Bài tập tự luận học phần Triết học Mac-Lênin

Bài tập tự luận học phần Triết học Mac-Lênin của trường đại học Luật Hà Nội giúp sinh viên củng cố, ôn tập kiến thức và đạt kết quả cao trong bài thi kết thúc học phần. Mời bạn đón đón xem! 

lOMoARcPSD|36215 725
Câu 1: Theo quan điểm của Triết học Mác – Lênin:
- Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử (hay còn
gọi là chủ nghĩa duy vật biện chứng về xã hội) dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn
lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó, phù hợp
với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất, và với một kiến trúc thượng
tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất đó. Nó chính là các xã
hội cụ thể được tạo thành từ sự thống nhất biện chứng giữa các mặt trong đời sống
xã hội và tồn tại trong từng giai đoạn lịch sử nhất định.
- Hình thái kinh tế - xã hội là một hệ thống hoàn chỉnh, có cấu trúc phức tạp, trong
đó có các mặt cơ bản là lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuấtkiến trúc
thượng tầng các yếu tố khác. Mỗi mặt của hình thái kinh tế - xã hội có vị trí
riêng và tác động qua lại lẫn nhau, thống nhất với nhau, trong đó:
Lực lượng sản xuất: là nền tảng vật chất-kỹ thuật của mỗi hình thái kinh tế
xã hội. Hình thái kinh tế - xã hội khác nhau có lực lượng sản xuất khác
nhau. Sự phát triển của lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành, phát
triển và thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế-xã hội.
Quan hệ sản xuất: Tạo thành cơ sở hạ tầng của xã hội và quyết định tất cả
mọi quan hệ xã hội khác. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội có một kiểu quan hệ
sản xuất đặc trưng cho nó. Quan hệ sản xuất là tiêu chuẩn khách quan để
phân biệt các chế độ xã hội.
Kiến trúc thượng tầng được hình thành và phát triển phù hợp với cơ sở hạ
tầng, nhưng nó lại là công cụ để bảo vệ, duy trì và phát triển cơ sở hạ tầng
đã sinh ra nó.
Các yếu tố khác: Ngoài ra, hình thái kinh tế-xã hội các hình thái kinh tế -
xã hội còn có quan hệ về gia đình, dân tộc và các quan hệ xã hội khác.
còn bao gồm các lĩnh vực chính trị, lĩnh vực tư tưởng và lĩnh vực xã hội.
Mỗi lĩnh vực của hình thái kinh tế-xã hội vừa tồn tại độc lập với nhau, vừa
tác động qua lại, thống nhất với nhau gắn bó với quan hệ sản xuất và cùng
biến đổi với sự biến đổi của quan hệ sản xuất.
- Sự phát triển, thay thế nhau của các hình thái kinh tế - xã hội lại bắt nguồn
từ sự thay đổi, phát triển của lực lượng sản xuất vì:
Hình thái kinh tế - xã hội là một hệ thống, trong đó, các mặt của hình thái
kinh tế-xã hội tác động qua lại với nhau tạo nên các quy luật vận động, phát
triển khách quan của xã hội. Chính sự tác động của các quy luật khách quan
đó mà hình thái kinh tế xã hội tuy là phạm trù xã hội nhưng lại có khuynh
hướng phát triển như một quy luật tự nhiên, nó vận động phát triển từ thấp
đến cao. Xã hội loài người đã phát triển trải qua nhiều hình thái kinh tế - xã
lOMoARcPSD|36215 725
hội nối tiếp nhau. Trên cơ sở phát hiện ra các quy luật vận động phát triển
khách quan của xã hội, C.Mác đã đi đến kết luận rằng: “Tôi coi sự phát
triển của các hình thái kinh tế-xã hội là một quá trình lịch sử-tự nhiên.
Lịch sử xã hội do con người làm ra, con người tạo ra các quan hệ xã hội của
mình và đó là xã hội. Nhưng sự vận động của xã hội lại tuân theo quy luật
khách quan, không phụ thuộc vào ý muốn của con người mà nguồn gốc sâu
xa của sự thay thế nhau giữa các hình thái kinh tế-xã hội nằm ở chỗ:
Sự phát triển của lực lượng sản xuất, gây nên sự thay đổi của quan
hệ sản xuất.
Sự thay đổi của quan hệ sản xuất (với tư cách là cơ sở hạ tầng) sẽ
làm cho kiến trúc thượng tầng thay đổi.
Sự thay thế nhau như vậy giữa các hình thái kinh tế-xã hội là con đường phát
triển chung của nhân loại. Quá trình đó diễn ra một cách khách quan chứ
không phải theo ý muốn chủ quan. Sự biến đổi đó của hình thái kinh tếxã
hội không chịu sự tác động của con người mà tuân theo các quy luật xã hội
khách quan.
Chỉ có đem quy những quan hệ xã hội vào những quan hệ sản xuất,
và đem quy những quan hệ sản xuất vào trình độ của những lực
lượng sản xuất thì người ta mới có được một cơ sở vững chắc để
quan niệm sự phát triển của những hình thái xã hội là một quá trình
lịch sử - tự nhiên
V.I.Lênin
Câu 2: Nguồn gốc, đặc trưng của giai cấp và đấu tranh giai cấp theo quan điểm của
Triết học Mác– Lênin:
- Nguồn gốc giai cấp:
Trong xã hội nguyên thủy, lực lượng sản xuất còn thấp kém, công cụ lao
động chỉ bằng đá, gậy gộc, cung tên… Do đó, hầu hết các thành viên trong
cộng đồng phải liên kết với nhau thì mới tổ chức lao động và sinh sống
được, bởi nếu riêng rẽ theo từng cá nhân, từng gia đình thì không thể săn
bắn, hái lượm do nguy cơ thú dữ đe dọa. Đồng thời, sản phẩm làm ra còn ít
ỏi, chỉ đủ để tồn tại, duy trì nòi giống, chưa có sản phẩm dư thừa tương đối.
Vì chưa có sản phẩm dư thừa nên hiển nhiên là chưa thể có khả năng
người này bóc lột sản phẩm của người kia. Như vậy là chưa có giai
cấp.
Cuối xã hội nguyên thủy, việc sử dụng phổ biến công cụ lao động bằng kim
loại (hơn hẳn đá, gỗ…) làm cho năng suất lao động tăng lên, giúp con
lOMoARcPSD|36215 725
người có thể sản xuất số lượng sản phẩm vượt hơn nhu cầu tối thiểu để tồn
tại. Điều này tạo khả năng thực tế cho người này chiếm đoạt sản phẩm lao
động thuộc số vượt hơn đó của người khác.
Với công cụ sản xuất mới, sản xuất cá thể từng ra đình có hiểu quả hơn sản
xuất tập thể nguyên thủy. Lực lượng sản xuất phát triển dẫn đến sự phân
công lao động lớn hơn: Thủ công nghiệp (nghề làm gốm, đan lát…) tách
khỏi nông nghiệp (trồng trọt, chăn nuôi).
Trao đổi sản phẩm trở thành thường xuyên, phổ biến. Quan hệ sản xuất
cộng đồng nguyên thủy không còn phù hợp với lực lượng sản xuất mới.
Các gia đình có tài sản riêng ngày càng nhiều và trong công xã xuất hiện sự
chênh lệch về tài sản.
Khi các hộ gia đình có nhiều tài sản, chế độ tư hữu dần thay thế cho chế
độ công hữu nguyên thủy về tư liệu sản xuất.
Trong những điều kiện ấy, những người có quyền lực trong thị tộc, bộ lạc
(như tù trưởng, thủ lĩnh quân sự…) có thể lợi dụng địa vị của mình để
chiếm đoạt tài sản chung của công xã làm của riêng. Đồng thời, do có sản
phẩm dư thừa để nuôi tù binh chiến tranh nên họ không phải giết hết tù
binh mà bắt một bộ phận tù binh làm nô lệ.
Đến đây, giai cấp xuất hiện như là một sự kiện tất yếu trong lịch sử.
Các cuộc chiến tranh, những thủ đoạn cướp bóc, những hành vi bạo lực…
là những yếu tố xúc tác góp phần đẩy nhanh quá trình phân hóa giai cấp. Sự
ra đời cũng như sự mất đi của xã hội có giai cấp, sự xuất hiện và mất đi của
những giai cấp cụ thể đều dựa trên tính tất yếu kinh tế.
Xã hội nô lệ là xã hội có giai cấp đầu tiên trong lịch sử loài người. Trong
quá trình phát triển của xã hội nô lệ xuất hiện những điều kiện để một bộ
phận thoát ly lao động chân tay, chuyên hoạt động quản lý, làm chính trị,
khoa học nghệ thuật. Đồng thời cũng xuất hiện sự tách rời và đối lập giữa
lao động trí óc và lao động chân tay, giữa thành thị và nông thôn.
Theo tiến trình của lịch sử, xã hội phong kiến thay xã hội nô lệ, xã hội
bản thay xã hội phong kiến… trở thành xã hội có giai cấp ở trình độ cao
hơn.
- Đặc trưng giai cấp:
Khái niệm giai cấp được Lênin định nghĩa một cách toàn diện và sâu sắc
trong tác phẩm “Sáng kiến vĩ đại” như sau: “Người ta gọi là giai cấp,
những tập đoàn người to lớn khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống
sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ
(thường thường các quan hệ này được pháp luật quy định và thừa nhận)
lOMoARcPSD|36215 725
đối với các tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã
hội, và như vậy là khác nhau về cách thức hướng thụ và về phần của cải ít
hoặc nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người, mà tập
đoàn này có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác, do chỗ các tập
đoàn đó có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế xã hội nhất định .
Trước khi đề cập tới các đặc trưng về chất của giai cấp, ở cả hai mệnh đề,
V.I.Lênin đều lưu ý trước tiên đặc trưng về lượng của giai cấp với tư cách
là “những tập đoàn người”, “tập đoàn người to lớn” dù đó là giai cấp thiểu
số hay đa số trong dân cư. Điều đó chứng tỏ vấn đề giai cấp cũng như vấn
đề đấu tranh giai cấp là vấn đề lớn lao của đời sống xã hội, chứ không phải
vấn đề của những nhóm nhỏ hay cá nhân.
Vì vậy, đặc trưng tổng quát về chất của giai cấp là sự “khác nhau về địa
vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử”,
hoặc là thống trị, hoặc là bị trị (đương nhiên có thể có bộ phận nào đó
đóng vai trò trung gian) trong kinh tế. Khái quát này của Lênin, thứ
nhất, bác bỏ mọi cách giải thích duy tâm về giai cấp từ các nguồn gốc
phi kinh tế; thứ hai, chỉ ra tính lịch sử cụ thể của giai cấp ở những điều
kiện lịch sử cụ thể; thứ ba, đòi hỏi xem xét giai cấp trong tính chỉnh th
phức tạp vốn có của “một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch
sử”.
Mặt khác, V.I.Lênin đã đi sâu cụ thể hóa đặc trưng tổng quát nói trên của
giai cấp thành ba đặc trưng tương ứng với ba mặt cấu thành các quan hệ sản
xuất. Đó là ba sự khác nhau: về quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất; về
quan hệ tổ chức lao động xã hội; và về quan hệ phân phối. Hiển nhiên là sự
khác nhau về quan hệ sở hữu tự nó có vai trò quyết định bản chất đối với
hai mối quan hệ còn lại, cũng như quyết định cả địa vị các giai cấp trong
một hệ thống sản xuất xã hội nói chung. Trong mệnh đề thứ nhất này,
V.I.Lênin còn có hai lưu ý vừa tinh tế vừa sâu sắc đối với vấn đề sở hữu và
phân phối.
Thứ nhất, như Lênin vạch rõ, quan hệ sở hữu “thường được pháp
luật quy định và công nhận”. Điều đó chứng tỏ rằng các quan hệ giai
cấp không tách rời quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng (kinh tế)
với kiến thức thượng tầng (chính trị – pháp lý), bác bỏ mọi luận điệu
cho rằng chính trị, nhà nước, pháp quyền “vô tư” đối với sở hữu
khác nhau của mọi giai cấp.
Thứ hai, trước khi nói tới sự khác nhau về “phần của cải xã hội ít
hoặc nhiều” trong quan hệ phân phối, Lênin đã lưu ý đến sự “khác
lOMoARcPSD|36215 725
nhau về cách thứ hưởng thụ” của các giai cấp. Ai cũng biết cách
thức hưởng thụ của giai cấp bóc lột thống trị xưa nay là hết sức xa
hoa, lãng phí, thậm chí không tính nổi bằng tiền mà bằng bao xương
máu của người lao động (ví dụ các kim tự tháp, các lăng tẩm của vua
chúa).
Với mức độ khái quát sâu nhất và rộng nhất có thể có ở mệnh đề thứ hai,
Lênin chỉ nêu hai đặc trưng cơ bản của giai cấp có quan hệ qua lại chặt chẽ
với nhau: Một là, “tập đoàn này có thể tước đoạt lao động của tập đoàn
khác”; Hai là, “các tập đoàn đó có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh
tế xã hội nhất định.”
Ở mệnh đề này, Lênin đã thâu tóm cái bản chất sâu xa nhất, cốt lõi
nhất, và cũng là phản nhân văn nhất của các quan hệ giai cấp đối
kháng xưa nay - đó là vấn đề “chiếm đoạt lao động”. Chính chiếm
đoạt lao động là đặc trưng bao trùm và chi phối tất cả các đặc trưng
khác của giai cấp ở cả hai mệnh đề, và sâu xa hơn, nó cắt nghĩa cả
nguồn gốc của giai cấp và của đấu tranh giai cấp. Hơn nữa, không
phải đặc trưng nào ở mệnh đề thứ nhất về giai cấp cũng đồng nghĩa
với xung đột, với đối kháng. Nhưng chừng nào và ở đâu còn chiếm
đoạt lao động thì tất còn xung đột, còn đối kháng. Trong xã hội phân
chia giai cấp, thực chất của quan hệ giai cấp là quan hệ xung đột đối
kháng. Nếu hiểu khác đi là mơ hồ về giai cấp. Triết lý nổi tiếng của
C.Mác và Ph.Angghen “tước đoạt kẻ đi tước đoạt” không chỉ đúng
với quy luật phủ định của phủ định chi phối toàn bộ chu kỳ phát
triển trọn vẹn của lịch sử loài người (sở hữu xã hội – sở hữu tư nhân
– sở hữu xã hội trên hình thức cao hơn), mà còn hợp với cả đạo lý
sống cơ bản nhất của loài người.
Ở đặc trưng còn lại của giai cấp trong mệnh đề thứ hai, V.I.Lênin đã
gắn liền đặc trưng chiếm đoạt lao động không phải với “hệ thống
sản xuất xã hội” (như định nghĩa thứ nhất) mà với cả “chế độ kinh tế
xã hội” – nghĩa là với toàn bộ tòa nhà xã hội, cơ thể xã hội. Vì rằng,
với nhiều lý do khác nhau, có những bộ phận xã hội chiếm đoạt lao
động không phải do quan hệ sở hữu trong sản xuất kinh tế, mà do lợi
dụng trực tiếp địa vị chính trị – xã hội. Đặc quyền đặc lợi của tầng
lớp quý tộc dưới chính thể quân chủ lập hiến là một ví dụ. Nạn hối
lộ tham nhũng xưa nay trong bộ máy nhà nước cũng là một ví dụ.
- Nguồn gốc đấu tranh giai cấp:
Theo C.Mác, trong xã hội có giai cấp, giai cấp thống trị chiếm đoạt lao
động của các giai cấp và tầng lớp bị trị. Các giai cấp, tầng lớp bị trị không
lOMoARcPSD|36215 725
những bị chiếm đoạt kết quả lao động mà họ còn bị áp bức về chính trị, tư
tưởng và tinh thần. Bởi sự hình thành giai cấp cũng là sự hình thành các lợi
ích khác nhau. Lợi ích giai cấp không phải do ý thức giai cấp quy định
do địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp ấy tạo nên một cách khách quan. Giai
cấp bóc lột bao giờ cũng dùng mọi biện pháp và phương tiện bảo vệ địa vị
giai cấp của họ, duy trì củng cố chế độ kinh tế xã hội cho phép họ được
hưởng những đặc quyền, đặc lợi giai cấp. Lợi ích cơ bản của giai cấp bị trị
đối lập với lợi ích cơ bản của giai cấp thống trị. Đây là nguyên nhân trc
tiếp dẫn tới đấu tranh giai cấp.
Nguyên nhân sâu xa dẫn tới đấu tranh giai cấp, theo C.Mác là mâu thuẫn
giữa trình độ phát triển cao của lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất đã
lỗi thời. Theo C. Mác, đấu tranh giai cấp mà đỉnh cao là cách mạng xã hội
chỉ có thể nổ ra trên cơ sở lực lượng sản xuất phát triển tới mức mâu thuẫn
không thể giải quyết với quan hệ sản xuất đã lỗi thời trong lòng xã hội cũ.
C.Mác gọi đây là "tiền đề thực tiễn tuyệt đối cần thiết, vì không có nó thì
tất cả sẽ chỉ là sự nghèo nàn sẽ trở thành phổ biến; mà với sự thiếu thốn tột
độ thì ắt sẽ bắt đầu trở lại một cuộc đấu tranh để giành những cái cần thiết,
thế là người ta lại không tránh khỏi rơi vào cũng sự ti tiện trước đây”.
Sự phát triển khách quan của lực lượng sản xuất tất yếu dẫn đến việc xã hội
phải xóa bỏ bằng cách này hay cách khác quan hệ sản xuất cũ và thay thế
nó bằng một kiểu quan hệ sản xuất mới, phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất: “Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực
lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất
hiện có... trong đó từ trước đến nay các lực lượng sản xuất vẫn phát triển.
Từ chỗ là những hình thức phát triển của lực lượng sản xuất, những quan
hệ ấy trở thành những xiềng xích của các lực lượng sản xuất… Khi đó bắt
đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội”. Đó chính là cách mạng xã hội
hay đấu tranh giai cấp.
- Đặc trưng của đấu tranh giai cấp:
Đấu tranh giai cấp có thể có nhiều hình thức khác nhau:
Bạo lực trực tiếp, chẳng hạn như các cuộc chiến tranh tranh giành
các nguồn tài nguyên và lao động rẻ;
Bạo lực gián tiếp, chẳng hạn như tử vong vì nghèo đói, đói khát,
bệnh tật hoặc điều kiện làm việc không an toàn;
Ép buộc, chẳng hạn như nguy cơ mất việc làm hoặc một khoản đầu
tư quan trọng;
lOMoARcPSD|36215 725
Hay ý thức hệ, hoặc là cố ý (với các sách và bài báo quảng bá chủ
nghĩa tư bản) hoặc vô ý
Ngoài ra, có nhiều các hình thức chính trị của đấu tranh giai cấp.
hợp pháp hoặc bất hợp pháp, thông qua vận động hành lang hoặc hối
lộ các nhà lãnh đạo chính phủ thông qua luật cho đảng phái bao gồm
luật lao động, mã số thuế, luật người tiêu dùng, luật Quốc hội hoặc
thuế má. Các cuộc đấu tranh giai cấp có thể mang tính mở, như công
nhân đình công với mục đích nhằm tiêu diệt một công đoàn lao
động, hoặc mang tính ẩn, như công nhân cố tình giảm năng suất lao
động nhằm phản đối mức lương thấp hoặc các điều kiện lao động
không công bằng.
Trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Karl Marx đã lập luận
rằng một giai cấp được hình thành khi các thành viên của nó đạt được ý
thức và tinh thần đoàn kết. Điều này phần lớn xảy ra khi các thành viên của
một giai cấp nhận thức được việc bị bóc lột của họ và xung đột với một giai
cấp khác. Một giai cấp sau đó sẽ nhận ra lợi ích chung của họ và một bản
sắc chung. Theo Marx, một giai cấp sau đó sẽ có hành động chống lại
những kẻ đang lợi dụng giai cấp thấp hơn. Những gì Marx chỉ ra là các
thành viên của hai trong số hai giai cấp chính có lợi ích chung. Những lợi
ích giai cấp hoặc tập thể này mâu thuẫn với toàn bộ các giai cấp khác. Điều
này dẫn đến xung đột giữa các thành viên đơn lẻ của các giai cấp khác
nhau. Phân tích của Marxist về xã hội xác định hai nhóm xã hội chính:
Lao động (vô sản hoặc công nhân) bao gồm bất cứ ai kiếm kế sinh
nhai bằng cách bán sức lao động của họ và được trả lương hoặc tiền
công cho thời gian lao động của họ. Họ có ít lựa chọn nhưng phải
làm việc vì tiền, vì họ thường không có cách độc lập để tồn tại.
Tư bản (tư sản hoặc tư bản) bao gồm bất kỳ ai có được thu nhập của
họ không phải từ lao động nhiều như từ giá trị thặng dư mà họ có
được từ những người lao động tạo ra sự giàu có. Thu nhập của các
nhà tư bản, do đó, dựa trên sự bóc lột của họ đối với các công nhân
(vô sản).
Không phải tất cả các cuộc đấu tranh giai cấp đều mang tính bạo lực hoặc
nhất thiết phải triệt để, như với các cuộc đình công và đóng cửa nhà máy.
Thay vào đó, sự đối kháng giai cấp có thể được thể hiện như tinh thần giảm
của công nhân, phá hoại, ăn cắp vặt, và lạm dụng quyền lực của cá nhân
những người chủ và tích trữ thông tin. Nó cũng có thể được thể hiện trên
quy mô lớn hơn như việc công nhân ủng hộ cho các đảng xã hội chủ nghĩa
hoặc dân túy. Về phía người sử dụng lao động, việc sử dụng các công ty
lOMoARcPSD|36215 725
luật công đoàn và vận động hành lang cho các luật chống liên minh là các
hình thức đấu tranh giai cấp.
Không phải tất cả các cuộc đấu tranh giai cấp đều mang tính đe dọa đối với
chủ nghĩa tư bản, hoặc thậm chí đối với quyền lực của một nhà tư bản cá
nhân. Một cuộc đấu tranh thu nhỏ để có mức lương cao hơn bởi một khu
vực nhỏ của tầng lớp lao động, thường được gọi là "chủ nghĩa kinh tế", hầu
như không đe dọa đến hiện trạng chung. Trên thực tế, bằng cách áp dụng
các chiến thuật liên minh thủ công loại trừ các công nhân khác khỏi các
ngành nghề lành nghề, một cuộc đấu tranh kinh tế thậm chí có thể làm suy
yếu toàn bộ giai cấp công nhân bằng cách chia rẽ nó. Cuộc đấu tranh giai
cấp trở nên quan trọng hơn trong quá trình lịch sử khi nó trở nên chung
chung hơn, vì các ngành công nghiệp được tổ chức chứ không phải hình
thành một cách thủ công, khi ý thức giai cấp của công nhân tăng lên, và khi
họ tự tổ chức ra khỏi các đảng chính trị. Marx gọi điều này là sự tiến bộ của
giai cấp vô sản từ việc trở thành một giai cấp "trong chính nó", một vị trí
trong cấu trúc xã hội, trở thành một giai cấp "vì chính nó", một lực lượng
tích cực và có ý thức mà có thể thay đổi thế giới.
Marx chủ yếu tập trung vào xã hội công nghiệp tư bản là nguồn gốc của sự
phân tầng xã hội, cuối cùng dẫn đến xung đột giai cấp. Ông nói rằng chủ
nghĩa tư bản tạo ra sự phân chia giữa các giai cấp mà phần lớn có thể thấy
trong các nhà máy sản xuất. Giai cấp sản, bị tách ra khỏi giai cấp tư sản
vì việc sản xuất đã trở thành một doanh nghiệp xã hội. Góp phần vào s
tách biệt của họ là công nghệ có trong các nhà máy. Công nghệ loại bỏ kỹ
năng và khiến người lao động bị loại bỏ vì họ không còn được xem là kỹ
năng chuyên môn. Một tác dụng khác của công nghệ là lực lượng lao động
đồng nhất có thể dễ dàng thay thế. Marx tin rằng cuộc xung đột giai cấp
này sẽ dẫn đến việc lật đổ giai cấp tư sản và tài sản tư nhân sẽ thuộc sở hữu
chung. Phương thức sản xuất sẽ vẫn còn, nhưng quyền sở hữu chung sẽ loại
bỏ xung đột giai cấp.
Ngay cả sau một cuộc cách mạng, hai giai cấp sẽ tiếp tục đấu tranh, nhưng
cuối cùng cuộc đấu tranh sẽ giảm dần và các giai cấp sẽ tan rã. Khi ranh
giới giai cấp bị phá vỡ, bộ máy nhà nước sẽ dần biến mất. Theo Marx,
nhiệm vụ chính của bất kỳ bộ máy nhà nước nào là phát huy quyền lực của
giai cấp thống trị; nhưng không có giai cấp thì sẽ không cần đến nhà nước.
Điều đó sẽ dẫn đến xã hội cộng sản, xã hội không có giai cấp và không có
nhà nước.
- Đấu tranh giai cấp không phải là động lực duy nhất của sự vận động và phát
triển của xã hội. Vì:
lOMoARcPSD|36215 725
Theo V.I.Lênin khái niệm đấu tranh giai cấp dùng để chỉ “cuộc đấu tranh
của quần chúng bị tước hết quyền, bị áp bức và lao động, chống bọn có đặc
quyền đặc lợi, bọn áp bức và bọn ăn bám, cuộc đấu tranh của những nời
công nhân làm thuê hay những người vô sản chống những người hữu sản
hay giai cấp tư sản”. Theo khái niệm này, thực chất của đấu tranh giai cấp
là cuộc đấu tranh của những người lao động làm thuê, những người nô lệ,
bị áp bức về chính trị – xã hội và bị bóc lột về kinh tế chống lại sự áp bức
và bóc lột nó; tức là nhằm giải quyết vấn đề mâu thuẫn lợi ích kinh tế
chính trị xã hội giữa giai cấp thống trị và bị thống trị ở những phạm vi
mức độ khác nhau. Tùy theo những điều kiện lịch sử khác nhau, các cuộc
đấu tranh giai cấp trong xã hội có thể được biểu hiện dưới nhiều hình thức
khác nhau, với những phạm vi và trình độ khác nhau như: đấu tranh kinh tế,
đấu tranh tư tưởng, đấu tranh chính trị… Trong thực tế lịch sử, cuộc đấu
tranh giai cấp có thể còn mang những hình thức đấu tranh dân tộc, tôn giáo,
văn hóa và có thể có nhiều hình thức đa dạng khác.
Sự ra đời và tồn tại của nhà nước là kết quả của cuộc đấu tranh giai cấp
trong xã hội có đối kháng giai cấp. Khi cái mâu thuẫn xã hội đã bị đẩy đến
chỗ không thể giải quyết được thì tất yếu giai cấp thống trị cần đến sức
mạnh bạo lực đặc biệt để duy trì hội trong vòng một “trật tự” theo ý chí
của nó, thực hiện lợi ích của nó. Sự ra đời và tồn tại của nhà nước không
phải để giải quyết mâu thuẫn mà là để duy trì trật tự xã hội trong điều kiện
mâu thuẫn không thể giải quyết được. Trong lịch sử trên hai ngàn năm qua
đã từng tồn tại các kiểu nhà nước nhà nước chủ nô thời cổ đại, nhà nước
phong kiến thời trung cổ và nhà nước tư sản ở các nước tư bản từ thời cận
đại đến nay. Đây là những kiểu nhà nước đúng với nghĩa đen của nó, tức là
công cụ bạo lực có tổ chức nhằm khống chế cuộc đấu tranh giai cấp của
giai cấp những người lao động. Cho dù các hình thức của mỗi kiểu nhà
nước đó có khác nhau, tên gọi khác nhau (hình thức quân chủ tập quyền
hoặc phân quyền, quân chủ lập hiến, cộng hòa quý tộc, cộng hòa đại nghị,
cộng hòa tổng thống…) nhưng bản chất giai cấp của chúng chỉ là một – đó
là công cụ chuyên chính giai cấp của các giai cấp bóc lột trong lịch sử đối
với nô lệ hay lao động làm thuê. Khác với các kiểu nhà nước nói trên, nhà
nước chuyên chính vô sản là nhà nưc kiểu mới. là “nửa nhà nước”, “nhà
nước không còn nguyên nghĩa đen cùa nó”, tồn tại trong thời ký quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, là công cụ bạo lực có tổ chức và công cụ quản lý kinh
tếxã hội của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Theo lý luận hình thái kinh tế – xã hội, phương thức và động lực cơ bản
nhất của sự tiến bộ, phát triển xã hội là sự vận động của mâu thuẫn trong
lOMoARcPSD|36215 725
phương thức sản xuất, trong bản thân nền sản xuất vật chất của xã hội,
nhưng trong điều kiện xã hội có sự phân hóa giai cấp thì mâu thuẫn đó lại
được bộc lộ và biến thành mâu thuẫn đối kháng giữa các giai cấp trong đời
sống chính trị – xã hội. Trong trường hợp này, mâu thuẫn đối kháng trong
đời sống kinh tế chỉ có thể giải quyết được thông qua việc giải quyết mâu
thuẫn đối kháng giai cấp trên lĩnh vực chính trị – xã hội.
Như vậy, mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp đã trở thành cơ chế
chính trị xã hội để giải quyết mâu thuẫn trong phương thức sản xuất,
thực hiện nhu cầu khách quan của sự phát triển của lực lượng sản xuất,
thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
Câu 3: Theo quan điểm của Triết học Mác – Lênin, có 5 hình thức tổ chức cộng
đồng người ở lịch sử:
a) Thị tộc
- Thị tộc là một hình thức cộng đồng người cơ bản trong thời kỳ nguyên thủy. Thị
tộc là một tập thể sản xuất xã hội đầu tiên của xã hội nguyên thủy có sự cộng đồng
về nguồn gốc, ngôn ngữ chung, phong tục tập quán và văn hóa chung.
- Cơ sở kinh tế của thị tộc là sở hữu công cộng nguyên thủy. Xét về hình thức thị
tộc đầu tiên là thị tộc mẫu quyền. Vai trò quyết định trong đời sống kinh tế xã hội
thuộc về người phụ nữ. Bởi vì trong thời kỳ này nghề săn bắn của đàn ông là nghề
không ổn định, ngược lại nghề hái lượm, chuẩn bị thức ăn, trông coi la và giữ
nhà lại có khả năng bảo đảm sự ổn định của thị tộc. Nhưng về sau do s phát triển
của lực lượng sản xuất trong xã hội nguyên thủy dẫn đến phát triển của trồng trọt
và chăn nuôi, vai trò của người đàn ông trong đời sống thị tộc tăng lên, dần dần thị
tộc mẫu quyền bị thay thế bởi thị tộc phụ quyền.
b) Bộ lạc
- Bộ lạc là một cộng đồng người lớn hơn so với thị tộc, phát triển từ thị tộc. Mỗi
một bộ lạc bao gồm nhiều thị tộc khác nhau và ít nhất có hai thị tộc. Những thị tộc
hợp thành bộ lạc có quan hệ huyết thống và quan hệ hôn nhân với nhau.
- Bộ lạc thường có cùng ngôn ngữ, phong tục tập quán, văn hóa, tín ngưỡng và cùng
chung sống trên một vùng lãnh thổ. Mặc dù chưa thật sự ổn định nhưng việc xác
lập chủ quyền về mặt lãnh thổ là đặc trưng mới của bộ lạc so với thị tộc. Bộ lạc có
hình thức sở hữu cao hơn thị tộc. Ngoài sở hữu riêng của thị tộc, bộ lạc còn có
những sở hữu khác bao gồm vùng lãnh thổ, nơi trồng trọt, săn bắt và chăn nuôi...
- Lãnh đạo bộ lạc là một hội đồng các tộc trưởng hay tù trưởng. Trong bộ lạc có
một thủ lĩnh tối cao nhưng mọi quyền hành quản lý bộ lạc đều do hội nghị của hội
đồng các tộc trưởng và thủ lĩnh quân sự quyết định. Hình thức phát triển cao nhất
của bộ lạc là liên minh bộ lạc được hình thành từ sự liên kết nhiều bộ lạc.
lOMoARcPSD|36215 725
c) Bộ tộc
- Bộ tộc là một hình thức phát triển của cộng động người trong lịch sử, xuất hiện
vào thời kỳ lao động chăn nuôi tách khỏi trồng trọt nghề thủ công ra đời. Bộ tộc
xuất hiện vào thời kỳ chiếm hữu nô lệ, hoặc chế độ phong kiến ở những quốc gia
bỏ qua phương thức sản xuất chiếm hữu nô lệ.
- Đặc điểm cơ bản của bộ tộc là việc hình thành lãnh thổ chung, tiếng nói chung,
văn hóa và lối sống chung, nó đánh dấu sự tan rã của các quan hệ sản xuất nguyên
thủy hình thành quan hệ sản xuất của xã hội có giai cấp. Cơ sở hình thành bộ tộc
không còn là quan hệ huyết thống mà dựa trên quan hệ lãnh thổ giữa những người
ở các bộ lạc khác nhau, gắn bó với nhau thông qua hoạt động sản xuất, thương mại
và các qua hệ kinh tế khác. Quyền sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất xuất hiện và
quan hệ bóc lột xuất hiện.
- Bộ tộc tạo điều kiện cho sản xuất phát triển, cho tích lũy và trao đổi kinh nghiệm
sản xuất, văn hóa… Nhưng khi nền sản xuất hàng hóa thay thế dần nền kinh tế tự
nhiên, gia tộc thì bộ tộc trở thành sức cản đối với sự phát triển của sản xuất và trao
đổi, cho nên dân tộc xuất hiện thay thế dần hình thức bộ tộc.
d) Dân tộc
- Dân tộc là một khối cộng đồng người ổn định, được thành lập trong lịch sử dựa
trên cơ sở cộng đồng về về tiếng nói, lãnh thổ, sinh hoạt kinh tế và tâm lý, biểu
hiện trong cộng động văn hóa. Trong những đặc điểm về dân tộc thì cộng đồng về
đời sống kinh tế là quan trọng nhất.
- Xét về mặt lịch sử phong trào dân tộc có ba thời kỳ:
Thứ nhất, gắn liền với quá trình hình thành chủ nghĩa tư bản, đánh dấu sự
tan rã của chế độ phong kiến, thời kỳ chuyển tiếp từ bộ tộc sang dân tộc.
Thời kỳ này giai cấp tư sản lãnh đạo phong trào dân tộc.
Thứ hai, thời kỳ chủ nghĩa tư bản trở thành chủ nghĩa đế quốc. Đó là thởi
kỳ của các phong trào dân tộc thuộc địa bị áp bức bóc lột không ngừng đấu
tranh chống chủ nghĩa đế quốc, giải phóng dân tộc.
Thứ ba, là thời kỳ hiện nay – thời kỳ tan rã của hệ thống thuộc địa của chủ
nghĩa đế quốc, thời kỳ hoàn thiện ở các nước đã và đang được giải phóng
trong cuộc đấu tranh chống đế quốc.
- Việt Nam là một nước thuộc phương thức sản xuất Châu Á, lại có những đặc điểm
riêng về mặt lịch sử và địa lý nên dân tộc Việt Nam xuất hiện rất sớm và hình
thành không gắn liền với phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Những yếu tố
thúc đẩy quá trình hình thành dân tộc Việt Nam từ khi chưa có chủ nghĩa tư bản là:
Sự nghiệp dựng nước và giữ nước, việc đấu tranh với thiên tai khắc nghiệt là sự
nghiệp của mọi người, mọi nhà của toàn thể dân tộc v.v… một cộng đồng người
lOMoARcPSD|36215 725
bền vững, có truyền thống đoàn kết, kiên cường chống ngoại xâm và đấu tranh với
thiên nhiên.
- Vấn đề dân tộc và tính chất giai cấp của vấn đề dân tộc luôn gắn liền với những
giai cấp khác nhau trong những điều kiện lịch sử xã hội khác nhau. Trong mỗi một
thời kỳ lịch sử nhất định, mỗi một dân tộc nhất định hoặc cộng đồng dân tộc nhất
định đều có một giai cấp làm đại biểu và giai cấp đó quy định tính chất của các
dân tộc hoặc các cộng đồng dân tộc đó. Mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc, giữa
các cộng đồng dân tộc phụ thuộc vào những mâu thuẫn của thời đại và xu hướng
phát triển của lịch sử.
e) Gia đình
- Gia đình là một hình thức cộng đồng xã hội liên kết giữa vợ và chồng, bố mẹ và
con cái với nhau. Cơ sở hình thành gia đình là do quan hệ hôn nhân và huyết
thống. Quan hệ đó về cơ bản được hình thành bởi tình yêu và tính giao. Một khi
hôn nhân không dựa trên cơ sở tình yêu nó có nguy cơ phá vỡ nền tảng của mối
quan hệ đó. Quan hệ gia đình là một quan hệ mang tính tất yếu, khách quan và
không thể có gì thay thế được. Trong đó quan hệ vơ chồng là quan hệ xuất phát
hội tụ đầy đủ những yếu tố về mặt sinh học – xã hội, là quan hệ nền tảng cho sự
tồn tại và phát triển của gia đình, quan hệ mang tính quyết định cho các quan hệ
khác ở trong gia đình.
- Gia đình, các kiểu gia đình luôn gắn liền với những điều kiện lịch sử nhất định,
các phương thức sản xuất vật chất nhất định. Về vấn đề này Ănghen đã từng chỉ ra
rằng: “ Ở thời đại mông muội, có chế độ quần hôn; ở thời đại dã man, có chế độ
hôn nhân đối ngẫu; ở thời đại văn minh, có chế độ một vợ một chồng”. Như vậy
về cơ bản trong tiến trình phát triển của xã hội có ba hình thức hôn nhân chính và
tương ứng với nó là ba giai đoạn phát triển của nhân loại.
- Gia đình là một tế bào của xã hội, đóng một vai trò đặc biệt quan trọng trong đời
sống xã hội. Sự tồn tại vận động và phát triển của xã hội nhờ hai loại tái sản xuất:
tái sản xuất ra của cải vật chất để nuôi sống con người và tái sản xuất ra chính bản
thân con người để duy trì nòi giống. Gia đình với chức năng là tái sản xuất ra hình
thức đã nêu ở trên.
Phân tích tính phổ biến và tính đặc thù của sự hình thành dân tộc trong lịch sử
thế giới
1. Tính phổ biến
a. Thứ nhất, dân tộc là một cộng đồng về ngôn ngữ.
- Ngôn, ngữ là công cụ giao tiếp xã hội, trước hết là công cụ giao tiếp
trong cộng đồng (thị tộc, bộ lạc, bộ tộc, dân tộc). Các thành viên của
một dân tộc có thể dùng nhiều ngôn ngữ trong giao tiếp với nhau.
Có một số ngôn ngữ được nhiều dân tộc sử dụng. Điều quan trọng là
lOMoARcPSD|36215 725
mỗi dân tộc có một ngôn ngữ chung thông nhất mà các thành viên
của dân tộc coi đó là tiếng mẹ đẻ của họ. Tính thống nhất trong ngôn
ngữ dân tộc thể hiện trước hết ở sự thống nhất về cấu trúc ngữ pháp
và kho từ vựng cơ bản. Ngôn ngữ của một dân tộc thể hiện đặc trưng
chủ yếu của dân tộc đó.
b. Thứ hai, dân tộc là một cộng đồng về lãnh thổ.
- Mỗi dân tộc có lãnh thổ riêng thống nhất, không bị chia cắt. Lãnh
thổ dân tộc bao gồm cả vùng đất, vùng trời, vùng biển, hải đảo thuộc
chủ quyền của quốc gia dân tộc. Trong trường hợp quốc gia có nhiều
dân tộc, lãnh thổ quốc gia gồm lãnh thổ của các dân tộc thuộc quốc
gia ấy hợp thành. Phạm vi lãnh thổ dân tộc hình thành trong quá
trình lịch sử lâu dài. Chủ quyền quốc gia dân tộc về lãnh thổ là một
khái niệm xác định, thường được thể chế hóa thành luật pháp quốc
gia và luật pháp quốc tế. Thực tế lịch sử có những trường hợp bị
chia cắt tạm thời, nhưng không thể căn cứ vào đó mà cho rằng cộng
đồng ấy đã bị chia thành hai hay nhiều dân tộc khác nhau. Đương
nhiên sự chia cắt đó là một thử thách đối với tính bền vững của một
cộng đồng dân tộc.
- Cộng đồng lãnh thổ là đặc trưng quan trọng không thể thiếu được
của dân tộc. Lãnh thổ là địa bàn sinh tồn và phát triển của dân tộc,
không có lãnh thổ thì không có khái niệm tổ quốc, quốc gia.
c. Thứ ba, dân tộc là một cộng đồng về kinh tế.
- Từ các cộng đồng người nguyên thủy chuyển sang bộ tộc, yếu tố
liên kết cộng đồng dựa trên quan hệ huyết thống dần dần bị suy
giảm, vai trò của nhân tố” kinh tế – xã hội ngày càng tăng. Đây là
nhu cầu hoàn toàn khách quan trong đời sống xã hội. Những mối
liên hệ kinh tế làm tăng tính thống nhất, ổn định, bền vững của cộng
đồng người sống trong một lãnh thổ rộng lớn. Những mối liên hệ
kinh tế thường xuyên và mạnh mẽ đặc biệt là mối liên hệ thị trường
đã làm tăng tính thông nhất, tính ổn định, bền vững của cộng đồng
người đông đảo sống trong lãnh thổ rộng lớn. Thiếu sự cộng đồng
chặt chẽ, bền vững về kinh tế thì cộng đồng người chưa phải là dân
tộc.
d. Thứ tư, dân tộc là một cộng đồng về văn hóa, tâm lý, tính cách…
- Văn hóa là yếu tố đặc biệt quan trọng của sự liên kết cộng đồng.
Văn hóa dân tộc mang nhiều sắc thái của các địa phương, các sắc
tộc, các tập đoàn người song nó vẫn là một nền văn hóa thông nhất
không bị chia cắt. Tính thống nhất trong đa dạng là đặc trưng của
lOMoARcPSD|36215 725
văn hóa dân tộc. Văn hóa dân tộc hình thành trong quá trình lâu dài
của lịch sử, hơn bất cứ yếu tố’ nào khác, tạo ra sắc thái riêng đa
dạng, phong phú của từng dân tộc. Mỗi dân tộc có một nền văn hóa
riêng để phân biệt dân tộc này với dân tộc khác. Văn hóa của mỗi
dân tộc không thể phát triển, nếu không giao lưu văn hóa với các
dân tộc khác. Mỗi dân tộc có tâm lý, tính cách riêng. Để nhận biết
tâm lý, tính cách của mỗi dân tộc phải thông qua sinh hoạt vật chất,
sinh hoạt tinh thần của dân tộc ấy, đặc biệt thông qua phong tục, tập
quán, tín ngưỡng, đời sống văn hóa.
2. Tính đặc thù
- Các dân tộc ở Việt Nam cư trú xen kẽ nhau
- Các dân tộc thiểu số ở nước ta chủ yếu cư trú trên các vùng rừng
núi, biên giới, có vị trí quan trọng
- Các dân tộc ở Việt Nam có trình độ phát triển kinh tế - xã hội không
đồng đều nhau
- Nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất trong đa dạng, mỗi
dân tộc anh em có những giá trị và sắc thái văn hóa riêng
- Việt Nam có một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số theo các tôn
giáo khác
Mối quan hệ giữa giai cấp, dân tộc và nhân loại:
- Giữa giai cấp và dân tộc:
Giai cấp và dân tộc đều là những phạm trù lịch sử. Bởi nó xuất hiện và tồn
tại phụ thuộc vào những điều kiện lịch sử nhất định. Giai cấp và dân tộc là
những phạm trù chỉ các quan hệ xã hội khác nhau, nng nó có quan hệ tác
động qua lại lẫn nhau. Trong mối quan hệ đó giai cấp và dân tộc có những
vai trò khác nhau. Tính lịch sử của giai cấp và dân tộc khác nhau. Khi giai
cấp mất đi thì dân tộc vẫn tồn tại lâu dài cùng với sự phát triển của xã hội.
Quan hệ giai cấp – dân tộc với tư cách sản phẩm trực tiếp của phương thức
sản xuất của xã hội có giai cấp – là nhân tố xét đến cùng có vai trò quyết
định với sự hình thành dân tộc, với xu hướng phát triển của dân tộc, quy
định bản chất xã hội của dân tộc, quy định tính chất của các mối quan hệ
dân tộc.
Mối quan hệ giữa đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc đều là các hình
thức của đấu tranh xã hội để giải quyết những mâu thuẫn chung của xã hội.
Nhưng nếu dân tộc chưa được độc lập và thống nhất thì giai cấp tiến bộ đại
diện cho phương thức sản xuất mới phải đấu tranh giải phóng dân tộc để trở
thành giai cấp dân tộc. Trong thời đại chủ nghĩa đế quốc, cuộc đấu tranh
lOMoARcPSD|36215 725
giải phóng dân tộc có vai to lớn đối với cuộc đấu tranh cách mạng của giai
cấp công nhân.
Tuy nhiên, trong các xã hội và phương thức sản xuất tồn tại dựa trên chế độ
chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, lợi ích của giai cấp thống trị và lợi
ích của dân tộc không phải khi nào cũng thống nhất, thậm chí nhiều khi trái
ngược và đối lập với lợi ích dân tộc. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, phương
thức sản xuất dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, lực lượng sản
xuất thuộc về quyền sở hữu chung của cả xã hội, thì lợi ích giai cấp về
bản phù hợp với lợi ích của cả cộng đồng dân tộc. Đương nhiên, sự phù
hợp được thể hiện trong quá trình giải quyết đúng đắn các mâu thuẫn.
- Giữa giai cấp và nhân loại:
Khái niệm nhân loại dùng để chỉ toàn thể cộng đồng người sống trên trái
đât từ hàng triệu năm nay. Xét về hình thức, nhân loại được phân chia ới
nhiều hình thức khác nhau: cá nhân, giai cấp, dân tộc, v.v… song nhân loại
vẫn là một chỉnh thể thống nhất. Cơ sở của sự thống nhất ấy là bản chất
người của từng cá thể và của cộng đồng đồng, bản chất đó quy định lợi ích
chung của cả cộng đồng.
Vấn đề lợi ích nhân loại là những vấn đề có liên quan đến sự sống còn của
cả loài người, ví dụ như vấn đề chống dịch bệnh Covid-19, chống chiến
tranh hạt nhân, bảo vệ môi trường… Lợi ích nhân loại là những nhân tố đáp
ứng yêu cầu phát triển của cả loài người, ở mọi quốc gia, không phân biệt
sự khác nhau về giai cấp, dân tộc, tôn giáo… Tuy nhiên, trong xã hội có
giai cấp, lợi ích nhân loại là không thể tách rời với lợi ích giai cấp, lợi ích
dân tộc, và do đó nó bị chi phối bởi lợi ích giai cấp. Lợi ích của giai cấp
tiến bộ phù hợp với lợi ích của nhân loại. Các giai cấp phản động đối với
lịch sử thì lợi ích của giai cấp về căn bản mâu thuẫn với lợi ích chung của
dân tộc và lợi ích toàn nhân loại. Chủ nghĩa Mác – Lênin chỉ ra rằng, muốn
giải phóng mình, giai cấp vô sản phải giải phóng toàn nhân loại khỏi áp bức
và nô dịch của chủ nghĩa tư bản. Vì vậy, lợi ích giai cấp của giai cấp vô sản
về căn bản phù hợp với lợi ích của nhân loại.
Câu 4: Khái niệm, nguyên nhân và vai trò của cách mạng xã hội đối với xã hội có
đối kháng giai cấp theo quan điểm của Triết học Mác – Lênin:
Khái niệm
- Theo nghĩa rộng, cách mạng xã hội là sự biến đổi có tính bước ngoặt và căn bản
về chất trong toàn bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội, là phương thức chuyên từ
một hình thái kinh tế - xã hội lỗi thời lên một hình thái kinh tế - xã hội mới ở trình
độ phát triển cao hơn. Theo nghĩa hẹp, cách mạng xã hội là việc lật đổ một chế độ
lOMoARcPSD|36215 725
chính trị đã lỗi thời và thiết lập một chế độ chính trị tiến bộ hơn của giai cấp cách
mạng.
Nguyên nhân
- Nguyên nhân sâu xa của cách mạng xã hội là từ mâu thuẫn gay gắt trong bản thân
nền sản xuất vật chất của xã hội, tức mâu thuẫn gay gắt giữa nhu cầu khách quan
của sự phát triển lực lượng sản xuất với sự kìm hãm của quan hệ sản xuất đã trở
nên lỗi thời mà không một cuộc cải cách kinh tế hay chính trị nào có thể giải quyết
được. Mâu thuẫn đó biêu hiện về mặt chính trị - xã hội thành cuộc đâu tranh giai
câp và chính sự phát triển của cuộc đâu tranh giai cẫp này đã tất yếu dẫn đến sự
bùng nổ cách mạng. Đây cũng chính là nguyên nhân khách quan của các cuộc
cách mạng xã hội. Ngoài ra, mỗi cuộc cách mạng xã hội còn có nguyên nhân chủ
quan của nó, đó là sự phát triển về nhận thức và tổ chức của giai cáp cách mạng,
tức giai cấp đại biểu cho phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn. Từ đó tạo ra sự
phát triển của phong trào đấu tranh giai câp từ tự phát đến tự giác và khi có sự kết
hợp chín muồi của các nhân tố khách quan và chủ quan, tức tạo được thời cơ cách
mạng, thì khi đó tất yếu cách mạng sẽ bùng nổ và có khả năng thành công. Vai
trò:
- Cách mạng xã hội giữ vai trò là một trong những phương thức động lực của sự
phát triển xã hội. Không có những cuộc cách mạng xã hội trong lịch sử thì không
thể diễn ra quá trình thay thế hình thái kinh tế - xã hội này bằng một hình thái kinh
tế - xã hội mới cao hơn. Với ý nghĩa đó mà C.Mác nhận định rằng: các cuộc cách
mạng xã hội là những “đầu tầu của lịch sử”, là phương thức thực hiện sự phát triển
của các hình thái kinh tế - xã hội. Mặt khác, chính nhờ những cuộc cách mạng xã
hội mà các mâu thuẫn cơ bản của đời sống xã hội trên các lĩnh vực kinh tế, chính
trị, văn hóa,... được giải quyết triệt để, từ đó tạo ra động lực cho sự tiến bộ và phát
triển của xã hội. Trong những thời kỳ cách mạng, năng lực sáng tạo của quần
chúng nhân dân được phát huy cao độ, có thể sáng tạo ra lịch sử mới với một sức
manh phi thường: “một ngày bằng hai mươi năm”.
- Lịch sử nhân loại đã chứng minh đầy đủ và rõ nét vai trò của các cuộc cách mạng
xã hội đã từng diễn ra trong lịch sử mấy nghìn năm qua. Đó là: cuộc cách mạng
thực hiện bước chuyển từ hình thái kinh tế - xã hội nguyên thủy lên hình thái kinh
tế - xã hội chiếm hữu nô lệ; cuộc cách mạng xóa bỏ chế độ nô lệ và thay thế nó
bằng chế độ phong kiến; cuộc cách mạng tư sản lật đổ chế độ phong kiến, xác lập
chế độ tư bản chủ nghĩa; cuộc cách mạng vô sản thực hiện việc xóa bỏ chế độ
chuyên chính vô sản, xác lập chế độ hội chủ nghĩa - đây là cuộc cách mạng vĩ
đại nhất, sâu sắc nhất trong lịch sử nhân loại, làm thay đổi hoàn toàn bản chất chế
độ chính trị xã hội cũ, xóa bỏ triệt để nguồn gốc chế độ tư hữu sản sinh đối kháng
giai cấp đã từng tồn lại hàng ngàn năm trong lịch sử nhân loại.
lOMoARcPSD|36215 725
Câu 5: Theo quan điểm của Triết học Mác – Lênin, nêu khái niệm và lấy ví dụ về
tồn tại xã hội và ý thức xã hội
- Khái niệm tồn tại xã hội:
Là khái niệm dùng để chỉ sinh hoạt vật chất và những điều kiện sinh hoạt
vật chất xã hội, là những mối quan hệ vật chất – xã hội giữa con người với
tự nhiên và quan hệ vật chất,kinh tế giữa con người với nhau là hai quan hệ
cơ bản. Những mối quan hệ này xuất hiện trong quá trình hình thành xã hội
loài người và tồn tại không phụ thuộc ý thức xã hội.
- Ví dụ tồn tại xã hội:
Các thành phần chính như phương thức sản xuất vật chất, điều kiện tự
nhiên – môi trường địa lý, dân số và mật độ dân số… Trong đó phương
thức sản xuất vật chất là thành phần cơ bản nhất. Các quan hệ vật chất khác
giữa gia đình, giai cấp, dân tộc cũng có vai trò nhất định đối với tồn tại xã
hội.
- Khái niệm ý thức xã hội:
Là mặt tinh thần của đời sống xã hội, bao gồm tình cảm, tập quán, truyền
thống, quan điểm, tư tưởng, lý luận… Nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản
ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển khác nhau. Nói cách
khác, ý thức xã hội là những quan hệ tinh thần giữa con người với nhau, là
mặt tinh thần trong quá trình lịch sử.
- Ví dụ về ý thức xã hội:
Ý thức xã hội có cấu trúc bên trong xác định, bao gồm những mức độ khác
nhau (ý thức xã hội thông thường và ý thức lý luận ( khoa học; tâm lý
hội và hệ tư tưởng) và cách hình thái của ý thức xã hội ( ý thức chính
trị, pháp luật, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, triết học, khoa học,…) - Mối
quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội:
a) Ý thức xã hội là sự phản ánh của tồn tại xã hội
Triết học Mác – Lênin khẳng định vật chất quyết định ý thức, nhưng ý thức
lại tác động trở lại đối với vật chất, đó là mối quan hệ biện chứng giữa vật
chất và ý thức. Vận dụng điều này vào xã hội thì tồn tại xã hội quyết định ý
thức xã hội, nhưng ý thức xã hội lại tác động trở lại đối với tồn tại xã hội.
Khẳng định vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội – đó
là quan điểm duy vật về lịch sử - đây là công lao to lớn của C.Mác và
Ph.Ăngghen, các ông đã phát triển chủ nghĩa duy vật đến đỉnh cao, xây
dựng quan điểm duy vật về lịch sử và lần đầu tiên trong lịch sử triết học,
các ông đã giải quyết một cách khoa học vấn đề hình thành và phát triển
của ý thức xã hội.
lOMoARcPSD|36215 725
Vì tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, cho nên không được tìm nguyên
nhân những biến đổi của đời sống tinh thần của xã hội ngay trong bản thân
đời sống tinh thần mà phải tìm nó trong đời sống vật chất của xã hội, trước
hết là trong quan hệ kinh tế giữa con người với con người. Khi quan h
kinh tế biến đổi thì tất cả những tư tưởng xã hội như: chính trị, triết học,
pháp luật, đạo đức sớm muộn sẽ biến đổi theo. Cứ tồn tại xã hội như thế
nào thì ý thức xã hội như thế ấy. Cho nên ở những thời kỳ lịch sử khác
nhau, nếu chúng ta thấy có những quan điểm, lý luận, tư tưởng xã hội khác
nhau thì chính là do những điều kiện khác nhau của đời sống vật chất của
xã hội quyết định.
Tồn tại xã hội không quyết định ý thức xã hội một cách giản đơn, trực tiếp
mà thường thông qua các khâu trung gian. Trong thực tế, không phải bất kỳ
quan điểm, tư tưởng hay lý luận nào cũng phản ánh một cách trực tiếp và rõ
ràng các quan hệ kinh tế của thời đại. Chỉ khi nào chúng ta xét cho đến
cùng thì các mối quan hệ kinh tế của thời đại mới được phản ánh bằng cách
này hay cách khác trong các tư tưởng, quan điểm ấy. Do vậy, khi xem xét
sự phản ánh của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội, đòi hỏi chúng ta phải
có thái độ biện chứng chứ không nên cứng nhắc.
b) Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội
- Mặc dù ý thức xã hội là sự phản ánh của tồn tại xã hội, do tồn tại xã hội quyết
định, nhưng ý thức xã hội không phải là yếu tố thụ động, hoàn toàn phụ thuộc vào
tồn tại xã hội; trái lại, ý thức xã hội có tính độc lập tương đối, nó tác động tích cực
trở lại đối với tồn tại xã hội. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội được biểu
hiện ở những điểm sau đây:
Ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội
Tính lạc hậu của ý thức xã hội so với tồn tại xã hội thể hiện ở chỗ khi
hội cũ đã mất đi, thậm chí đã mất rất lâu, nhưng ý thức xã hội do xã hội đó sinh
ra vẫn tồn tại dai dẳng. Sở dĩ như vậy bởi vì các nguyên nhân sau đây:
Một là, do sự biến đổi của xã hội diễn ra quá nhanh, ý thức xã
hội không phản ánh kịp và trở nên lạc hậu. Mặt khác, ý thức xã
hội là sự phản ánh của tồn tại xã hội nên chỉ khi nào tồn tại xã
hội đã biến đổi thì ý thức xã hội mới biến đổi theo.
Hai là, trong lĩnh vực tâm lý xã hội, những thói quen, tập quán,
truyền thống v.v… đã được tạo ra qua nhiều thế kỷ nó có ỳ ghê
gớm không thể ngay một lúc có thể thay đổi được.
lOMoARcPSD|36215 725
Ba là, xuất phát từ lợi ích giai cấp, các giai cấp, nhóm hay tập
đoàn người phản tiến bộ tìm cách lưu giữ, truyền bá những tư
tưởng cũ, lạc hậu, nhằm bảo vệ lợi ích giai cấp và chống lại các
lực lượng xã hội tiến bộ.
Vì những ý thức lạc hậu, tiêu cực không mất đi một cách dễ dàng, cho
nên trong quá trình xây dựng xã hội mới, giai cấp cách mạng phải tăng
cường công tác tư tưởng, kiên quyết đấu tranh xoá bỏ những tàn dư tư
tưởng cũ, lạc hậu, đồng thời ra sức xây dựng và phát huy những truyền
thống tư tưởng tốt đẹp, tiến bộ.
Ý thức xã hội có thể phản ánh vượt trước tồn tại xã hội
Trong khi khẳng định ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã
hội triết học Mác – Lênin đồng thời khẳng định rằng, trong những
điều kiện nhất định, một bộ phận của ý thức xã hội là những tư
tưởng khoa học, tiên tiến có thể vượt trước sự phát triển của tồn tại
xã hội, hướng dẫn, chỉ đạo cho hoạt động thực tiễn của con người,
dự báo các khả năng xảy ra trong tương lai, để từ đó đề ra những
nhiệm vụ mới phải giải quyết do sự phát triển chín muồi của đời
sống vật chất của xã hội đặt ra.
Ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển của nó
Ý thức xã hội là cái chung nó được thể hiện ra thông qua những cái
riêng là các hình thái ý thức xã hội cụ thể như: chính trị, pháp quyền,
đạo đức, văn hóa, khoa học, nghệ thuật v.v.. Tất cả các hình thái ý
thức xã hội một mặt phản ánh tồn tại xã hội trực tiếp, nhưng mặt
khác, nó có tính kế thừa lịch sử trong sự phát triển của mình.
Trong xã hội có giai cấp, các giai cấp khác nhau thường kế thừa
những nội dung ý thức khác nhau của các thời đại trước. Các giai
cấp tiên tiến thì tiếp nhận những di sản tư tưởng tiến bộ, những
truyền thống tốt đẹp của xã hội cũ, còn các giai cấp lỗi thời và các
nhà tư tưởng của nó thì tiếp thu, khôi phục những lý thuyết, những
tư tưởng phản tiến bộ của xã hội cũ để phục vụ cho lợi ích của giai
cấp mình.
Các hình thái ý thức xã hội tác động qua lại trong sự phát triển của
chúng
Các hình thái ý thức xã hội đều có quy luật phát triển riêng nội tại và
đều phản ánh tồn tại xã hội. Nhưng trong quá trình phát triển, giữa
chúng luôn có sự tác động qua lại, ảnh hưởng, thúc đẩy lẫn nhau. Ở
mỗi thời đại, tuỳ theo hoàn cảnh cụ thể có những hình thái ý thức
lOMoARcPSD|36215 725
nào đó nổi lên hàng đầu và tác động mạnh đến các hình thái ý thức
khác. Trong sự tác động lẫn nhau giữa các hình thái ý thức thì ý thức
chính trị có vai trò đặc biệt quan trọng. Thông thường ý thức chính
trị của giai cấp cách mạng, tiến bộ sẽ đóng vai trò định hướng cho
sự phát triển theo chiều hướng tiến bộ của các hình thái ý thức khác.
Ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội
Ý thức xã hội là sự phản ánh của tồn tại xã hội, do tồn tại xã hội quyết
định, nhưng ý thức xã hội lại tác động tích cực trở lại tồn tại xã hội.
Nếu ý thức xã hội là khoa học, đúng đắn, tiến bộ phù hợp với tồn tại
xã hội thì nó sẽ thúc đẩy tồn tại xã hội phát triển. Ngược lại, nếu ý
thức xã hội không đúng đắn, không phù hợp nó sẽ kìm hãm sự phát
triển của tồn tại xã hội.
Như vậy, nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử về tính độc lập tương
đối của ý thức xã hội đã cho chúng ta thấy bức tranh phức tạp của lịch
sử phát triển ý thức xã hội và của đời sống tinh thần của xã hội nói
chung, nó bác bỏ các quan điểm siêu hình, máy móc, tầm thường về
mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
- Ví dụ: Chủ nghĩa Mác đã kế thừa và phát triển những tinh hoa tư tưởng của loài
người mà trực tiếp là nền triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị cổ điển Anh và
chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp.
Câu 6: Theo quan điểm của Triết học Mác – Lênin, bản chất của con người là như
thế nào, bản chất con người có thay đổi không, vì sao?
- Trong lịch sử triết học trước Mác, các quan niệm về con người, cơ bản là những
quan niệm duy tâm, tôn giáo hoặc siêu hình. Mặc dù, triết học duy vật trước Mác
coi con người là một thực thể tự nhiên – thực thể xã hội. Song họ cũng không vượt
qua tính chất siêu hình và thậm chí còn là duy tâm. Bởi vì họ đã quy đặc trưng bản
chất con người theo khuynh hướng tuyệt đối hóa những thuộc tính tự nhiên hoặc
thuộc tính xã hội, mà không thấy được vai trò của hoạt động thực tiễn xã hội.
- Trong hệ thống thế giới quan tôn giáo coi con người như một thực thể nhị nguyên,
là sự kết hợp tinh thần và thể xác. Trong đó linh hồn của con người tồn tại một
cách vĩnh cửu và mang tính tuyệt đối. Tuy nhiên, một số trường phái triết học vẫn
đạt được những thành tựu trong việc phân tích, quan sát con người, đề cao lý tính,
xác lập các giá trị nhân bản học để hướng con người tới tự do. Đó cũng chính là
những tiền đề có ý nghĩa cho việc hình thành tư tưởng về con người trong triết học
Mácxít.
1. Con người là thực thể sinh học – xã hội
lOMoARcPSD|36215 725
- Tiếp thu một cách mang tính phê phán những quan điểm có tính hợp lý và khắc
phục những thiếu sót hạn chế quan niệm về con người trong lịch sử triết học trước
đó, triết học Mác khẳng định con người hiện thực là sự thống nhất giữa yếu tố sinh
học và yếu tố xã hội. Bởi vì, con người không phải là cái gì đó đồng nhất tuyệt đối
về chất, – đó là sự đồng nhất bao hàm trong mình sự khác biệt giữa hai yếu tố đối
lập nhau: con người với tư cách là sản phẩm của giới tự nhiên, là sự phát triển tiếp
tục của giới tự nhiên, mặt khác con người là một thực thể xã hội được tách ra như
một lực lượng đối lập với giới tự nhiên, sự tác động qua lại giữa cái sinh học và
cái xã hội tạo thành con người.
Thứ nhất, con người là sản phẩm của lịch sử tự nhiên
Đó là quá trình tạo thành phương diện sinh học và khả năng thoả
mãn những nhu cầu sinh học như : ăn, mặc, ở; hoạt động và nhu cầu
tái sản sinh con người. Như vậy, con người trước hết là một tồn tại
sinh vật, con người tự nhiên là con người mang tất cả bản tính sinh
học, tính loài. Yếu tố sinh học trong con người, trước hết là tổ chức
cơ thể và mối quan hệ của nó với tự nhiên, là những thuộc tính,
những đặc điểm sinh học, quá trình tâm sinh lý, các giai đoạn phát
triển khác nhau thể hiện bản chất sinh học của cá nhân con người.
Con người cũng như mọi động vật khác phải tìm kiếm thức ăn, nước
uống, phải “đấu tranh sinh tồnđể ăn uổng, sinh đẻ con cái, tồn tại
và phát triển. Nhưng không được tuyệt đối hóa điều đó. Không phải
đặc tính sinh học, bản năng sinh học, sự sinh tồn thể xác là cái duy
nhất tạo nên bản chất của con người, mà con người còn là một thực
thể xã hội. Khi xem xét con người, theo quan điểm của chủ nghĩa
Mác Lênin, không thể tách rời hai phương diện sinh học và xã hội
của con người thành những phương diện biệt lập, duy nhất, quyết
định phương diện kia.
Thứ hai, con người còn là sản phẩm của lịch sử xã hội và chính lao
động
Nhân tố giữ vai trò quyết định cho quá trình hình thành con người,
khẳng định con người có tính xã hội. Trong lịch sử triết học trước
Mác đã có nhiều quan niệm khác nhau phân biệt con người với thế
giới loài vật, như con người là động vật biết sử dụng công cụ lao
động, hoặc con người có tư duy, v.v… Nhưng, nhưng quan niệm đó
cũng chỉ nhấn mạnh một khía cạnh nào đó trong bản chất xã hội của
con người.
lOMoARcPSD|36215 725
Thông qua hoạt động sản xuất vật chất, con người đã làm thay đổi,
cải biến toàn bộ giới tự nhiên: “Con vật chỉ tái sản xuất ra bản thân
nó, còn con người thì tái sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên”. Tính xã
hội của con người biểu hiện trong hoạt động sản xuất vật chất, con
người sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần để phục vụ đời sống
của mình, hình thành phát triển ngôn ngữ và tư duy, xác lập các
quan hệ xã hội.
Thứ ba, mối quan hệ giữa mặt sinh học và mặt xã hội, không chỉ khẳng
định nguồn gốc, bản chất sinh vật và xã hội của con người; mà còn khẳng
định vai trò quyết định của hệ thống các quy luật khách quan đối với q
trình hình thành và phát triển của con nời. Đó là hệ thống các quy luật tự
nhiên như là quy luật môi trường, quy luật trao đổi chất, về di truyền, biến
dị, tiến hóa, v.v… quy định phương diện sinh học của con người. Hệ thống
các quy luật tâm lý, ý thức hình thành vận động trên nền tảng sinh học của
con người như hình thành tình cảm, khát vọng, niềm tin, ý chí, v.v… h
thống các quy luật xã hội quy định các quan hệ xã hội giữa người với
người.
Ba hệ thống quy luật trên cùng tác động, tạo nên thể thống nhất hoàn
chỉnh trong đời sống con người bao gồm mặt sinh vật và mặt xã hội.
Bởi vì, con người chỉ có thể tồn tại khi thỏa mãn những nhu cầu sinh
học, nhưng không phải bất cứ một sản phẩm vật chất nào cũng có sẵn
trong tự nhiên mà chủ yếu đều do quá trình sáng tạo của con người
thông qua
lao động. Xã hội không phải là một thực thể tồn tại độc lập bên ngoài
mặt sinh học, cũng không có cái xã hội và cái sinh học thuần túy tồn tại
độc lập với nhau, chúng có quan hệ biện chứng tác động qua lại lẫn
nhau trong các quan hệ xã hội. Bởi xã hội là phương thức cho con người
thoả mãn tốt hơn những nhu cầu sinh học ngày càng có tính hợp lý và
văn minh hơn. Chính vì vậy, con người ngày càng quan tâm đến quá
trình cải tạo hiện thực khách quan, cũng như chính lợi ích của cá nhân,
tập thể, giai cấp hay của toàn bộ xã hội, không phải do ý thức chủ quan
của con người mà do chính điều kiện khách quan và các quy luật khách
quan quy định.
2. Trong tính hiện thực của nó, bản chất của con người là tổng hòa
nhữngmối quan hệ xã hội
- Con người khác với thế giới loài vật về bản chất 3 phương diện:
Quan hệ với thiên nhiên, quan hệ với xã hội, quan hệ với bản thân.
Sự khác biệt ấy thể hiện con người là một thực thể thống nhất giữa
lOMoARcPSD|36215 725
mặt sinh học và mặt xã hội hoặc bản chất của con người là tổng hòa
những mối quan hệ xã hội. Bởi vì, cả ba mối quan hệ ấy, suy đến
cùng đều mang tính xã hội giữa người và người là quan hệ bản chất,
bao trùm tất cả các mối quan hệ khác của con người.
- Để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người, Mác đã nêu lên luận
đề nổi tiếng Luận cương về Phoiơbách: “Bản chất con người không
phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính
hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã
hội”.
- Luận đề trên khẳng định rằng, không có con người trừu tượng, thoát
ly khỏi điều kiện, hoàn cảnh lịch sử xã hội. Con người là cụ thể,
sống trong một điều kiện lịch sử cụ thể nhất định. Trong điều kiện
lịch sử, cụ thể đó bằng hoạt động thực tiễn, con người sản xuất ra
những giá trị vật chất và tinh thần để tồn tại, phát triển về thể lực và
trí lực. Chỉ trong toàn bộ các mối quan hệ xã hội n gia đình, giai
cấp, dân tộc, v.v… con người mới bộc lộ bản chất xã hội của mình.
- Điều lưu ý là luận đề trên khẳng định bản chất xã hội, không có
nghĩa phủ nhận mặt tự nhiên trong cuộc sống con người; trái lại,
điều đó muốn nhấn mạnh sự phân biệt giữa con người và thế giới
động vật ở bản chất xã hội và đó cũng là để khắc phục sự thiếu sót
của các nhà triết học trước Mác về bản chất xã hội của con người.
Mặt khác, cái bản chất với ý nghĩa là cái phổ biến, cái mang tính quy
luật chứ không phải là cái duy nhất; do đó cần phải thấy được các
biểu hiện riêng biệt, phong phú và đa dạng của mỗi cá nhân trong
cộng đồng xã hội.
3. Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử
- Con người là sản phẩm phát triển của tự nhiên và lịch sử phát triển
của xã hội. Song, điều quan trọng hơn cả là con người luôn luôn là
chủ thể của lịch sử xã hội. Với tính cách chủ thể của lịch sử, thông
qua hoạt động thực tiễn, con người biến đổi giới tự nhiên, biến đổi
xã hội và bản thân mình.
- Trong quá trình cải biến giới tự nhiên, con người cũng làm ra lịch sử
của mình. Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể
sáng tạo ra lịch sử. Hoạt động sản xuất vật chất vừa là điều kiện cho
sự tồn tại của con người, vừa là phương thức dẫn đến sự biến đổi xã
hội. Đó là quá trình con người nhận thức và vận dụng các quy luật
khách quan để khẳng lịch sử vận động phát triển của xã hội là lịch
sử của phát triển của các phương thức sản xuất vật chất khác nhau,
lOMoARcPSD|36215 725
v.v…
- Không có con người trừu tượng, con người là cụ thể trong mỗi giai
đoạn phát triển nhất định của lịch sử và bản chất của con người
trong tính hiện thực của nó là tổng hòa những mối quan hệ xã hội.
Bản chất con người không phải là một hệ thống đóng kín, mà là hệ
thống mở tương ứng với điều kiện lịch sử của con người. Cho nên,
có thể nói rằng, sự vận động và phát triển của lịch sử sẽ quy định
tương ứng với sự vận động và phát triển của bản chất con người
thông qua những mối quan hệ xã hội trong lịch sử.
Bản chất con người có thay đổi không? Vì sao?
- Để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người, Mác đã nêu lên luận
đề nổi tiếng Luận cương về Phoiơbách: “Bản chất con người không
phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính
hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã
hội”.
- Các quan hệ xã hội tạo nên bản chất của con người, nhưng không
phải là sự kết hợp giản đơn hoặc là tổng cộng chúng lại với nhau mà
là sự tổng hòa chúng; mỗi quan hệ xã hội có vị trí, vai trò khác nhau,
có tác động qua lại, không tách rời nhau.
Các quan hệ xã hội thay đổi thì ít hoặc nhiều, sớm hoặc muộn, bản chất
con người cũng sẽ thay đổi theo.
Giải thích “Con người là một thực thể tự nhiên mang bản chất xã hội”
- Bản tính xã hội của con người được phân tích lừ các gíac độ sau
đây:
Một là, xét từ giác độ nguồn gốc hình thành, loài người không phải chỉ
nguồn gốc từ sự tiến hóa, phát triển của vật chất tự nhiên mà còn có nguồn
gốc xã hội của nó, mà trước hết và cơ bản nhất là nhân tố lao động. Chính
nhờ lao động mà con người có khả năng vượt qua loài động vật để tiến hóa
và phát triển thành người. Đó là một trong những phát hiện mới của ch
nghĩa Mác - Lênin, nhờ đó có thể hoàn chỉnh học thuyết về nguồn gốc của
loài người mà tất cả các học thuyết trong lịch sử đều chưa có lời giải đáp
đúng đắn và đầy đủ.
Hai là, xét từ giác độ tồn tại và phát triển, thì sự tồn tại của loài người luôn
luôn bị chi phối bởi các nhân tố xã hội và các quy luật xã hội. Xã hội biến
đổi thì mỗi con người cũng có sự thay đổi tương ứng. Ngược lại, sự phát
triển của mỗi cá nhân lại là tiền đề cho sự phát triển của xã hội. Ngoài mối
lOMoARcPSD|36215 725
quan hệ xà hội thì mỗi con người chỉ tồn tại với cách là một thực thể sinh
vật thuần túy, không thể là "con người" với đầy đủ ý nghĩa của nó.
- Trong lịch sử tư tưởng nhân loại đã có nhiều quan niệm khác nhau về bản chất,
"bản tính người" của con người, nhưng về cơ bản những quan niệm đó thường là
những quan niệm phiến diện, trừu tượng và duy tâm, thần bí. Trong tác phâm
Luận cương về Phoiơbắc, C.Mác đã phê phán vắn tắt những quan niệm đó và xác
lập quan niệm mới của mình "Bản chất con nời không phải là một cái trừu
tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con
người là tổng hòa những quan hệ xã hội".
- Hạn chế căn bản của quan niệm duy vật siêu hình, trực quan là đã trừuợng hóa,
tuyệt đối hóa phương diện tự nhiên của con người, thường xem nhẹ việc lý giải
con người từ phương diện lịch sử xã hội của nó, do đó về căn bản chỉ thấy bản
tính tự nhiên của con người. Khác với quan niệm đó, quan niệm duy vật biện
chứng về con người trong khi thừa nhận bản tính tự nhiên của con người còn lý
giải con người từ giác độ các quan hệ lịch sử xã hội, từ đó phát hiện bản tính xã
hội của nó.
- Hơn nữa, chính bản tính xã hội của con người là phương diện bản chất nhất của
con người với tư cách "người", phân biệt con người với các tồn tại khác của giới
tự nhiên. Như vậy, có thể định nghĩa con người là một thực thể tự nhiên nhưng đó
là thực thể tự nhiên mang đặc tính xã hội. Vậy, bản chất của con người, xét trên
phương diện tính hiện thực của nó, chính là "tổng hòa những quan hệ xã hội", bởi
vì xã hội chính là xã hội của con người, được tạo nên từ toàn bộ các quan hệ giữa
người với người trên các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa,...
- Theo quan điểm duy vật biện chứng về bản chất xã hội của con người thì sự hình
thành và phát triển của con người cùng những khả năng sáng tạo lịch sử của nó
cần phải được tiếp cận từ giác độ phân tích vả lý giái sự hình thành và phát triển
của những quan hệ xã hội của nó trong lịch sử. Xét từ giác độ nhân chủng học, tức
phương diện bản tính tự nhiên, người da đen" vẫn chỉ là người da đen, nhưng chỉ
trong quan hệ kinh tế - chính trị của xã hội chiếm hữu nô lệ anh ta mới bị biến
thành "người nô lệ", còn trong quan hệ kinh tế - chính trị xã hội chủ nghĩa, anh ta
là "người tự do”, làm chủ và sáng tạo lịch sử. Như thế không có một bản chất nô
lệ cố hữu và bất biến của người da đen hay da trắng, nó là sản phẩm tất yếu của
những quan hệ kinh tế, chính trị - xã hội trong những điều kiện lịch sử xác định,
khi những quan hệ này thay đổi thì cũng tạo sự thay đổi bản chất của con người.
Vì vậy, giải phóng bản chất con người cần phải hướng vào sự giài phóng những
quan hệ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của nó, thông qua đó có thể phát huy
khả năng sáng tạo lịch sử của con người.
lOMoARcPSD|36215 725
- Như vậy, không có con người phi lịch sử mà trái lại luôn gắn với những điều kiện
hoàn cảnh lịch sử nhất định. Cần phải từ quan niệm như vậy mới có thể lý giải
đúng đắn về khả năng sáng tạo lịch sử của con người. Sự hạn chế về năng lực sáng
tạo lịch sử của những con người tiểu nông không thể lý giải từ bản tính tự nhiên
của họ, trái lại cần phải được lý giải từ giác độ tính hạn chế về trình độ phát triển
của các quan hệ kinh tế, chính tri, văn hóa của xã hội tiểu nông. Như thế, con
người, xét từ giác độ bản chất xã hội của nó, là sản phẩm của lịch sử; lịch sử sáng
tạo ra con người trong chừng mực nào thì con nguời lại cũng sáng tạo ra lịch sử
trong chừng mực đó. Đây là biện chứng của mối quan hệ giữa con người chủ thể
của lịch sử với chính lịch sử do nó tạo ra và đồng thời lại bị quy định bởi chính
lịch sừ đó. Từ đó có thể thấy, hạn chế cơ bản của quan niệm duy vật siêu hình về
bản chất của con người chính là ở chỗ chỉ nhận thấy tính quyết định của hoàn cảnh
lịch sử đối với con người mà không nhận thấy mối quan hệ sáng tạo của con người
trong quá trình cải tạo hoàn cảnh và do đó cũng chính là cải tạo bản thân nó.
C.Mác đã khẳng định: "Cái học thuyết duy vật chủ nghĩa cho rằng con người là
sản phẩm của những hoàn cảnh và của giáo dục... cái học thuyết ấy quên rằng
chính những con người làm thay đổi hoàn cảnh và bản thân nhà giáo dục cũng cần
phải được giáo dục". Trong tác phẩm Biện chứng của tự nhiên, Ph.Ăngghen cũng
cho rằng: "Thú vật cũng có một lịch sử, chính là lịch sử nguồn gốc của chúng và
lịch sử phát triển dần dần của chúng cho tới trạng thái hiện nay của chúng. Nhưng
lịch sử ấy không phải do chúng làm ra và trong chừng mực mà chúng có tham dự
vào việc làm ra lịch sử ấy thì điều đó diễn ra mà chúng không hề biết và không
phải do ý muốn của chúng. Ngược lại, con người càng cách xa con vật, hiểu theo
nghĩa hẹp của từ này bao nhiêu thì con người lại càng tự mình làm ra lịch sử của
mình một cách có ý thức bấy nhiêu".
Con người cũng tồn tại trong môi trường hội. Chính nhờ môi trường
xã hội mà con người trở thành một thực thể xã hội và mang bản chất xã
hội..
Như vậy, với tư cách là thực thể xã hội, con người trong hoạt động thực
tiễn, thông qua hoạt động thực tiễn, tác động vào giới tự nhiên, làm cải
biến giới tự nhiên theo nhu cầu sinh tồn và phát triển của nó thì đồng
thời con người cũng sáng tạo ra lịch sử của chính nó, thực hiện sự phát
triển của lịch sử đó.
| 1/26

Preview text:

lOMoARc PSD|36215725
Câu 1: Theo quan điểm của Triết học Mác – Lênin:
- Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử (hay còn
gọi là chủ nghĩa duy vật biện chứng về xã hội) dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn
lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó, phù hợp
với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất, và với một kiến trúc thượng
tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất đó. Nó chính là các xã
hội cụ thể được tạo thành từ sự thống nhất biện chứng giữa các mặt trong đời sống
xã hội và tồn tại trong từng giai đoạn lịch sử nhất định.
- Hình thái kinh tế - xã hội là một hệ thống hoàn chỉnh, có cấu trúc phức tạp, trong
đó có các mặt cơ bản là lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuấtkiến trúc
thượng tầng
các yếu tố khác. Mỗi mặt của hình thái kinh tế - xã hội có vị trí
riêng và tác động qua lại lẫn nhau, thống nhất với nhau, trong đó:
• Lực lượng sản xuất: là nền tảng vật chất-kỹ thuật của mỗi hình thái kinh tế
xã hội. Hình thái kinh tế - xã hội khác nhau có lực lượng sản xuất khác
nhau. Sự phát triển của lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành, phát
triển và thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế-xã hội.
• Quan hệ sản xuất: Tạo thành cơ sở hạ tầng của xã hội và quyết định tất cả
mọi quan hệ xã hội khác. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội có một kiểu quan hệ
sản xuất đặc trưng cho nó. Quan hệ sản xuất là tiêu chuẩn khách quan để
phân biệt các chế độ xã hội.
• Kiến trúc thượng tầng được hình thành và phát triển phù hợp với cơ sở hạ
tầng, nhưng nó lại là công cụ để bảo vệ, duy trì và phát triển cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó.
• Các yếu tố khác: Ngoài ra, hình thái kinh tế-xã hội các hình thái kinh tế -
xã hội còn có quan hệ về gia đình, dân tộc và các quan hệ xã hội khác. Nó
còn bao gồm các lĩnh vực chính trị, lĩnh vực tư tưởng và lĩnh vực xã hội.
Mỗi lĩnh vực của hình thái kinh tế-xã hội vừa tồn tại độc lập với nhau, vừa
tác động qua lại, thống nhất với nhau gắn bó với quan hệ sản xuất và cùng
biến đổi với sự biến đổi của quan hệ sản xuất.
- Sự phát triển, thay thế nhau của các hình thái kinh tế - xã hội lại bắt nguồn
từ sự thay đổi, phát triển của lực lượng sản xuất vì:
• Hình thái kinh tế - xã hội là một hệ thống, trong đó, các mặt của hình thái
kinh tế-xã hội tác động qua lại với nhau tạo nên các quy luật vận động, phát
triển khách quan của xã hội. Chính sự tác động của các quy luật khách quan
đó mà hình thái kinh tế xã hội tuy là phạm trù xã hội nhưng lại có khuynh
hướng phát triển như một quy luật tự nhiên, nó vận động phát triển từ thấp
đến cao. Xã hội loài người đã phát triển trải qua nhiều hình thái kinh tế - xã lOMoARc PSD|36215725
hội nối tiếp nhau. Trên cơ sở phát hiện ra các quy luật vận động phát triển
khách quan của xã hội, C.Mác đã đi đến kết luận rằng: “Tôi coi sự phát
triển của các hình thái kinh tế-xã hội là một quá trình lịch sử-tự nhiên.”
• Lịch sử xã hội do con người làm ra, con người tạo ra các quan hệ xã hội của
mình và đó là xã hội. Nhưng sự vận động của xã hội lại tuân theo quy luật
khách quan, không phụ thuộc vào ý muốn của con người mà nguồn gốc sâu
xa của sự thay thế nhau giữa các hình thái kinh tế-xã hội nằm ở chỗ:
Sự phát triển của lực lượng sản xuất, gây nên sự thay đổi của quan hệ sản xuất.
Sự thay đổi của quan hệ sản xuất (với tư cách là cơ sở hạ tầng) sẽ
làm cho kiến trúc thượng tầng thay đổi.
Sự thay thế nhau như vậy giữa các hình thái kinh tế-xã hội là con đường phát
triển chung của nhân loại. Quá trình đó diễn ra một cách khách quan chứ
không phải theo ý muốn chủ quan. Sự biến đổi đó của hình thái kinh tếxã
hội không chịu sự tác động của con người mà tuân theo các quy luật xã hội khách quan.
Chỉ có đem quy những quan hệ xã hội vào những quan hệ sản xuất,
và đem quy những quan hệ sản xuất vào trình độ của những lực
lượng sản xuất thì người ta mới có được một cơ sở vững chắc để
quan niệm sự phát triển của những hình thái xã hội là một quá trình
lịch sử - tự nhiên
V.I.Lênin
Câu 2: Nguồn gốc, đặc trưng của giai cấp và đấu tranh giai cấp theo quan điểm của
Triết học Mác– Lênin:
- Nguồn gốc giai cấp:
• Trong xã hội nguyên thủy, lực lượng sản xuất còn thấp kém, công cụ lao
động chỉ bằng đá, gậy gộc, cung tên… Do đó, hầu hết các thành viên trong
cộng đồng phải liên kết với nhau thì mới tổ chức lao động và sinh sống
được, bởi nếu riêng rẽ theo từng cá nhân, từng gia đình thì không thể săn
bắn, hái lượm do nguy cơ thú dữ đe dọa. Đồng thời, sản phẩm làm ra còn ít
ỏi, chỉ đủ để tồn tại, duy trì nòi giống, chưa có sản phẩm dư thừa tương đối.
Vì chưa có sản phẩm dư thừa nên hiển nhiên là chưa thể có khả năng
người này bóc lột sản phẩm của người kia. Như vậy là chưa có giai cấp.
• Cuối xã hội nguyên thủy, việc sử dụng phổ biến công cụ lao động bằng kim
loại (hơn hẳn đá, gỗ…) làm cho năng suất lao động tăng lên, giúp con lOMoARc PSD|36215725
người có thể sản xuất số lượng sản phẩm vượt hơn nhu cầu tối thiểu để tồn
tại. Điều này tạo khả năng thực tế cho người này chiếm đoạt sản phẩm lao
động thuộc số vượt hơn đó của người khác.
• Với công cụ sản xuất mới, sản xuất cá thể từng ra đình có hiểu quả hơn sản
xuất tập thể nguyên thủy. Lực lượng sản xuất phát triển dẫn đến sự phân
công lao động lớn hơn: Thủ công nghiệp (nghề làm gốm, đan lát…) tách
khỏi nông nghiệp (trồng trọt, chăn nuôi).
• Trao đổi sản phẩm trở thành thường xuyên, phổ biến. Quan hệ sản xuất
cộng đồng nguyên thủy không còn phù hợp với lực lượng sản xuất mới.
Các gia đình có tài sản riêng ngày càng nhiều và trong công xã xuất hiện sự
chênh lệch về tài sản.
Khi các hộ gia đình có nhiều tài sản, chế độ tư hữu dần thay thế cho chế
độ công hữu nguyên thủy về tư liệu sản xuất.
• Trong những điều kiện ấy, những người có quyền lực trong thị tộc, bộ lạc
(như tù trưởng, thủ lĩnh quân sự…) có thể lợi dụng địa vị của mình để
chiếm đoạt tài sản chung của công xã làm của riêng. Đồng thời, do có sản
phẩm dư thừa để nuôi tù binh chiến tranh nên họ không phải giết hết tù
binh mà bắt một bộ phận tù binh làm nô lệ.
Đến đây, giai cấp xuất hiện như là một sự kiện tất yếu trong lịch sử.
• Các cuộc chiến tranh, những thủ đoạn cướp bóc, những hành vi bạo lực…
là những yếu tố xúc tác góp phần đẩy nhanh quá trình phân hóa giai cấp. Sự
ra đời cũng như sự mất đi của xã hội có giai cấp, sự xuất hiện và mất đi của
những giai cấp cụ thể đều dựa trên tính tất yếu kinh tế.
• Xã hội nô lệ là xã hội có giai cấp đầu tiên trong lịch sử loài người. Trong
quá trình phát triển của xã hội nô lệ xuất hiện những điều kiện để một bộ
phận thoát ly lao động chân tay, chuyên hoạt động quản lý, làm chính trị,
khoa học nghệ thuật. Đồng thời cũng xuất hiện sự tách rời và đối lập giữa
lao động trí óc và lao động chân tay, giữa thành thị và nông thôn.
• Theo tiến trình của lịch sử, xã hội phong kiến thay xã hội nô lệ, xã hội tư
bản thay xã hội phong kiến… trở thành xã hội có giai cấp ở trình độ cao hơn.
- Đặc trưng giai cấp:
• Khái niệm giai cấp được Lênin định nghĩa một cách toàn diện và sâu sắc
trong tác phẩm “Sáng kiến vĩ đại” như sau: “Người ta gọi là giai cấp,
những tập đoàn người to lớn khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống
sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ
(thường thường các quan hệ này được pháp luật quy định và thừa nhận)
lOMoARc PSD|36215725
đối với các tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã
hội, và như vậy là khác nhau về cách thức hướng thụ và về phần của cải ít
hoặc nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người, mà tập
đoàn này có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác, do chỗ các tập
đoàn đó có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế xã hội nhất định”
.
• Trước khi đề cập tới các đặc trưng về chất của giai cấp, ở cả hai mệnh đề,
V.I.Lênin đều lưu ý trước tiên đặc trưng về lượng của giai cấp với tư cách
là “những tập đoàn người”, “tập đoàn người to lớn” dù đó là giai cấp thiểu
số hay đa số trong dân cư. Điều đó chứng tỏ vấn đề giai cấp cũng như vấn
đề đấu tranh giai cấp là vấn đề lớn lao của đời sống xã hội, chứ không phải
vấn đề của những nhóm nhỏ hay cá nhân.
Vì vậy, đặc trưng tổng quát về chất của giai cấp là sự “khác nhau về địa
vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử”,
hoặc là thống trị, hoặc là bị trị (đương nhiên có thể có bộ phận nào đó
đóng vai trò trung gian) trong kinh tế. Khái quát này của Lênin, thứ
nhất, bác bỏ mọi cách giải thích duy tâm về giai cấp từ các nguồn gốc
phi kinh tế; thứ hai, chỉ ra tính lịch sử cụ thể của giai cấp ở những điều
kiện lịch sử cụ thể; thứ ba, đòi hỏi xem xét giai cấp trong tính chỉnh thể
phức tạp vốn có của “một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử”.

• Mặt khác, V.I.Lênin đã đi sâu cụ thể hóa đặc trưng tổng quát nói trên của
giai cấp thành ba đặc trưng tương ứng với ba mặt cấu thành các quan hệ sản
xuất. Đó là ba sự khác nhau: về quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất; về
quan hệ tổ chức lao động xã hội; và về quan hệ phân phối. Hiển nhiên là sự
khác nhau về quan hệ sở hữu tự nó có vai trò quyết định bản chất đối với
hai mối quan hệ còn lại, cũng như quyết định cả địa vị các giai cấp trong
một hệ thống sản xuất xã hội nói chung. Trong mệnh đề thứ nhất này,
V.I.Lênin còn có hai lưu ý vừa tinh tế vừa sâu sắc đối với vấn đề sở hữu và phân phối.
Thứ nhất, như Lênin vạch rõ, quan hệ sở hữu “thường được pháp
luật quy định và công nhận”. Điều đó chứng tỏ rằng các quan hệ giai
cấp không tách rời quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng (kinh tế)
với kiến thức thượng tầng (chính trị – pháp lý), bác bỏ mọi luận điệu
cho rằng chính trị, nhà nước, pháp quyền “vô tư” đối với sở hữu
khác nhau của mọi giai cấp.
Thứ hai, trước khi nói tới sự khác nhau về “phần của cải xã hội ít
hoặc nhiều” trong quan hệ phân phối, Lênin đã lưu ý đến sự “khác lOMoARc PSD|36215725
nhau về cách thứ hưởng thụ” của các giai cấp. Ai cũng biết cách
thức hưởng thụ của giai cấp bóc lột thống trị xưa nay là hết sức xa
hoa, lãng phí, thậm chí không tính nổi bằng tiền mà bằng bao xương
máu của người lao động (ví dụ các kim tự tháp, các lăng tẩm của vua chúa).
• Với mức độ khái quát sâu nhất và rộng nhất có thể có ở mệnh đề thứ hai,
Lênin chỉ nêu hai đặc trưng cơ bản của giai cấp có quan hệ qua lại chặt chẽ
với nhau: Một là, “tập đoàn này có thể tước đoạt lao động của tập đoàn
khác”; Hai là, “các tập đoàn đó có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh
tế xã hội nhất định.”
Ở mệnh đề này, Lênin đã thâu tóm cái bản chất sâu xa nhất, cốt lõi
nhất, và cũng là phản nhân văn nhất của các quan hệ giai cấp đối
kháng xưa nay - đó là vấn đề “chiếm đoạt lao động”. Chính chiếm
đoạt lao động là đặc trưng bao trùm và chi phối tất cả các đặc trưng
khác của giai cấp ở cả hai mệnh đề, và sâu xa hơn, nó cắt nghĩa cả
nguồn gốc của giai cấp và của đấu tranh giai cấp. Hơn nữa, không
phải đặc trưng nào ở mệnh đề thứ nhất về giai cấp cũng đồng nghĩa
với xung đột, với đối kháng. Nhưng chừng nào và ở đâu còn chiếm
đoạt lao động thì tất còn xung đột, còn đối kháng. Trong xã hội phân
chia giai cấp, thực chất của quan hệ giai cấp là quan hệ xung đột đối
kháng. Nếu hiểu khác đi là mơ hồ về giai cấp. Triết lý nổi tiếng của
C.Mác và Ph.Angghen “tước đoạt kẻ đi tước đoạt” không chỉ đúng
với quy luật phủ định của phủ định chi phối toàn bộ chu kỳ phát
triển trọn vẹn của lịch sử loài người (sở hữu xã hội – sở hữu tư nhân
– sở hữu xã hội trên hình thức cao hơn), mà còn hợp với cả đạo lý
sống cơ bản nhất của loài người.
Ở đặc trưng còn lại của giai cấp trong mệnh đề thứ hai, V.I.Lênin đã
gắn liền đặc trưng chiếm đoạt lao động không phải với “hệ thống
sản xuất xã hội” (như định nghĩa thứ nhất) mà với cả “chế độ kinh tế
xã hội” – nghĩa là với toàn bộ tòa nhà xã hội, cơ thể xã hội. Vì rằng,
với nhiều lý do khác nhau, có những bộ phận xã hội chiếm đoạt lao
động không phải do quan hệ sở hữu trong sản xuất kinh tế, mà do lợi
dụng trực tiếp địa vị chính trị – xã hội. Đặc quyền đặc lợi của tầng
lớp quý tộc dưới chính thể quân chủ – lập hiến là một ví dụ. Nạn hối
lộ – tham nhũng xưa nay trong bộ máy nhà nước cũng là một ví dụ.
- Nguồn gốc đấu tranh giai cấp:
• Theo C.Mác, trong xã hội có giai cấp, giai cấp thống trị chiếm đoạt lao
động của các giai cấp và tầng lớp bị trị. Các giai cấp, tầng lớp bị trị không lOMoARc PSD|36215725
những bị chiếm đoạt kết quả lao động mà họ còn bị áp bức về chính trị, tư
tưởng và tinh thần. Bởi sự hình thành giai cấp cũng là sự hình thành các lợi
ích khác nhau. Lợi ích giai cấp không phải do ý thức giai cấp quy định mà
do địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp ấy tạo nên một cách khách quan. Giai
cấp bóc lột bao giờ cũng dùng mọi biện pháp và phương tiện bảo vệ địa vị
giai cấp của họ, duy trì củng cố chế độ kinh tế xã hội cho phép họ được
hưởng những đặc quyền, đặc lợi giai cấp. Lợi ích cơ bản của giai cấp bị trị
đối lập với lợi ích cơ bản của giai cấp thống trị. Đây là nguyên nhân trực
tiếp dẫn tới đấu tranh giai cấp.

Nguyên nhân sâu xa dẫn tới đấu tranh giai cấp, theo C.Mác là mâu thuẫn
giữa trình độ phát triển cao của lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất đã
lỗi thời. Theo C. Mác, đấu tranh giai cấp mà đỉnh cao là cách mạng xã hội
chỉ có thể nổ ra trên cơ sở lực lượng sản xuất phát triển tới mức mâu thuẫn
không thể giải quyết với quan hệ sản xuất đã lỗi thời trong lòng xã hội cũ.
C.Mác gọi đây là "tiền đề thực tiễn tuyệt đối cần thiết, vì không có nó thì
tất cả sẽ chỉ là sự nghèo nàn sẽ trở thành phổ biến; mà với sự thiếu thốn tột
độ thì ắt sẽ bắt đầu trở lại một cuộc đấu tranh để giành những cái cần thiết,
thế là người ta lại không tránh khỏi rơi vào cũng sự ti tiện trước đây”.
• Sự phát triển khách quan của lực lượng sản xuất tất yếu dẫn đến việc xã hội
phải xóa bỏ bằng cách này hay cách khác quan hệ sản xuất cũ và thay thế
nó bằng một kiểu quan hệ sản xuất mới, phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất: “Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực
lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất
hiện có... trong đó từ trước đến nay các lực lượng sản xuất vẫn phát triển.
Từ chỗ là những hình thức phát triển của lực lượng sản xuất, những quan
hệ ấy trở thành những xiềng xích của các lực lượng sản xuất… Khi đó bắt
đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội”. Đó chính là cách mạng xã hội hay đấu tranh giai cấp.
- Đặc trưng của đấu tranh giai cấp:
• Đấu tranh giai cấp có thể có nhiều hình thức khác nhau:
Bạo lực trực tiếp, chẳng hạn như các cuộc chiến tranh tranh giành
các nguồn tài nguyên và lao động rẻ;
Bạo lực gián tiếp, chẳng hạn như tử vong vì nghèo đói, đói khát,
bệnh tật hoặc điều kiện làm việc không an toàn;
Ép buộc, chẳng hạn như nguy cơ mất việc làm hoặc một khoản đầu tư quan trọng; lOMoARc PSD|36215725
Hay ý thức hệ, hoặc là cố ý (với các sách và bài báo quảng bá chủ
nghĩa tư bản) hoặc vô ý
Ngoài ra, có nhiều các hình thức chính trị của đấu tranh giai cấp.
hợp pháp hoặc bất hợp pháp, thông qua vận động hành lang hoặc hối
lộ các nhà lãnh đạo chính phủ thông qua luật cho đảng phái bao gồm
luật lao động, mã số thuế, luật người tiêu dùng, luật Quốc hội hoặc
thuế má. Các cuộc đấu tranh giai cấp có thể mang tính mở, như công
nhân đình công với mục đích nhằm tiêu diệt một công đoàn lao
động, hoặc mang tính ẩn, như công nhân cố tình giảm năng suất lao
động nhằm phản đối mức lương thấp hoặc các điều kiện lao động không công bằng.
• Trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Karl Marx đã lập luận
rằng một giai cấp được hình thành khi các thành viên của nó đạt được ý
thức và tinh thần đoàn kết. Điều này phần lớn xảy ra khi các thành viên của
một giai cấp nhận thức được việc bị bóc lột của họ và xung đột với một giai
cấp khác. Một giai cấp sau đó sẽ nhận ra lợi ích chung của họ và một bản
sắc chung. Theo Marx, một giai cấp sau đó sẽ có hành động chống lại
những kẻ đang lợi dụng giai cấp thấp hơn. Những gì Marx chỉ ra là các
thành viên của hai trong số hai giai cấp chính có lợi ích chung. Những lợi
ích giai cấp hoặc tập thể này mâu thuẫn với toàn bộ các giai cấp khác. Điều
này dẫn đến xung đột giữa các thành viên đơn lẻ của các giai cấp khác
nhau. Phân tích của Marxist về xã hội xác định hai nhóm xã hội chính:
Lao động (vô sản hoặc công nhân) bao gồm bất cứ ai kiếm kế sinh
nhai bằng cách bán sức lao động của họ và được trả lương hoặc tiền
công cho thời gian lao động của họ. Họ có ít lựa chọn nhưng phải
làm việc vì tiền, vì họ thường không có cách độc lập để tồn tại.
Tư bản (tư sản hoặc tư bản) bao gồm bất kỳ ai có được thu nhập của
họ không phải từ lao động nhiều như từ giá trị thặng dư mà họ có
được từ những người lao động tạo ra sự giàu có. Thu nhập của các
nhà tư bản, do đó, dựa trên sự bóc lột của họ đối với các công nhân (vô sản).
• Không phải tất cả các cuộc đấu tranh giai cấp đều mang tính bạo lực hoặc
nhất thiết phải triệt để, như với các cuộc đình công và đóng cửa nhà máy.
Thay vào đó, sự đối kháng giai cấp có thể được thể hiện như tinh thần giảm
của công nhân, phá hoại, ăn cắp vặt, và lạm dụng quyền lực của cá nhân
những người chủ và tích trữ thông tin. Nó cũng có thể được thể hiện trên
quy mô lớn hơn như việc công nhân ủng hộ cho các đảng xã hội chủ nghĩa
hoặc dân túy. Về phía người sử dụng lao động, việc sử dụng các công ty lOMoARc PSD|36215725
luật công đoàn và vận động hành lang cho các luật chống liên minh là các
hình thức đấu tranh giai cấp.
• Không phải tất cả các cuộc đấu tranh giai cấp đều mang tính đe dọa đối với
chủ nghĩa tư bản, hoặc thậm chí đối với quyền lực của một nhà tư bản cá
nhân. Một cuộc đấu tranh thu nhỏ để có mức lương cao hơn bởi một khu
vực nhỏ của tầng lớp lao động, thường được gọi là "chủ nghĩa kinh tế", hầu
như không đe dọa đến hiện trạng chung. Trên thực tế, bằng cách áp dụng
các chiến thuật liên minh thủ công loại trừ các công nhân khác khỏi các
ngành nghề lành nghề, một cuộc đấu tranh kinh tế thậm chí có thể làm suy
yếu toàn bộ giai cấp công nhân bằng cách chia rẽ nó. Cuộc đấu tranh giai
cấp trở nên quan trọng hơn trong quá trình lịch sử khi nó trở nên chung
chung hơn, vì các ngành công nghiệp được tổ chức chứ không phải hình
thành một cách thủ công, khi ý thức giai cấp của công nhân tăng lên, và khi
họ tự tổ chức ra khỏi các đảng chính trị. Marx gọi điều này là sự tiến bộ của
giai cấp vô sản từ việc trở thành một giai cấp "trong chính nó", một vị trí
trong cấu trúc xã hội, trở thành một giai cấp "vì chính nó", một lực lượng
tích cực và có ý thức mà có thể thay đổi thế giới.
• Marx chủ yếu tập trung vào xã hội công nghiệp tư bản là nguồn gốc của sự
phân tầng xã hội, cuối cùng dẫn đến xung đột giai cấp. Ông nói rằng chủ
nghĩa tư bản tạo ra sự phân chia giữa các giai cấp mà phần lớn có thể thấy
trong các nhà máy sản xuất. Giai cấp vô sản, bị tách ra khỏi giai cấp tư sản
vì việc sản xuất đã trở thành một doanh nghiệp xã hội. Góp phần vào sự
tách biệt của họ là công nghệ có trong các nhà máy. Công nghệ loại bỏ kỹ
năng và khiến người lao động bị loại bỏ vì họ không còn được xem là có kỹ
năng chuyên môn. Một tác dụng khác của công nghệ là lực lượng lao động
đồng nhất có thể dễ dàng thay thế. Marx tin rằng cuộc xung đột giai cấp
này sẽ dẫn đến việc lật đổ giai cấp tư sản và tài sản tư nhân sẽ thuộc sở hữu
chung. Phương thức sản xuất sẽ vẫn còn, nhưng quyền sở hữu chung sẽ loại bỏ xung đột giai cấp.
• Ngay cả sau một cuộc cách mạng, hai giai cấp sẽ tiếp tục đấu tranh, nhưng
cuối cùng cuộc đấu tranh sẽ giảm dần và các giai cấp sẽ tan rã. Khi ranh
giới giai cấp bị phá vỡ, bộ máy nhà nước sẽ dần biến mất. Theo Marx,
nhiệm vụ chính của bất kỳ bộ máy nhà nước nào là phát huy quyền lực của
giai cấp thống trị; nhưng không có giai cấp thì sẽ không cần đến nhà nước.
Điều đó sẽ dẫn đến xã hội cộng sản, xã hội không có giai cấp và không có nhà nước.
- Đấu tranh giai cấp không phải là động lực duy nhất của sự vận động và phát
triển của xã hội. Vì: lOMoARc PSD|36215725
• Theo V.I.Lênin khái niệm đấu tranh giai cấp dùng để chỉ “cuộc đấu tranh
của quần chúng bị tước hết quyền, bị áp bức và lao động, chống bọn có đặc
quyền đặc lợi, bọn áp bức và bọn ăn bám, cuộc đấu tranh của những người
công nhân làm thuê hay những người vô sản chống những người hữu sản
hay giai cấp tư sản”. Theo khái niệm này, thực chất của đấu tranh giai cấp
là cuộc đấu tranh của những người lao động làm thuê, những người nô lệ,
bị áp bức về chính trị – xã hội và bị bóc lột về kinh tế chống lại sự áp bức
và bóc lột nó; tức là nhằm giải quyết vấn đề mâu thuẫn lợi ích kinh tế và
chính trị xã hội giữa giai cấp thống trị và bị thống trị ở những phạm vi và
mức độ khác nhau. Tùy theo những điều kiện lịch sử khác nhau, các cuộc
đấu tranh giai cấp trong xã hội có thể được biểu hiện dưới nhiều hình thức
khác nhau, với những phạm vi và trình độ khác nhau như: đấu tranh kinh tế,
đấu tranh tư tưởng, đấu tranh chính trị… Trong thực tế lịch sử, cuộc đấu
tranh giai cấp có thể còn mang những hình thức đấu tranh dân tộc, tôn giáo,
văn hóa và có thể có nhiều hình thức đa dạng khác.
• Sự ra đời và tồn tại của nhà nước là kết quả của cuộc đấu tranh giai cấp
trong xã hội có đối kháng giai cấp. Khi cái mâu thuẫn xã hội đã bị đẩy đến
chỗ không thể giải quyết được thì tất yếu giai cấp thống trị cần đến sức
mạnh bạo lực đặc biệt để duy trì xã hội trong vòng một “trật tự” theo ý chí
của nó, thực hiện lợi ích của nó. Sự ra đời và tồn tại của nhà nước không
phải để giải quyết mâu thuẫn mà là để duy trì trật tự xã hội trong điều kiện
mâu thuẫn không thể giải quyết được. Trong lịch sử trên hai ngàn năm qua
đã từng tồn tại các kiểu nhà nước nhà nước chủ nô thời cổ đại, nhà nước
phong kiến thời trung cổ và nhà nước tư sản ở các nước tư bản từ thời cận
đại đến nay. Đây là những kiểu nhà nước đúng với nghĩa đen của nó, tức là
công cụ bạo lực có tổ chức nhằm khống chế cuộc đấu tranh giai cấp của
giai cấp những người lao động. Cho dù các hình thức của mỗi kiểu nhà
nước đó có khác nhau, tên gọi khác nhau (hình thức quân chủ tập quyền
hoặc phân quyền, quân chủ lập hiến, cộng hòa quý tộc, cộng hòa đại nghị,
cộng hòa tổng thống…) nhưng bản chất giai cấp của chúng chỉ là một – đó
là công cụ chuyên chính giai cấp của các giai cấp bóc lột trong lịch sử đối
với nô lệ hay lao động làm thuê. Khác với các kiểu nhà nước nói trên, nhà
nước chuyên chính vô sản là nhà nước kiểu mới. là “nửa nhà nước”, “nhà
nước không còn nguyên nghĩa đen cùa nó”, tồn tại trong thời ký quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, là công cụ bạo lực có tổ chức và công cụ quản lý kinh
tếxã hội của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
• Theo lý luận hình thái kinh tế – xã hội, phương thức và động lực cơ bản
nhất của sự tiến bộ, phát triển xã hội là sự vận động của mâu thuẫn trong lOMoARc PSD|36215725
phương thức sản xuất, trong bản thân nền sản xuất vật chất của xã hội,
nhưng trong điều kiện xã hội có sự phân hóa giai cấp thì mâu thuẫn đó lại
được bộc lộ và biến thành mâu thuẫn đối kháng giữa các giai cấp trong đời
sống chính trị – xã hội. Trong trường hợp này, mâu thuẫn đối kháng trong
đời sống kinh tế chỉ có thể giải quyết được thông qua việc giải quyết mâu
thuẫn đối kháng giai cấp trên lĩnh vực chính trị – xã hội.
Như vậy, mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp đã trở thành cơ chế
chính trị – xã hội để giải quyết mâu thuẫn trong phương thức sản xuất,
thực hiện nhu cầu khách quan của sự phát triển của lực lượng sản xuất,
thúc đẩy sự phát triển của xã hội.

Câu 3: Theo quan điểm của Triết học Mác – Lênin, có 5 hình thức tổ chức cộng
đồng người ở lịch sử: a) Thị tộc
- Thị tộc là một hình thức cộng đồng người cơ bản trong thời kỳ nguyên thủy. Thị
tộc là một tập thể sản xuất xã hội đầu tiên của xã hội nguyên thủy có sự cộng đồng
về nguồn gốc, ngôn ngữ chung, phong tục tập quán và văn hóa chung.
- Cơ sở kinh tế của thị tộc là sở hữu công cộng nguyên thủy. Xét về hình thức thị
tộc đầu tiên là thị tộc mẫu quyền. Vai trò quyết định trong đời sống kinh tế xã hội
thuộc về người phụ nữ. Bởi vì trong thời kỳ này nghề săn bắn của đàn ông là nghề
không ổn định, ngược lại nghề hái lượm, chuẩn bị thức ăn, trông coi lửa và giữ
nhà lại có khả năng bảo đảm sự ổn định của thị tộc. Nhưng về sau do sự phát triển
của lực lượng sản xuất trong xã hội nguyên thủy dẫn đến phát triển của trồng trọt
và chăn nuôi, vai trò của người đàn ông trong đời sống thị tộc tăng lên, dần dần thị
tộc mẫu quyền bị thay thế bởi thị tộc phụ quyền. b) Bộ lạc
- Bộ lạc là một cộng đồng người lớn hơn so với thị tộc, phát triển từ thị tộc. Mỗi
một bộ lạc bao gồm nhiều thị tộc khác nhau và ít nhất có hai thị tộc. Những thị tộc
hợp thành bộ lạc có quan hệ huyết thống và quan hệ hôn nhân với nhau.
- Bộ lạc thường có cùng ngôn ngữ, phong tục tập quán, văn hóa, tín ngưỡng và cùng
chung sống trên một vùng lãnh thổ. Mặc dù chưa thật sự ổn định nhưng việc xác
lập chủ quyền về mặt lãnh thổ là đặc trưng mới của bộ lạc so với thị tộc. Bộ lạc có
hình thức sở hữu cao hơn thị tộc. Ngoài sở hữu riêng của thị tộc, bộ lạc còn có
những sở hữu khác bao gồm vùng lãnh thổ, nơi trồng trọt, săn bắt và chăn nuôi...
- Lãnh đạo bộ lạc là một hội đồng các tộc trưởng hay tù trưởng. Trong bộ lạc có
một thủ lĩnh tối cao nhưng mọi quyền hành quản lý bộ lạc đều do hội nghị của hội
đồng các tộc trưởng và thủ lĩnh quân sự quyết định. Hình thức phát triển cao nhất
của bộ lạc là liên minh bộ lạc được hình thành từ sự liên kết nhiều bộ lạc. lOMoARc PSD|36215725 c) Bộ tộc
- Bộ tộc là một hình thức phát triển của cộng động người trong lịch sử, xuất hiện
vào thời kỳ lao động chăn nuôi tách khỏi trồng trọt nghề thủ công ra đời. Bộ tộc
xuất hiện vào thời kỳ chiếm hữu nô lệ, hoặc chế độ phong kiến ở những quốc gia
bỏ qua phương thức sản xuất chiếm hữu nô lệ.
- Đặc điểm cơ bản của bộ tộc là việc hình thành lãnh thổ chung, tiếng nói chung,
văn hóa và lối sống chung, nó đánh dấu sự tan rã của các quan hệ sản xuất nguyên
thủy hình thành quan hệ sản xuất của xã hội có giai cấp. Cơ sở hình thành bộ tộc
không còn là quan hệ huyết thống mà dựa trên quan hệ lãnh thổ giữa những người
ở các bộ lạc khác nhau, gắn bó với nhau thông qua hoạt động sản xuất, thương mại
và các qua hệ kinh tế khác. Quyền sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất xuất hiện và
quan hệ bóc lột xuất hiện.
- Bộ tộc tạo điều kiện cho sản xuất phát triển, cho tích lũy và trao đổi kinh nghiệm
sản xuất, văn hóa… Nhưng khi nền sản xuất hàng hóa thay thế dần nền kinh tế tự
nhiên, gia tộc thì bộ tộc trở thành sức cản đối với sự phát triển của sản xuất và trao
đổi, cho nên dân tộc xuất hiện thay thế dần hình thức bộ tộc. d) Dân tộc
- Dân tộc là một khối cộng đồng người ổn định, được thành lập trong lịch sử dựa
trên cơ sở cộng đồng về về tiếng nói, lãnh thổ, sinh hoạt kinh tế và tâm lý, biểu
hiện trong cộng động văn hóa. Trong những đặc điểm về dân tộc thì cộng đồng về
đời sống kinh tế là quan trọng nhất.
- Xét về mặt lịch sử phong trào dân tộc có ba thời kỳ:
Thứ nhất, gắn liền với quá trình hình thành chủ nghĩa tư bản, đánh dấu sự
tan rã của chế độ phong kiến, thời kỳ chuyển tiếp từ bộ tộc sang dân tộc.
Thời kỳ này giai cấp tư sản lãnh đạo phong trào dân tộc.
Thứ hai, thời kỳ chủ nghĩa tư bản trở thành chủ nghĩa đế quốc. Đó là thởi
kỳ của các phong trào dân tộc thuộc địa bị áp bức bóc lột không ngừng đấu
tranh chống chủ nghĩa đế quốc, giải phóng dân tộc.
Thứ ba, là thời kỳ hiện nay – thời kỳ tan rã của hệ thống thuộc địa của chủ
nghĩa đế quốc, thời kỳ hoàn thiện ở các nước đã và đang được giải phóng
trong cuộc đấu tranh chống đế quốc.
- Việt Nam là một nước thuộc phương thức sản xuất Châu Á, lại có những đặc điểm
riêng về mặt lịch sử và địa lý nên dân tộc Việt Nam xuất hiện rất sớm và hình
thành không gắn liền với phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Những yếu tố
thúc đẩy quá trình hình thành dân tộc Việt Nam từ khi chưa có chủ nghĩa tư bản là:
Sự nghiệp dựng nước và giữ nước, việc đấu tranh với thiên tai khắc nghiệt là sự
nghiệp của mọi người, mọi nhà của toàn thể dân tộc v.v… một cộng đồng người lOMoARc PSD|36215725
bền vững, có truyền thống đoàn kết, kiên cường chống ngoại xâm và đấu tranh với thiên nhiên.
- Vấn đề dân tộc và tính chất giai cấp của vấn đề dân tộc luôn gắn liền với những
giai cấp khác nhau trong những điều kiện lịch sử xã hội khác nhau. Trong mỗi một
thời kỳ lịch sử nhất định, mỗi một dân tộc nhất định hoặc cộng đồng dân tộc nhất
định đều có một giai cấp làm đại biểu và giai cấp đó quy định tính chất của các
dân tộc hoặc các cộng đồng dân tộc đó. Mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc, giữa
các cộng đồng dân tộc phụ thuộc vào những mâu thuẫn của thời đại và xu hướng
phát triển của lịch sử. e) Gia đình
- Gia đình là một hình thức cộng đồng xã hội liên kết giữa vợ và chồng, bố mẹ và
con cái với nhau. Cơ sở hình thành gia đình là do quan hệ hôn nhân và huyết
thống. Quan hệ đó về cơ bản được hình thành bởi tình yêu và tính giao. Một khi
hôn nhân không dựa trên cơ sở tình yêu nó có nguy cơ phá vỡ nền tảng của mối
quan hệ đó. Quan hệ gia đình là một quan hệ mang tính tất yếu, khách quan và
không thể có gì thay thế được. Trong đó quan hệ vơ chồng là quan hệ xuất phát
hội tụ đầy đủ những yếu tố về mặt sinh học – xã hội, là quan hệ nền tảng cho sự
tồn tại và phát triển của gia đình, quan hệ mang tính quyết định cho các quan hệ khác ở trong gia đình.
- Gia đình, các kiểu gia đình luôn gắn liền với những điều kiện lịch sử nhất định,
các phương thức sản xuất vật chất nhất định. Về vấn đề này Ănghen đã từng chỉ ra
rằng: “ Ở thời đại mông muội, có chế độ quần hôn; ở thời đại dã man, có chế độ
hôn nhân đối ngẫu; ở thời đại văn minh, có chế độ một vợ một chồng”. Như vậy
về cơ bản trong tiến trình phát triển của xã hội có ba hình thức hôn nhân chính và
tương ứng với nó là ba giai đoạn phát triển của nhân loại.
- Gia đình là một tế bào của xã hội, đóng một vai trò đặc biệt quan trọng trong đời
sống xã hội. Sự tồn tại vận động và phát triển của xã hội nhờ hai loại tái sản xuất:
tái sản xuất ra của cải vật chất để nuôi sống con người và tái sản xuất ra chính bản
thân con người để duy trì nòi giống. Gia đình với chức năng là tái sản xuất ra hình thức đã nêu ở trên.
Phân tích tính phổ biến và tính đặc thù của sự hình thành dân tộc trong lịch sử thế giới 1. Tính phổ biến
a. Thứ nhất, dân tộc là một cộng đồng về ngôn ngữ.
- Ngôn, ngữ là công cụ giao tiếp xã hội, trước hết là công cụ giao tiếp
trong cộng đồng (thị tộc, bộ lạc, bộ tộc, dân tộc). Các thành viên của
một dân tộc có thể dùng nhiều ngôn ngữ trong giao tiếp với nhau.
Có một số ngôn ngữ được nhiều dân tộc sử dụng. Điều quan trọng là lOMoARc PSD|36215725
mỗi dân tộc có một ngôn ngữ chung thông nhất mà các thành viên
của dân tộc coi đó là tiếng mẹ đẻ của họ. Tính thống nhất trong ngôn
ngữ dân tộc thể hiện trước hết ở sự thống nhất về cấu trúc ngữ pháp
và kho từ vựng cơ bản. Ngôn ngữ của một dân tộc thể hiện đặc trưng
chủ yếu của dân tộc đó.
b. Thứ hai, dân tộc là một cộng đồng về lãnh thổ.
- Mỗi dân tộc có lãnh thổ riêng thống nhất, không bị chia cắt. Lãnh
thổ dân tộc bao gồm cả vùng đất, vùng trời, vùng biển, hải đảo thuộc
chủ quyền của quốc gia dân tộc. Trong trường hợp quốc gia có nhiều
dân tộc, lãnh thổ quốc gia gồm lãnh thổ của các dân tộc thuộc quốc
gia ấy hợp thành. Phạm vi lãnh thổ dân tộc hình thành trong quá
trình lịch sử lâu dài. Chủ quyền quốc gia dân tộc về lãnh thổ là một
khái niệm xác định, thường được thể chế hóa thành luật pháp quốc
gia và luật pháp quốc tế. Thực tế lịch sử có những trường hợp bị
chia cắt tạm thời, nhưng không thể căn cứ vào đó mà cho rằng cộng
đồng ấy đã bị chia thành hai hay nhiều dân tộc khác nhau. Đương
nhiên sự chia cắt đó là một thử thách đối với tính bền vững của một cộng đồng dân tộc.
- Cộng đồng lãnh thổ là đặc trưng quan trọng không thể thiếu được
của dân tộc. Lãnh thổ là địa bàn sinh tồn và phát triển của dân tộc,
không có lãnh thổ thì không có khái niệm tổ quốc, quốc gia.
c. Thứ ba, dân tộc là một cộng đồng về kinh tế.
- Từ các cộng đồng người nguyên thủy chuyển sang bộ tộc, yếu tố
liên kết cộng đồng dựa trên quan hệ huyết thống dần dần bị suy
giảm, vai trò của nhân tố” kinh tế – xã hội ngày càng tăng. Đây là
nhu cầu hoàn toàn khách quan trong đời sống xã hội. Những mối
liên hệ kinh tế làm tăng tính thống nhất, ổn định, bền vững của cộng
đồng người sống trong một lãnh thổ rộng lớn. Những mối liên hệ
kinh tế thường xuyên và mạnh mẽ đặc biệt là mối liên hệ thị trường
đã làm tăng tính thông nhất, tính ổn định, bền vững của cộng đồng
người đông đảo sống trong lãnh thổ rộng lớn. Thiếu sự cộng đồng
chặt chẽ, bền vững về kinh tế thì cộng đồng người chưa phải là dân tộc.
d. Thứ tư, dân tộc là một cộng đồng về văn hóa, tâm lý, tính cách…
- Văn hóa là yếu tố đặc biệt quan trọng của sự liên kết cộng đồng.
Văn hóa dân tộc mang nhiều sắc thái của các địa phương, các sắc
tộc, các tập đoàn người song nó vẫn là một nền văn hóa thông nhất
không bị chia cắt. Tính thống nhất trong đa dạng là đặc trưng của lOMoARc PSD|36215725
văn hóa dân tộc. Văn hóa dân tộc hình thành trong quá trình lâu dài
của lịch sử, hơn bất cứ yếu tố’ nào khác, tạo ra sắc thái riêng đa
dạng, phong phú của từng dân tộc. Mỗi dân tộc có một nền văn hóa
riêng để phân biệt dân tộc này với dân tộc khác. Văn hóa của mỗi
dân tộc không thể phát triển, nếu không giao lưu văn hóa với các
dân tộc khác. Mỗi dân tộc có tâm lý, tính cách riêng. Để nhận biết
tâm lý, tính cách của mỗi dân tộc phải thông qua sinh hoạt vật chất,
sinh hoạt tinh thần của dân tộc ấy, đặc biệt thông qua phong tục, tập
quán, tín ngưỡng, đời sống văn hóa. 2. Tính đặc thù
- Các dân tộc ở Việt Nam cư trú xen kẽ nhau
- Các dân tộc thiểu số ở nước ta chủ yếu cư trú trên các vùng rừng
núi, biên giới, có vị trí quan trọng
- Các dân tộc ở Việt Nam có trình độ phát triển kinh tế - xã hội không đồng đều nhau
- Nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất trong đa dạng, mỗi
dân tộc anh em có những giá trị và sắc thái văn hóa riêng
- Việt Nam có một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số theo các tôn giáo khác
Mối quan hệ giữa giai cấp, dân tộc và nhân loại:
- Giữa giai cấp và dân tộc:
• Giai cấp và dân tộc đều là những phạm trù lịch sử. Bởi nó xuất hiện và tồn
tại phụ thuộc vào những điều kiện lịch sử nhất định. Giai cấp và dân tộc là
những phạm trù chỉ các quan hệ xã hội khác nhau, nhưng nó có quan hệ tác
động qua lại lẫn nhau. Trong mối quan hệ đó giai cấp và dân tộc có những
vai trò khác nhau. Tính lịch sử của giai cấp và dân tộc khác nhau. Khi giai
cấp mất đi thì dân tộc vẫn tồn tại lâu dài cùng với sự phát triển của xã hội.
Quan hệ giai cấp – dân tộc với tư cách sản phẩm trực tiếp của phương thức
sản xuất của xã hội có giai cấp – là nhân tố xét đến cùng có vai trò quyết
định với sự hình thành dân tộc, với xu hướng phát triển của dân tộc, quy
định bản chất xã hội của dân tộc, quy định tính chất của các mối quan hệ dân tộc.
• Mối quan hệ giữa đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc đều là các hình
thức của đấu tranh xã hội để giải quyết những mâu thuẫn chung của xã hội.
Nhưng nếu dân tộc chưa được độc lập và thống nhất thì giai cấp tiến bộ đại
diện cho phương thức sản xuất mới phải đấu tranh giải phóng dân tộc để trở
thành giai cấp dân tộc. Trong thời đại chủ nghĩa đế quốc, cuộc đấu tranh lOMoARc PSD|36215725
giải phóng dân tộc có vai to lớn đối với cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân.
• Tuy nhiên, trong các xã hội và phương thức sản xuất tồn tại dựa trên chế độ
chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, lợi ích của giai cấp thống trị và lợi
ích của dân tộc không phải khi nào cũng thống nhất, thậm chí nhiều khi trái
ngược và đối lập với lợi ích dân tộc. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, phương
thức sản xuất dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, lực lượng sản
xuất thuộc về quyền sở hữu chung của cả xã hội, thì lợi ích giai cấp về cơ
bản phù hợp với lợi ích của cả cộng đồng dân tộc. Đương nhiên, sự phù
hợp được thể hiện trong quá trình giải quyết đúng đắn các mâu thuẫn.
- Giữa giai cấp và nhân loại:
• Khái niệm nhân loại dùng để chỉ toàn thể cộng đồng người sống trên trái
đât từ hàng triệu năm nay. Xét về hình thức, nhân loại được phân chia dưới
nhiều hình thức khác nhau: cá nhân, giai cấp, dân tộc, v.v… song nhân loại
vẫn là một chỉnh thể thống nhất. Cơ sở của sự thống nhất ấy là bản chất
người của từng cá thể và của cộng đồng đồng, bản chất đó quy định lợi ích
chung của cả cộng đồng.
• Vấn đề lợi ích nhân loại là những vấn đề có liên quan đến sự sống còn của
cả loài người, ví dụ như vấn đề chống dịch bệnh Covid-19, chống chiến
tranh hạt nhân, bảo vệ môi trường… Lợi ích nhân loại là những nhân tố đáp
ứng yêu cầu phát triển của cả loài người, ở mọi quốc gia, không phân biệt
sự khác nhau về giai cấp, dân tộc, tôn giáo… Tuy nhiên, trong xã hội có
giai cấp, lợi ích nhân loại là không thể tách rời với lợi ích giai cấp, lợi ích
dân tộc, và do đó nó bị chi phối bởi lợi ích giai cấp. Lợi ích của giai cấp
tiến bộ phù hợp với lợi ích của nhân loại. Các giai cấp phản động đối với
lịch sử thì lợi ích của giai cấp về căn bản mâu thuẫn với lợi ích chung của
dân tộc và lợi ích toàn nhân loại. Chủ nghĩa Mác – Lênin chỉ ra rằng, muốn
giải phóng mình, giai cấp vô sản phải giải phóng toàn nhân loại khỏi áp bức
và nô dịch của chủ nghĩa tư bản. Vì vậy, lợi ích giai cấp của giai cấp vô sản
về căn bản phù hợp với lợi ích của nhân loại.
Câu 4: Khái niệm, nguyên nhân và vai trò của cách mạng xã hội đối với xã hội có
đối kháng giai cấp theo quan điểm của Triết học Mác – Lênin: Khái niệm
- Theo nghĩa rộng, cách mạng xã hội là sự biến đổi có tính bước ngoặt và căn bản
về chất trong toàn bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội, là phương thức chuyên từ
một hình thái kinh tế - xã hội lỗi thời lên một hình thái kinh tế - xã hội mới ở trình
độ phát triển cao hơn. Theo nghĩa hẹp, cách mạng xã hội là việc lật đổ một chế độ lOMoARc PSD|36215725
chính trị đã lỗi thời và thiết lập một chế độ chính trị tiến bộ hơn của giai cấp cách mạng. Nguyên nhân
- Nguyên nhân sâu xa của cách mạng xã hội là từ mâu thuẫn gay gắt trong bản thân
nền sản xuất vật chất của xã hội, tức mâu thuẫn gay gắt giữa nhu cầu khách quan
của sự phát triển lực lượng sản xuất với sự kìm hãm của quan hệ sản xuất đã trở
nên lỗi thời mà không một cuộc cải cách kinh tế hay chính trị nào có thể giải quyết
được. Mâu thuẫn đó biêu hiện về mặt chính trị - xã hội thành cuộc đâu tranh giai
câp và chính sự phát triển của cuộc đâu tranh giai cẫp này đã tất yếu dẫn đến sự
bùng nổ cách mạng. Đây cũng chính là nguyên nhân khách quan của các cuộc
cách mạng xã hội. Ngoài ra, mỗi cuộc cách mạng xã hội còn có nguyên nhân chủ
quan của nó, đó là sự phát triển về nhận thức và tổ chức của giai cáp cách mạng,
tức giai cấp đại biểu cho phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn. Từ đó tạo ra sự
phát triển của phong trào đấu tranh giai câp từ tự phát đến tự giác và khi có sự kết
hợp chín muồi của các nhân tố khách quan và chủ quan, tức tạo được thời cơ cách
mạng, thì khi đó tất yếu cách mạng sẽ bùng nổ và có khả năng thành công. Vai trò:
- Cách mạng xã hội giữ vai trò là một trong những phương thức động lực của sự
phát triển xã hội. Không có những cuộc cách mạng xã hội trong lịch sử thì không
thể diễn ra quá trình thay thế hình thái kinh tế - xã hội này bằng một hình thái kinh
tế - xã hội mới cao hơn. Với ý nghĩa đó mà C.Mác nhận định rằng: các cuộc cách
mạng xã hội là những “đầu tầu của lịch sử”, là phương thức thực hiện sự phát triển
của các hình thái kinh tế - xã hội. Mặt khác, chính nhờ những cuộc cách mạng xã
hội mà các mâu thuẫn cơ bản của đời sống xã hội trên các lĩnh vực kinh tế, chính
trị, văn hóa,... được giải quyết triệt để, từ đó tạo ra động lực cho sự tiến bộ và phát
triển của xã hội. Trong những thời kỳ cách mạng, năng lực sáng tạo của quần
chúng nhân dân được phát huy cao độ, có thể sáng tạo ra lịch sử mới với một sức
manh phi thường: “một ngày bằng hai mươi năm”.
- Lịch sử nhân loại đã chứng minh đầy đủ và rõ nét vai trò của các cuộc cách mạng
xã hội đã từng diễn ra trong lịch sử mấy nghìn năm qua. Đó là: cuộc cách mạng
thực hiện bước chuyển từ hình thái kinh tế - xã hội nguyên thủy lên hình thái kinh
tế - xã hội chiếm hữu nô lệ; cuộc cách mạng xóa bỏ chế độ nô lệ và thay thế nó
bằng chế độ phong kiến; cuộc cách mạng tư sản lật đổ chế độ phong kiến, xác lập
chế độ tư bản chủ nghĩa; cuộc cách mạng vô sản thực hiện việc xóa bỏ chế độ
chuyên chính vô sản, xác lập chế độ xã hội chủ nghĩa - đây là cuộc cách mạng vĩ
đại nhất, sâu sắc nhất trong lịch sử nhân loại, làm thay đổi hoàn toàn bản chất chế
độ chính trị xã hội cũ, xóa bỏ triệt để nguồn gốc chế độ tư hữu sản sinh đối kháng
giai cấp đã từng tồn lại hàng ngàn năm trong lịch sử nhân loại. lOMoARc PSD|36215725
Câu 5: Theo quan điểm của Triết học Mác – Lênin, nêu khái niệm và lấy ví dụ về
tồn tại xã hội và ý thức xã hội
- Khái niệm tồn tại xã hội:
• Là khái niệm dùng để chỉ sinh hoạt vật chất và những điều kiện sinh hoạt
vật chất xã hội, là những mối quan hệ vật chất – xã hội giữa con người với
tự nhiên và quan hệ vật chất,kinh tế giữa con người với nhau là hai quan hệ
cơ bản. Những mối quan hệ này xuất hiện trong quá trình hình thành xã hội
loài người và tồn tại không phụ thuộc ý thức xã hội.
- Ví dụ tồn tại xã hội:
• Các thành phần chính như phương thức sản xuất vật chất, điều kiện tự
nhiên – môi trường địa lý, dân số và mật độ dân số… Trong đó phương
thức sản xuất vật chất là thành phần cơ bản nhất. Các quan hệ vật chất khác
giữa gia đình, giai cấp, dân tộc cũng có vai trò nhất định đối với tồn tại xã hội.
- Khái niệm ý thức xã hội:
• Là mặt tinh thần của đời sống xã hội, bao gồm tình cảm, tập quán, truyền
thống, quan điểm, tư tưởng, lý luận… Nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản
ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển khác nhau. Nói cách
khác, ý thức xã hội là những quan hệ tinh thần giữa con người với nhau, là
mặt tinh thần trong quá trình lịch sử.
- Ví dụ về ý thức xã hội:
• Ý thức xã hội có cấu trúc bên trong xác định, bao gồm những mức độ khác
nhau (ý thức xã hội thông thường và ý thức lý luận ( khoa học; tâm lý xã
hội và hệ tư tưởng) và cách hình thái của ý thức xã hội ( ý thức chính
trị, pháp luật, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, triết học, khoa học,…) - Mối
quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội:
a) Ý thức xã hội là sự phản ánh của tồn tại xã hội
• Triết học Mác – Lênin khẳng định vật chất quyết định ý thức, nhưng ý thức
lại tác động trở lại đối với vật chất, đó là mối quan hệ biện chứng giữa vật
chất và ý thức. Vận dụng điều này vào xã hội thì tồn tại xã hội quyết định ý
thức xã hội, nhưng ý thức xã hội lại tác động trở lại đối với tồn tại xã hội.
Khẳng định vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội – đó
là quan điểm duy vật về lịch sử - đây là công lao to lớn của C.Mác và
Ph.Ăngghen, các ông đã phát triển chủ nghĩa duy vật đến đỉnh cao, xây
dựng quan điểm duy vật về lịch sử và lần đầu tiên trong lịch sử triết học,
các ông đã giải quyết một cách khoa học vấn đề hình thành và phát triển của ý thức xã hội. lOMoARc PSD|36215725
• Vì tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, cho nên không được tìm nguyên
nhân những biến đổi của đời sống tinh thần của xã hội ngay trong bản thân
đời sống tinh thần mà phải tìm nó trong đời sống vật chất của xã hội, trước
hết là trong quan hệ kinh tế giữa con người với con người. Khi quan hệ
kinh tế biến đổi thì tất cả những tư tưởng xã hội như: chính trị, triết học,
pháp luật, đạo đức sớm muộn sẽ biến đổi theo. Cứ tồn tại xã hội như thế
nào thì ý thức xã hội như thế ấy. Cho nên ở những thời kỳ lịch sử khác
nhau, nếu chúng ta thấy có những quan điểm, lý luận, tư tưởng xã hội khác
nhau thì chính là do những điều kiện khác nhau của đời sống vật chất của xã hội quyết định.
• Tồn tại xã hội không quyết định ý thức xã hội một cách giản đơn, trực tiếp
mà thường thông qua các khâu trung gian. Trong thực tế, không phải bất kỳ
quan điểm, tư tưởng hay lý luận nào cũng phản ánh một cách trực tiếp và rõ
ràng các quan hệ kinh tế của thời đại. Chỉ khi nào chúng ta xét cho đến
cùng thì các mối quan hệ kinh tế của thời đại mới được phản ánh bằng cách
này hay cách khác trong các tư tưởng, quan điểm ấy. Do vậy, khi xem xét
sự phản ánh của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội, đòi hỏi chúng ta phải
có thái độ biện chứng chứ không nên cứng nhắc.
b) Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội
- Mặc dù ý thức xã hội là sự phản ánh của tồn tại xã hội, do tồn tại xã hội quyết
định, nhưng ý thức xã hội không phải là yếu tố thụ động, hoàn toàn phụ thuộc vào
tồn tại xã hội; trái lại, ý thức xã hội có tính độc lập tương đối, nó tác động tích cực
trở lại đối với tồn tại xã hội. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội được biểu
hiện ở những điểm sau đây:
Ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội
Tính lạc hậu của ý thức xã hội so với tồn tại xã hội thể hiện ở chỗ khi xã
hội cũ đã mất đi, thậm chí đã mất rất lâu, nhưng ý thức xã hội do xã hội đó sinh
ra vẫn tồn tại dai dẳng. Sở dĩ như vậy bởi vì các nguyên nhân sau đây:
Một là, do sự biến đổi của xã hội diễn ra quá nhanh, ý thức xã
hội không phản ánh kịp và trở nên lạc hậu. Mặt khác, ý thức xã
hội là sự phản ánh của tồn tại xã hội nên chỉ khi nào tồn tại xã
hội đã biến đổi thì ý thức xã hội mới biến đổi theo.
Hai là, trong lĩnh vực tâm lý xã hội, những thói quen, tập quán,
truyền thống v.v… đã được tạo ra qua nhiều thế kỷ nó có ỳ ghê
gớm không thể ngay một lúc có thể thay đổi được. lOMoARc PSD|36215725
Ba là, xuất phát từ lợi ích giai cấp, các giai cấp, nhóm hay tập
đoàn người phản tiến bộ tìm cách lưu giữ, truyền bá những tư
tưởng cũ, lạc hậu, nhằm bảo vệ lợi ích giai cấp và chống lại các
lực lượng xã hội tiến bộ.
Vì những ý thức lạc hậu, tiêu cực không mất đi một cách dễ dàng, cho
nên trong quá trình xây dựng xã hội mới, giai cấp cách mạng phải tăng
cường công tác tư tưởng, kiên quyết đấu tranh xoá bỏ những tàn dư tư
tưởng cũ, lạc hậu, đồng thời ra sức xây dựng và phát huy những truyền
thống tư tưởng tốt đẹp, tiến bộ.
Ý thức xã hội có thể phản ánh vượt trước tồn tại xã hội
Trong khi khẳng định ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã
hội triết học Mác – Lênin đồng thời khẳng định rằng, trong những
điều kiện nhất định, một bộ phận của ý thức xã hội là những tư
tưởng khoa học, tiên tiến có thể vượt trước sự phát triển của tồn tại
xã hội, hướng dẫn, chỉ đạo cho hoạt động thực tiễn của con người,
dự báo các khả năng xảy ra trong tương lai, để từ đó đề ra những
nhiệm vụ mới phải giải quyết do sự phát triển chín muồi của đời
sống vật chất của xã hội đặt ra.
Ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển của nó
Ý thức xã hội là cái chung nó được thể hiện ra thông qua những cái
riêng là các hình thái ý thức xã hội cụ thể như: chính trị, pháp quyền,
đạo đức, văn hóa, khoa học, nghệ thuật v.v.. Tất cả các hình thái ý
thức xã hội một mặt phản ánh tồn tại xã hội trực tiếp, nhưng mặt
khác, nó có tính kế thừa lịch sử trong sự phát triển của mình.
Trong xã hội có giai cấp, các giai cấp khác nhau thường kế thừa
những nội dung ý thức khác nhau của các thời đại trước. Các giai
cấp tiên tiến thì tiếp nhận những di sản tư tưởng tiến bộ, những
truyền thống tốt đẹp của xã hội cũ, còn các giai cấp lỗi thời và các
nhà tư tưởng của nó thì tiếp thu, khôi phục những lý thuyết, những
tư tưởng phản tiến bộ của xã hội cũ để phục vụ cho lợi ích của giai cấp mình.
Các hình thái ý thức xã hội tác động qua lại trong sự phát triển của chúng
Các hình thái ý thức xã hội đều có quy luật phát triển riêng nội tại và
đều phản ánh tồn tại xã hội. Nhưng trong quá trình phát triển, giữa
chúng luôn có sự tác động qua lại, ảnh hưởng, thúc đẩy lẫn nhau. Ở
mỗi thời đại, tuỳ theo hoàn cảnh cụ thể có những hình thái ý thức lOMoARc PSD|36215725
nào đó nổi lên hàng đầu và tác động mạnh đến các hình thái ý thức
khác. Trong sự tác động lẫn nhau giữa các hình thái ý thức thì ý thức
chính trị có vai trò đặc biệt quan trọng. Thông thường ý thức chính
trị của giai cấp cách mạng, tiến bộ sẽ đóng vai trò định hướng cho
sự phát triển theo chiều hướng tiến bộ của các hình thái ý thức khác.
Ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội
Ý thức xã hội là sự phản ánh của tồn tại xã hội, do tồn tại xã hội quyết
định, nhưng ý thức xã hội lại tác động tích cực trở lại tồn tại xã hội.
Nếu ý thức xã hội là khoa học, đúng đắn, tiến bộ phù hợp với tồn tại
xã hội thì nó sẽ thúc đẩy tồn tại xã hội phát triển. Ngược lại, nếu ý
thức xã hội không đúng đắn, không phù hợp nó sẽ kìm hãm sự phát
triển của tồn tại xã hội.
Như vậy, nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử về tính độc lập tương
đối của ý thức xã hội đã cho chúng ta thấy bức tranh phức tạp của lịch
sử phát triển ý thức xã hội và của đời sống tinh thần của xã hội nói
chung, nó bác bỏ các quan điểm siêu hình, máy móc, tầm thường về
mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
- Ví dụ: Chủ nghĩa Mác đã kế thừa và phát triển những tinh hoa tư tưởng của loài
người mà trực tiếp là nền triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị cổ điển Anh và
chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp.
Câu 6: Theo quan điểm của Triết học Mác – Lênin, bản chất của con người là như
thế nào, bản chất con người có thay đổi không, vì sao?
- Trong lịch sử triết học trước Mác, các quan niệm về con người, cơ bản là những
quan niệm duy tâm, tôn giáo hoặc siêu hình. Mặc dù, triết học duy vật trước Mác
coi con người là một thực thể tự nhiên – thực thể xã hội. Song họ cũng không vượt
qua tính chất siêu hình và thậm chí còn là duy tâm. Bởi vì họ đã quy đặc trưng bản
chất con người theo khuynh hướng tuyệt đối hóa những thuộc tính tự nhiên hoặc
thuộc tính xã hội, mà không thấy được vai trò của hoạt động thực tiễn xã hội.
- Trong hệ thống thế giới quan tôn giáo coi con người như một thực thể nhị nguyên,
là sự kết hợp tinh thần và thể xác. Trong đó linh hồn của con người tồn tại một
cách vĩnh cửu và mang tính tuyệt đối. Tuy nhiên, một số trường phái triết học vẫn
đạt được những thành tựu trong việc phân tích, quan sát con người, đề cao lý tính,
xác lập các giá trị nhân bản học để hướng con người tới tự do. Đó cũng chính là
những tiền đề có ý nghĩa cho việc hình thành tư tưởng về con người trong triết học Mácxít.
1. Con người là thực thể sinh học – xã hội lOMoARc PSD|36215725
- Tiếp thu một cách mang tính phê phán những quan điểm có tính hợp lý và khắc
phục những thiếu sót hạn chế quan niệm về con người trong lịch sử triết học trước
đó, triết học Mác khẳng định con người hiện thực là sự thống nhất giữa yếu tố sinh
học và yếu tố xã hội. Bởi vì, con người không phải là cái gì đó đồng nhất tuyệt đối
về chất, – đó là sự đồng nhất bao hàm trong mình sự khác biệt giữa hai yếu tố đối
lập nhau: con người với tư cách là sản phẩm của giới tự nhiên, là sự phát triển tiếp
tục của giới tự nhiên, mặt khác con người là một thực thể xã hội được tách ra như
một lực lượng đối lập với giới tự nhiên, sự tác động qua lại giữa cái sinh học và
cái xã hội tạo thành con người.
Thứ nhất, con người là sản phẩm của lịch sử tự nhiên
Đó là quá trình tạo thành phương diện sinh học và khả năng thoả
mãn những nhu cầu sinh học như : ăn, mặc, ở; hoạt động và nhu cầu
tái sản sinh con người. Như vậy, con người trước hết là một tồn tại
sinh vật, con người tự nhiên là con người mang tất cả bản tính sinh
học, tính loài. Yếu tố sinh học trong con người, trước hết là tổ chức
cơ thể và mối quan hệ của nó với tự nhiên, là những thuộc tính,
những đặc điểm sinh học, quá trình tâm sinh lý, các giai đoạn phát
triển khác nhau thể hiện bản chất sinh học của cá nhân con người.
Con người cũng như mọi động vật khác phải tìm kiếm thức ăn, nước
uống, phải “đấu tranh sinh tồn” để ăn uổng, sinh đẻ con cái, tồn tại
và phát triển. Nhưng không được tuyệt đối hóa điều đó. Không phải
đặc tính sinh học, bản năng sinh học, sự sinh tồn thể xác là cái duy
nhất tạo nên bản chất của con người, mà con người còn là một thực
thể xã hội. Khi xem xét con người, theo quan điểm của chủ nghĩa
Mác – Lênin, không thể tách rời hai phương diện sinh học và xã hội
của con người thành những phương diện biệt lập, duy nhất, quyết định phương diện kia.
Thứ hai, con người còn là sản phẩm của lịch sử xã hội và chính lao động
Nhân tố giữ vai trò quyết định cho quá trình hình thành con người,
khẳng định con người có tính xã hội. Trong lịch sử triết học trước
Mác đã có nhiều quan niệm khác nhau phân biệt con người với thế
giới loài vật, như con người là động vật biết sử dụng công cụ lao
động, hoặc con người có tư duy, v.v… Nhưng, nhưng quan niệm đó
cũng chỉ nhấn mạnh một khía cạnh nào đó trong bản chất xã hội của con người. lOMoARc PSD|36215725
Thông qua hoạt động sản xuất vật chất, con người đã làm thay đổi,
cải biến toàn bộ giới tự nhiên: “Con vật chỉ tái sản xuất ra bản thân
nó, còn con người thì tái sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên”. Tính xã
hội của con người biểu hiện trong hoạt động sản xuất vật chất, con
người sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần để phục vụ đời sống
của mình, hình thành phát triển ngôn ngữ và tư duy, xác lập các quan hệ xã hội.
Thứ ba, mối quan hệ giữa mặt sinh học và mặt xã hội, không chỉ khẳng
định nguồn gốc, bản chất sinh vật và xã hội của con người; mà còn khẳng
định vai trò quyết định của hệ thống các quy luật khách quan đối với quá
trình hình thành và phát triển của con người. Đó là hệ thống các quy luật tự
nhiên như là quy luật môi trường, quy luật trao đổi chất, về di truyền, biến
dị, tiến hóa, v.v… quy định phương diện sinh học của con người. Hệ thống
các quy luật tâm lý, ý thức hình thành vận động trên nền tảng sinh học của
con người như hình thành tình cảm, khát vọng, niềm tin, ý chí, v.v… hệ
thống các quy luật xã hội quy định các quan hệ xã hội giữa người với người.
Ba hệ thống quy luật trên cùng tác động, tạo nên thể thống nhất hoàn
chỉnh trong đời sống con người bao gồm mặt sinh vật và mặt xã hội.
Bởi vì, con người chỉ có thể tồn tại khi thỏa mãn những nhu cầu sinh
học, nhưng không phải bất cứ một sản phẩm vật chất nào cũng có sẵn
trong tự nhiên mà chủ yếu đều do quá trình sáng tạo của con người thông qua
lao động. Xã hội không phải là một thực thể tồn tại độc lập bên ngoài
mặt sinh học, cũng không có cái xã hội và cái sinh học thuần túy tồn tại
độc lập với nhau, chúng có quan hệ biện chứng tác động qua lại lẫn
nhau trong các quan hệ xã hội. Bởi xã hội là phương thức cho con người
thoả mãn tốt hơn những nhu cầu sinh học ngày càng có tính hợp lý và
văn minh hơn. Chính vì vậy, con người ngày càng quan tâm đến quá
trình cải tạo hiện thực khách quan, cũng như chính lợi ích của cá nhân,
tập thể, giai cấp hay của toàn bộ xã hội, không phải do ý thức chủ quan
của con người mà do chính điều kiện khách quan và các quy luật khách quan quy định.
2. Trong tính hiện thực của nó, bản chất của con người là tổng hòa
nhữngmối quan hệ xã hội
- Con người khác với thế giới loài vật về bản chất 3 phương diện:
Quan hệ với thiên nhiên, quan hệ với xã hội, quan hệ với bản thân.
Sự khác biệt ấy thể hiện con người là một thực thể thống nhất giữa lOMoARc PSD|36215725
mặt sinh học và mặt xã hội hoặc bản chất của con người là tổng hòa
những mối quan hệ xã hội. Bởi vì, cả ba mối quan hệ ấy, suy đến
cùng đều mang tính xã hội giữa người và người là quan hệ bản chất,
bao trùm tất cả các mối quan hệ khác của con người.
- Để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người, Mác đã nêu lên luận
đề nổi tiếng Luận cương về Phoiơbách: “Bản chất con người không
phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính
hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội”.
- Luận đề trên khẳng định rằng, không có con người trừu tượng, thoát
ly khỏi điều kiện, hoàn cảnh lịch sử xã hội. Con người là cụ thể,
sống trong một điều kiện lịch sử cụ thể nhất định. Trong điều kiện
lịch sử, cụ thể đó bằng hoạt động thực tiễn, con người sản xuất ra
những giá trị vật chất và tinh thần để tồn tại, phát triển về thể lực và
trí lực. Chỉ trong toàn bộ các mối quan hệ xã hội như gia đình, giai
cấp, dân tộc, v.v… con người mới bộc lộ bản chất xã hội của mình.
- Điều lưu ý là luận đề trên khẳng định bản chất xã hội, không có
nghĩa phủ nhận mặt tự nhiên trong cuộc sống con người; trái lại,
điều đó muốn nhấn mạnh sự phân biệt giữa con người và thế giới
động vật ở bản chất xã hội và đó cũng là để khắc phục sự thiếu sót
của các nhà triết học trước Mác về bản chất xã hội của con người.
Mặt khác, cái bản chất với ý nghĩa là cái phổ biến, cái mang tính quy
luật chứ không phải là cái duy nhất; do đó cần phải thấy được các
biểu hiện riêng biệt, phong phú và đa dạng của mỗi cá nhân trong cộng đồng xã hội.
3. Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử
- Con người là sản phẩm phát triển của tự nhiên và lịch sử phát triển
của xã hội. Song, điều quan trọng hơn cả là con người luôn luôn là
chủ thể của lịch sử xã hội. Với tính cách chủ thể của lịch sử, thông
qua hoạt động thực tiễn, con người biến đổi giới tự nhiên, biến đổi
xã hội và bản thân mình.
- Trong quá trình cải biến giới tự nhiên, con người cũng làm ra lịch sử
của mình. Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể
sáng tạo ra lịch sử. Hoạt động sản xuất vật chất vừa là điều kiện cho
sự tồn tại của con người, vừa là phương thức dẫn đến sự biến đổi xã
hội. Đó là quá trình con người nhận thức và vận dụng các quy luật
khách quan để khẳng lịch sử vận động phát triển của xã hội là lịch
sử của phát triển của các phương thức sản xuất vật chất khác nhau, lOMoARc PSD|36215725 v.v…
- Không có con người trừu tượng, con người là cụ thể trong mỗi giai
đoạn phát triển nhất định của lịch sử và bản chất của con người
trong tính hiện thực của nó là tổng hòa những mối quan hệ xã hội.
Bản chất con người không phải là một hệ thống đóng kín, mà là hệ
thống mở tương ứng với điều kiện lịch sử của con người. Cho nên,
có thể nói rằng, sự vận động và phát triển của lịch sử sẽ quy định
tương ứng với sự vận động và phát triển của bản chất con người
thông qua những mối quan hệ xã hội trong lịch sử.
Bản chất con người có thay đổi không? Vì sao?
- Để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người, Mác đã nêu lên luận
đề nổi tiếng Luận cương về Phoiơbách: “Bản chất con người không
phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính
hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội”.

- Các quan hệ xã hội tạo nên bản chất của con người, nhưng không
phải là sự kết hợp giản đơn hoặc là tổng cộng chúng lại với nhau mà
là sự tổng hòa chúng; mỗi quan hệ xã hội có vị trí, vai trò khác nhau,
có tác động qua lại, không tách rời nhau.
Các quan hệ xã hội thay đổi thì ít hoặc nhiều, sớm hoặc muộn, bản chất
con người cũng sẽ thay đổi theo.
Giải thích “Con người là một thực thể tự nhiên mang bản chất xã hội”
- Bản tính xã hội của con người được phân tích lừ các gíac độ sau đây:
• Một là, xét từ giác độ nguồn gốc hình thành, loài người không phải chỉ có
nguồn gốc từ sự tiến hóa, phát triển của vật chất tự nhiên mà còn có nguồn
gốc xã hội của nó, mà trước hết và cơ bản nhất là nhân tố lao động. Chính
nhờ lao động mà con người có khả năng vượt qua loài động vật để tiến hóa
và phát triển thành người. Đó là một trong những phát hiện mới của chủ
nghĩa Mác - Lênin, nhờ đó có thể hoàn chỉnh học thuyết về nguồn gốc của
loài người mà tất cả các học thuyết trong lịch sử đều chưa có lời giải đáp
đúng đắn và đầy đủ.
• Hai là, xét từ giác độ tồn tại và phát triển, thì sự tồn tại của loài người luôn
luôn bị chi phối bởi các nhân tố xã hội và các quy luật xã hội. Xã hội biến
đổi thì mỗi con người cũng có sự thay đổi tương ứng. Ngược lại, sự phát
triển của mỗi cá nhân lại là tiền đề cho sự phát triển của xã hội. Ngoài mối lOMoARc PSD|36215725
quan hệ xà hội thì mỗi con người chỉ tồn tại với tư cách là một thực thể sinh
vật thuần túy, không thể là "con người" với đầy đủ ý nghĩa của nó.
- Trong lịch sử tư tưởng nhân loại đã có nhiều quan niệm khác nhau về bản chất,
"bản tính người" của con người, nhưng về cơ bản những quan niệm đó thường là
những quan niệm phiến diện, trừu tượng và duy tâm, thần bí. Trong tác phâm
Luận cương về Phoiơbắc, C.Mác đã phê phán vắn tắt những quan niệm đó và xác
lập quan niệm mới của mình "Bản chất con người không phải là một cái trừu
tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con
người là tổng hòa những quan hệ xã hội".
- Hạn chế căn bản của quan niệm duy vật siêu hình, trực quan là đã trừu tượng hóa,
tuyệt đối hóa phương diện tự nhiên của con người, thường xem nhẹ việc lý giải
con người từ phương diện lịch sử xã hội của nó, do đó về căn bản chỉ thấy bản
tính tự nhiên của con người. Khác với quan niệm đó, quan niệm duy vật biện
chứng về con người trong khi thừa nhận bản tính tự nhiên của con người còn lý
giải con người từ giác độ các quan hệ lịch sử xã hội, từ đó phát hiện bản tính xã hội của nó.
- Hơn nữa, chính bản tính xã hội của con người là phương diện bản chất nhất của
con người với tư cách "người", phân biệt con người với các tồn tại khác của giới
tự nhiên. Như vậy, có thể định nghĩa con người là một thực thể tự nhiên nhưng đó
là thực thể tự nhiên mang đặc tính xã hội. Vậy, bản chất của con người, xét trên
phương diện tính hiện thực của nó, chính là "tổng hòa những quan hệ xã hội", bởi
vì xã hội chính là xã hội của con người, được tạo nên từ toàn bộ các quan hệ giữa
người với người trên các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa,...
- Theo quan điểm duy vật biện chứng về bản chất xã hội của con người thì sự hình
thành và phát triển của con người cùng những khả năng sáng tạo lịch sử của nó
cần phải được tiếp cận từ giác độ phân tích vả lý giái sự hình thành và phát triển
của những quan hệ xã hội của nó trong lịch sử. Xét từ giác độ nhân chủng học, tức
phương diện bản tính tự nhiên, người da đen" vẫn chỉ là người da đen, nhưng chỉ
trong quan hệ kinh tế - chính trị của xã hội chiếm hữu nô lệ anh ta mới bị biến
thành "người nô lệ", còn trong quan hệ kinh tế - chính trị xã hội chủ nghĩa, anh ta
là "người tự do”, làm chủ và sáng tạo lịch sử. Như thế không có một bản chất nô
lệ cố hữu và bất biến của người da đen hay da trắng, nó là sản phẩm tất yếu của
những quan hệ kinh tế, chính trị - xã hội trong những điều kiện lịch sử xác định,
khi những quan hệ này thay đổi thì cũng tạo sự thay đổi bản chất của con người.
Vì vậy, giải phóng bản chất con người cần phải hướng vào sự giài phóng những
quan hệ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của nó, thông qua đó có thể phát huy
khả năng sáng tạo lịch sử của con người. lOMoARc PSD|36215725
- Như vậy, không có con người phi lịch sử mà trái lại luôn gắn với những điều kiện
hoàn cảnh lịch sử nhất định. Cần phải từ quan niệm như vậy mới có thể lý giải
đúng đắn về khả năng sáng tạo lịch sử của con người. Sự hạn chế về năng lực sáng
tạo lịch sử của những con người tiểu nông không thể lý giải từ bản tính tự nhiên
của họ, trái lại cần phải được lý giải từ giác độ tính hạn chế về trình độ phát triển
của các quan hệ kinh tế, chính tri, văn hóa của xã hội tiểu nông. Như thế, con
người, xét từ giác độ bản chất xã hội của nó, là sản phẩm của lịch sử; lịch sử sáng
tạo ra con người trong chừng mực nào thì con nguời lại cũng sáng tạo ra lịch sử
trong chừng mực đó. Đây là biện chứng của mối quan hệ giữa con người – chủ thể
của lịch sử với chính lịch sử do nó tạo ra và đồng thời lại bị quy định bởi chính
lịch sừ đó. Từ đó có thể thấy, hạn chế cơ bản của quan niệm duy vật siêu hình về
bản chất của con người chính là ở chỗ chỉ nhận thấy tính quyết định của hoàn cảnh
lịch sử đối với con người mà không nhận thấy mối quan hệ sáng tạo của con người
trong quá trình cải tạo hoàn cảnh và do đó cũng chính là cải tạo bản thân nó.
C.Mác đã khẳng định: "Cái học thuyết duy vật chủ nghĩa cho rằng con người là
sản phẩm của những hoàn cảnh và của giáo dục... cái học thuyết ấy quên rằng
chính những con người làm thay đổi hoàn cảnh và bản thân nhà giáo dục cũng cần
phải được giáo dục". Trong tác phẩm Biện chứng của tự nhiên, Ph.Ăngghen cũng
cho rằng: "Thú vật cũng có một lịch sử, chính là lịch sử nguồn gốc của chúng và
lịch sử phát triển dần dần của chúng cho tới trạng thái hiện nay của chúng. Nhưng
lịch sử ấy không phải do chúng làm ra và trong chừng mực mà chúng có tham dự
vào việc làm ra lịch sử ấy thì điều đó diễn ra mà chúng không hề biết và không
phải do ý muốn của chúng. Ngược lại, con người càng cách xa con vật, hiểu theo
nghĩa hẹp của từ này bao nhiêu thì con người lại càng tự mình làm ra lịch sử của
mình một cách có ý thức bấy nhiêu".
Con người cũng tồn tại trong môi trường xã hội. Chính nhờ môi trường
xã hội mà con người trở thành một thực thể xã hội và mang bản chất xã hội..
Như vậy, với tư cách là thực thể xã hội, con người trong hoạt động thực
tiễn, thông qua hoạt động thực tiễn, tác động vào giới tự nhiên, làm cải
biến giới tự nhiên theo nhu cầu sinh tồn và phát triển của nó thì đồng
thời con người cũng sáng tạo ra lịch sử của chính nó, thực hiện sự phát
triển của lịch sử đó.