-
Thông tin
-
Quiz
Bài tập tự học số 2 Xây dựng đảng | Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Thực trạng việc thực hiện các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng. Thực trạng việc thực hiện các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng. Trong đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Trong giải quyết mối quan hệ giữa bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung của cấp trên và phát huy quyền chủ động của cấp dưới. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Xây dựng Đảng 56 tài liệu
Học viện Báo chí và Tuyên truyền 2.5 K tài liệu
Bài tập tự học số 2 Xây dựng đảng | Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Thực trạng việc thực hiện các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng. Thực trạng việc thực hiện các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng. Trong đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Trong giải quyết mối quan hệ giữa bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung của cấp trên và phát huy quyền chủ động của cấp dưới. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Môn: Xây dựng Đảng 56 tài liệu
Trường: Học viện Báo chí và Tuyên truyền 2.5 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:


















Tài liệu khác của Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Preview text:
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN KHOA XÂY DỰNG ĐẢNG BÀI TẬP TỰ HỌC 2 MÔN: XÂY DỰNG ĐẢNG
Sinh viên : Nguyễn Ngọc Thiện Mã sinh viên : 2258020045
Lớp: Xuất bản Điện tử K42 HÀ NỘI – 2023
I. Thực trạng việc thực hiện các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng.
1. Những nguyên tắc trong công tác xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam
1.1. Nguyên tắc tập trung dân chủ
1.1.1 Vai trò nguyên tắc tập trung dân chủ
Nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng Cộng sản là nguyên tắc tập trung dân chủ.
Đảng lấy nguyên tắc đó làm cơ sở chỉ đạo xây dựng tổ chức, nội dung hoạt
động, sinh hoạt và phong cách lãnh đạo của mình là hoàn toàn đúng đắn và hợp
quy luật. Trên cơ sở tính tổ chức cao, lãnh đạo tập trung mới có thể thống nhất
mọi lực lượng của giai cấp công nhân và đồng minh của nó hướng vào mục tiêu
thống nhất của Đảng. Hơn nữa, ý chí của Đảng và sự thống nhất của Đảng chỉ
có thể được tạo ra thông qua con đường dân chủ.
1.1.2 Nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng
Nguyên tắc tập trung dân chủ được thể hiện trong công tác tổ chức, trong tiêu
chuẩn sinh hoạt và trong phong cách lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Điều 9, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam khoá XI (2011) ghi rõ: “Đảng Cộng
sản Việt Nam tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Nội dung cơ bản của nguyên tắc đó là:
1. Cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng do bầu cử lập ra, thực hiện tập thể
lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
2. Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là Đại hội đại biểu toàn quốc. Cơ
quan lãnh đạo ở mỗi cấp là đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên. Giữa hai kỳ
đại hội, cơ quan lãnh đạo của Đảng là Ban Chấp hành Trung ương, ở mỗi cấp là
ban chấp hành đảng bộ, chi bộ (gọi tắt là cấp ủy).
3. Cấp uỷ các cấp báo cáo và chịu trách nhiệm về hoạt động của mình
trước đại hội cùng cấp, trước cấp uỷ cấp trên và cấp dưới, định kỳ báo cáo tình
hình hoạt động của mình đến các tổ chức đảng trực thuộc, thực hiện tự phê bình và phê bình.
4. Tổ chức đảng và đảng viên phải chấp hành nghị quyết của Đảng. Thiểu
số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ chức, các
tổ chức trong toàn Đảng phục tùng Đại hội đại biểu toàn quốc và Ban Chấp hành Trung ương.
5. Nghị quyết của các cơ quan lãnh đạo của Đảng chỉ có giá trị thi hành
khi có hơn một nửa số thành viên trong cơ quan đó tán thành. Trước khi biểu
quyết, mỗi thành viên được phát biểu ý kiến của mình. Đảng viên có ý kiến
thuộc về thiểu số được quyền bảo l- ưu và báo cáo lên cấp uỷ cấp trên cho đến
Đại hội Đại biểu toàn quốc, song phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết,
không được truyền bá ý kiến trái với nghị quyết của Đảng. Cấp uỷ có thẩm
quyền nghiên cứu xem xét ý kiến đó, không phân biệt đối xử với đảng viên có ý
kiến thuộc về thiểu số.
6. Tổ chức đảng quyết định các vấn đề thuộc về phạm vi quyền hạn của
mình, song không được trái với nguyên tắc, đường lối, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước và nghị quyết của cấp trên.
Tập trung trong Đảng là tập trung quyền lực, trí tuệ, ý chí và hoạt động của các
tổ chức đảng và toàn bộ đảng viên. Đảng chỉ có một Cương lĩnh, một Điều lệ,
một hệ thống tổ chức thống nhất, một cơ quan lãnh đạo cao nhất; thiểu số phục
tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên; kỷ luật nghiêm minh.
Dân chủ trong Đảng là quyền của đảng viên, sự tham gia của đảng viên vào việc
quản lý mọi công việc của Đảng một cách trực tiếp hoặc thông qua đại biểu của
mình. Đảng viên của Đảng bình đẳng về quyền và trách nhiệm; công việc của
Đảng được thảo luận và quyết định theo đa số, ý kiến thiểu số được quyền bảo
lưu; cơ quan lãnh đạo của Đảng do bầu cử lập ra; chế độ báo cáo và thông báo
công khai công việc của Đảng.
1.1.3 Mối quan hệ giữa tập trung và dân chủ
Một là: tập trung trong Đảng phải được tiến hành xây dựng trên cơ sở dân chủ.
Đảm bảo tập trung cao, đúng đắn khác với tập trung quan liêu, độc đoán, gia trưởng.
Hai là: dân chủ trong Đảng phải được xây dựng, tiến hành bằng sự tập trung.
Đảm bảo đúng hướng, có tổ chức, khác với dân chủ cực đoan, hình thức, quá trớn, tự do, tùy tiện.
Ba là: ở giai đoạn lịch sử khác nhau, điều kiện cụ thể nhiệm vụ đặt ra cho Đảng
mà thực hiện tập trung dân chủ theo những cách khác nhau.
Bốn là: khi trở thành Đảng cầm quyền thì xu hướng chủ yếu là phát triển dân
chủ trong nội bộ Đảng về chiều rộng và chiều sâu, gắn với củng cố tập trung và kỷ luật trong Đảng.
Năm là: tập trung dân chủ có thể quy vào những cặp yếu tố có quan hệ chặt chẽ
với nhau như: cá nhân và tập thể; tự do và kỷ luật; cấp dưới và cấp trên; quyền
lực và giám sát quyền lực; thiểu số và đa số.
1.2. Nguyên tắc tự phê bình và phê bình trong Đảng
1.2.1 Vai trò và ý nghĩa của tự phê bình và phê bình
Mác - Ăngghen cho rằng, tự phê bình và phê bình là rất cần thiết cho hoạt động
và phát triển bình thường của Đảng Cộng sản. Ph.Ăngghen nhấn mạnh: việc
Đảng phê bình hoạt động đã qua của mình là việc tuyệt đối cần thiết và bằng
cách đó Đảng hoạt động tốt hơn. V.I.Lênin coi tự phê bình và phê bình là quy
luật phát triển của Đảng cách mạng. Tự cao, tự đại, không thấy những sai lầm,
khuyết điểm ấy là một trong những nguyên nhân giảm sút sức chiến đấu.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở các tổ chức Đảng, các cán bộ, đảng viên
phải nhất thiết tự kiểm điểm và kiểm điểm đồng chí mình. Hễ thấy khuyết điểm
phải kiên quyết sửa chữa và giúp đỡ đồng chí mình sửa chữa. Phải như thế
Đảng mới chóng phát triển, công việc mới chóng thành công. Người khẳng
định: "Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng...".
1.2.2 Tính chất của tự phê bình và phê bình trong Đảng * Tính đảng
Tính đảng của tự phê bình và phê bình đòi hỏi phải trên cơ sở của chủ nghĩa
Mác - Lênin, quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Tính đảng của tự phê bình và phê bình là phải đấu tranh không khoan nhượng
với mọi tư tưởng và hành động sai trái, không chấp nhận tính thụ động, bàng
quan với những sai lầm, khuyết điểm của bản thân và của đồng chí mình.
Tính đảng của tự phê bình và phê bình là căn cứ để phân biệt ranh giới giữa tự
phê bình và phê bình của Đảng với tự phê bình và phê bình của những lực
lượng khác, nhất là những lực lượng đối lập với Đảng vì mục đích, động cơ cá nhân, cục bộ...
Để giữ vững tính đảng của tự phê bình và phê bình, cán bộ, đảng viên không chỉ
nhận thức sâu sắc và tin tưởng vào đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước mà còn phải tham gia tích cực vào việc thực hiện và
bảo vệ khỏi sự tấn công, xuyên tạc của kẻ thù. * Tính giáo dục
Việc tự phê bình và phê bình đúng đắn, tự bản thân nó đó chứa đựng tính giáo
dục sâu sắc. Tự phê bình và phê bình của Đảng Cộng sản nhằm mục đích củng
cố Đảng, nâng cao sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của Đảng, nhằm rèn
luyện phẩm chất và phong cách công tác, phát triển trí tuệ, nâng cao năng lực
của cán bộ, đảng viên. Đây là điều phản ánh rõ nhất tính giáo dục sâu sắc của tự
phê bình và phê bình của Đảng Cộng sản.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, tự phê bình và phê bình một mặt là để sửa
chữa cho nhau, mặt khác là để khuyến khích nhau, bắt chước nhau; để dạy dỗ
đảng viên, dạy dỗ quần chúng.
* Tính cụ thể, thiết thực và kịp thời
Tự phê bình và phê bình chỉ có thể là vũ khí sắc bén và có hiệu quả của Đảng
khi nó bảo đảm được tính cụ thể và thiết thực.
Tự phê bình và phê bình như thế mới có sức thuyết phục, mới đạt hiệu quả.
Tính cụ thể, thiết thực của tự phê bình và phê bình của Đảng còn thể hiện ở việc
hướng vào việc kiểm điểm, phân tích, đánh giá, phê phán những vấn đề cấp
bách của tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên, trước hết là hướng vào việc thực
hiện nhiệm vụ chính trị của tổ chức đảng, chức trách, nhiệm vụ và việc tu
dưỡng rèn luyện phẩm chất, phong cách làm việc của cán bộ, đảng viên. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải gắn với công việc cụ thể
của mình và của đồng chí mình mà tự phê bình thì mới thu được kết quả thiết thực.
Về tính kịp thời, nó không những hạn chế những sai lầm, khuyết điểm của cá
nhân và của tổ chức đảng, không để chúng tích tụ lại, trầm trọng thêm mà còn
ngăn chặn không cho những sai lầm, khuyết điểm đó tái diễn ở cán bộ, đảng
viên và tổ chức đảng khác. Điều quan trọng hơn là tự phê bình và phê bình kịp
thời những cán bộ, đảng viên chưa tốt, những việc chưa tốt, thúc đẩy việc thực
hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị.
1.3. Nguyên tắc đoàn kết thống nhất trong Đảng
1.3.1 Ý nghĩa, tầm quan trọng của vấn đề đoàn kết thống nhất trong Đảng
Đoàn kết thống nhất là nguồn sức mạnh vô địch và vô tận của Đảng, của Cách
mạng. Khi Ðảng cầm quyền thì vấn đề đoàn kết, thống nhất lại càng cần thiết và
là một trong những yếu tố quyết định sự thành bại của sự nghiệp cách mạng do
Đảng lãnh đạo. Theo Lênin: “Sự chia rẽ trong nội bộ giai cấp vô sản hoặc giữa
Đảng của giai cấp vô sản với quần chúng vô sản, không phải chỉ là nguy hiểm
mà còn là cực kỳ nguy hiểm, nhất là nếu trong nước đó, giai cấp vô sản lại chỉ
là thiểu số nhỏ bé trong dân cư”.
Đảng ta luôn coi sự chia rẽ là tội ác lớn nhất đối với Đảng, giai cấp, dân tộc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng việc xây dựng và thường xuyên củng
cố khối đoàn kết thống nhất. Người là hiện thân của khối đoàn kết thống nhất
trong Đảng, đoàn kết giai cấp, dân tộc và đoàn kết quốc tế. Khẩu hiệu hành
động và cũng là một sự tổng kết kinh nghiệm nổi tiếng của Bác Hồ: “Đoàn kết,
đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”. Đoàn kết
thống nhất, đó là truyền thống quý báu của Đảng ta, là bài học thành công,
nguyên nhân thắng lợi của cách mạng Việt Nam. “Đoàn kết là một truyền thống
cực kỳ quý báu của Đảng ta và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các
chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”
1.3.2. Nội dung đoàn kết thống nhất trong Đảng và những bài học kinh nghiệm
* Nội dung xây dựng và củng cố khối đoàn kết thống nhất trong Đảng
Một là: đoàn kết thống nhất về chính trị tư tưởng là tiền đề cho sự thống nhất về tổ chức.
Hai là: đoàn kết thống nhất về tổ chức là điều kiện trực tiếp để đảm bảo cho Đảng có sức mạnh.
Ba là: đoàn kết thống nhất trong hành động nhằm thực hiện cương lĩnh, đường
lối, chính sách của Đảng. Đây là kết quả của sự thống nhất về chính trị, tư tưởng và tổ chức.
* Bài học kinh nghiệm của Đảng ta về xây dựng và củng cố khối đoàn kết thống nhất trong Đảng.
Bài học thứ nhất: Sự đoàn kết thống nhất phải dựa trên cơ sở của chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, chính sách đúng đắn của Đảng.
Bài học thứ hai: Sự đoàn kết thống nhất trong Đảng dựa trên cơ sở tuân thủ
nguyên tắc tập trung dân chủ.
Bài học thứ ba: Thường xuyên bồi dưỡng tình thân ái, đồng chí cho cán bộ đảng
viên là một biện pháp rất cần thiết để giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng.
Bài học thứ tư: Thường xuyên và nghiêm túc tự phê bình và phê bình là một
phương pháp căn bản để tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng.
Bài học thứ năm: xây dựng và bảo vệ khối đoàn kết trong tập thể lãnh đạo là hạt
nhân cho khối đoàn kết thống nhất của Đảng.
1.3.3. Phương hướng củng cố và tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng hiện nay
Hiện nay để tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong Đảng cần có sự nhận thức
đúng và giải quyết tốt các vấn đề sau:
Một là, trên cơ sở tổng kết thực tiễn, kịp thời cụ thể hoá đường lối đổi mới của
Đảng thành phương hướng, chủ trương, biện pháp ... Nhanh chóng tháo gỡ
những vướng mắc về cơ chế, chính sách, làm cho sản xuất phát triển, xã hội
ngày càng đổi mới, tiến bộ, người lao động có việc làm, đời sống ổn định và
từng bước được nâng cao ... Đây là nội dung cơ sở cho sự nhất trí, kiên định
mục tiêu con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng ta đã lựa chọn.
Hai là, khi Đảng cầm quyền, lãnh đạo toàn xã hội, nhiệm vụ của Đảng thay đổi
về tính chất, nội dung và phạm vi tác động. Lúc này, nhiều vấn đề mới đặt ra
đòi hỏi phải có ý kiến và giải quyết, vì thế ý kiến khác nhau ở trong Đảng
thường nhiều hơn và đa dạng hơn. Việc nghiên cứu, tranh luận những ý kiến
khác nhau là để tìm chân lý vì lợi ích của cách mạng. Không đồng nhất việc
trong Đảng có những ý kiến khác nhau khi thảo luận với tình trạng mất đoàn
kết, nhưng không để những nhận định quan điểm khác nhau phát triển thành
những bất đồng, xung đột cá nhân, để cho những ý kiến khác nhau đó trở thành
nguồn gốc tư tưởng gây nên chia rẽ về tổ chức. Mỗi cán bộ, đảng viên phải biết
lắng nghe ý kiến của nhau, tôn trọng nhau, bình tĩnh cùng nhau trao đổi trên
nguyên tắc tập trung dân chủ, đấu tranh cho lẽ phải, tạo sự đoàn kết thống nhất trong Đảng.
Khi có chính quyền, bọn cơ hội tìm mọi cách chui vào Đảng để “thăng quan,
phát tài” mưu cầu lợi ích cho cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân là nguồn gốc tư tưởng
của chủ nghĩa cơ hội. Chủ nghĩa cơ hội biểu hiện về mặt hình thức là chủ nghĩa
vô chính phủ. Vì vậy, phải kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, phải tiếp thu
đạo đức cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Ba là, phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa các lợi ích để tạo ra sự thống
nhất, tạo nguồn động lực cho sự phát triển. Ăngghen khẳng định rằng, ở đâu
không có lợi ích chung thì ở đó không thể có sự thống nhất về mục đích và càng
không thể có sự thống nhất về hành động được. Lênin thì coi tình trạng đặc
quyền đặc lợi là nguồn gốc gây nên sự tan rã trong Đảng, làm uy tín của các
đảng viên cộng sản bị giảm sút.
Bốn là, dân chủ là điều kiện để xây dựng đường lối, chủ trương, xác định nhiệm
vụ chính trị đúng. Dân chủ là phương pháp để tăng cường sự thống nhất về tư
tưởng. Dân chủ cho phép đảng viên có quyền tự do tư tưởng, quyền bảo lưu ý
kiến khi là thiểu số. Nhưng qua thảo luận, khi đã có kết luận của tập thể, đã
thành nghị quyết thì tất cả mọi cán bộ, đảng viên không trừ một ai đều phải nói
và làm theo nghị quyết của Đảng. Đó chính là yêu cầu của tập trung. Dân chủ
rộng rãi phải gắn liền với tập trung nghiêm ngặt, bảo đảm cho sự thống nhất về
ý chí và hành động, bảo đảm cho kỷ luật được chấp hành triệt để. Nhờ đó, Đảng
mới có sức mạnh – sức mạnh tập thể.
Năm là, cần lựa chọn đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt có khả năng đoàn kết
chặt chẽ, thực sự tiêu biểu cho ý chí thống nhất toàn Đảng. Lênin khẳng định:
Không có một trung tâm lãnh đạo thống nhất, không có một cơ quan trung ương
thống nhất thì không thể thống nhất thật sự trong Đảng.
Sáu là, các tổ chức đảng thông qua kiểm tra, thanh tra mà phát hiện sớm các
hiện tượng mất đoàn kết, nhanh chóng tìm ra nguyên nhân và có biện pháp xử
lý kịp thời, có hiệu quả để giáo dục cán bộ, đảng viên và quần chúng, kiện toàn
tổ chức thúc đẩy hoàn thành nhiệm vụ.
1.4. Nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân
1.4.1Vai trò, bản chất của nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân
Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân là cội
nguồn sức mạnh của Đảng là lý do để Đảng tồn tại và phát triển. Cách mạng
XHCN là sự nghiệp của nhân dân. Đảng ta khẳng định: “Sự nghiệp cách mạng
là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”. Do đó, chính nhân dân là người
làm nên những thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ
lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự
gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân sẽ dẫn
đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ xã
hội chủ nghĩa và của Đảng...; không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn
kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Đó là
truyền thống quý báu và là nguồn sức mạnh to lớn của cách mạng nước ta.
Bản chất, mục đích của Đảng là vì lợi ích của nhân dân, Đảng cầm quyền là vì
nhân dân. Là một thuộc tính bản chất của Đảng Cộng sản, là cơ sở xã hội cho sự
tồn tại và phát triển của Đảng, là “lương tâm, danh dự” và phương châm hành
động của Đảng. Điều lệ Đảng ghi rõ: Đảng cộng sản Việt Nam là đội tiên phong
của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiền phong của của nhân dân lao động
và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân,
của nhân dân lao động và của dân tộc. Đảng Cộng Sản Việt Nam là người lãnh
đạo của cách mạng Việt Nam.
1.4.2. Nội dung nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân
- Mọi chủ trương, chính sách của Đảng phải xuất phát từ lợi ích, nguyện vọng
và khả năng của nhân dân, được nhân dân đồng tình ủng hộ. - Phát huy quyền
làm chủ của nhân dân, động viên, tổ chức nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng.
- Thực hiện nguyên tắc dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng. - Tổ chức đảng
làm tốt công tác dân vận.
- Cán bộ lãnh đạo phải thường xuyên đi sát cơ sở, đi sát nhân dân, trực tiếp trao
đổi ý kiến với nhân dân, học hỏi kinh nghiệm sáng tạo của nhân dân.
- Mỗi đảng viên cộng sản phải thật sự vừa là người lãnh đạo, vừa là người đày
tớ thật trung thành của nhân dân.
- Lãnh đạo xây dựng và phát huy tốt vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội
Tiến hành thường xuyên cuộc đấu tranh ngăn ngừa và khắc phục chủ nghĩa quan liêu.
1.5 Nguyên tắc Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật
1.5.1.Vai trò, ý nghĩa của nguyên tắc Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật
Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật sẽ nâng cao vai trò, vị
thế, tính hợp pháp của Đảng.
Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật giúp tăng cường kỷ
luật, kỷ cương của Đảng, phòng chống hiện tượng tiêu cực trong Đảng; bao biện
làm thay, mất dân chủ; ngăn ngừa sự tùy tiện, phạm vi nguyên tắc phương thức
lãnh đạo của Đảng cầm quyền.
Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật sẽ nâng cao tính độc
lập chủ động của Nhà nước, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, nhân dân có thể kiểm
tra, giám sát hoạt động của cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng, thúc đẩy công khai hóa.
Vì vậy, nguyên tắc Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật là
cực kỳ quan trọng trong tổ chức và hoạt động của Đảng, có ý nghĩa nhiều mặt
đối với xây dựng nội bộ Đảng và đời sống chính trị - xã hội; có tác dụng nâng
cao vai trò lãnh đạo của Đảng; là chế định nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng
chứ không phải hạ thấp vai trò của Đảng. 1.5.2 Nội dung nguyên tắc
Một là, vị trí, vai trò của Đảng được chế định trong Hiến pháp và pháp luật, bảo
đảm tính hợp hiến, hợp pháp vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, hệ
thống chính trị và xã hội.
Hai là, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng phải được thể chế hóa thành
Hiến pháp và pháp luật thông qua trình tự lập hiến, lập pháp, qua đó mà thực
hiện sự lãnh đạo của Đảng đối với xã hội.
Ba là, tổ chức, sinh hoạt của Đảng phù hợp với các thiết chế do Hiến pháp và
pháp luật quy định. Điều đó vừa đáp ứng tốt yêu cầu lãnh đạo của Đảng, vừa
đáp ứng yêu cầu thực thi Hiến pháp và pháp luật, không cản trở hoạt động của
Nhà nước và các tổ chức trong hệ thống chính trị. Các sinh hoạt của Đảng,
ngoài việc tuân theo quy định của Điều lệ, hướng dẫn của Đảng, còn cần phù
hợp với các chế định của Hiến pháp, pháp luật, tránh gây cản trở, trái ngược với
các thiết chế của Nhà nước.
Bốn là, tổ chức đảng quyết định các vấn đề thuộc phạm vi quyền hạn của mình,
song không được ra nghị quyết, chỉ thị trái với Hiến pháp và pháp luật của Nhà
nước. Các tổ chức đảng không được ra nghị quyết, chủ trương trái pháp luật;
gây áp lực đến việc chấp hành và thực hiện đúng đắn pháp luật và chính sách
nhà nước của cán bộ, đảng viên trong cơ quan nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội.
Năm là, tổ chức đảng và đảng viên gương mẫu tuân thủ Hiến pháp và pháp luật.
Các đảng viên đảm nhận các chức vụ lãnh đạo và thực hiện công vụ theo chế độ
trách nhiệm luật pháp quy định, không được lợi dụng quyền uy của Đảng, đặt
mình lên trên pháp luật để làm trái Hiến pháp và pháp luật. Xử lý nghiêm minh
theo kỷ luật đảng và pháp luật của Nhà nước đối với những cán bộ, đảng viên vi
phạm Hiến pháp, pháp luật pháp luật, dù người đó ở chức vụ nào cũng không có ngoại lệ.
2. Thực trạng việc thực hiện các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng.
2.1. Thực trạng việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ
Ở Việt Nam, ngay từ những ngày đầu được thành lập đến nay, trải qua hơn 90
năm xây dựng và phát triển, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn kiên trì thực hành
nguyên tắc tập trung dân chủ, từ đó tập hợp, đoàn kết, phát huy bản lĩnh, trí tuệ,
tính tiền phong gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên, làm hạt nhân quy tụ,
phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
1- Trong xây dựng Cương lĩnh, hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng: Từ
khi thành lập Đảng, đặc biệt là trong những năm đổi mới, những quyết định lớn,
đường lối, chủ trương của Đảng, từ dự thảo Cương lĩnh đến dự thảo các văn
kiện Đại hội Đảng đều được tổ chức thảo luận dân chủ rộng rãi, lấy ý kiến của
các tổ chức đảng và đảng viên từ cơ sở trở lên, lấy ý kiến góp ý của Quốc hội,
Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức đoàn thể và các tầng lớp nhân dân, được Trung
ương thảo luận kỹ lưỡng, cân nhắc nhiều mặt, phân tích thấu đáo, nhất là những
vấn đề có ý kiến trái chiều trước khi quyết định. Những vấn đề mới, khó, phức
tạp được tổ chức hội thảo, tọa đàm để thảo luận, trao đổi kỹ, lấy ý kiến chuyên
gia trước khi trình Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương quyết định.
2- Trong đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng: Sinh hoạt của
các cấp ủy và tổ chức đảng được tiến hành dân chủ, cởi mở, các cấp ủy viên
mạnh dạn trình bày ý kiến riêng của mình; tăng cường các hình thức giao ban,
hội nghị, tọa đàm, tiếp xúc trực tiếp giữa cán bộ chủ chốt với đảng viên và nhân
dân... Từ sau Đại hội IX của Đảng, chế độ thực hành dân chủ trong Đảng ngày
càng được mở rộng, đã thực hiện việc phê bình, chất vấn tại các Hội nghị Ban
Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
3. Trong giải quyết mối quan hệ giữa bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung
của cấp trên và phát huy quyền chủ động của cấp dưới: Để thực hiện hiệu quả
nguyên tắc tập trung dân chủ, chúng ta đã đẩy mạnh việc tinh gọn bộ máy hệ
thống chính trị, giảm cấp trung gian, thực chất là giảm bớt tình trạng phân tán
quyền lực vào các tầng nấc trung gian, bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung
và làm rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của các cấp.
Mặc dù vậy, bên cạnh những kết quả đã đạt được, việc thực hiện nguyên tắc tập
trung dân chủ còn nhiều hạn chế, khuyết điểm. Vẫn còn biểu hiện dao động,
hoài nghi về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong một bộ phận cán
bộ, đảng viên. Còn tình trạng tùy tiện, thiếu ý thức tổ chức kỷ luật, không chấp
hành nghiêm chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Dân chủ trong Đảng và trong xã hội còn bị vi phạm. Kỷ cương, kỷ luật ở nhiều
cấp, nhiều lĩnh vực không nghiêm. Một số cấp ủy, tổ chức đảng và cán bộ lãnh
đạo thiếu tôn trọng và phát huy quyền của đảng viên, ít lắng nghe ý kiến cấp
dưới; cán bộ lãnh đạo ở một số nơi còn có biểu hiện gia trưởng, độc đoán,
chuyên quyền, mất dân chủ hoặc dân chủ hình thức. Còn thiếu những quy chế
xác định trách nhiệm cụ thể, dẫn đến vừa có hiện tượng dựa dẫm vào tập thể,
không rõ trách nhiệm cá nhân, vừa không khuyến khích được những cán bộ,
đảng viên nhiệt tình, tâm huyết, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu
trách nhiệm vì lợi ích chung.
2.2. Thực trạng thực hiện Nguyên tắc tự phê bình và phê bình trong Đảng
Đảng ta đã nghiêm túc tự phê bình và phê bình những sai lầm, khuyết điểm, đã
đề ra quan điểm, phương hướng, chủ trương đổi mới toàn diện và tăng cường
công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Không khí dân chủ,
thẳng thắn tự phê bình và phê bình đã bước đầu được khơi dậy trong Đảng và
trong xã hội. Chất lượng tự phê bình và phê bình nhờ đó cũng dần được nâng lên.
Trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, Đảng ta đã đề ra những
nguyên tắc định hướng công cuộc đổi mới ở nước ta, trên cơ sở đó xây dựng sự
nhất trí trong Đảng, phê phán những nhận thức mơ hồ, những quan điểm lệch
lạc, nâng cao ý thức cảnh giác đối với mọi âm mưu phá hoại và chống đối.
Trong sinh hoạt của nhiều cấp uỷ và tổ chức đảng đã có không khí thảo luận
thẳng thắn, phát huy trí tuệ của đông đảo cán bộ, đảng viên trong việc chuẩn bị
các nghị quyết, trong việc bầu cử các cơ quan lãnh đạo. Nhiều cấp uỷ đảng thực
hiện tốt hơn chế độ kiểm điểm công tác, tự phê bình và phê bình. Ban Chấp
hành Trung ương đã kiểm điểm việc chấp hành nghị quyết Đại hội VI của Đảng
vào giữa nhiệm kỳ, các ủy viên Bộ Chính trị tự phê bình trước Ban Chấp hành
Trung ương. Nhiều tổ chức đảng các cấp đã chú trọng việc lấy ý kiến và tiếp thu
ý kiến của nhân dân đối với các công việc của Đảng và phẩm chất của cán bộ,
đảng viên. Bên cạnh đó vẫn còn không ít các cấp uỷ và tổ chức đảng chưa chú
trọng tự phê bình và phê bình ở khá nhiều tổ chức đảng, tự phê bình và phê bình
chưa được thực hiện thường xuyên. Việc tự phê bình và phê bình thiếu nội dung
thiết thực, thiếu địa chỉ, còn hình thức, nặng về phê bình người khác, phê bình
không đúng và không tuân thủ những đặc tính và đòi hỏi nghiêm ngặt của tự
phê bình và phê bình của Đảng đang tồn tại ở không ít tổ chức đảng và cán bộ,
đảng viên. Việc ngại đấu tranh, né tránh, lựa chiều, “dĩ hoà vi quý” trong tự phê
bình và phê bình đang là tình trạng khá phổ biến hiện nay.
Thực trạng nêu trên không phải là do tự phê bình và phê bình mà do nhận thức
về vấn đề này của cán bộ, đảng viên chưa đầy đủ, cơ chế vận dụng và thực hiện
chưa tốt và do ý thức chiến đấu của cán bộ, đảng viên chưa cao.
2.3. Thực trạng thực hiện nguyên tắc đoàn kết thống nhất trong Đảng
Trong công cuộc đổi mới, hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, thực hiện
nghiêm túc nguyên tắc đoàn kết thống nhất trong tổ chức, hoạt động của Đảng
Cộng sản Việt Nam cầm quyền sẽ tạo nên sức mạnh to lớn cho Đảng, là điều
kiện để ổn định và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Bước vào thời kỳ hội nhập quốc tế, trước những tác động của kinh tế thị trường,
một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả cán bộ cấp cao có xu hướng chạy theo chủ
nghĩa cá nhân; một số tổ chức Đảng có biểu hiện mất đoàn kết nội bộ, chưa tôn
trọng và thực hiện chưa đúng nguyên tắc tập trung dân chủ. Việc tự phê bình và
phê bình có nơi trở nên hình thức, có nơi bị lợi dụng để đấu đá, hạ bệ lẫn nhau.
Bên cạnh đó, những biểu hiện cơ hội chủ nghĩa, “lợi ích nhóm”, tính cục bộ địa
phương có nơi đã xuất hiện và phá hoại sự đoàn kết thống nhất trong Đảng.
Những năm gần đây, Đảng ta đề cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu
đối với việc giữ vững sự đoàn kết thống nhất trong tổ chức Đảng và trong các
cơ quan, đơn vị. Tuy nhiên, thực tế là ở nhiều nơi, chính người đứng đầu chịu
trách nhiệm trước cấp ủy cấp trên và cấp mình về sự đoàn kết thống nhất nội bộ
lại chưa thực sự gương mẫu, chưa thấm nhuần ý thức xây dựng khối đoàn kết
thống nhất trong nội bộ. Chính vì vậy, việc lựa chọn người đứng đầu có đủ
phẩm chất, năng lực, có vai trò tiền phong, gương mẫu là rất quan trọng. Người
đứng đầu cấp ủy, chính quyền phải thực sự công bằng, công tâm trong xử lý
công việc, phải thực sự là trung tâm quy tụ, đoàn kết của tổ chức Đảng, của tập thể cơ quan, đơn vị.
Thực tế cho thấy, đoàn kết thống nhất trong cán bộ lãnh đạo ở cấp càng cao thì
tác động, ảnh hưởng đối với Đảng càng mạnh, sức lan tỏa ra xã hội càng lớn.
Ngược lại, nếu những người nắm trọng trách lãnh đạo, nhất là ở cấp cao nếu
không có ý thức đoàn kết thống nhất thì không những gây nguy hại mà còn tạo
ra những nguy cơ lớn, khó lường cho toàn Đảng.
Trong thời điểm đất nước đang đứng trước những thời cơ vận hội mới nhưng
cũng đầy những thử thách lớn lao, những thành tựu toàn Đảng, toàn dân đạt
được qua gần 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước chính là
kết quả của sự đoàn kết thống nhất của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, là
minh chứng khẳng định sự trưởng thành và vững mạnh của Đảng. Tuy nhiên,
trong bối cảnh tình hình thế giới diễn biến phức tạp, khó lường, bên cạnh những
thành tựu đạt được, chúng ta vẫn đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, phức
tạp. Các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách, bằng nhiều âm mưu thâm độc, xảo
quyệt, kích động chia rẽ nội bộ, gây mất đoàn kết trong Đảng. Chính vì vậy,
tăng cường đoàn kết và thống nhất trong Đảng từ Trung ương đến cơ sở là điều
tất yếu và cấp thiết trong giai đoạn hiện nay.
2.4. Thực trạng thực hiện nguyên tắc nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân
Nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân được Đảng thực hiện tốt ngày
nay. Trong nhiệm kỳ Đại hội XI và từ đầu nhiệm kỳ XII tới nay, Đảng đã ban
hành nhiều chủ trương, nghị quyết nhằm tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với
Nhân dân. Đặc biệt, ngày 3 tháng 6 năm 2013, Ban Chấp hành trung ương Đảng
đã ban hành Nghị quyết số 25-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 7 khóa XI về
“Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong
tình hình mới”. Kể từ Nghị quyết Trung ương 08B-NQ/HNTW của Hội nghị lần
thứ 8 Ban Chấp hành trung ương Đảng khóa VI ngày 27 tháng 3 năm 1990 về
“Đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và
Nhân dân”, Nghị quyết 25-NQ/TW là Nghị quyết quan trọng thứ 2 chuyên đề về
công tác dân vận với những quan điểm mới được bổ sung phù hợp thực tiễn.
Trong những năm qua, nhiều nghị quyết, chủ trương đúng đắn của Đảng đã
được ban hành đáp ứng lợi ích và nguyện vọng chính đáng của Nhân dân, kịp
thời giải quyết những vấn đề bức xúc mới phát sinh. Nhờ đó, đời sống của một
bộ phận lớn nhân dân đã được cải thiện; quyền làm chủ của Nhân dân đã được phát huy.
Đã có nhiều hình thức đa dạng, phong phú nhằm tập hợp Nhân dân vào các tổ
chức đoàn thể. Mối quan hệ gắn bó giữa Đảng và Nhân dân được tiếp tục phát
huy. Nhiều chủ trương lớn của Đảng đã được đông đảo các tầng lớp nhân dân
hăng hái tham gia góp ý kiến xây dựng. Vai trò của Mặt trận và các đoàn thể
nhân dân ngày càng được chú trọng nhiều hơn bằng việc Đảng đã ban hành
Quyết định số 217-QĐ/TW, ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị “về quy chế
giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể
chính trị - xã hội” và Quyết định 218-QĐ/TW ngày 12/12/2013 của Bộ Chính
trị “về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội tham gia
góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền”.
2.5. Thực trạng thực hiện nguyên tắc nguyên tắc Đảng hoạt động trong khuôn
khổ Hiến pháp và pháp luật
Nguyên tắc Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật là một
trong các nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Đảng đã đánh dấu bước tiến mới
không chỉ trong nhận thức mà còn trong hoạt động thực tiễn của Đảng ta. Trong
quá trình đổi mới, từ Trung ương đến tổ chức đảng các cấp đã nâng cao ý thức
chấp hành nguyên tắc Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Việc thể chế hóa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng thành pháp luật,
chính sách của Nhà nước để tổ chức thực hiện đã có nhiều tiến bộ. Đảng đã tăng
cường lãnh đạo công tác lập pháp để xây dựng, hoàn thiện Hiến pháp và hệ
thống pháp luật, đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. Cán bộ,
đảng viên của Đảng đã nâng cao ý thức chấp hành pháp luật, chính sách của
Nhà nước. Nhiều cán bộ, đảng viên vi phạm pháp luật đã bị xử lý, kể cả cán bộ cao cấp.
Tuy nhiên, nguyên tắc Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật
vẫn còn không ít vấn đề đang đặt ra. Vị trí, vai trò, nội dung, phương thức lãnh
đạo của Đảng trong nhiều tổ chức, lĩnh vực chưa được thể chế hóa, cụ thể hóa.
Đã xảy ra một số trường hợp trình tự ban hành quyết sách của Đảng chưa thật
sự phù hợp với quy định của Hiến pháp và pháp luật. Thậm chí một số cấp ủy,
tổ chức đảng ra nghị quyết, quyết định trái thẩm quyền, pháp luật. Có cấp ủy
can thiệp quá sâu vào hoạt động hành pháp, tư pháp. Có cán bộ nhân danh tổ
chức đảng gây áp lực đến việc thực hiện luật pháp và chính sách của cơ quan
nhà nước. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa gương mẫu chấp
hành pháp luật, thậm chí coi thường, cố ý làm trái pháp luật.
II. Vẽ sơ đồ cơ cấu tổ chức bộ máy của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Đại hội Văn phòng đại biểu Trung ương Bộ toàn Ban Đảng Ban tổ chức chính trị Ban thư Trung Ương quốc Chấp Ban Dân vận kí Ủy ban hành Trung Ương kiểm tra Ban Nội chính Trung Trung Trung Ương ương Ban kinh tế ương Trung Ương Ban kinh tế Trung Ương Ban đối ngoại Trung Ương Cơ quan ủy ban kiểm tra Trung Ương Báo nhân dân Tạp chí cộng sản Nhà xb chính trị quốc gia
Học viện chính trị quốc Đản gia HCM Tỉnh Đảng bộ trực g ủy Đảng Đản ủy, thuộc trung ương khối ủy g ủy Đản thành doan Quâ khối công g ủy ủy h n ủy các cơ an nướ trực nghi trung qua Trun c thuộc ệp ươn Trung g ngo trung Trun g ương ươn ài ương g ươn g g Huyện ủy, Đảng bộ cấp Đản quận Đảng huyện g ủy Đản ủy,thị ủy khối Quâ Đản g ủy ủy, khối doan n ủy g ủy trực thành các cơ h Quâ công thuộ ủy quan nghi n sự an c thành Tỉnh ệp tỉnh Tỉnh khác phố (nếu trực có) Đả Cấp thuộc Đảng bộ cơ sở, ng ủy ở tỉnh chi bộ cơ sở Đản Đản Chi ủy các g ủy g ủy ủy quâ tổ công cơ cơ n chức an sở sở sự cơ huyệ huy sở n ện Đản Chi bộ g trực thuộc Chi ủy đảng bộ ủy cơ phận sở Đảng trực ủy bộ thuộc phận đảng ủy cơ sở