà
bằng thực tiễn. Chính từ trong quá trình hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới mà nhận thức
ở con người được hình thành và phát triển.
Ban đầu, con người thu nhận những tài liệu cảm tính. Sau đó, con người tiến hành
so sánh, phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, trừu tượng hóa… để phản ánh bản chất,
quy luật vận động của các sự vật, hiện tượng trong thế giới, từ đó xây dựng thành
các khoa học, lý luận.
Thực tiễn là mục đích của nhận thức:
Thực tiễn là mục đích của nhận thức vì nhận thức dù về vấn đề khía cạnh hay ở lĩnh vực
gì đi chăng nữa thì cũng phải quay về phục vụ thực tiễn. Nhận thức mà không phục vụ
thực tiễn thì không phải là “nhận thức” theo đúng nghĩa.
Do vậy, kết quả nhận thức phải hướng dẫn chỉ đạo thực tiễn. Lý luận, khoa học chỉ có ý
nghĩa thực sự khi chúng được vận dụng vào thực tiễn, cải tạo thực tiễn.
Thực tiễn là động lực chủ yếu và trực tiếp của nhận thức.
Thực tiễn là động lực chủ yếu và trực tiếp của nhận thức là thực tiễn cung cấp năng lượng
nhiều nhất, nhanh chóng nhất giúp con người nhận thức ngày càng toàn diện và sâu sắc
về thế giới.
Trong quá trình hoạt động thực tiễn làm biến đổi thế giới, con người cũng biến đổi luôn
cả bản thân mình, phát triển năng lực thể chất, trí tuệ của mình. Nhờ đó, con người ngày
càng đi sâu vào nhận thức thế giới, khám phá những bí mật của thế giới, làm phong phú
và sâu sắc tri thức của mình về thế giới.
Thực tiễn đề ra nhu cầu, nhiệm vụ và phương hướng phát triển của nhận thức. Nhu cầu
thực tiễn đòi hỏi phải có tri thức mới, phải tổng kết kinh nghiệm, khái quát lý luận, nó
thúc đẩy sự ra đời và phát triển của các ngành khoa học. Khoa học ra đời chính vì chúng
cần thiết cho hoạt động thực tiễn của con người.
Thứ hai: Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý
Theo các nhà kinh điển của triết học Mác – Lênin đã khẳng định: vấn đề tìm hiểu xem tư
duy con người có thể đạt tới chân lý khách quan hay không hoàn toàn không phải là một
vấn đề lý luận, mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải
chứng minh chân lý.
Tất nhiên, nhận thức khoa học có tiêu chuẩn riêng, đó là tiêu chuẩn logic nhưng tiêu
chuẩn logic không thể thay thế cho tiêu chuẩn thực tiễn và xét đến cùng nó cũng phụ
thuộc vào tiêu chuẩn thực tiễn.
Chúng ta cần phải hiểu thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý một cách biện chứng. Tiêu
chuẩn này vừa có tính tuyệt đối, vừa có tính tương đối:
+ Tiêu chuẩn thực tiễn có tính tuyệt đối vì thực tiễn là tiêu chuẩn khách quan để kiểm
nghiệm chân lý. Thực tiễn ở mỗi giai đoạn lịch sử có thể xác nhận được chân lý.
+ Tiêu chuẩn thực tiễn có cả tính tương đối vì thực tiễn không đứng nguyên một chỗ mà
luôn biến đổi và phát triển. Thực tiễn là một quá trình và được thực hiện bởi con người
nên không tránh khỏi có cả yếu tố chủ quan.
Tiêu chuẩn thực tiễn không cho phép biến những tri thức của con người thành những
chân lý tuyệt đích cuối cùng. Trong quá trình phát triển của thực tiễn và nhận thức, những
tri thức đạt được trước kia và hiện nay vẫn phải thường xuyên chịu kiểm nghiệm bởi thực
tiễn tiếp theo, tiếp tục được thực tiễn bổ sung, điều chỉnh, sửa chữa và phát triển hoàn
thiện hơn.
CÁC GIAI ĐOẠN CỦA QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC
Nhận thức là gì?
Theo quan điểm triết học của Mác Lênin, nhận thức quá trình phản ánh biện
chứng các hiện thực khách quan vào bộ não của con người. Những hiện thực khách
quan này tính tích cực, sáng tạo, năng động được hình thành dựa trên sở
thực tiễn.
Nhận thực là hành động hoặc quá trình tiếp thu kiến thức thông qua những suy nghĩ, kinh
nghiệm cá nhân và cả các giác quan. Quá trình đó bao gồm các yếu tố như: tri thức, trí
nhớ, sự chú ý, sự suy luận, sự đánh giá, ước lượng, sự tính toán, khả năng giải quyết vấn
đề, đưa ra quyết định, sử dụng ngôn ngữ,… Nhận thức được xem là quá trình xử lý thông
tin trong não bộ của con người.
Thế nào là nhận thức?
Sự nhận thức của con người vừa vô thức lại vừa ý thức, vừa cụ thể lại có tính trừu tượng.
Quá trình nhận thức sẽ tận dụng vốn tri thức sẵn có để hình thành, tạo ra vốn tri thức
mới.
Nhận thức được phân tích và nhìn nhận theo các góc nhìn khác nhau tùy từng lĩnh vực cụ
thể như: tâm lý học, ngôn ngữ học, thần kinh học, triết học,… Trong tâm lý học, nhận
thức được đề cập như các chức năng tâm lý để cá nhân xử lý thông tin.
Các giai đoạn của nhận thức:
Theo quan điểm tư duy biện chứng, hoạt động nhận thức của con người sẽ tuân theo chu
trình sau sau đây: nhận thức cảm tính (trực quan sinh động) – nhận thức lý tính (tư duy
trừu tượng) – thực tiễn. Chu trình này được thực hiện qua các bước từ đơn giản cho đến
phức tạp:
Giai đoạn nhận thức cảm tính
Đây là giai đoạn đầu tiên của quá trình nhận thức, phản ánh các thuộc tính bên ngoài
thông qua tri giác và cảm giác. Trong giai đoạn này, chúng ta sẽ sử dụng các giác quan để
tác động vào sự việc, sự vật và nắm bắt nó.
Nhận thức cảm tính gồm có các hình thức như sau:
Cảm giác : Hình thức nhận thức này sẽ phản ánh những thuộc tính riêng lẻ của sự vật
khi chúng tác động trực tiếp đến các giác quan của chúng ta. Thông qua cảm giác,
những năng lượng kích thích bên ngoài sẽ được chuyển hóa thành ý thức.
Tri giác : Tri giác giúp phản ánh tương đối toàn vẹn sự vật khi nó tác động trực tiếp
vào giác quan của con người. Tri giác bao gồm những thuộc tính đặc trưng và cả
không đặc trưng có tính trực quan của sự vật. Thế nhưng, nhận thực đòi hỏi con
người cần phải phân biệt được đâu là thuộc tính đặc trưng, đâu không phải. Thậm
chí, chúng ta cần phải nhận thức được sự vật ngay cả khi nó không tác động lên
chúng ta. Vì vậy, nhận thức không chỉ dừng lại ở tri thức mà cần phải vươn xa hơn
nữa.
Biểu tượng : giúp phản ánh tương đối hoàn chỉnh về sự vật do chúng ta có thể hình
dung lại sự vật khi nó không tác động vào giác quan của ta. Hình thức cảm nhận này
được hình bởi sự phối hợp và bổ sung lẫn nhau giữa các giác quan và có sự tham gia
của các yếu tố tổng hợp, phân tích. Vì vậy, biểu tượng phản ánh được những thuộc
tính đặc trưng của sự vật.
Nhận thức cảm tính
Nhìn chung, nhận thức cảm tính sẽ phản ánh trực tiếp đối tượng thông qua các giác quan
của con người, bao gồm vẻ bề ngoài, cái tất nhiên, ngẫu nhiên, cái bản chất và không bản
chất. Nó chưa thể khẳng định được những mối liên hệ trong bản chất và tất yếu bên trong
của sự vật.
Nhận thức cảm tính hầu hết có trong tâm lý động vật. Tuy nhiên, con người là động
vật cấp cao hơn nên nhận thức không chỉ dừng lại ở đó mà còn cần phải vươn cao
hơn nữa. Giai đoạn đó được gọi là giai đoạn nhận thức lý tính.
Giai đoạn nhận thức lý tính
Nhận thức lý tính còn được gọi là tư duy trừu tượng, phản ánh bản chất của sự việc. Gồm
có:
- Khái niệm : Đây là kết quả của sự khái quát, tổng hợp các thuộc tính, đặc điểm của
sự vật. Khái niệm sẽ phản ánh những đặc tính về bản chất của sự vật, vừa có tính
khách quan lại có tính chủ quan. Khái niệm thường xuyên vận động và phát triển,
là cơ sở để hình thành nên các phán đoán và tư duy khoa học.
- Phán đoán :Thông qua các khái niệm, phán đoán sẽ được hình thành để khẳng định
hoặc phủ định về một đặc điểm nào đó của đối tượng.
Phán đoán được chia thành 3 loại sau: phán đoán đơn nhất (bạc có khả năng dẫn điện),
phán đoán đặc thù (bạc là kim loại) và phán đoán phổ biến (kim loại có khả năng dẫn
điện). Trong đó, phán đoán phổ biến được xem là cách thức phản ánh sự vật một cách
bao quát và rộng lớn nhất.
Tuy nhiên, phán đoán chỉ giúp con người nhận thức được mối liên quan giữa cái
đơn giản với phổ biến nhưng không thể biết được mối liên hệ giữa cái đơn giản
nhất trong các phán đoán khác nhau,…. Điều này chưa đáp ứng đủ yêu cầu nhận
thức của con người.
Ví dụ: Trong ví dụ trên, chúng ta có thể biết được giữa bạc và các kim loại khác có khả
năng dẫn điện. Nhưng liệu giữa chúng còn có thuộc tính nào giống nhau hay không thì
điều đó chưa được chắc chắn.
- Suy luận : Suy luận được hình thành thông qua việc liên kết các phán đoán lại với
nhau để đưa ra kết luận và tìm ra tri thức mới. Tùy theo các kết hợp cách phán
đoán theo trật từ nào thì chúng ta sẽ có hình thức suy luận khác nhau, phổ biến
nhất vẫn là suy luận diễn dịch và suy luận quy nạp. Ngoài suy luận, trực giác lý
tính cũng giúp con người phát hiện ra tri thức mới đúng đắn và nhanh chóng.
Nhận thức lý tính là quá trình nhận thức gián tiếp đối với sự vật và đi sâu vào tìm hiểu
bản chất của sự vật. Nhận thức lý tính và cảm tính có mối quan hệ khá chặt chẽ với nhau.
Cảm tính là cơ sở cung cấp dữ liệu cho lý tính. Thông qua những thông tin mà nhận thức
cảm tính truyền đạt, lý tính sẽ phán đoán, suy luận và đưa ra kết luận. Ngược lại, nhờ có
lý tính chi phối mà nhận thức cảm nhận sẽ nhạy bén và tinh vi hơn.
Giai đoạn nhận thức trở về thực tiễn
Đây là giai đoạn kiểm nghiệm xem tri thức đó là đúng hay sai. Vì vậy, thực tiễn được coi
là mục tiêu, là động lực của nhận thức. Mục đích của nhận thức không chỉ giải thích mà
còn có chức năng định hướng thực tiễn.
Ví dụ về nhận thức:
+ Quá trình quang hợp của cây xanh giúp tạo ra khí oxy cần thiết cho con người và các
sinh vật khác trên trái đất. Nhận thức được điều đó, chúng ta đã trồng nhiều cây xanh
hơn, phủ xanh đất trống đồi trọc.
+ Tiền là một phương tiện dùng để phục vụ cho hoạt động trao đổi, mua bán hàng hóa,
dịch vụ. Khi đã nhận thức được vai trò của tiền, chúng ta phải chăm chỉ học tập, nỗ lực để
có thể kiếm được nhiều tiền hơn. Thậm chí có những người còn vì lợi ích của đồng tiền
mà làm ăn phi pháp.
+ Pháp Luật là một công cụ giúp Nhà Nước quản lý xã hội. Nhờ đó, người dân nhận thức
được tầm quan trọng của pháp luật và sẽ bị phạt nếu như vi phạm. Do vậy, người dân sẽ
sống và tuân thủ theo đúng pháp luật.
Ngoài ra còn có rất nhiều ví dụ về nhận thức khác trong cuộc.
Vai trò của nhận thức là gì?
Nhận thức đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong cuộc sống của con người. Nhờ có nhận
thức mà con người nắm được bản chất của sự vật, hiện tượng. Đồng thời, nhận thức mang
đến cho con người nguồn tri thức khổng lồ và giúp con người tích lũy được nhiều kinh
nghiệm sống quý báu.
Chủ nghĩa duy vật Mác – Lênin đã chỉ ra các loại nhận thức sau:
Theo trình độ thâm nhập bản chất của đối tượng
Nhận thức kinh nghiệm: Được hình thành từ sự quan sát trực tiếp các sự vật, hiện tượng
trong tự nhiên và xã hội trong các thí nghiệm khoa học. Tri thức kinh nghiệm gồm có: tri
thức kinh nghiệm thông thường (hình thành từ sự quan sát trong cuộc sống thực tiễn) và
tri thức kinh nghiệm khoa học (hình thành từ các thí nghiệm khoa học).
Nhận thức lý luận: Đây là nhận thức trừu tượng, khái quát về bản chất cũng như các quy
luật của sự vật hiện tượng. Nhận thức lý luận mang tính gián tiếp vì nó được hình thành
dựa trên cơ sở của nhận thức kinh nghiệm nhưng thể hiện chân lý sâu sắc và chính xác
hơn.
Dựa theo tính tự phát/ tự giác xâm nhập bản chất của sự vật
Nhận thức thông thường: Được hình thành một cách tự phát thông qua các hoạt động
thường ngày của con người. Nhận thức thông thường sẽ phản ánh chi tiết, cụ thể các đặc
điểm của sự vật, hiện tượng.
Nhận thức khoa học: Được hình thành một cách tự giác và gián tiếp từ những đặc điểm,
bản chất của sự vật. Nhận thức khoa học có tính khách quan, trừu tượng, có tính khái
quát, có căn cứ và có tính chân thực.
HÌNH THÁI KINH TẾ- XÃ HỘI
1. Hình thái kinh tế – xã hội
Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử (hay còn gọi là
chủ nghĩa duy vật biện chứng về xã hội) dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất
định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó, phù hợp với một trình độ
nhất định của lực lượng sản xuất, và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây
dựng trên những quan hệ sản xuất đó. Nó chính là các xã hội cụ thể được tạo thành từ sự
thống nhất biện chứng giữa các mặt trong đời sống xã hội và tồn tại trong từng giai đoạn
lịch sử nhất định.
Hình thái kinh tế - xã hội là một hệ thống hoàn chỉnh, có cấu trúc phức tạp, trong đó có
các mặt cơ bản là lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Mỗi mặt
của hình thái kinh tế - xã hội có vị trí riêng và tác động qua lại lẫn nhau, thống nhất với
nhau.
Cấu trúc cơ bản của hình thái kinh tế xã hội bao gồm:
- Lực lượng sản xuất : là nền tảng vật chất-kỹ thuật của mỗi hình thái kinh tế - xã
hội. Hình thái kinh tế - xã hội khác nhau có lực lượng sản xuất khác nhau. Sự phát
triển của lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành, phát triển và thay thế lẫn
nhau của các hình thái kinh tế-xã hội.
- Quan hệ sản xuất : Tạo thành cơ sở hạ tầng của xã hội và quyết định tất cả mọi
quan hệ xã hội khác. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội có một kiểu quan hệ sản xuất
đặc trưng cho nó. Quan hệ sản xuất là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các chế
độ xã hội.
Tổng hợp lại những quan hệ sản xuất cấu thành cái mà người ta gọi là những quan hệ
xã hội, cái gọi là xã hội mà lại là một xã hội ở một giai đoạn phát triển lịch sử nhất định,
một xã hội có tính chất độc đáo, riêng biệt. Xã hội cổ đại, xã hội phong kiến, xã hội tư
bản đều là những tổng hợp các quan hệ sản xuất theo loại đó mà mỗi tổng thể ấy đồng
thời lại tiêu biểu cho một giai đoạn phát triển đặc thù trong lịch sử nhân loại
Kiến trúc thượng tầng được hình thành và phát triển phù hợp với cơ sở hạ tầng, nhưng nó
lại là công cụ để bảo vệ, duy trì và phát triển cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó.
Các yếu tố khác: Ngoài ra, hình thái kinh tế-xã hội các hình thái kinh tế - xã hội còn có
quan hệ về gia đình, dân tộc và các quan hệ xã hội khác. Nó còn bao gồm các lĩnh vực
chính trị, lĩnh vực tư tưởng và lĩnh vực xã hội. Mỗi lĩnh vực của hình thái kinh tế-xã hội
vừa tồn tại độc lập với nhau, vừa tác động qua lại, thống nhất với nhau gắn bó với quan
hệ sản xuất và cùng biến đổi với sự biến đổi của quan hệ sản xuất.
2. Yếu tố quan trọng nhất:
- Quan hệ sản xuất: vì nó tạo thành cơ sở hạ tầng của xã hội và quyết định tất cả
mọi quan hệ xã hội khác. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội có một kiểu quan hệ sản
xuất đặc trưng cho nó. Quan hệ sản xuất là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các
chế độ xã hội
3. Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất, chúng tồn
tại không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng, tạo thành quy
luật sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất – quy
luật cơ bản nhất của sự vận động, phát triển xã hội.
Tác động của lực lượng sản xuất đến quan hệ sản xuất là:
+ Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ thống nhất
biện chứng (phụ thuộc, ràng buộc nhau, tác động lẫn nhau) tạo thành quá trình sản xuất
hiện thực của xã hội.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt cơ bản, tất yếu của quá trình sản xuất,
trong đó lực lượng sản xuất là nội dung vật chất của quá trình sản xuất, còn quan hệ sản
xuất là hình thức kinh tế của quá trình đó. Trong đòi sống hiện thực, không thể có sự kết
hợp các nhân tố của quá trình sản xuất để tạo ra năng lực thực tiễn cải biến các đối tượng
vật chất tự nhiên lại có thể diễn ra bên ngoài những hình thức kinh tế nhất định. Ngược
lại, cũng không có một quá trình sản xuất nào có thể diễn ra trong đời sống hiện thực chỉ
với những quan hệ sản xuất không có nội dung vật chất của nó.
Như vậy, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tồn tại trong tính quy định lẫn
nhau, thống nhất với nhau. Đây là yêu cầu tất yếu, phổ biến diễn ra trong mọi quá
trình sản xuất hiện thực của xã hội. Tương ứng với thực trạng phát triển nhất định
của lực lượng sản xuất cũng tất yếu đòi hỏi phải có quan hệ sản xuất phù hợp với
thực trạng đó trên cả ba phương diện: sở hữu tư liệu sản xuất, tổ chức – quản lý và
phân phối. Chỉ có như vậy, lực lượng sản xuất mới có thể được duy trì, khai thác –
sử dụng và không ngừng phát triển. Ngược lại, lực lượng sản xuất của một xã hội
chỉ có thể được duy trì, khai thác – sử dụng và phát triển trong một hình thái kinh
tế – xã hội nhất định.
+ Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ biện chứng
nhưng trong đó, vai trò quyết định thuộc về lực lương sản xuất, còn quan hệ sản xuất giữ
vai trò tác động trở lại lực lượng sản xuất.
Mối quan hệ thống nhất giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tuân theo nguyên tắc
khách quan: quan hệ sản xuất phải phụ thuộc vào thực trạng phát triển của lực lượng sản
xuất trong mỗi giai đoạn lịch sử xác định; bởi vì, quan hệ sản xuất chỉ là hình thức kinh tế
của quá trình sản xuất còn lực lượng sản xuất là nội dung vật chất, kỹ thuật của quá trình
đó.
Tuy nhiên, quan hệ sản xuất, với tư cách là hình thức kinh tế của quá trình sản xuất, nó
luôn luôn có khả năng tác động trở lại sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất. Sự
tác động này có thể diễn ra theo chiểu hướng tích cực hoặc tiêu cực, điều đó phụ thuộc
vào tính phù hợp hay không phù hợp của quan hệ sản xuất với thực trạng và nhu cầu
khách quan của sự vận động, phát triển lực lượng sản xuất. Nếu “phù hợp” sẽ có tác dụng
tích cực và ngược lại, “không phù hợp” sẽ có tác dụng tiêu cực.
+ Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ có bao hàm
khả năng chuyển hóa thành các mặt đối lập làm phát sinh mâu thuẫn cần được giải quyết
để thúc đẩy sự tiếp tục phát triển của lực lượng sản xuất.
Trong phạm vi tương đối ổn định của một hình thức kinh tế xác định, lực lượng sản xuất
của xã hội được bảo tồn, không ngừng được khai thác – sử dụng và phát triển trong quá
trình sản xuất và tái sản xuất của xã hội.
| 1/17

Preview text:

QUY LUẬT LƯỢNG-CHẤT
Quy luật lượng chất là quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay
đổi về chất và ngược lại. Vai trò: -
Quy luật lượng chất là một trong ba quy luật cơ bản của phân biện chứng duy vật trong
Triết học Mác – Lenin, dùng để chỉ cách thức vận động, phát triển của một sự vật, hiện
tượng nào đó mà sự vận động, phát triển đó được thực hiện theo cách thức thay đổi lượng
trong mỗi sự vật dẫn đến sự thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng và đứa sự vật, hiện
tượng đó đến một trạng thái phát triển tiếp theo. -
Ph. Ăng-Ghen cũng đã khái quát về quy luật lượng chất như sau:Những thay đổi đơn
thuần về lượng, đến một mức độ nhất định, sẽ chuyển hóa thành những sự khác nhau về chất.
Việt Nam là quốc gia quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư
bản, vì vậy việc nhận thức đúng đắn về quy luật lượng chất có ý nghĩa rất lớn trong việc hình
thành và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong những quy luật khách quan ấy thì quy luật lượng – chất là một trong ba quy luật
của phép biện chứng duy vật, nó cho biết những phương thức của sự vận động, phát triển. Nội dung: -
Mỗi sự vật, hiện tượng tồn tại ở một thể thống nhất bao gồm phần chất và phần lượng.
Trong đó phần chất là phần tương đối ổn định còn phần lượng là phần thường xuyên có sự biến đổi.
Sự biến đổi này của lượng sẽ tạo nên sự mâu thuẫn giữa lượng và chất. -
Trong một điều kiện nhất định đáp ứng được sự biến đổi về lượng, một sự vật, hiện tượng
sẽ có sự biến đổi về lượng, đến một mức độ nhất định, nó sẽ phá vỡ chất cũ. Lúc này mâu
thuẫn giữa lượng và chất được giải quyết, chất mới được hình thành với một lượng mới.
Tuy nhiên bản chất của lượng là vận động nên nó sẽ không đứng yên mà sẽ tiếp tục vận
động đến một thời điểm nào đó nó sẽ làm phá vỡ chất hiện tại. -
Quá trình vận động giữa hai mặt Lượng và chất tác động với nhau qua hai mặt: Chúng
tạo nên sự vận động liên tục và không dừng lại. Lượng sẽ biến đổi dần dần và tạo nên
chất mới, hay nói cách khác, lượng biến đổi dần dần và tạo nên bước nhảy vọt. Sau đó
chúng tiếp tục biến đổi dần và tạo nên bước nhảy vọt tiếp theo.
Nói một cách ngắn gọn thì nội dung quy luật lượng chất là bất cứ một sự vật, hiện
tượng nào cũng đều vận động và phát triển. -
Biến đổi về lượng đến một mức nhất định sẽ dẫn đến biến đổi về chất, sản sinh chất mới.
Rồi trên nền tảng của chất mới lại bắt đầu biến đổi về lượng. Biến đổi về lượng là nền
tảng và chuẩn bị tất yếu của biến đổi về chất. Biến đổi về chất là kết quả tất yếu của biến
đổi về lượng. Quy luật biến đổi về chất và lượng cho thấy trạng thái và quá trình phát triển của sự vật. -
Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật lượng chất -
Mỗi một quy luật trong đời sống đều đem đến những ý nghĩa nhất định, phương
pháp luận của quy luật lượng chất cũng vậy. -
Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật lượng chất đem đến hai ý nghĩa cơ bản sau đây:
Ý nghĩa trong nhận thức:
+ Nhờ có phương pháp luận lượng chất mà chung ta hiểu rằng bất cứ sự vật, hiện tượng
nào cũng đều vận động và phát triển.
+ Sự vật, hiện tượng nào cũng đều tồn tại hai mặt: Lượng và Chất. Do đó khi nhận thức,
chúng ta cần nhận thức về cả hai mặt lượng và chất để có có cái nhìn phong phú hơn về
những sự vật, hiện tượng tồn tại xung quanh chúng ta.
+ Cần phải làm rõ quy luật phát triển của sự vật, hiện tượng bằng cách xác định giới hạn độ, điểm nút, bước nhảy.
Ý nghĩa trong thực tiễn:
+ Muốn có sự biến đổi về chất thì cần kiên trì để biến đổi về lượng (bao gồm độ và điểm nút);
+ Cần tránh hai khuynh hướng sau:
hứ nhất, nôn nóng tả khuynh: Đây là ,
việc mà một cá nhân không kiên trì T
hứ hai bảo thủ hữu khuynh: Lượng
đã được tích lũy đến mức điểm nút T
và nỗ lực để có sự thay đổi về lượng
nhưng không muốn thực hiện bước
nhưng lại muốn có sự thay đổi về chất;
nhảy để có sự thay đổi về chất.
+ Nếu không muốn có sự thay đổi về chất thì cần biết cách kiểm soát lượng trong giới hạn độ.
+ Bước nhảy là một giai đoạn hết sức đa dạng nên việc thực hiện bước nhảy phải được thực hiện một cách cẩn thận.
Chỉ thực hiện bước nhảy khi đã tích lũy lượng đến giới hạn điểm nút và thực hiện bước nhảy một
cách phù hợp với từng thời điểm, điều kiện và hoàn cảnh cụ thể để tránh được những hậu quả
không đáng có như không đạt được sự thay đổi về chất, dẫn đến việc phải thực hiện sự thay đổi
về lượng lại từ đầu.
Nói chung, từ quy luật lượng chất, ta hiểu được mọi sự vật đều vận động và phát triển
nhưng cần thời gian và sự tác động từ bên ngoài, từ đó chúng ta biết cách để bố trí thời
gian và nỗ lực hợp lý cho bất cứ một kế hoạch nào đó đã được bản thân đặt mục tiêu.
Quy luật mâu thuẫn -
Quy luật mâu thuẫn là 01 trong những quy luật cơ bản trong phép biện chứng duy
vật và biện chứng duy vật lịch sử, có vai trò khẳng định rằng: mọi sự vật, hiện
tượng trong tự nhiên đều có sự tồn tại và mâu thuẫn bên trong. -
Quy luật mâu thuẫn là quy luật thống nhất và đấu tranh giữa những mặt đối lập.
Hiểu một cách rõ hơn thì mọi sự vật hoặc hiện tượng đều chứa đựng các mặt
đối lập, các khuynh hướng khác nhau từ đó tạo thành những mâu thuẫn trong
bản thân mỗi sự vật, hiện tượng đó. Sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt
đối lập sẽ tạo ra xung lực của sự vận động, phát triển, kết quả là mất đi cái cũ và
thay thế bởi cái mới
Vai trò
Mâu thuẫn đóng vai trò và có ý nghĩa to lớn. Mâu thuẫn trong xã hội nói chung, mâu
thuẫn trong cuộc sống nói riêng là động lực của sự vận động xã hội, giúp thúc đẩy các
quá trình hoạt động. Mâu thuẫn còn là động lực, nguồn gốc của sự vận động, biến đổi,
phát triển, có tính khách quan phổ biến. Cụ thể:
- Biến đổi, phát triển chính là quá trình chuyển đổi giữa sự vật này thành sự vật khác,
hoặc chuyển đổi giai đoạn này sang giai đoạn khác của một sự vật.
Mỗi sự vật đều tồn tại trong bản thân chúng nhiều mâu thuẫn: mâu thuẫn giữa bên trong
và bên ngoài, mâu thuẫn cơ bản và không cơ bản, mâu thuẫn chủ yếu và thứ yếu,… Tuy
nhiên giữa các mặt đối lập đó vừa có tính thống nhất lại vừa diễn ra quá trình đấu tranh với nhau. Tính chất thống nhất
ở một chất nhất định, sự đấu tranh giữa các
giữa các mặt đối lập
chưa biến đổi. Tuy nhiên
mặt đối lập. Sự đấu tranh trong mâu thuẫn làm cho giữa chúng vừa có sự
này là nguồn gốc của sự
sự vật ổn định tương đối
thống nhất vừa diễn ra
chuyển hoá giữa các mặt
-Do đó, có thể hiểu phát
các chủ thể, vấn đề trong đối lập.
triển chính là cuộc đấu cuộc sống gây bất hòa -Sự chuyển hoá này sẽ
tranh giữa (của) các mặt tranh cãi, thậm chí xảy làm cho sự vật chuyển đối lập. ra các xung đột nghiêm
hoá thành cái khác có thể
-Bên cạnh mặt lợi ích mà trọng nếu không có sự là sang giai đoạn mới mâu thuẫn mang lại thì
thống nhất và giải quyết hoặc sự vật mới. mâu thuẫn cũng có thể được.
gây ảnh hưởng xấu đến Nội dung:
Quy luật mâu thuẫn gồm các nội dung:
Về mặt đối lập -
Là những mặt có những thuộc tính, đặc điểm,… có khuynh hướng biến đổi trái
ngược và tồn tại khách quan ở trong tự nhiên, tư suy và xã hội.
Về mâu thuẫn biện chứng -
Là một trạng thái mà mặt đối lập có liên hệ, tác động qua lại với nhau. Mâu thuẫn
biện chứng được tồn tại khách quan, phổ biến ở trong tư duy, xã hội và tự nhiên. -
Tư duy có sự phản ánh mâu thuẫn với hiện thực, nguồn gốc phát triển nhận thức
trong mâu thuẫn biện chứng. -
Sự thống nhất của các mặt đối lập chính là sự tồn tại nhưng không tách rời và là sự
nương tựa lẫn nhau, nhưng không tách rời nhau của các mặt đối lập, tạo nên những
nhân tố đồng nhất của các mặt đối lập. -
Sự thống nhất của các mặt đối lập cũng tác động ngang nhau, được xem là trạng
thái vận động khi có sự diễn ra căn bằng. -
Sự đấu tranh của các mặt đối lập chính là sự tác động qua lại với nhau theo xu
hướng bài trừ, phủ định lẫn nhau giữa các mặt đó. -
Tùy thuộc vào mối quan hệ qua lại của điều kiện diễn ra cuộc đấu tranh, hình thức
đấu tranh giữa mặt đối lập rất phong phú, đa dạng.
Có thể thấy các mâu thuẫn tồn tại phổ biến trong đời sống, dù nhìn nhận là trái
ngược nhau nhưng không thể tách biệt hoàn toàn với nhau mà có những mối liên hệ với nhau. Ý nghĩa
+ Vì mâu thuẫn là động lực cho sự phát triển, nên chúng ta phải biết phát hiện, phân tích
mâu thuẫn để tìm ra khuynh hướng vận động của sv/ht.
+ Vì mâu thuẫn rất đa dạng, nên khi giải quyết nó cần có quan điểm lịch sử cụ thể.
QUY LUẬT PHỦ ĐỊNH CỦA PHỦ ĐỊNH
Quy luật phủ định của phủ định là gì?
uy luật phủ định của phủ định là quy luật nói lên mối liên hệ, sự kế thừa giữa
cái bị phủ định và cái phủ định; do sự kế thừa đó, phủ định biện chứng không
Qphải là sự phủ định sạch trơn, bác bỏ tất cả sự phát triển trước đó, mà là điều
kiện cho sự phát triển, nó duy trì và gìn giữ nội dung tích cực của các giai đoạn
trước, lặp lại một số đặc điểm cơ bản của cái xuất phát nhưng trên cơ sở mới cao hơn; do
vậy, sự phát triển có tính chất tiến lên không phải theo đường thẳng mà theo đường xoáy ốc. Vai trò:
Phủ định biện chứng có hai đặc điểm cơ bản là: tính khách quan và tính kế thừa.
Tính khách quan: -
Phủ định biện chứng mang tính khách quan do nguyên nhân của sự phủ định nằm
ngay trong bản thân sự vật. Nguyên nhân đó chính là kết quả giải quyết những
mâu thuẫn bên trong sự vật. -
Nhờ việc giải quyết những mâu thuẫn mà sự vật luôn phát triển. Vì thế, phủ định
biện chứng là một tất yếu khách quan trong quá trình vận động, phát triển của sự
vật. Đương nhiên, mỗi sự vật có phương thức phủ định riêng tùy thuộc vào sự giải
quyết mâu thuẫn của bản thân chúng. -
Phủ định biện chứng không phụ thuộc vào ý muốn, ý chí chủ quan ủa con người.
Con người chỉ có thể tác động mà cho quá trình phủ định ấy diễn ra nhanh hay
chậm trên cơ sở nắm vững quy luật phát triển của sự vật.
Tính kế thừa: -
Phủ định biện chứng là kết quả của sự phát triển tự thân của sự vật nên nó không
thể là sự thủ tiêu, sự phá hủy hoàn toàn cái cũ. -
Cái mới chỉ có thể ra đời trên nền tảng cái cũ, chúng không thê từ hư vô. Cái mới
ra đời là sự phát triển tiếp tục của cái cũ trên cơ sở gạt bỏ những mặt tiêu cực, lỗi
thời, lạc hậu của cái cũ và chọn lọc, giữ lại, cải tạo những mặt còn thích hợp,
những mặt tích cực, bổ sung những mặt mới phù hợp với hiện thực. -
Trong quá trình phủ định biện chứng, sự vật khẳng định những mặt tốt, tích cực và
chỉ phủ định những cái lạc hậu, cái tiêu cực.
Có thể nói, sự phát triển chẳng qua chỉ là sự biến đổi trong đó những giai đoạn
sau bảo tồn tất cả những mặt tích cực được tạo ra ở giai đoạn trước và bổ sung
thêm những mặt mới phù hợp với hiện thực.

Phủ định biện chứng không chỉ là sự khắc phục cái cũ, sự vật cũ, mà còn là sự liên kết
giữa cái cũ và cái mới, sự vật cũ với sự vật mới, quá khứ và hiện tại. Phủ định biện chứng
là một khâu tất yếu của mối liên hệ và sự phát triển.
Ví dụ quy luật phủ định của phủ định:
+ Một quả trứng là sự khẳng định ban đầu (trong điều kiện được ấp) Phủ định lần 1 tạo 
ra gà mái con Phủ định lần 2 (gà mái con lớn l 
ên) sinh ra nhiều quả trứng.
+ Một hạt thóc là sự khẳng định ban đầu (được gieo trồng) Phủ định lần 1 tạo ra cây 
lúa Phủ định lần 2, cây lúa sinh ra nhiều hạt thóc. 
Ở 2 ví dụ trên ta có một chu kỳ phát triển: Từ một quả trứng ban đầu đến nhiều quả trứng
mới. Từ một hạt thóc ban đầu đến nhiều hạt thóc mới. Từ một đến nhiều tức là có sự phát
triển lên nấc thang cao hơn. Đó là kết quả phủ định của phủ định. Nội dung:
Sự ra đời và tồn tại của sự vật đã khẳng định chính nó. Trong quá trình vận động của sự
vật, những nhân tố mới xuất hiện sẽ thay thế những nhân tố cũ, sự phủ định biện chứng
diễn ra. Sự vật đó không còn nữa và bị thay thế bởi sự vật mới, trong đó có những nhân
tố tích cực được giữ lại. Song sự vật mới này sẽ lại bị phủ định bởi sự vật mới khác.
Sự vật mới khác ấy dường như là sự vật đã tồn tại, song không phải là sự trùng lặp hoàn
toàn, mà nó có được bổ sung những nhân tố mới và chỉ bảo tồn những nhân tố tích cực,
thích hợp với sự phát triển tiếp tục của nó. Sau khi sự phủ định diễn ra hai lần thì sự phủ
định của phủ định được thực hiện, sự vật mới hoàn thành một chu kỳ phát triển. Sự phát
triển biện chứng thông qua những lần phủ định biện chứng như trên là sự thống nhất hữu
cơ giữa lọc bỏ, bảo tồn và bổ sung thêm những nhân tố tích cực mới. Do đó, thông qua
những lần phủ định biện chứng của bản thân, sự vật sẽ ngày càng phát triển.
Phạm trù phủ định biện chứng mới nói lên một giai đoạn, một mắt khâu, một nấc thang
trong quá trình phát triển nhất định. Với tư cách là cái phủ định (lần 1), cái mới cũng
chứa đựng trong mình xu hướng dẫn tới sự phủ định lần thứ hai (phủ định của phủ định).
Trong sự vận động vĩnh viễn của thế giới vật chất, dây chuyền của những lần phủ định
biện chứng là vô tận, cái mới phủ định cái cũ, nhưng rồi cái mới lại trở nên cũ và lại bị
cái mới sau phủ định. Cứ như vậy, sự phát triển của sự vật, hiện tượng diễn ra theo
khuynh hướng phủ định của phủ định từ thấp đến cao một cách vô tận theo đường “xoáy
ốc” hay “vòng xoáy trôn ốc”. Sau mỗi chu kỳ phủ định của phủ định, cái mới được ra đời
lặp lại cái cũ nhưng trên cơ sở cao hơn.
Sự phát triển theo đường “xoáy ốc” là sự biểu thị rõ ràng, đầy đủ các đặc trưng của quá
trình phát triển biện chứng của sự vật: tính kế thừa, tính lặp lại, tính tiến lên. Mỗi vòng
của đường “xoáy ốc” thể hiện sự lặp lại nhưng cao hơn, thể hiện trình độ cao hơn của sự phát triển. Ý nghĩa
Quy luật phủ định của phủ định biểu hiện sự phát triển của sự vật là do mâu thuẫn trong
bản thân sự vật quyết định. Mỗi lần phủ định là kết quả đấu tranh và chuyển hóa giữa các
mặt đối lập trong bản thân sự vật – giữa mặt khẳng định và mặt phủ định. Sự phủ định lần
thứ nhất diễn ra làm cho sự vật cũ chuyển thành cái đối lập với cái khẳng định ban đầu.
Sự phủ định lần thứ hai, sự vật mới với tư cách là cái phủ định của phủ định đối lập với
cái phủ định và trở lại cái ban đầu nhưng không giống nguyên vẹn như cái cũ mà trên cơ sở cao hơn, tốt hơn.
Phủ định của phủ định là sự thống nhất biện chứng của cái khẳng định và phủ định, là kết
quả của sự tổng hợp tất cả nhân tố tích cực của cái khẳng định ban đầu và cái phủ định
lần thứ nhất, cũng như các giai đoạn trước đó. Cái tổng hợp này là sự lọc bỏ những giai
đoạn đã qua, vì vậy, nó có nội dung phong phú hơn, toàn diện hơn.
Kết quả của sự phủ định của phủ định là điểm kết thúc của một chu kỳ phát triển và cũng
là điểm khởi đầu cho chu kỳ phát triển tiếp theo. Sự vật lại tiếp tục biện chứng chính
mình để phát triển. Cứ như vậy sự vật mới ngày càng mới hơn. Theo triết học Mác-Lênin
thì quy luật phủ định của phủ định là quy luật phổ biến của sự phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy.
THỰC TIỄN VÀ VAI TRÒ CỦA THỰC TIỄN
Phạm trù thực tiễn:n thức là gì?
– Trước hết, hoạt động thực tiễn là hoạt động mà con người sử dụng những công cụ vật
chất tác động vào những đối tượng vật chất làm biến đổi chúng theo những mục đích của mình.
– Thực tiễn là hoạt động vật chất có mục đích.
Hoạt dộng thực tiễn là hoạt động bản
Con người không thể thỏa mãn với
chất của con người. Nói vậy tức là chỉ có
những gì có sẵn trong tự nhiên. Con
con người mới có hoạt động thực tiễn.
người phải tiến hành lao động sản xuất
Con vật không hoạt động thực tiễn.
của cải vật chất để nuôi sống mình. Để
Chúng chỉ hoạt động theo bản năng
lao động hiệu quả, con người phải chế
nhằm mục đích thích nghi một cách thụ
tạo và sử dụng công cụ lao động. Như
động với thế giới bên ngoài. Ngược lại,
thế, bằng hoạt động thực tiễn, trước hết
con người hoạt động có mục đích rõ ràng
là lao động sản xuất, con người tạo ra
nhằm cải tạo thế giới để thỏa mãn nhu
những vật phẩm vốn không có sẵn trong
cầu của mình, thích nghi một cách chủ
tự nhiên. Không có hoạt động thực tiễn,
động, tích cực với thế giới và làm chủ
con người và xã hội loài người không thể thế giới.
tồn tại và phát triển được
+ Tuy nhiên, không phải mọi hoạt động có mục đích của con người đều là thực tiễn.
+ Hoạt động tư duy, hoạt động nhận thức hay hoạt động nghiên cứu khoa học đều là
những hoạt động có mục đích của con người. Tuy nhiên, chúng không phải là hoạt động
thực tiễn.Đây là những hoạt động tinh thần, là hoạt động trong hệ thần kinh trung ương
của bộ não người chứ không phải diễn ra ngoài thực tế.
Hoạt động thực tiễn còn mang tính lịch sử – xã hội.
Thực tiễn luôn là dạng hoạt động cơ bản và phổ biến của xã hội loài người mặc dù trình
độ và các hình thức hoạt động thực tiễn có những thay đổi qua các giai đoạn lịch sử. Hoạt
động đó chỉ có thể được tiến hành trong các quan hệ xã hội. Thực tiễn có quá trình vận
động và phát triển của nó. Trình độ phát triển của thực tiễn nói lên trình độ chinh phục tự
nhiên và làm chủ xã hội của con người
+ Hoạt động thực tiễn ở mỗi thời đại là khác nhau, tùy thuộc tình hình đất nước mà hoạt
động thực tiễn lại biểu hiện khác nhau.
+ Do đó, thực tiễn mang tính lịch sử- xã hội cho từng thời đại.
Các hình thức của hoạt động thực tiễn
Thực tiễn biểu hiện rất đa dạng với nhiều hình thức ngày càng phong phú.
Mỗi hình thức hoạt động của thực tiễn có một chức năng khác nhau, không thể thay thế
được cho nhau. Nhưng giữa các hình thức ấy lại có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau
Nhìn chung, hoạt động thực tiễn có ba hình thức cơ bản: Hoạt động sản xuất vật chất;
Hoạt động chính trị xã hội và Hoạt động thực nghiệm khoa học
.
Hoạt động sản xuất vật chất
+ Là hình thức hoạt động cơ bản, đầu tiên của thực tiễn.
+ Là hoạt động phổ biến khắp mọi nơi trong cuộc sống, rất dễ nhận diện như hoạt động
trồng lúa, hoạt động trồng rau, trồng hoa màu hay các hoạt động dệt vải, sản xuất giày
dép, hoạt động sản xuất ô tô, xe máy…
+ Đây cũng là hoạt động mà con người sử dụng những công cụ lao động tác động vào
giới tự nhiên để tạo ra những của cải và các điều kiện thiết yếu nhằm duy trì sự tồn tại và
phát triển của mình và xã hội.
Hoạt động chính trị xã hội
+ Là hoạt động của các tổ chức cộng đồng người khác nhau trong xã hội nhằm cải biến
những mối quan hệ xã hội để thúc đẩy xã hội phát triển.
+ Cụ thể như những hoạt động liên quan đến chính trị xã hội như những hoạt động bỏ
phiếu của nhân dân đi bầu cử đại biểu Quốc hội.; hoạt động bỏ phiếu tán thành sự ra đời,
sửa đổi của các bộ Luật, Nghị định .. của các đại biểu; hoạt động tình nguyện giúp đỡ
nhân dân vùng núi vùng sâu xa xây dựng đường xá, …
Thực nghiệm khoa học
+ Là một hình thức đặc biệt của thực tiễn.
+ Đây là hoạt động được tiến hành trong những điều kiện do con người tạo ra gần giống,
giống hoặc lặp lại những trạng thái của tự nhiên và xã hội nhằm xác định các quy luật
biến đổi và phát triển của đối tượng nghiên cứu.
+ Dạng hoạt động thực tiễn này ngày càng có vai trò quan trọng trong sự phát triển của xã
hội, đặc biệt là trong thời kỳ cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại.
Các hoạt động cơ bản của thực tiễn
Phạm trù thực tiễn là một phạm trù triết học được các nhà triết học sớm quan tâm. Tuy
nhiên, các trào lưu triết học trước đó không giải quyết chính xác vấn đề thực tiễn. Kế
thừa và phát triển sáng tạo những yếu tố hợp lý trong các quan niệm trước đó, Các Mác
và Ph.Angwghen đã có quan niệm đúng đắn và khoa học về thực tiễn. Thực tiễn được
định nghĩa là toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích, mang tính lịch sử-xã hội của con
người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội.
Từ quan điểm nêu trên, thực tiễn có ba nét đặc trưng riêng biệt, đó là:
Thực tiễn là hoạt động khách quan có tính vật chất
Tính vật chất của thực tiễn được thể hiện qua sự tồn tại khách quan bên ngoài ý thức của
con người, con người có thể cảm biết được, thực tiễn chịu sự chế ước và chi phối của quy luật khách quan.
Các yếu tố cấu thành thực tiễn bao gồm: con người (chủ thể của thực tiễn), thế giới bên
ngoài (đối tượng của thực tiễn), công cụ (phương tiện của thực tiễn),…
Thực tiễn là hoạt động năng động của tự giác
Tức là, thực tiễn là hoạt động có tính sáng tạo của con người nhằm cải tạo thế giới vật
chất. Tính mục đích, tính tự chủ, tính sáng tạo của hoạt động thực tiễn biểu thị rõ thực
tiễn có tính năng động, tự giác. Tính năng động tự giác không chỉ là đặc điểm của thực
tiễn, mà còn là một trong những thước đo trình độ phát triển của thực tiễn.
Thực tiễn là hoạt động lịch sử xã hội
Hoạt động thực tiễn được thực hiện thông qua việc con người sử dụng những công cụ vật
chất tác động trực tiếp vào những đối tượng làm cho chúng biến đổi theo những mục đích
nhất định. Hoạt động này không ngừng phát triển qua các thời kỳ, do đó thực tiễn luôn là
hoạt động mang tính lịch sử – xã hội.
Hoạt động thực tiễn đa dạng với ba hình thức cơ bản đó là họa động sản xuất vật chất,
hoạt động chính trị-xã hội và hoạt động thực nghiệm.
Vai trò thực tiễn đối với nhận thức:
Thứ nhất: Thực tiễn là cơ sở, mục đích, là động lực chủ yếu và trực tiếp của nhận thức
Thực tiễn là cơ sở của nhận thức:
Điều này có nghĩa là thực tiễn cung cấp tài liệu cho nhận thức, cho lý luận. Mọi tri thức
dù trực tiếp hay gián tiếp đối với người này hay người kia, thế hệ nay hay thế hệ khác, ở
trình độ kinh nghiệm hay lý luận, xét đến cùng đều bắt nguồn từ thực tiễn.
Bằng hoạt động thực tiễn, con người tác động vào thế giới, buộc thế giới phải bộc lộ
những thuộc tính, những tính quy luật để cho con người nhận thức chúng.
Sở dĩ như vậy, bởi con người quan hệ với hế giới không phải bắt đầu bằng lý luận mà
bằng thực tiễn. Chính từ trong quá trình hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới mà nhận thức
ở con người được hình thành và phát triển.
 Ban đầu, con người thu nhận những tài liệu cảm tính. Sau đó, con người tiến hành
so sánh, phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, trừu tượng hóa… để phản ánh bản chất,
quy luật vận động của các sự vật, hiện tượng trong thế giới, từ đó xây dựng thành các khoa học, lý luận.
Thực tiễn là mục đích của nhận thức:
Thực tiễn là mục đích của nhận thức vì nhận thức dù về vấn đề khía cạnh hay ở lĩnh vực
gì đi chăng nữa thì cũng phải quay về phục vụ thực tiễn. Nhận thức mà không phục vụ
thực tiễn thì không phải là “nhận thức” theo đúng nghĩa.
Do vậy, kết quả nhận thức phải hướng dẫn chỉ đạo thực tiễn. Lý luận, khoa học chỉ có ý
nghĩa thực sự khi chúng được vận dụng vào thực tiễn, cải tạo thực tiễn.
Thực tiễn là động lực chủ yếu và trực tiếp của nhận thức.
Thực tiễn là động lực chủ yếu và trực tiếp của nhận thức là thực tiễn cung cấp năng lượng
nhiều nhất, nhanh chóng nhất giúp con người nhận thức ngày càng toàn diện và sâu sắc về thế giới.
Trong quá trình hoạt động thực tiễn làm biến đổi thế giới, con người cũng biến đổi luôn
cả bản thân mình, phát triển năng lực thể chất, trí tuệ của mình. Nhờ đó, con người ngày
càng đi sâu vào nhận thức thế giới, khám phá những bí mật của thế giới, làm phong phú
và sâu sắc tri thức của mình về thế giới.
Thực tiễn đề ra nhu cầu, nhiệm vụ và phương hướng phát triển của nhận thức. Nhu cầu
thực tiễn đòi hỏi phải có tri thức mới, phải tổng kết kinh nghiệm, khái quát lý luận, nó
thúc đẩy sự ra đời và phát triển của các ngành khoa học. Khoa học ra đời chính vì chúng
cần thiết cho hoạt động thực tiễn của con người.
Thứ hai: Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý
Theo các nhà kinh điển của triết học Mác – Lênin đã khẳng định: vấn đề tìm hiểu xem tư
duy con người có thể đạt tới chân lý khách quan hay không hoàn toàn không phải là một
vấn đề lý luận, mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý.
Tất nhiên, nhận thức khoa học có tiêu chuẩn riêng, đó là tiêu chuẩn logic nhưng tiêu
chuẩn logic không thể thay thế cho tiêu chuẩn thực tiễn và xét đến cùng nó cũng phụ
thuộc vào tiêu chuẩn thực tiễn.
Chúng ta cần phải hiểu thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý một cách biện chứng. Tiêu
chuẩn này vừa có tính tuyệt đối, vừa có tính tương đối:
+ Tiêu chuẩn thực tiễn có tính tuyệt đối vì thực tiễn là tiêu chuẩn khách quan để kiểm
nghiệm chân lý. Thực tiễn ở mỗi giai đoạn lịch sử có thể xác nhận được chân lý.
+ Tiêu chuẩn thực tiễn có cả tính tương đối vì thực tiễn không đứng nguyên một chỗ mà
luôn biến đổi và phát triển. Thực tiễn là một quá trình và được thực hiện bởi con người
nên không tránh khỏi có cả yếu tố chủ quan.
Tiêu chuẩn thực tiễn không cho phép biến những tri thức của con người thành những
chân lý tuyệt đích cuối cùng. Trong quá trình phát triển của thực tiễn và nhận thức, những
tri thức đạt được trước kia và hiện nay vẫn phải thường xuyên chịu kiểm nghiệm bởi thực
tiễn tiếp theo, tiếp tục được thực tiễn bổ sung, điều chỉnh, sửa chữa và phát triển hoàn thiện hơn.
CÁC GIAI ĐOẠN CỦA QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC Nhận thức là gì?
Theo quan điểm triết học của Mác – Lênin, nhận thức là quá trình phản ánh biện
chứng các hiện thực khách quan vào bộ não của con người. Những hiện thực khách
quan này có tính tích cực, sáng tạo, năng động và được hình thành dựa trên cơ sở thực tiễn.
Nhận thực là hành động hoặc quá trình tiếp thu kiến thức thông qua những suy nghĩ, kinh
nghiệm cá nhân và cả các giác quan. Quá trình đó bao gồm các yếu tố như: tri thức, trí
nhớ, sự chú ý, sự suy luận, sự đánh giá, ước lượng, sự tính toán, khả năng giải quyết vấn
đề, đưa ra quyết định, sử dụng ngôn ngữ,… Nhận thức được xem là quá trình xử lý thông
tin trong não bộ của con người.
Thế nào là nhận thức?
Sự nhận thức của con người vừa vô thức lại vừa ý thức, vừa cụ thể lại có tính trừu tượng.
Quá trình nhận thức sẽ tận dụng vốn tri thức sẵn có để hình thành, tạo ra vốn tri thức mới.
Nhận thức được phân tích và nhìn nhận theo các góc nhìn khác nhau tùy từng lĩnh vực cụ
thể như: tâm lý học, ngôn ngữ học, thần kinh học, triết học,… Trong tâm lý học, nhận
thức được đề cập như các chức năng tâm lý để cá nhân xử lý thông tin.
Các giai đoạn của nhận thức:
Theo quan điểm tư duy biện chứng, hoạt động nhận thức của con người sẽ tuân theo chu
trình sau sau đây: nhận thức cảm tính (trực quan sinh động) – nhận thức lý tính (tư duy
trừu tượng) – thực tiễn. Chu trình này được thực hiện qua các bước từ đơn giản cho đến phức tạp
:
Giai đoạn nhận thức cảm tính
Đây là giai đoạn đầu tiên của quá trình nhận thức, phản ánh các thuộc tính bên ngoài
thông qua tri giác và cảm giác. Trong giai đoạn này, chúng ta sẽ sử dụng các giác quan để
tác động vào sự việc, sự vật và nắm bắt nó.
Nhận thức cảm tính gồm có các hình thức như sau:  Cảm giác
: Hình thức nhận thức này sẽ phản ánh những thuộc tính riêng lẻ của sự vật
khi chúng tác động trực tiếp đến các giác quan của chúng ta. Thông qua cảm giác,
những năng lượng kích thích bên ngoài sẽ được chuyển hóa thành ý thức.  T
ri giác : Tri giác giúp phản ánh tương đối toàn vẹn sự vật khi nó tác động trực tiếp
vào giác quan của con người. Tri giác bao gồm những thuộc tính đặc trưng và cả
không đặc trưng có tính trực quan của sự vật. Thế nhưng, nhận thực đòi hỏi con
người cần phải phân biệt được đâu là thuộc tính đặc trưng, đâu không phải. Thậm
chí, chúng ta cần phải nhận thức được sự vật ngay cả khi nó không tác động lên
chúng ta. Vì vậy, nhận thức không chỉ dừng lại ở tri thức mà cần phải vươn xa hơn nữa.  Biểu tượng
: giúp phản ánh tương đối hoàn chỉnh về sự vật do chúng ta có thể hình
dung lại sự vật khi nó không tác động vào giác quan của ta. Hình thức cảm nhận này
được hình bởi sự phối hợp và bổ sung lẫn nhau giữa các giác quan và có sự tham gia
của các yếu tố tổng hợp, phân tích. Vì vậy, biểu tượng phản ánh được những thuộc
tính đặc trưng của sự vật.
Nhận thức cảm tính
Nhìn chung, nhận thức cảm tính sẽ phản ánh trực tiếp đối tượng thông qua các giác quan
của con người, bao gồm vẻ bề ngoài, cái tất nhiên, ngẫu nhiên, cái bản chất và không bản
chất. Nó chưa thể khẳng định được những mối liên hệ trong bản chất và tất yếu bên trong của sự vật.
 Nhận thức cảm tính hầu hết có trong tâm lý động vật. Tuy nhiên, con người là động
vật cấp cao hơn nên nhận thức không chỉ dừng lại ở đó mà còn cần phải vươn cao
hơn nữa. Giai đoạn đó được gọi là giai đoạn nhận thức lý tính.
Giai đoạn nhận thức lý tính
Nhận thức lý tính còn được gọi là tư duy trừu tượng, phản ánh bản chất của sự việc. Gồm có: - Khái niệm
: Đây là kết quả của sự khái quát, tổng hợp các thuộc tính, đặc điểm của
sự vật. Khái niệm sẽ phản ánh những đặc tính về bản chất của sự vật, vừa có tính
khách quan lại có tính chủ quan. Khái niệm thường xuyên vận động và phát triển,
là cơ sở để hình thành nên các phán đoán và tư duy khoa học. - Phán đoán
:Thông qua các khái niệm, phán đoán sẽ được hình thành để khẳng định
hoặc phủ định về một đặc điểm nào đó của đối tượng.
Phán đoán được chia thành 3 loại sau: phán đoán đơn nhất (bạc có khả năng dẫn điện),
phán đoán đặc thù (bạc là kim loại) và phán đoán phổ biến (kim loại có khả năng dẫn
điện). Trong đó, phán đoán phổ biến được xem là cách thức phản ánh sự vật một cách
bao quát và rộng lớn nhất.

 Tuy nhiên, phán đoán chỉ giúp con người nhận thức được mối liên quan giữa cái
đơn giản với phổ biến nhưng không thể biết được mối liên hệ giữa cái đơn giản
nhất trong các phán đoán khác nhau,…. Điều này chưa đáp ứng đủ yêu cầu nhận thức của con người.
Ví dụ: Trong ví dụ trên, chúng ta có thể biết được giữa bạc và các kim loại khác có khả
năng dẫn điện. Nhưng liệu giữa chúng còn có thuộc tính nào giống nhau hay không thì
điều đó chưa được chắc chắn. - Suy luận
: Suy luận được hình thành thông qua việc liên kết các phán đoán lại với
nhau để đưa ra kết luận và tìm ra tri thức mới. Tùy theo các kết hợp cách phán
đoán theo trật từ nào thì chúng ta sẽ có hình thức suy luận khác nhau, phổ biến
nhất vẫn là suy luận diễn dịch và suy luận quy nạp. Ngoài suy luận, trực giác lý
tính cũng giúp con người phát hiện ra tri thức mới đúng đắn và nhanh chóng.
Nhận thức lý tính là quá trình nhận thức gián tiếp đối với sự vật và đi sâu vào tìm hiểu
bản chất của sự vật. Nhận thức lý tính và cảm tính có mối quan hệ khá chặt chẽ với nhau.
Cảm tính là cơ sở cung cấp dữ liệu cho lý tính. Thông qua những thông tin mà nhận thức
cảm tính truyền đạt, lý tính sẽ phán đoán, suy luận và đưa ra kết luận. Ngược lại, nhờ có
lý tính chi phối mà nhận thức cảm nhận sẽ nhạy bén và tinh vi hơn.
Giai đoạn nhận thức trở về thực tiễn
Đây là giai đoạn kiểm nghiệm xem tri thức đó là đúng hay sai. Vì vậy, thực tiễn được coi
là mục tiêu, là động lực của nhận thức. Mục đích của nhận thức không chỉ giải thích mà
còn có chức năng định hướng thực tiễn. Ví dụ về nhận thức:
+ Quá trình quang hợp của cây xanh giúp tạo ra khí oxy cần thiết cho con người và các
sinh vật khác trên trái đất. Nhận thức được điều đó, chúng ta đã trồng nhiều cây xanh
hơn, phủ xanh đất trống đồi trọc.
+ Tiền là một phương tiện dùng để phục vụ cho hoạt động trao đổi, mua bán hàng hóa,
dịch vụ. Khi đã nhận thức được vai trò của tiền, chúng ta phải chăm chỉ học tập, nỗ lực để
có thể kiếm được nhiều tiền hơn. Thậm chí có những người còn vì lợi ích của đồng tiền mà làm ăn phi pháp.
+ Pháp Luật là một công cụ giúp Nhà Nước quản lý xã hội. Nhờ đó, người dân nhận thức
được tầm quan trọng của pháp luật và sẽ bị phạt nếu như vi phạm. Do vậy, người dân sẽ
sống và tuân thủ theo đúng pháp luật.
Ngoài ra còn có rất nhiều ví dụ về nhận thức khác trong cuộc.
Vai trò của nhận thức là gì?
Nhận thức đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong cuộc sống của con người. Nhờ có nhận
thức mà con người nắm được bản chất của sự vật, hiện tượng. Đồng thời, nhận thức mang
đến cho con người nguồn tri thức khổng lồ và giúp con người tích lũy được nhiều kinh nghiệm sống quý báu.
Chủ nghĩa duy vật Mác – Lênin đã chỉ ra các loại nhận thức sau:
Theo trình độ thâm nhập bản chất của đối tượng
Nhận thức kinh nghiệm: Được hình thành từ sự quan sát trực tiếp các sự vật, hiện tượng
trong tự nhiên và xã hội trong các thí nghiệm khoa học. Tri thức kinh nghiệm gồm có: tri
thức kinh nghiệm thông thường (hình thành từ sự quan sát trong cuộc sống thực tiễn) và
tri thức kinh nghiệm khoa học (hình thành từ các thí nghiệm khoa học).
Nhận thức lý luận: Đây là nhận thức trừu tượng, khái quát về bản chất cũng như các quy
luật của sự vật hiện tượng. Nhận thức lý luận mang tính gián tiếp vì nó được hình thành
dựa trên cơ sở của nhận thức kinh nghiệm nhưng thể hiện chân lý sâu sắc và chính xác hơn.
Dựa theo tính tự phát/ tự giác xâm nhập bản chất của sự vật
Nhận thức thông thường: Được hình thành một cách tự phát thông qua các hoạt động
thường ngày của con người. Nhận thức thông thường sẽ phản ánh chi tiết, cụ thể các đặc
điểm của sự vật, hiện tượng.
Nhận thức khoa học: Được hình thành một cách tự giác và gián tiếp từ những đặc điểm,
bản chất của sự vật. Nhận thức khoa học có tính khách quan, trừu tượng, có tính khái
quát, có căn cứ và có tính chân thực.
HÌNH THÁI KINH TẾ- XÃ HỘI
1. Hình thái kinh tế – xã hội
Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử (hay còn gọi là
chủ nghĩa duy vật biện chứng về xã hội) dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất
định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó, phù hợp với một trình độ
nhất định của lực lượng sản xuất, và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây
dựng trên những quan hệ sản xuất đó. Nó chính là các xã hội cụ thể được tạo thành từ sự
thống nhất biện chứng giữa các mặt trong đời sống xã hội và tồn tại trong từng giai đoạn lịch sử nhất định.
Hình thái kinh tế - xã hội là một hệ thống hoàn chỉnh, có cấu trúc phức tạp, trong đó có
các mặt cơ bản là lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Mỗi mặt
của hình thái kinh tế - xã hội có vị trí riêng và tác động qua lại lẫn nhau, thống nhất với nhau.
Cấu trúc cơ bản của hình thái kinh tế xã hội bao gồm: -
Lực lượng sản xuất
: là nền tảng vật chất-kỹ thuật của mỗi hình thái kinh tế - xã
hội. Hình thái kinh tế - xã hội khác nhau có lực lượng sản xuất khác nhau. Sự phát
triển của lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành, phát triển và thay thế lẫn
nhau của các hình thái kinh tế-xã hội. - Quan hệ sản xuất
: Tạo thành cơ sở hạ tầng của xã hội và quyết định tất cả mọi
quan hệ xã hội khác. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội có một kiểu quan hệ sản xuất
đặc trưng cho nó. Quan hệ sản xuất là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các chế độ xã hội.
Tổng hợp lại những quan hệ sản xuất cấu thành cái mà người ta gọi là những quan hệ
xã hội, cái gọi là xã hội mà lại là một xã hội ở một giai đoạn phát triển lịch sử nhất định,
một xã hội có tính chất độc đáo, riêng biệt. Xã hội cổ đại, xã hội phong kiến, xã hội tư
bản đều là những tổng hợp các quan hệ sản xuất theo loại đó mà mỗi tổng thể ấy đồng
thời lại tiêu biểu cho một giai đoạn phát triển đặc thù trong lịch sử nhân loại
Kiến trúc thượng tầng được hình thành và phát triển phù hợp với cơ sở hạ tầng, nhưng nó
lại là công cụ để bảo vệ, duy trì và phát triển cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó.
Các yếu tố khác: Ngoài ra, hình thái kinh tế-xã hội các hình thái kinh tế - xã hội còn có
quan hệ về gia đình, dân tộc và các quan hệ xã hội khác. Nó còn bao gồm các lĩnh vực
chính trị, lĩnh vực tư tưởng và lĩnh vực xã hội. Mỗi lĩnh vực của hình thái kinh tế-xã hội
vừa tồn tại độc lập với nhau, vừa tác động qua lại, thống nhất với nhau gắn bó với quan
hệ sản xuất và cùng biến đổi với sự biến đổi của quan hệ sản xuất.
2. Yếu tố quan trọng nhất:
- Quan hệ sản xuất: vì nó tạo thành cơ sở hạ tầng của xã hội và quyết định tất cả
mọi quan hệ xã hội khác. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội có một kiểu quan hệ sản
xuất đặc trưng cho nó. Quan hệ sản xuất là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các chế độ xã hội
3. Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất, chúng tồn
tại không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng, tạo thành quy
luật sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất – quy
luật cơ bản nhất của sự vận động, phát triển xã hội.
Tác động của lực lượng sản xuất đến quan hệ sản xuất là:
+ Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ thống nhất
biện chứng (phụ thuộc, ràng buộc nhau, tác động lẫn nhau) tạo thành quá trình sản xuất hiện thực của xã hội.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt cơ bản, tất yếu của quá trình sản xuất,
trong đó lực lượng sản xuất là nội dung vật chất của quá trình sản xuất, còn quan hệ sản
xuất là hình thức kinh tế của quá trình đó. Trong đòi sống hiện thực, không thể có sự kết
hợp các nhân tố của quá trình sản xuất để tạo ra năng lực thực tiễn cải biến các đối tượng
vật chất tự nhiên lại có thể diễn ra bên ngoài những hình thức kinh tế nhất định. Ngược
lại, cũng không có một quá trình sản xuất nào có thể diễn ra trong đời sống hiện thực chỉ
với những quan hệ sản xuất không có nội dung vật chất của nó.
 Như vậy, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tồn tại trong tính quy định lẫn
nhau, thống nhất với nhau. Đây là yêu cầu tất yếu, phổ biến diễn ra trong mọi quá
trình sản xuất hiện thực của xã hội. Tương ứng với thực trạng phát triển nhất định
của lực lượng sản xuất cũng tất yếu đòi hỏi phải có quan hệ sản xuất phù hợp với
thực trạng đó trên cả ba phương diện: sở hữu tư liệu sản xuất, tổ chức – quản lý và
phân phối. Chỉ có như vậy, lực lượng sản xuất mới có thể được duy trì, khai thác –
sử dụng và không ngừng phát triển. Ngược lại, lực lượng sản xuất của một xã hội
chỉ có thể được duy trì, khai thác – sử dụng và phát triển trong một hình thái kinh
tế – xã hội nhất định.
+ Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ biện chứng
nhưng trong đó, vai trò quyết định thuộc về lực lương sản xuất, còn quan hệ sản xuất giữ
vai trò tác động trở lại lực lượng sản xuất.
Mối quan hệ thống nhất giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tuân theo nguyên tắc
khách quan: quan hệ sản xuất phải phụ thuộc vào thực trạng phát triển của lực lượng sản
xuất trong mỗi giai đoạn lịch sử xác định; bởi vì, quan hệ sản xuất chỉ là hình thức kinh tế
của quá trình sản xuất còn lực lượng sản xuất là nội dung vật chất, kỹ thuật của quá trình đó.
Tuy nhiên, quan hệ sản xuất, với tư cách là hình thức kinh tế của quá trình sản xuất, nó
luôn luôn có khả năng tác động trở lại sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất. Sự
tác động này có thể diễn ra theo chiểu hướng tích cực hoặc tiêu cực, điều đó phụ thuộc
vào tính phù hợp hay không phù hợp của quan hệ sản xuất với thực trạng và nhu cầu
khách quan của sự vận động, phát triển lực lượng sản xuất. Nếu “phù hợp” sẽ có tác dụng
tích cực và ngược lại, “không phù hợp” sẽ có tác dụng tiêu cực.
+ Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ có bao hàm
khả năng chuyển hóa thành các mặt đối lập làm phát sinh mâu thuẫn cần được giải quyết
để thúc đẩy sự tiếp tục phát triển của lực lượng sản xuất.
Trong phạm vi tương đối ổn định của một hình thức kinh tế xác định, lực lượng sản xuất
của xã hội được bảo tồn, không ngừng được khai thác – sử dụng và phát triển trong quá
trình sản xuất và tái sản xuất của xã hội.