-
Thông tin
-
Quiz
Bài tập tự học xây dựng đảng | Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Thực trạng công tác kiểm tra, giám sát của Đảng, đề xuất giải pháp tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng. Thực trạng công tác dân vận của Đảng, đề xuất giải pháp tăng cường công tác dân vận của Đảng trong tình hình mới. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Xây dựng Đảng 56 tài liệu
Học viện Báo chí và Tuyên truyền 2.5 K tài liệu
Bài tập tự học xây dựng đảng | Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Thực trạng công tác kiểm tra, giám sát của Đảng, đề xuất giải pháp tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng. Thực trạng công tác dân vận của Đảng, đề xuất giải pháp tăng cường công tác dân vận của Đảng trong tình hình mới. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Môn: Xây dựng Đảng 56 tài liệu
Trường: Học viện Báo chí và Tuyên truyền 2.5 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:














Tài liệu khác của Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Preview text:
Bài tập tự học ngày 23/10/2023 Tên: Tạ Thị Ngọc Lệ Mã sinh viên: 2350080021 Lớp: XD01001_K43.1
1. Thực trạng công tác kiểm tra, giám sát của Đảng, đề xuất giải pháp tăng
cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng.
Đại hội XIII của Đảng đã nhấn mạnh chủ đề phải “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng
và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh”; đây là yêu cầu mới, lớn hơn và toàn diện
hơn so với Đại hội XII. Để đáp ứng được yêu cầu này, đòi hỏi công tác kiểm tra, giám sát
của Đảng nói chung cũng như chất lượng các cuộc kiểm tra, giám sát phải được nâng lên,
công tác kiểm tra chấp hành của Bộ Chính trị, Ban Bí thư và cấp ủy các cấp trong việc
lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện nghị quyết, chỉ thị của Đảng phải được chú trọng thường xuyên.
Đại hội cũng nhận định: “Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng được tăng cường, có
nhiều đổi mới, đạt kết quả quan trọng; chất lượng, hiệu lực, hiệu quả được nâng lên. Hoạt
động kiểm tra, giám sát của cấp ủy, UBKT các cấp được đẩy mạnh, đạt kết quả khá toàn
diện, nhất là ở cấp Trung ương. Qua công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng, kỷ cương,
kỷ luật của Đảng được siết chặt hơn, có tác dụng cảnh báo, cảnh tỉnh, răn đe, phòng ngừa
sai phạm đối với tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên”.
Trong nhiệm kỳ XII công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng đã có chuyển biến tích
cực, cơ bản đáp ứng được yêu cầu công tác xây dựng Đảng và sự phát triển kinh tế - xã
hội, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng phục vụ thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng Đảng. Cấp ủy các cấp đã kiểm tra
264.201 tổ chức đảng và 1.124.146 đảng viên, trong đó có 272.556 đồng chí là cấp ủy
viên các cấp (tăng 8,42% tổ chức đảng, 4,83% đảng viên, 19% cấp ủy viên so với nhiệm kỳ Đại hội XI).
Bộ Chính trị, Ban Bí thư thành lập 36 đoàn kiểm tra do các đồng chí Ủy viên Bộ Chính
trị, Ủy viên Ban Bí thư làm trưởng đoàn, kiểm tra 110 tổ chức đảng (tăng 59% so với
nhiệm kỳ XI). Nội dung kiểm tra tập trung vào việc lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện
Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về tăng cường xây
dựng chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ gắn với việc thực hiện
Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh; các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương về đổi mới, sắp
xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị; tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán
bộ, công chức, viên chức; xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược; quy
hoạch và luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý…
Đối với đảng viên, tập trung vào việc kiểm tra chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ;
đoàn kết nội bộ, chấp hành quy chế làm việc; việc triển khai, quán triệt nghị quyết, chỉ thị
của Đảng về phát triển kinh tế - xã hội; việc thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh của
các địa phương; chương trình xây dựng nông thôn mới; việc thực hiện các dự án đầu tư
xây dựng, thực hiện chính sách an sinh xã hội; việc thực hành tiết kiệm, phòng, chống
tham nhũng, lãng phí… Qua kiểm tra đã kết luận 2.727 tổ chức đảng và 6.179 đảng viên
có khuyết điểm, vi phạm; phải thi hành kỷ luật 1.329 tổ chức đảng và 69.600 đảng viên.
Công tác giám sát cũng được cấp ủy, UBKT các cấp chú trọng với phương châm “giám
sát phải mở rộng” trên các lĩnh vực của đời sống qua đó kịp thời động viên, nhắc nhở, uốn
nắn những nơi có thiếu sót, khuyết điểm, nhằm phòng ngừa không để vi phạm xảy ra. Cấp
ủy các cấp đã giám sát chuyên đề được 193.993 tổ chức đảng và 258.652 đảng viên.
Kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm được xác định là nhiệm vụ trọng tâm. Trong nhiệm kỳ,
UBKT các cấp đã kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với 15.920 tổ chức đảng và
47.701 đảng viên; qua kiểm tra đã thi hành kỷ luật 23.432 đảng viên là cấp ủy viên. Nội
dung vi phạm chủ yếu là những điều đảng viên không được làm, nguyên tắc tập trung dân
chủ, quy chế làm việc, thiếu trách nhiệm, buông lỏng lãnh đạo, quản lý; vi phạm phẩm
chất, đạo đức, lối sống; vi phạm về công tác cán bộ, đất đai, tài nguyên, khoáng sản…
Giải quyết đơn thư tố cáo, khiếu nại được chú trọng và thực hiện kịp thời, đúng nguyên
tắc, quy trình, quy định, khắc phục cơ bản tình trạng để kéo dài các đơn thư tố cáo, khiếu
nại. UBKT các cấp đã nhận được 104.419 đơn, thư tố cáo, phản ánh tổ chức đảng, đảng
viên, trong đó thuộc thẩm quyền phải giải quyết là 319 đơn tố cáo đối với tổ chức và
8.477 đơn tố cáo đối với đảng viên. Đã giải quyết tố cáo đối với 139 tổ chức đảng và 8441
đảng viên; qua giải quyết tố cáo phải thi hành kỷ luật 10 tổ chức đảng và 1.606 đảng viên.
Tuy nhiên, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng cũng chỉ rõ những hạn chế, khuyết điểm và
nguyên nhân trong công tác kiểm tra, giám sát của Đảng như: Công tác kiểm tra, giám sát,
kỷ luật đảng chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu trong tình hình mới, chất lượng, hiệu quả chưa
đồng đều ở các cấp. Việc kiểm tra, giám sát thực hiện một số nghị quyết của Đảng chưa
thường xuyên. Công tác kiểm tra ở một số nơi thiếu trọng tâm, trọng điểm; việc tự kiểm
tra, phát hiện và xử lý vi phạm của nhiều cấp ủy, tổ chức đảng vẫn là khâu yếu; còn nhiều
tổ chức đảng và đảng viên có vi phạm nhưng chưa được phát hiện kịp thời; trong công tác
kiểm tra, giám sát của các cơ quan tham mưu giúp việc các cấp chưa thường xuyên, có
nơi, có lúc chưa thực chất, phạm vi, đối tượng còn hẹp; hiệu quả cảnh báo, phòng ngừa vi
phạm còn hạn chế. Việc thi hành kỷ luật ở một số nơi chưa nghiêm, còn hiện tượng nể nang, ngại va chạm.
Những tồn tại, hạn chế nêu trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân
là: Nhận thức của một số cấp ủy, người đứng đầu về công tác kiểm tra, giám sát chưa đầy
đủ, vẫn còn xem đó chỉ là công việc riêng của UBKT nên thiếu quan tâm lãnh đạo, chỉ
đạo. Một số văn bản của Đảng, pháp luật của Nhà nước ban hành còn chậm, chưa đồng
bộ, còn có điểm mâu thuẫn, khó thực hiện trong thực tiễn. Các cơ quan tham mưu, giúp
việc của cấp ủy các cấp chủ yếu tham mưu giúp cấp ủy về lĩnh vực kinh tế và xây dựng
Đảng; ít tham mưu giúp cấp ủy về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng. Việc
phối hợp giữa UBKT với các ban xây dựng Đảng, các cơ quan chức năng có liên quan
trong việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát ở không ít nơi chưa thường xuyên, thiếu
chặt chẽ. Chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của UBKT và cơ quan UBKT còn nhiều bất cập.
Để góp phần xây dựng Đảng mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, phát huy vai trò
tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên; Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã xác
định: “Nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng và kiểm soát
chặt chẽ quyền lực. Đẩy mạnh đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, lãng phí”. Xuất
phát từ những vấn đề đó, cấp ủy và UBKT các cấp cần nhận thức đúng, đầy đủ và thực
hiện đồng bộ các giải pháp sau:
Một là, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác kiểm tra, giám
sát cũng như đổi mới phương pháp kiểm tra, giám sát trong điều kiện một đảng cầm
quyền. Đổi mới phương pháp kiểm tra của Đảng thích ứng với xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, trong điều kiện nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ
nghĩa, mở cửa hội nhập quốc tế và trong bối cảnh có nhiều vi phạm của đảng viên, của
các tổ chức đảng ngày càng phức tạp, tinh vi. Các cấp ủy đảng cần coi trọng công tác dự
báo tình hình vi phạm từ đó mà chủ động có biện pháp ngăn chặn, phòng ngừa có hiệu quả.
Cần nhấn mạnh hơn nữa vai trò, vị trí của nhiệm vụ giám sát và nhiệm vụ kiểm tra khi có
dấu hiệu vi phạm. Coi trọng việc ứng dụng khoa học công nghệ nhất là công nghệ thông
tin để phục vụ sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy và hoạt động của UBKT các cấp.
Hai là, cấp ủy và người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng phải nắm vững quan điểm, đường
lối, nghị quyết, chỉ thị, quy định về công tác xây dựng Đảng và công tác kiểm tra, giám
sát của Đảng. Chú trọng học tập, quán triệt, tuyên truyền, triển khai thực hiện Nghị quyết
Đại hội XIII của Đảng, quan tâm đúng mức các nội dung về công tác kiểm tra của Đảng,
góp phần tích cực phòng, chống tham nhũng, lãng phí.
Nâng cao vai trò, trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng, UBKT, cán bộ, đảng viên và sự
giám sát của nhân dân đối với công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng để tạo chuyển
biến thật sự trong nhận thức và hành động, bảo đảm công tác kiểm tra, giám sát phục vụ
thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và nghị quyết của các cấp ủy đảng.
Ba là, UBKT các cấp chủ động thực hiện và tổ chức thực hiện có chất lượng, hiệu quả
chương trình hành động, phương hướng, nhiệm vụ kiểm tra, giám sát nhiệm kỳ và hằng
năm. Phải coi trọng khâu nắm tình hình giám sát hoạt động của tổ chức đảng, đảng viên
nhất là cán bộ chủ chốt, người đứng đầu các cấp, các ngành, các tổ chức kinh tế của Nhà
nước để chủ động ngăn ngừa, phát hiện, kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm từ khi mới
manh nha, chớm phát sinh vi phạm, không để vi phạm từ một người thành nhiều người, từ
ít nghiêm trọng trở thành nghiêm trọng.
Chú trọng kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm, coi đây là nhiệm
vụ trọng tâm của UBKT các cấp, tập trung vào các vấn đề quan trọng và bức thiết như:
Quản lý và sử dụng đất đai, tài nguyên khoáng sản, tài chính, ngân sách, thuế, hải quan,
các chương trình an sinh xã hội, cải cách hành chính, thực hành tiết kiệm, phòng, chống
tham nhũng, lãng phí, lợi ích nhóm.
Xử lý nghiêm minh tổ chức đảng và đảng viên vi phạm Cương lĩnh chính trị, nghị quyết,
chỉ thị quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và những hành vi dung
túng, bao che cho khuyết điểm, vi phạm của tổ chức đảng, đảng viên. Công khai các kết
quả xử lý vi phạm trên các phương tiện thông tin đại chúng theo đúng quy định.
Quy định số 01-QĐi/TW, ngày 10-5-2018 của Bộ Chính trị khóa XII quy định rõ trách
nhiệm và thẩm quyền của UBKT trong công tác phòng, chống tham nhũng. Đồng thời,
thực hiện Kết luận số 115-KL/TW, ngày 10-8-2015 của Ban Bí thư về thực hiện thu hồi,
xử lý, quản lý, sử dụng tiền vi phạm qua kiểm tra của cấp ủy và UBKT các cấp. Do vậy,
UBKT Trung ương cần phối hợp với các cơ quan liên quan ban hành quy định về thẩm
quyền của cấp ủy, UBKT trong việc quyết định thu hồi tiền vi phạm qua kiểm tra đã kết luận.
Bốn là, tập trung xây dựng và hoàn thiện các quy định của Đảng để nâng cao chất lượng,
hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng. Trong năm 2021, Ban Chấp
hành Trung ương đã ban hành Quy chế làm việc của UBKT Trung ương; Quy định số 22-
QĐ/TW, ngày 28/7/2021 về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng; Quy định số
37-QĐ/TW, ngày 25/10/2021 về những điều đảng viên không được làm; Hướng dẫn số
02-HD/TW, ngày 9/12/2021 về thực hiện Quy định số 22-QĐ/TW về công tác kiểm tra,
giám sát và thi hành kỷ luật của Đảng. UBKT Trung ương cũng đã ban hành Hướng dẫn
số 02-HD/UBKTTW, ngày 29/11/2021 thực hiện Quy định số 37-QĐ/TW về những điều
đảng viên không được làm. Cụ thể hóa nguyên tắc về phân cấp, phân quyền và kiểm tra,
giám sát, kiểm soát quyền lực để thực hiện thống nhất, đồng bộ trong Đảng và trong hệ
thống chính trị, tránh bị chồng chéo.
Tiếp tục tham mưu giúp Bộ Chính trị, Ban Bí thư chỉ đạo kiện toàn UBKT, tổ chức bộ
máy và cán bộ kiểm tra cho tương xứng, ngang tầm với chức năng, nhiệm vụ được giao.
Đổi mới công tác tổ chức, cán bộ, nâng cao chất lượng quy hoạch, nhận xét, đánh giá, đào
tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng đội ngũ cán bộ kiểm tra có đủ phẩm chất, năng lực, bản
lĩnh chính trị, có tính chiến đấu cao và có đủ uy tín để hoàn thành nhiệm vụ được giao; có
chính sách thu hút nhân tài về làm công tác kiểm tra của Đảng.
Xây dựng quy hoạch thành viên UBKT các cấp khóa XIII để bảo đảm tính kế thừa của
cán bộ. Tổng kết việc luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp về làm công tác kiểm
tra theo Thông báo Kết luận số 312-TB/TW ngày 09-3-2010 của Bộ Chính trị. Phối hợp
chặt chẽ với Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng,
nhất là đào tạo trình độ đại học và sau đại học về chuyên ngành công tác kiểm tra. Nâng
cao chất lượng tài liệu tập huấn nghiệp vụ về công tác kiểm tra, giám sát.
Năm là, công tác nghiên cứu phải làm sáng tỏ hơn những vấn đề lý luận và thực tiễn đặt
ra. Chú trọng tổng kết công tác thực tiễn về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng để
đề xuất bổ sung, phát triển các quy định về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng.
Nghiên cứu về tính độc lập tương đối của UBKT các cấp đối với cấp ủy; việc tăng thẩm
quyền kiểm tra, thi hành kỷ luật đảng cho UBKT các cấp; việc kiểm tra, giám sát người
đứng đầu để phòng, chống việc tha hóa quyền lực trong điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền.
2. Thực trạng công tác dân vận của Đảng, đề xuất giải pháp tăng cường công
tác dân vận của Đảng trong tình hình mới.
Công tác dân vận của Đảng là mô }
t nội dung rất quan trọng trong quá trình lãnh đạo cách
mạng của Đảng ta, góp phần hết sức to lớn làm nên những thành quả vĩ đại của cách
mạng Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã đánh giá:
“Công tác dân vận được chú trọng và tiếp tục đổi mới; quan điểm “dân là gốc”, là chủ thể
của công cuộc đổi mới được nhận thức và thực hiện ngày càng sâu sắc, đầy đủ hơn; mối
quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân được củng cố, tăng cường”.
Có thể nhận thấy, trong thời kỳ đổi mới Đảng đã ban hành các nghị quyết chuyên đề về
công tác dân vận. Đại hội VI của Đảng (năm 1986) đã rút ra một trong những bài học sâu
sắc nhất là: “Trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân
làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động”; và “Mọi chủ
trương, chính sách của Đảng phải xuất phát từ lợi ích, nguyện vọng và khả năng của nhân
dân lao động, phải khơi dậy được sự đồng tình, hưởng ứng của quần chúng. Quan liêu,
mệnh lệnh, xa rời quần chúng, đi ngược lại lợi ích của nhân dân là làm suy yếu sức mạnh của Đảng”.
Tư tưởng chỉ đạo đặt nền tảng cơ sở của Đảng ta về công tác dân vận chính là Nghị quyết
số 08B-NQ/HNTW ngày 27-3-1990 Hội nghị lần thứ tám, Ban Chấp hành Trung ương
Đảng (khóa VI) về“Đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa
Đảng và nhân dân”. Nghị quyết đã thể hiện rõ quan điểm của Đảng về công tác dân vận
trong thời kỳ mới, trong đó nhấn mạnh tầm quan trọng của công tác dân vận “có ý nghĩa
sống còn” đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Nghị quyết số 08B-
NQ/HNTW đã xác định: Sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của dân, do dân, vì dân. Kết
hợp hài hòa lợi ích cá nhân với lợi ích xã hội. Công tác vận động nhân dân phải năng
động, sáng tạo về nội dung, đa dạng về phương thức hoạt động và tổ chức. Trách nhiệm
dân vận là của Đảng, của Nhà nước và của toàn xã hội, không chỉ là trách nhiệm riêng của
đoàn thể.Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 03-6-2013 tại Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp
hành Trung ương khóa XI về “Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công
tác dân vận trong tình hình mới” đã khẳng định: “Trong quá trình lãnh đạo cách mạng,
Đảng ta luôn xác định công tác dân vậnlà nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đối với sự
nghiệp cách mạng của đất nước; là điều kiện quan trọng bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng,
củng cố và tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân”. Đại hội
XII bổ sung thêm nhiệm vụ: “Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác dân vận, tăng
cường quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân”. Trong đó, nhấn mạnh “đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng về công tác dân vận trong điều kiện phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”.
Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong những năm gần đây có
những đổi mới nhất định theo hướng bám sát thực tiễn, nguyện vọng của nhân dân để ban
hành các nghị quyết, tuyên truyền, vận động, thuyết phục nhân dân thực hiện các chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Đặc biệt, Đảng ta cũng đã banh hành Quy chế
công tác dân vận của hệ thống chính trị (Quyết định 290-QĐ/TW, ngày 25-02-2010 của
Bộ Chính trị khóa X; Quyết định số 23-QĐ/TW, ngày 30-7-2021 của Bộ Chính trị khóa XIII).
Công tác dân vận của hệ thống chính trị, nhất là dân vận chính quyền được đẩy mạnh và
thực hiện khá đồng bộ ở các cấp, các ngành, tạo chuyển biến về nhận thức và nâng cao
trách nhiệm phục vụ nhân dân của đội ngũ cán bộ, công chức. Thủ tướng Chính phủ cũng
đã ban hành đề án văn hóa công vụ (Quyết định số 1847/QĐ-TTg ngày 27-12-2018) quy
định những chuẩn mực giao tiếp, ứng xử của cán bộ, công chức, viên chức. Trong giao
tiếp với người dân, cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng, lắng nghe, tận tình giải
thích và hướng dẫn cặn kẽ về quy trình xử lý công việc; luôn thực hiện phương châm “4
xin, 4 luôn” (xin chào, xin lỗi, xin cám ơn, xin phép; luôn mỉm cười, luôn nhẹ nhàng, luôn
lắng nghe, luôn giúp đỡ). Nhiều cơ quan, đơn vị đã chỉ đạo và tổ chức rà soát, bổ sung
hoặc ban hành mới quy chế làm việc của cơ quan, quy chế văn hóa công sở, quy chế ứng
xử của cán bộ, công chức theo hướng: “Nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin” cùng với
tác phong: “Trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân”. Chính phủ
đã xây dựng, vận hành hệ thống tiếp nhận, trả lời phản ánh, kiến nghị của nhân dân và
doanh nghiệp; nhiều địa phương đã công khai đường dây nóng để tiếp nhận, xử lý kiến
nghị của nhân dânnhư Đà Nẵng, Quảng Bình; Quảng Nam; ĐăkLăk; Hà Nội... và các
chương trình nhưdân hỏi cơ quan chức năng trả lời (Tỉnh Thừa Thiên - Huế);công dân hỏi
Giám đốc Sở trả lời (Sở Tư pháp Bình Định); dân hỏi Giám đốc Sở trả lời (Hải Phòng),
livestream “Dân hỏi - Thành phố trả lời” (thành phố Hồ Chí Minh).Phong trào thi đua
“Dân vận khéo” được mở rộng về phạm vi và đối tượng, dần trở thành phương thức quan
trọng, thường xuyên và có hiệu quả trong công tác vận động nhân dân. Trong hơn 10 năm
triển khai phong trào thi đua “Dân vận khéo” (2009-2020), hệ thống chính trị đã phát
hiện, giới thiệu hơn 900.000 mô hình, điển hình “Dân vận khéo” trong cả nước, có sức lan
tỏa sâu rộng[6]tiêu biểu là các địa phương, như Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Kon
Tum, Đắk Lắk, Cần Thơ, Hà Nội, Tuyên Quang, Hòa Bình, Hà Giang, Ninh Bình, Sơn
La, Nghệ An...trên các lĩnh vực:kinh tế; văn hóa - xã hội; an ninh - quốc phòng. Đặc biệt,
trên lĩnh vực xây dựng hệ thống chính trị, mô hình “Dân vận khéo” gắn với việc thực hiện
Quy chế Dân chủ ở cơ sở và công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; vận động nhân dân tham
gia ý kiến đối với các chính sách, pháp luật liên quan mật thiết đến cuộc sống người dân;
mở rộng hình thức tiếp xúc cử tri (tại nơi cư trú, nơi làm việc, theo chuyên đề, lĩnh vực,
theo đối tượng và cá nhân hoặc nhóm cử tri...), tạo sự đồng thuận, mở rộng dân chủ, phát
huy tốt hơn trách nhiệm của cử tri trong việc tham gia góp ý xây dựng chính sách, pháp
luật, phản ánh kiến nghị của cử tri.
Công tác tiếp dân và đối thoại với nhân dân của người đứng đầu cấp uỷ, chính quyền từng
bước đi vào nền nếp.Hoạt động giám sát, phản biện xã hội, tham gia xây dựng Đảng,
chính quyền của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội ở các cấp và nhân dân
theo các quyết định của Bộ Chính trị được đẩy mạnh và có chuyển biến tích cực. Từ năm
2014 - 2019, Mặt trận Tổ quốc các cấp tổ chức 86.872 cuộc phản biện xã hội. Trên cơ sở
đó, nhiều chính sách, chương trình, dự án tác động đến đời sống nhân dân được góp ý,
phản biện, kiến nghị sửa đổi, ban hành mới, phát huy được quyền làm chủ của nhân
dân[7].Những năm qua, đối thoại giữa người đứng đầu cấp ủy đảng, chính quyền địa
phương với nhân dân theo Quy định số 11-QĐ/TW ngày 18-02-2019 của Bộ Chính trị
(khóa XII) về trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy trong việc tiếp dân, đối thoại trực
tiếp với dân và xử lý những phản ánh, kiến nghị của dânđã diễn ra ở nhiều tỉnh, thành phố
trong cả nước để lắng nghe, giải đáp những bức xúc, vướng mắc từ cơ sở. “Năm 2018,
Thủ đô Hà Nội đã tổ chức 4 cuộc tiếp xúc, đối thoại ở cấp thành phố; 30/30 quận, huyện,
thị xã tổ chức 217 hội nghị”. Các cấp ủy đã phối hợp với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức
chính trị - xã hội tổ chức hơn 90.000 hội nghị đối thoại giữa cấp ủy, chính quyền với nhân
dân. Thủ tướng Chính phủ đã có chủ trì nhiều cuộc đối thoại với doanh nghiệp, công
nhân, nông dân để tiếp tục nhận các kiến nghị, chỉ đạo nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung các
chính sách có liên quan. Thực tế cho thấy, việc đối thoại trực tiếp với nhân dân chính là
cách “dân vận” linh hoạt, hiệu quả; không ít “điểm nóng” đã được giải quyết thấu tình,
đạt lý được nhân dân đồng tình ủng hộ. Trên tinh thần Quy định số 11-QĐ/TW, hoạt động
tiếp dân, đối thoại với dân không chỉ dừng ở trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, mà
đã lan tỏa, nhân rộng trong đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp, các ngành, các địa phương,
mang lại không khí dân chủ trong đời sống chính trị xã hội. Do đó, đặt ra cho các cấp ủy
đảng phải lãnh đạo, tổ chức tốt nhiệm vụ đối thoại theo quy định, chuẩn bị đầy đủ các nội
dung, nắm vững các chủ trương, luật pháp để đối thoại với dân theo phương châm công
khai, minh bạch, dân chủ, tôn trọng, cùng chia sẻ, thấu tình đạt lý. Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XIII của Đảng chỉ rõ “mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ
cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no
của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu”. Đại hội XIII bổ sung nội hàm của phương châm
“kiên trì thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”.
Bên cạnh những kết quả đạt được, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của
Đảng còn chỉ ra những khuyết điểm hạn chế như “Công tác dân vận có nơi, có lúc còn
hạn chế; việc nắm bắt, đánh giá, dự báo tình hình, nhất là những địa bàn phức tạp chưa
kịp thời, sâu sát”. “Một số cấp ủy, tổ chức đảng còn xem nhẹ công tác dân vận;… Công
tác vận động, tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước, nhất là những vấn đề liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng và
trách nhiệm của nhân dân còn một số bất cập. Từ đó dẫn đến, việc đổi mới nội dung,
phương thức hoạt động; tập hợp, phát triển đoàn viên, hội viên; xây dựng, củng cố khối
đại đoàn kết dân tộc chưa đáp ứng yêu cầu của tình hình mới.
Công tác dân vận là một nhiệm vụ quan trọng của Đảng nhằm vận động nhân dân thực
hiện các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước. Văn kiện Đại hội XIII nhấn mạnh:
“Thắt chặt hơn nữa mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, dựa vào nhân dân để
xây dựng Đảng” thể hiện ở một số nội dung sau:
Một là, “Tạo chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức, hành động của các cấp ủy đảng, hệ
thống chính trị về công tác dân vận”.
Qua 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, công tác dân vận luôn đảm bảo sự
lãnh đạo của Đảng, góp phần tạo sự chuyển biến tích cực về nhận thức, trách nhiệm, tăng
cường công tác phối hợp trong hệ thống chính trị, nhất là người đứng đầu, của đội ngũ
cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, đoàn viên, hội viên về công tác dân vận. Từ đó,
góp phần tạo đồng thuận, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, tạo sự đồng bộ,
hiệu quả hơn trong công tác dân vận. Phong trào thi đua “Dân vận khéo” được đẩy mạnh
gắn với học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh đã đem lại nhiều
hiệu quả và có ý nghĩa thiết thực trên tất cả các lĩnh vực. Cấp ủy các cấp cần tăng cường
lãnh đạo, chỉ đạo việc quán triệt, tuyên truyền và thực hiện tốt các văn bản của Trung
ương về tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình
hình mới. Qua đó để định hướng và phát huy sức mạnh của dư luận xã hội theo hướng
tích cực; nhân dân thấy được sự đúng đắn trong các chủ trương, chính sách của Đảng,
Nhà nước, quy định của địa phương mà tự giác thực hiện. Không chỉ dừng lại ở nhận thức
mà đòi hỏi hệ thống chính trị, cán bộ, đảng viên phải nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn,
tuyên truyền, vận động quần chúng tham gia tích cực vào các phong trào cách mạng, phát
triển kinh tế xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh
Hai là,“Tiếp tục xây dựng đội ngũ cán bộ thật sự “trọng dân, gần dân, tin dân, hiểu dân,
học dân, dựa vào dân và có trách nhiệm với dân”.
“Trọng dân, gần dân, tin dân, hiểu dân, học dân, dựa vào dân và có trách nhiệm với dân”
là phương châm để thực hiện có hiệu quả công tác dân vận của Đảng. Người cán bộ của
dân thì phải tìm hiểu xem người dân đang mong muốn điều gì; cuộc sống của dân ra sao.
“Trọng dân” là gốc của phong cách mà cơ sở lý luâ }
n của nó xuất phát từ quan điểm “Cách mạng là sự nghiê }
p của nhân dân”, “Nước lấy dân làm gốc”. Có trọng dân thì người cán bô } mới thâ }
t sự xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ của nhân dân. “Gần dân” là đòi hỏi
khách quan của người cán bô } dân vâ }
n. Những người có phong cách gần dân sẽ tránh được căn bê }
nh quan liêu, hách dịch, mê } nh lê }
nh. Muốn hiểu dân thì phải gần dân, không được
quan liêu, phải hòa mình với người dân ở cơ sở, lắng nghe ý kiến của dân. Từ đó xây
dựng tinh thần đoàn kết, sự đồng thuận để mọi người dân cùng chung sức, đồng lòng thực
hiện các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước với kết quả cao nhất.Có gần dân
thì mới hiểu được cuô }
c sống, tâm tư, tình cảm, nguyê }
n vọng của người dân và do đó mới
tham mưu đúng, tham mưu trúng cho cấp ủy đảng, chính quyền những chủ trương, chính
sách phù hợp với lòng dân. Muốn “học dân” thì người cán bô }
phải hết sức khiêm tốn, cầu
thị, biết lắng nghe, không được tự cho mình cái gì cũng biết. Chính nhân dân là những
người sáng suốt, có rất nhiều kinh nghiê }
m trong đối nhân xử thế, sáng tạo trong cuô } c
sống, làm nên lịch sử. Cán bô } dân vâ } n muốn thâ }
t sự đến với dân, muốn trở thành người
đầy tớ của dân thì phải có trách nhiê }m với dân, nghĩa là mọi viê }
c đều vì hạnh phúc của
nhân dân. Đồng thời, cán bô } dân vâ }
n phải tuyên truyền, giải thích cho dân hiểu những chủ
trương, chính sách, pháp luâ }
t của Đảng, Nhà nước để dân hiểu và thực hiê } n. Có gần dân
thì mới được dân tin, học được dân và nghe được dân nói thâ } t.
Ba là,“Chăm lo, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chuyên trách công tác dân vận”.
Để tăng cường công tác dân vận nhất thiết phải chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ dân vận
của Đảng, có cơ chế, chính sách thu hút người có năng lực, có uy tín, có kinh nghiệm làm
công tác dân vận; chú trọng luân chuyển, đào tạo, bồi dưỡng bố trí, sử dụng đội ngũ cán
bộ làm công tác dân vận, nhất là cán bộ trẻ tuổi, có năng lực về làm công tác dân vận.
Đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận phải được đào tạo cơ bản về trình độ chuyên môn
nghiệp vụ, trình độ lý luận. Từ đó, cán bộ làm dân vận nắm vững và hiểu rõ các chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tạo được bản lĩnh vững
vàng và linh hoạt trong mọi hoạt động thực tiễn nhằm thực hiện nhiệm vụ bao trùm của
công tác dân vận là tập hợp, động viên mọi tầng lớp nhân dân đoàn kết, củng cố và tăng
cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân. Đồng thời, đội ngũ cán bộ phải tự
tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, có lối sống đúng đắn, hòa nhập với
cộng đồng, giữ mối liên hệ chặt chẽ với nơi cư trú; không ngừng cố gắng học hỏi nâng
cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và tích lũy kinh nghiệm trong công việc; có trách
nhiệm, tâm huyết với công tác dân vận; tận tụy phục vụ nhân dân; là những cán bộ, đảng
viên gương mẫu trong công việc và cuộc sống để nhân dân học tập theo. Cùng với việc
chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận, cũng phải chú trọng xây dựng lực
lượng nòng cốt, người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số, tôn giáo làm công tác
dân vận ở cơ sở. Họ chính là những cánh tay nối dài giữa Đảng, chính quyền và nhân dân.
Bốn là,nâng cao chất lượng giám sát, phản biện xã hội, đóng góp ý kiến của Mặt trận Tổ
quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân.
Giám sát, phản biện xã hội là một hoạt động cơ bản của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và
các tổ chức chính trị - xã hội, có vai trò và ý nghĩa quan trọng đối với công tác xây dựng,
chỉnh đốn Đảng, bảo vệ thể chế chính trị, góp phần vào thành công sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc hiện nay.Giám sát góp phần thực hiện đúng các chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, các chương trình, dự án kinh tế, văn hóa, xã
hội, an ninh và quốc phòng; kịp thời phát hiện những sai sót, khuyết điểm, yếu kém để
kiến nghị sửa đổi, bổ sung cho phù hợp; phát hiện những nhân tố mới, những mặt tích cực
để kịp thời phổ biến nhân rộng, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước trong sạch, vững
mạnh, làm cho đất nước phát triển nhanh và bền vững. Phản biện xã hội nhằm phát hiện
những nội dung còn thiếu, chưa sát, chưa đúng, chưa phù hợp trong các văn bản dự thảo
của các cơ quan Đảng, Nhà nước, đoàn thể… Từ đó, kiến nghị bổ sung, sửa đổi những nội
dung thiết thực, góp phần đảm bảo tính đúng đắn, phù hợp với thực tiễn cuộc sống xã hội
và đảm bảo tính hiệu quả; đồng thời góp phần đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp chính
đáng của nhân dân, phát huy dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội góp phần thực hiện
thắng lợi mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.Để nâng cao
chất lượng công tác giám sát, phản biện xã hội, đóng góp ý kiến của Mặt trận Tổ quốc và
các tổ chức chính trị - xã hội, các cấp ủy, tổ chức đảng một mặt phải tôn trọng tính độc
lập, tự chủ, tự chịu trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể, đồng thời tạo điều
kiện để Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội phát huy tính chủ động hơn
trong hoạt động, để gần dân, sát dân hơn.Lãnh đạo, chỉ đạo Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể
nhân dân tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, làm tốt vai trò là người đại
diện, bảo vệ quyền lợi chính đáng, hợp pháp của đoàn viên, hội viên; đa dạng hóa các
hình thức tập hợp nhân dân, hướng về cơ sở, tập trung cho cơ sở, phù hợp với trình độ dân
trí và đặc điểm, tình hình cụ thể của từng giai tầng xã hội, trong từng thời kỳ.
Lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội phát huy vai trò làm tham mưu
cho các cấp ủy đảng, chính quyền về nô }
i dung, hình thức, phương pháp công tác dân vâ } n
và làm nòng cốt trong việc tổ chức các phong trào thi đua, trong tuyên truyền, vâ } n đô } ng thu hút hô }
i viên, nắm bắt dư luận xã hội, phát huy dân chủ, năng lực trí tuệ, ý thức trách
nhiệm của công dân trong thực hiện giám sát xây dựng chính quyền, xây dựng Đảng.
Đồng thời tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hộivà nhân dân
tham gia xây dựng các cơ chế, chính sách, chương trình, dự án ngay từ khi đang còn dự
thảo; những văn bản liên quan đến quyền lợi của nhân dân như: Giải phóng mặt bằng, bố
trí tái định cư... nhất thiết phải tham khảo ý kiến của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính
trị - xã hộitrước khi ban hành; chú trọng lắng nghe ý kiến của nhân dân trong quá trình tổ chức thực hiện.
Năm là, “Tích cực đôn đốc, giám sát, kiểm tra việc thực hiện các nghị quyếtcủa Đảng về công tác dân vận”.
Tích cực đôn đốc, giám sát, kiểm tra việc thực hiện các nghị quyếtcủa Đảng về công tác
dân vận vừa góp phần nâng cao chất lượng lãnh đạo của cấp ủy, vừa làm cho sự lãnh đạo
gắn với thực tiễn hơn; đảm bảo tính thống nhất giữa nghị quyết và sự chấp hành, giữa lời
nói và việc làm; khắc phục có hiệu quả bệnh quan liêu, chủ quan, duy ý chí, thiếu trách
nhiệm ở một số đảng viên. Việc kiểm tra, giám sát được tiến hành có nền nếp, đúng quy
trình sẽ góp phần ngăn ngừa các biểu hiện mất đoàn kết trong quá trình tổ chức thực hiện,
đảm bảo cho nguyên tắc tổ chức hoạt động của Đảng được thực hiện nghiêm túc; khắc
phục tình trạng “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược” trong công tác dân vận. Mặt khác, qua
kiểm tra, giám sát, tổng kết rút kinh nghiệm giúp cấp ủy nắm rõ được tình hình, kịp thời
giải quyết những vấn đề bức xúc trong nhân dân; chấn chỉnh, uốn nắn kịp thời những sai sót, lê }
ch lạc trong công tác này. Chính sự thường xuyên kiểm tra, giám sát, tổng kết rút kinh nghiệm làm cho thờ.
Từ tổng kết thực tiễn trong quá trình lãnh đạo đất nước, Đảng ta có nhiều nghị quyết,
quyết định, chỉ thị lãnh đạo công tác dân vận của Đảng, phát huy quyền làm chủ của nhân
dân. Kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chủ trương, nghị quyết, chỉ thị của Đảng là một
trong những nội dung quan trọng trong toàn bộ hoạt động lãnh đạo của Đảng nói chung,
đặc biệt là các chủ trương, nghị quyết và các văn bản của Đảng về công tác dân vận.Để
lãnh đạo tốt công tác dân vận, các cấp ủy phải xem trọng công tác kiểm tra, giám sát
những chỉ thị, quyết định, chương trình công tác dân vận. Chú trọng xây dựng được
chương trình, kế hoạch cụ thể của công tác kiểm tra, giám sát nghị quyết, các văn bản,
quyết định liên quan đến công tác dân vận. Đồng thời từ kiểm tra, phát hiện những việc
chưa làm, làm chưa tốt để nhắc nhở các tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên gương mẫu đi đầu, thực hiê } n nhiê }
m vụ vận động nhân dân thực hiện Nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính
sách, quyết định của chính quyền, công việc đoàn thể liên quan đến đời sống nhân dân.
Công tác sơ kết, tổng kết công tác dân vận cần được các cấp ủy đảng chỉ đạo kịp thời sau
mỗi chương trình, kế hoạch, phong trào, hằng quý, hằng năm. Phải kịp thời biểu dương
những điển hình mô hình hay, người làm tốt, khuyến khích, tạo sức lan tỏa tốt trong cộng
đồng dân cư, qua đó kịp thời động viên, khích lệ các tổ chức, cá nhân tích cực vận động
nhân dân tin tưởng sự lãnh đạo của Đảng, chính quyền, đoàn thể để thực hiện thắng lợi
mục tiêu chiến lược “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
3 Ưu điểm và hạn chế của HTCTVN hiện nay, đề xuất giải pháp tiếp tục đổi mới HTCTVN.
* Trong những năm qua, Đảng ta đã ban hành và lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện
nhiều chủ trương, nghị quyết, kết luận về xây dựng tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị,
đạt được nhiều kết quả quan trọng. Đó là:
- Hệ thống tổ chức của Đảng, Nhà nước, Mặt trận tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội
được đổi mới; chức năng nhiệm vụ, mối quan hệ công tác của từng tổ chức được phân
định, điều chỉnh hợp lý hơn, từng bước đáp ứng yêu cầu xây dựng hoàn thiện nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
- Hệ thống chính trị cơ bản ổn định, phù hợp với cương lĩnh và Hiến pháp; bảo đảm vai
trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, góp
phần quan trọng vào những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
*Về những hạn chế bất cập:
- Tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị vẫn còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc, nhiều đầu
mối; hiệu lực, hiệu quả hoạt động chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn, tổ chức bộ máy, mối quan hệ của một số cơ quan, tổ chức chưa thật rõ, còn
chồng chéo, trùng lắp... Việc phân công, phân cấp, phân quyền giữa các ngành, các cấp và
trong từng cơ quan, tổ chức chưa hợp lý, mạnh mẽ và đồng bộ; còn tình trạng bao biện,
làm thay hoặc bỏ sót nhiệm vụ.
- Kiện toàn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị gắn với tinh giản biên chế, cơ cấu lại
đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức đạt kết quả thấp; tỉ lệ người phục vụ cao, nhất là ở
khối văn phòng; số lãnh đạo cấp phó nhiều; việc bổ nhiệm cấp “hàm” ở một số cơ quan Trung ương chưa hợp lý.
- Cơ chế kiểm soát quyền lực hiệu quả chưa cao; việc công khai, minh bạch và trách
nhiệm giải trình còn hạn chế. Cải cách hành chính, nhất là cải cách thủ tục hành chính
chuyển biến chậm, không đồng bộ, chưa đáp ứng yêu cầu.
- Số người hưởng lương, phụ cấp từ ngân sách nhà nước rất lớn, nhất là ở các đơn vị sự
nghiệp công lập, người hoạt động không chuyên trách cấp xã và ở thôn, tổ dân phố; chính
sách tiền lương còn bất cập.
- Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, mối quan hệ công tác của cấp uỷ cấp
tỉnh, cấp uỷ cấp huyện chưa cụ thể hoá đầy đủ. Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
không ít cấp uỷ, tổ chức đảng còn yếu, nhất là ở một số cơ sở và trong doanh nghiệp nhà
nước, đơn vị sự nghiệp công lập; việc quản lý đảng viên ở nhiều nơi thiếu chặt chẽ; công
tác xây dựng tổ chức đảng, phát triển đảng viên ở một số địa bàn và trong các doanh
nghiệp, đơn vị sự nghiệp ngoài nhà nước còn khó khăn. Nhiều trưởng thôn, tổ trưởng tổ
dân phố không phải là đảng viên. Tổ chức, hoạt động của một số ban chỉ đạo và ban bảo
vệ, chăm sóc sức khoẻ cán bộ có mặt còn bất cập.
- Các đơn vị hành chính địa phương nhìn chung quy mô nhỏ, nhiều đơn vị không bảo đảm
tiêu chuẩn theo quy định, nhất là cấp huyện, cấp xã. Số lượng, cơ cấu đại biểu dân cử
chưa phù hợp, chất lượng còn hạn chế. Nhiều tổ chức phối hợp liên ngành, ban quản lý dự
án trùng lắp về chức năng, nhiệm vụ, hiệu quả hoạt động chưa cao.
- Tổ chức bộ máy, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị
- xã hội chậm đổi mới, một số nhiệm vụ còn trùng lắp, vẫn còn tình trạng “hành chính
hoá”, “công chức hoá”. Nội dung và phương thức hoạt động có lúc, có nơi chưa thiết
thực, hiệu quả, thiếu sâu sát cơ sở. Cơ chế phân bổ ngân sách nhà nước đối với Mặt trận
Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội còn bất cập; tổ chức hội quần chúng lập nhiều ở
các cấp, nhưng cơ sở vật chất và kinh phí hoạt động chủ yếu vẫn dựa vào ngân sách nhà nước.
4. Từ kiến thức Đảng lãnh đạo văn hóa, liên hệ trách nhiệm của sinh viên
trong việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
Mỗi sinh viên phải tự mình phấn đấu, rèn luyện, tự trau dồi cho bản thân những kỹ năng
cần thiết, không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, nỗ lực rèn luyện vì lợi
ích chung của cộng đồng và vì chính sự phát triển của cá nhân. Quan trọng hơn, các bạn
trẻ cần xây dựng bản lĩnh văn hóa, sẵn sàng đấu tranh với những hoạt động, sản phẩm văn hóa không lành mạnh.
Chúng ta cần phải trang bị cho mình tình yêu nước, tự hào về dân tộc, có như vậy thì mới
giữ được những nét đặc trưng của dân tộc mình. Bên cạnh đó, những tri thức đúng đắn về
văn hóa đất nước cũng là điều vô cùng cần thiết. Phải hiểu đúng thì mới bảo vệ được nó,
phải hiểu đúng thì mới không làm nó mất đi, mai một dần theo thời gian.
Trước xu thế toàn cầu hóa của thế giới hiện nay, chúng ta không thể phát triển trong sự
tách biệt với thế giới. Hội nhập kinh tế, giao lưu về văn hóa giữa các nước đang diễn ra
hết sức sôi động. Nhưng nếu không có một bản lĩnh vững vàng, một chiến lược phát triển
đúng đắn thì việc giao lưu đó sẽ dẫn đến nguy cơ đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc. Để
mở rộng giao lưu, hội nhập mà không đánh mất bản sắc của mình, chúng ta phải trở về
với Tư tưởng Hồ Chí Minh: Bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa
nhân loại, những phải lấy bản sắc văn hóa dân tộc làm nền tảng, làm bản lĩnh. Nền tảng
có vững chắc, bản lĩnh có vững vàng mới tiếp thu được tinh hoa văn hóa nhân loại một
cách đúng đắn, mới chủ động, tự tin hội nhập và làm giàu thêm, sáng lên đặc trưng văn hóa dân tộc.
Một số biện pháp giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc:
Một là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục ý thức tự giác của người dân trong việc
bảo tồn, phát huy di sản văn hóa gắn với quảng bá du lịch. Từ đó khơi dậy lòng tự hào của
mỗi dân tộc đối với di sản văn hóa tốt đẹp của cộng đồng mình bằng các hoạt động như:
tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống
văn hóa ở khu dân cư, nếp sống văn hoá mới ở các bản, làng, gia đình, dòng họ; xây dựng
hình ảnh đẹp, ấn tượng trong việc cưới, việc tang, lễ hội, đẩy lùi hủ tục lạc hậu, các tệ nạn
cờ bạc, ma túy, mại dâm, bạo lực, gây rối trật tự công cộng; xây dựng các tổ, đội văn nghệ
ở các xã, thị trấn, các cơ quan, đơn vị, trường học, điểm dân cư tại các bản; thường xuyên
tổ chức, giao lưu văn hoá các dân tộc nhân các ngày lễ, hội.
Hai là, nâng cao năng lực lãnh đạo của các cấp ủy đảng, chính quyền; phát huy sự chủ
động, tích cực của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, tổ chức chính trị xã hội và các tầng lớp
nhân dân trong việc bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân
tộc trên địa bàn huyện.
Ba là, tiếp tục đẩy mạnh rà soát, thống kê toàn bộ các loại hình văn hóa, như văn hóa vật
thể như: kiến trúc nhà ở, dụng cụ lao động sản xuất, đồ gia dụng, phương tiện vận chuyển,
nhạc cụ,…); văn hóa phi vật thể như: truyện kể, văn thơ (truyền miệng, chữ viết…), địa
chí, hương ước, ca dao, tục ngữ, câu đố, lễ hội, phong tục, tín ngưỡng, ca múa nhạc, dân
ca, trò chơi, ẩm thực, các nghề thủ công truyền thống, lịch sử của địa phương và từng địa danh…
Bốn là, tập trung quy hoạch bảo tồn, phát huy di sản văn hoá gắn với xây dựng hệ thống
du lịch ở các địa phương một cách đồng bộ và khoa học, để các hoạt động này nhanh
chóng trở thành những sản phẩm du lịch đặc thù, hấp dẫn, góp phần thay đổi bộ mặt nông
thôn, làng, bản, làm cho đời sống văn hoá ở địa phương ngày càng phong phú.
Năm là, huy động mọi nguồn lực xã hội hóa, cộng đồng dân cư, nguồn hỗ trợ để đầu tư
bảo tồn bản sắc văn hóa, gắn với sản phẩm đặc trưng du lịch, kêu gọi các cá nhân, tổ chức
doanh nghiệp đầu tư hoạt động kinh doanh các điểm thể thao, vui chơi giải trí trên địa bàn huyện. Nguồn tham khảo:
https://ubkttw.vn/danh-muc/nghien-cuu-trao-doi/cong-tac-kiem-tra-giam-sat-theo-tinh- than-dai-hoi-xiii-cua-d.html
https://hcma3.hcma.vn/tintuc/Pages/dua-nghi-quyet-dh13-vao-cuoc-song.aspx? CateID=638&ItemID=50195
https://dangcongsan.vn/dua-nghi-quyet-trung-uong-6-trung-uong-7-vao-cuoc-song/hoi-
dap/ket-qua-dat-duoc-va-nhung-han-che-bat-cap-ve-tiep-tuc-doi-moi-sap-xep-to-chuc-bo-
may-cua-he-thong-chinh-tri-497733.html
https://kthn.edu.vn/lien-he-trach-nhiem-ban-than-de-giu-gin-ban-sac-van-hoa-dan-toc-o- dia-phuong/