Bài tập tự luận ôn tập - Triết học Mác - Lênin | Đại học Tôn Đức Thắng

“Trong nhận thưc và hoạt động thực tiễn, mọi chủ trương, đường lối, kế hoạch, mục tiêu đều phải xuấtphát từ thực tế khách quan, từ những điều kiện, tiền đề vật chất hiện có. Phải tôn trọng và hành động theoquy luật khách quan, nếu không sẽ gây ra những hậu quả tai hại khôn lường”. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

Trường:

Đại học Tôn Đức Thắng 3.5 K tài liệu

Thông tin:
10 trang 6 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Bài tập tự luận ôn tập - Triết học Mác - Lênin | Đại học Tôn Đức Thắng

“Trong nhận thưc và hoạt động thực tiễn, mọi chủ trương, đường lối, kế hoạch, mục tiêu đều phải xuấtphát từ thực tế khách quan, từ những điều kiện, tiền đề vật chất hiện có. Phải tôn trọng và hành động theoquy luật khách quan, nếu không sẽ gây ra những hậu quả tai hại khôn lường”. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

125 63 lượt tải Tải xuống
TR.1
June 21, 2021
1. “Trong nhận thưc và hoạt động thực tiễn, mọi chủ trương, đường lối, kế hoạch, mục tiêu đều phải xuất
phát từ thực tế khách quan, từ những điều kiện, tiền đề vật chất hiện có. Phải tôn trọng và hành động theo
quy luật khách quan, nếu không sẽ gây ra những hậu quả tai hại khôn lường”. (Nguồn: Giáo trình Triết
học Mác - Lênin, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.180-181)
Từ lý luận của triết học Mác - Lênin:
a. Anh (chị) hãy phân tích mối quan hệ giữa vật chất và ý thưc để làm rõ nguyên tắc phương pháp luận
trên.
b. Sinh viên cần làm gì để phát huy tính năng động sáng tạo của ý thưc, phát huy vai trò của nhân tố con
người, chống tư tưởng, thái độ thụ động, ỷ lại, ngồi chờ, bảo thủ, trì trệ, thiếu tính sáng tạo?
(5.0 điểm)
2. “Mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên và trong xã hội đều có nguyên nhân nhất định gây ra. Không có
hiện tượng nào không có nguyên nhân, chỉ có điều là nguyên nhân đó đã được nhận thưc hay chưa mà
thôi. Không nên đồng nhất vấn đề nhận thưc của con người về mối liên hệ nhân quả với vấn đề tồn tại của
mối liên hệ đó trong hiện thưc. (Nguồn: Giáo trình Triết học Mác - Lênin, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2002, tr.234)
Từ lý luận của triết học Mác - Lênin:
a. Anh (chị) hãy phân tích căp phạm tru nguyên nhân và kết quả để làm rõ nhận định trên.
b. Làm rõ nguyên nhân vấn đề thất nghiệp của một bộ phận sinh viên sau khi tốt nghiệp Đại học, Cao
đẳng ở Việt Nam hiện nay?
(5.0 điểm)
BAI LAM
Thế giới xung quanh ta có vô vàn sự vật và hiện tượng phong phú và đa dạng. Nhưng du phong
phú và da dạng đến dâu thì cũng quy về hai lĩnh vực: vật chất và ý thưc. Có rất nhiều quan diểm
triết học xoay quanh vấn đế về mối quan hệ giữa vật chất và ý thưc, nhưng chỉ có quan điểm triết
học Mác - Lênin là đúng và đầy dủ đó là: vật chất là cái có trước, ý thưc là cái có sau. Vật chất
quyết định sự ra đời của ý thưc, đồng thời ý thưc tác động trở lại vật chất.
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thưc là mối quan hệ biện chưng. Trong mối quan hệ này, vật
chất có trước, ý thưc có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thưc, quyết định ý thưc, song ý thưc
không hoàn toàn thụ động mà nó có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn
của con người.
Từ mối quan hệ giữa vật chất và ý thưc trong triết học Mác - Lênin, rút ra nguyên tắc phương
pháp luận là tôn trọng tính khách quan kết hợp với phát huy tính năng động chủ quan. Phải tôn
trọng và hành động theo quy luật khách quan, nếu không sẽ gây ra những hậu quả tai hại khôn
lường.
Vật chất quyết định nguồn gốc của ý thưc. Vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thưc và là
nguồn gốc sinh ra ý thưc. Bộ óc người là một dạng vật chất có tổ chưc cao nhất, là cơ quan phản
ánh để hình thành ý thưc. Ý thưc tồn tại phụ thuộc vào hoạt động thần kinh của bộ não trong quá
trình phản ánh hiện thực khách quan. Sự vận động của thế giới vật chất là yếu tố quyết định sự ra
đời của cái vật chất có tư duy là bộ óc người.
Vật chất quyết định nội dung của ý thưc. Suy cho cung, dưới bất kỳ hình thưc nào, ý thưc đều là
phản ánh hiện thực khách quan. Ý thưc mà trong nội dung của nó chẳng qua là kết quả của sự
phản ánh hiện thực khách quan vào trong đầu óc con người. Hay nói cách khác, có thế giới hiện
thực vận động, phát triển theo những quy luật khách quan của nó, được phản ánh vào ý thưc mới
có nội dung của ý thưc.
Vật chất quyết định bản chất của ý thưc. Phản ánh và sáng tạo là hai thuộc tính không tách rời
trong bản chất của ý thưc. Nhưng sự phản ánh của con người không phải là “soi gương”, “chụp
ảnh” hoăc là “phản ánh tâm lý” mà là phản ánh tích cực, tự giác, sáng tạo thông qua thực tiễn.
Khác với chủ nghĩa duy vật cũ, xem xét thế giới vật chất như là những sự vật, hiện tượng cảm
tính, chủ nghĩa duy vật biện chưng xem xét thế giới vật chất là thế giới của con người hoạt động
thực tiễn. Chính thực tiễn là hoạt động vật chất có tính cải biến thế giới của con người - là cơ sở
để hình thành, phát triển ý thưc, trong đó ý thưc của con người vừa phản ánh, vừa sáng tạo, phản
ánh để sáng tạo và sáng tạo trong phản ánh.
Vật chất quyết định sự vận động, phát triển của ý thưc. Mọi sự tồn tại, phát triển của ý thưc đều
gắn liền với quá trình biến đổi của vật chất; vật chất thay đổi thì sớm hay muộn, ý thưc cũng phải
thay đổi theo. Con người-một sinh vật có tính xã hội ngày càng phát triển cả về thể chất lẫn tinh
thần, thì dĩ nhiên ý thưc - một hình thưc phản ánh của óc người cũng phát triển cả về nội dung và
hình thưc phản ánh. Đời sống xã hội ngày càng văn minh và khoa học ngày càng phát triển đã
chưng minh điều đó.
Ý thưc có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất. Tính độc lập tương đối của ý thưc
thể hiện ở chỗ, ý thưc là sự phản ánh thế giới vật chất vào trong đầu óc con người, do vật chất
sinh ra, nhưng khi đã ra đời thì ý thưc có “đời sống” riêng, có quy luật vận động, phát triển riêng,
không lệ thuộc một cách máy móc vào vật chất. Sự tác động của ý thưc đối với vật chất phải
thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Vai trò của ý thưc thể hiện ở chỗ chỉ đạo hoạt động,
hành động của con người; nó có thể quyết định làm cho hoạt động của con người đúng hay sai,
thành công hay thất bại. Xã hội càng phát triển thì vai trò của ý thưc ngày càng to lớn, nhất là
trong thời đại ngày nay, thời đại thông tin, kinh tế tri thưc, thời đại của cuộc cách mạng khoa học
và công nghệ hiện đại, khi mà tri thưc khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Từ mối quan hệ giữa vật chất và ý thưc trong triết học Mác - Lênin, rút ra nguyên tắc phương
pháp luận là tôn trọng tính khách quan kết hợp với phát huy tính năng động chủ quan. Phải tôn
trọng và hành động theo quy luật khách quan, nếu không sẽ gây ra những hậu quả tai hại khôn
lường.
b) Để phát huy tính năng động sáng tạo của ý thưc, phát huy vai trò của nhân tố con người,
chống tư tưởng, thái độ thụ động, ỷ lại, ngồi chờ, bảo thủ, trì trệ, thiếu tính sáng tạo, sinh viên
cần :
Cần chủ động rèn luyện tính tự học
Tăng cường tổ chưc và quản lý hoạt động tự học của người học
Vì vật chất quyết định ý thưc nên trong nhận thưc và hoạt đọng thực tiễn đòi hỏi phải xuất phát
từ thực tế khách quan . Đầu tiên bản thân mỗi người phải xác định được các điều kiện khách
quan ảnh hưởng đến cuộc sống học tập của bản thân.măt khác phải đăc biệt chú ý tôn trọng tính
khách quan và hành vi theo các qui luật mang tính khách quan.
Vì ý thưc có sự tác động trở lại đối với vật chất nên cần phát huy tính năng động chủ quan là
phải tính năng động sáng tạo của ý thưc . điều này giúp cho việc học tập của sinh viên dễ dàng
vượt qua khó khăn , trở ngại để đạt được mục tiêu đề ra.
Cần chống lại bệnh chủ quan duy ý chí cũng như bệnh bảo thủ trì trệ
Phải phát huy tính năng động, sáng tạo trong mọi hoạt động hàng ngày. Kết cấu của ý thưc thì
tri thưc là quan trọng nhất nên mỗi chúng ta cần chú trọng phát triển tri thưc của bản thân.
Cần phải tiếp thu có chọn lọc kiến thưc mới và không chủ quan trong mọi tình huống.
Khi giải thích một hiện tượng cần phải xét có yếu tố vật chất lẫn tinh thần, cả yếu tố khách
quan và điều kiện khách quan.
Câu 2 :
Trong quá trình nhận thưc, con người thâm nhập ngày càng sâu hơn vào các đối tượng để nắm
bắt và thể hiện thông qua các khái niệm những thuộc tính và mối liên hệ chung, đó là vận động,
không gian, thời gian, nhân quả, tính quy luật, tất yếu, ngẫu nhiên, giống nhau, khác nhau, mâu
thuẫn... Chúng là những đăc trưng của các đối tượng vật chất, là những hình thưc tồn tại phổ
biến của vật chất, còn các khái niệm phản ánh chúng là những phạm tru triết học.
Một là, nguyên nhân là cái sinh ra kết quả.
Nguyên nhân luôn luôn có trước kết quả, được sản sinh ra trước kết quả. Còn kết quả chỉ xuất
hiện sau khi nguyên nhân sinh ra nó đã xuất hiện. Tuy nhiên, trong tự nhiên, chúng ta bắt găp rất
nhiều các hiện tượng kế tiếp nhau như ngày luôn đến sau đêm, sấm luôn đến sau chớp v.v.,
nhưng ngày không phải là nguyên nhân sinh ra đêm, sấm không phải là nguyên nhân sinh ra
chớp. Mối liên hệ nhân quả không đơn thuần là sự kế tiếp nhau về măt thời gian. Ngoài sự kế
tiếp nhau về thời gian, mối quan hệ nhân quả còn là mối quan hệ sản sinh, trong đó nguyên nhân
là cái đẻ ra (cái sản sinh), là cái sinh ra kết qua (cái phái sinh).
Nguyên nhân sinh ra kết quả rất phưc tạp, bởi vì nó phụ thuộc vào nhiều điều kiện và hoàn cảnh
khác nhau. Cung một nguyên nhân trong điều kiện hoàn cảnh khác nhau sẽ gây nên những kết
quả khác nhau. Ví dụ, hút thuốc lá có hại cho sưc khoẻ, nhưng do thể trạng của người hút thuốc
khác nhau thì mưc độ tác hại với mỗi người sẽ khác nhau. Một kết quả có thể do một hay nhiều
nguyên nhân khác nhau tác động riêng lẻ hay tác động cung một lúc. Ví dụ, vật thể nóng lên có
thể do bị đốt nóng, có thể do cọ sát với vật thể khác, có thể do ánh sáng măt trời chiếu vào v.v.,
hoăc năng suất lúa cao do nhiều nguyên nhân như giống tốt, nước tưới đủ, phân bón đủ, chăm
sóc chu đáo. Ngược lại, một nguyên nhân lại dẫn đến nhiều kết quả. Ví dụ, do nguyên nhân chăt
phá rừng đã gây ra nhiều kết quả như lũ lụt, hạn hán, nạn đói, sự tuyệt chủng của một số loài
sinh vật v.v..
Khi các nguyên nhân tác động cung một lúc lên sự vật thì hiệu quả tác động của từng nguyên
nhân tới sự hình thành kết quả sẽ khác nhau tuỳ thuộc vào hướng tác động và cường độ tác động
của nó. Nếu nhiều nguyên nhân tác động cung chiều sẽ thúc đẩy và tăng cường kết quả, nếu
nguyên nhân tác động ngược chiều thì nguyên nhân này làm suy yếu, tiêu diệt tác dụng của
nguyên nhân kia làm hạn chế và kìm hãm kết quả.
Do chỗ một kết quả có thể đựơc gây nên bởi tác động đồng thời của một số nguyên nhân và hiệu
quả tác động của từng nguyên nhân tới sự hình thành kết quả không giống nhau, cho nên chúng
ta cần phân loại để xác định đựơc vai trò, tác dụng của từng nguyên nhân đối với việc hình thành
kết quả.
Tuỳ theo vai trò, tính chất,vị trí của nguyên nhân mà người ta phân ra các loại nguyên nhân như:
nguyên nhân chủ yếu, nguyên nhân thư yếu, nguyên nhân bên trong và nguyên nhân bên ngoài,
nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan, nguyên nhân trực tiếp và nguyên nhân gián
tiếp.
Nguyên nhân chủ yếu là nguyên nhân mà thiếu nó thì kết quả không thể xảy ra, còn nguyên nhân
thư yếu là những nguyên nhân chỉ quyết định những đăc điểm nhất thời, không ổn định, cá biệt,
và khi tác động, nó phụ thuộc vào nguyên nhân chủ yếu. Ví dụ, để có năng suất lúa cao thì giống
là nguyên nhân chủ yếu, còn nước, phân bón, chăm sóc là nguyên nhân thư yếu. Nước, phân bón,
chăm sóc có quan trọng hay không là tuỳ thuộc yêu cầu của giống, khi nào cây lúa cần nước thì
nước trở nên quan trọng nhất, khi cây lúa cần chăm sóc thì chăm sóc trở nên quan trọng. Nguyên
nhân bên trong là sự tác động lẫn nhau giữa các măt, hay các yếu tố của cung một kết cấu vật
chất nào đó và gây nên những biến đổi nhất định.
Nguyên nhân bên ngoài là sự tác động lẫn nhau giữa những kết cấu vật chất khác nhau và gây ra
những biến đổi thích hợp với những kết cấu vật chất ấy.
Nguyên nhân bên trong bao giờ cũng giữ vai trò quyết định chi phối sự hình thành, tồn tại và
phát triển của các kết cấu vật chất. Nguyên nhân bên ngoài du to lớn đến đâu cũng không thể
thay thế được nguyên nhân bên trong, khi phát huy tác dụng nó phải thông qua nguyên nhân bên
trong. Ví dụ, để có kết quả là đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược giành độc lập, thống nhất cho đất
nước ta có nhiều nguyên nhân như do Đảng ta lãnh đạo tài tình, nhân dân ta anh hung dũng cảm,
sự giúp đỡ to lớn của Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa anh em. Nhưng yếu tố
quyết định để giành thắng lợi trong trường hợp này là Đảng ta và nhân dân ta là nguyên nhân bên
trong.
Nguyên nhân chủ quan là sự hoạt động của các cá nhân, các giai cấp, các chính đảng v.v. nhằm
thúc đẩy hay kìm hãm sự xuất hiện, phát triển v.v. của các quá trình xã hội nhất định. Còn
nguyên nhân khách quan của các hiện tượng xã hội là nguyên nhân xuất hiện và tác động độc lập
với ý chí của con người, của các giai cấp, các chính đảng v.v. Trong hoạt động thực tiễn, nếu
hoạt động của con người phu hợp với quan hệ nhân quả khách quan thì sẽ thúc đẩy thế giới hiện
thực phát triển nhanh hơn. Ngược lại, nếu hoạt động của con người không phu hợp với quan hệ
nhân quả khách quan thì sẽ kìm hãm sự phát triển của thế giới hiện thực, cần phải phân biệt
nguyên nhân trực tiếp và nguyên nhân gián tiếp gây ra kết quả để có biện pháp xử lý thích hợp;
phân biệt nguyên nhân tất nhiên và nguyên nhân ngẫu nhiên.
Hai là, sự tác động trở lại của kết quả đối với nguyên nhân sinh ra nó.
Nguyên nhân là cái sản sinh ra kết quả, nhưng sau khi kết quả xuất hiện, kết quả không giữ vai
trò thụ động đối với nguyên nhân mà nó có ảnh hưởng tác động trở lại nguyên nhân sinh ra nó.
Sự tác động trở lại của kết quả đối với nguyên nhân có thể diễn ra theo hai chiều hướng: hoăc là
tác động tích cực thúc đẩy hoạt động của nguyên nhân, hoăc là tác động tiêu cực làm cản trở hoạt
động của nguyên nhân. Ví dụ, do nền kinh tế kém phát triển, ít đầu tư cho giáo dục nên trình độ
dân trí thấp. Trình độ dân trí thấp là nhân tố cản trở việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào
sản xuất, làm cản trở, kìm hãm sản xuất phát triển. Ngược lại, trình độ dân trí cao là kết quả của
chính sách phát triển kinh tế và giáo dục đúng đắn. Đến lượt nó, dân trí cao lại tác động tích cực
thúc đẩy sự phát triển của kinh tế và giáo dục.
Ba là, nguyên nhân và kết quả có thể chuyển hoá thay đổi vị trí cho nhau khi thay đổi mối quan
hệ.
Mối quan hệ biện chưng giữa nguyên nhân và kết quả còn thể hiện ở chỗ nguyên nhân và kết quả
có thể chuyển hoá lẫn nhau trong những quan hệ và điều kiện nhất định. Điều đó có nghĩa là một
sự vật, hiện tượng nào đó trong mối quan hệ này là nguyên nhân, nhưng trong mối quan hệ khác
là kết quả và ngựơc lại. Trong thế giới khách quan, chuỗi nhân quả là vô cung, không có bắt đầu,
không có kết thúc, vì thế giới vật chất là vô cung vô tận. Vì vậy, muốn biết đâu là nguyên nhân,
đâu là kết qủa chúng ta phải đăt nó trong một mối quan hệ xác định.
b) Nguyên nhân vấn đề thất nghiệp của một bộ phận sinh viên sau khi tốt nghiệp Đại học, Cao
đẳng ở Việt Nam hiện nay:
Cung lao động nhiều hơn so với cầu tuyển dụng
Theo thống kê hiện nay trên cả nước có 412 trường đại học, cao đẳng và tính bình quân mỗi tỉnh,
thành có khoảng 6,6 trường với 2.200.000 sinh viên đang theo học. Con số này còn cao hơn
những nước phát triển. Các trường chạy theo số lượng đào tạo để tạo ra nguồn tài chính bu đắp
cho các khoản chi tiêu thường xuyên mà xem nhẹ chất lượng dạy dẫn đến nguồn đầu ra hạn chế,
không đáp ưng được nhu cầu của công việc thực tế.
Sinh viên thiếu kỹ năng thực tế để đáp ưng công việc
Trên 80% sinh viên mới ra trường được cho là có kiến thưc nhưng lại yếu kém về các kỹ năng
mềm - kỹ năng mà đa số nhà tuyển dụng, đăc biệt là các tập đoàn, tổ chưc nước ngoài đánh giá
cao. Chính vì thế, nhiều bạn đã mất điểm trong lần găp đầu tiên trong buổi phỏng vấn ở các công
ty. Trong quá trình học, đa số sinh viên đều tự chuẩn bị hành trang cho mình là hai bằng ngoại
ngữ và tin học và đều cho rằng đây là điều kiện đủ để có thể trúng tuyển việc làm sau này. Tuy
nhiên, đối với các nhà tuyển dụng, họ đánh giá cao các kỹ năng sống như: kỹ năng giao tiếp, kỹ
năng xử lý tình huống, giải quyết vấn đề, làm việc nhóm,... hơn là các giấy tờ chưng nhận.
Thiếu định hướng nghề nghiệp
Định hướng giá trị cho sinh viên cũng là một vấn đề cần quan tâm trong giáo dục hiện nay. Một
là không có định hướng, nghĩa là không biết mình học để làm gì. Hai là định hướng sai lệch,
không có lòng phấn đấu vì đam mê mà đơn giản chỉ học để lo toan cuộc sống. Có bao giờ bạn tự
hỏi: "Mình học đại học để làm gì và cho ai?". Ở Việt Nam, việc chọn nghề nghiệp sau này chịu
sự tác động, chi phối lớn từ các bậc phụ huynh.
Sự bị động trong quá trình tìm việc
Nhiều sinh viên mới ra trường còn thụ động trong công tác tìm việc cho bản thân. Họ chỉ gửi hồ
sơ đến các công ty trên Internet và chờ đợi nhà tuyển dụng gọi phỏng vấn. Hãy hiểu rằng hàng
ngày nhà tuyển dụng nhận được rất nhiều hồ sơ xin việc từ các nguồn khác nhau và việc bạn bị
hòa lẫn với hàng loạt các ưng viên khác là điều khó tránh khỏi. Ngoài ra, có một số người ngồi ở
nhà không làm gì vì trông chờ vào ba mẹ hay người thân quen xin việc giúp.
Sự không minh bạch trong tuyển dụng
Một quy tắc ngầm trong xin việc mà ai cũng hiểu, đó chính là: mối quan hệ và tiền tệ. Có những
bạn may mắn khi còn ngồi trên ghế nhà trường đã được ba mẹ vận dụng mối quan hệ quen biết
để xin được một công việc ổn định. Ai cũng phải công nhận rằng trong thời buổi tìm việc khó
khăn hiện nay, để tìm được một công việc là một quá trình rất khắc nghiệt và khó khăn đối với
những người không có mối quan hệ và năng lực tài chính mạnh.
nh chuyên nghiệp: được thể hiện thông qua mục đích học tập của sinh viên nhằm rèn luyện, phát triển và
hoàn thiện nhân cách của một chuyên gia trong lĩnh vực chuyên môn. Việc học tập của sinh viên là đặc trưng
của các hoạt động nghề nghiệp trong tương lai. Ở đại học, sinh viên không chỉ tiếp thu kiến thức chung và cơ
bản (một phần của quá trình học tập), mục đích chính làthu thập kiến thức, kỹ năng và thái độ với nghề và phát
triển các phẩm chất của một chuyên gia trong một nghề.Bên cạnh những đặc điểm tích cực ấy, điểm tiêu cực
không tốt ....Tính lười nhác, ỷ lại làm sinh viên sao nhãng việc học, lãng phí thời gian, hạn chế sự sáng tạo.
Việc tốn thời gian vào mạng xã hội làm sinh viên dễ sao nhãng mục tiêu trong cuỗ sống. Thay vì bỏ thời gian
học hỏi những kiến thứ, kỹ năng, thì một bộ phận sinh viên lại đắm mình trong thế giới ảo. Dành nhiều thời
gian cho cuộc sống viễn tưởng khiến cho sinh viên chểnh mảng trong việc học, buông thả cuộc sống thực,
quên đi việc rèn luyện, trau dồi kiến thức, kỹ năng cho bản thân. Lười nhác thường xuyên làm sinh viên thụ
động trong việc tư duy sáng tạo, hình thành thói quenlười suy nghĩ, điều này rất đáng lo ngại vì sinh viên là bộ
phận rất cần sự sáng tạo để phục vụ trong việc học và công việc tương lai.Dành thời gian để “ duy trì trạng thái
thụ đông”, làm hạn chế các hoạt động thực tế: giao tiếp, giao lưu, học hỏi từ cuộc sống xung quanh. Việc đó
ảnh hưởng đến khả năng giao tiếp, ứng xử làm mất đi kỹ năng mềm để phục vụ quá trình học tập. Trong khi
hiệnnay kỹ năng mềm chiếm hơn 50% việc học tập và công việc sau này của sinh viên. Nghiên cứu cho thấy
thụ động càng nhiều thì càng dễ bị ảnh hưởng bởi các vấn đề tiêu cực, thậm chí có thể dẫn đến trầm cảm. Tất
nhiên khi sức khỏe bị ảnh hưởng, thì mọi hoạt động đều bị ảnh hưởng, bao gồm cả quá trình học tập1. Biện
pháp từ mỗi cá nhân- Cần sắp xếp thời gian hợp lí, cân bằng được việc học tập và giải trí, chỉ sử dụng khi rảnh
rỗi hay có nhu cầu xả stress.- Cá nhân hãy có ý thức đối với việc học của mình, không để những chuyện ngoài
lề ảnh hưởng đến tâm trí, hành động, có nhận thức đúng đắn về những tác động tiêu cực.- Sử dụng mxh đúng
việc, đúng mục đích để phát huy tối đa lợi ích cho kết quả học tập.- Tham gia các hoạt động thực tế, tăng khả
năng giao tiếp ứng, ứng xử, nâng caokỹ năng, gắn kết các mối quan hệ thực tế2. Biện pháp từ xã hội- Gia đình
cần dành thời gian quan tâm của con cái- Xã hội cũng cần có những định hướng để giúp đỡ giới trẻ, đặc biệt là
các bạn sinh viên tham gia các hoạt động thiết thực có ích cho mình và cộng đồng. Đẩy mạnh và nâng cao
công tác giáo dục chính trị tư tưởng, nhận thức của sinh viên về các vấn đề chính trị và xã hội sẽ dần dần giúp
sinh viên có đủ can đảm để đối phó với thông tin được tiếp nhận từ nhiều khía cạnh các nha
Câu 1 :
- Khái niệm về cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả :
+ Nguyên Nhân
+ Kết quả
+ Cho ví dụ
- Tính chất của cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả :
+ Khái niệm tính khách quan
+ Khái niệm tính phổ biến
+ Khái niệm tính tất yếu
- Mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả
+ Nguyên nhân sản sinh ra kết quả
+ Kết quả tác động ngược trở lại nguyên nhân theo hai hướng
+ Nguyên nhân và kết quả có thể thay đổi vị trí cho nhau
+ Cho ví dụ cụ thể
- Ý nghĩa phương pháp luận
- Liên hệ với bản thân sinh viên :
+ Về phía gia đình
+ Về phía nhà trường
+ Về phía xã hội
+ Biến chất về mặt tâm lý
Câu 2 :
- Khái quát chung về phạm trụ lý luận và thực tiễn :
+ khái niệm thực tiển
+ các hình thức cơ bản của hoạt động thực tiễn
+ đặc điểm của hoạt động thực tiễn
+ khái niệm lí luận và đặt điểm của lí luận
- Mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn
+ vai trò quyết định thực tiễn đối với lý luận
+ vai trò tác đông trở lại của lý luận đối với thực tiễn
+ sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
- Ý nghĩa phương pháp luận
- Vận dụng phân tích công cuộc phòng chống dịch bệnh Covid-19 ở VN
+ Nguôn gốc và sự biến đổi , phát triển của vi rút corona ( các biến thể )
+ sự nguy hại của covid-19 đối với con người , kinh tế xã hội
+ Thành tựu và hạn chế trong công cuộc đấu tranh
+ Thuận lợi và khó khăn
+ Giải pháp
+ Dựa vào cơ chế tác động , cơ chế lây lan của vi rút đến sức khỏe con người để đưa ra phương pháp phòng
chống cho cộng đồng , thúc đẩy nhanh việc nghiên cứu , tổng kết thực tiễn việc biến đổi .
Câu 1: Em xin trình bày vấn đề này như sau:
Phần I: Những vấn đề lý luận của quy luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và
ngược lại:
Quy luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược lại chỉ ra cách thức chung nhất
của sự vận động và phát triển, theo đó sự phát triển được tiến hành theo cách thức thay đổi lượng đạt đến
ngưỡng nhất định dẫn đến chuyển hóa về chất của sự vật và đưa sự vật sang một trạng thái phát triển tiếp theo.
Ph.Ăng-ghen đã khái quát quy luật này : “Những thay đổi đơn thuần về lượng, đến một mức độ nhất định, sẽ
chuyển hóa thành những sự khác nhau về chất”— Ph.Ăng-ghen.
1, Khái niệm lượng, chất:
+Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật, biểu thị số lượng, quy mô, trình độ,
nhịp điệu và sự vận động phát triển của sự vật cũng như các thuộc tính của nó.
+Chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng được biểu
hiện thông qua sự thống nhất hữu cơ giữa các thuộc tính và các yếu tố cấu thành sự vật, hiện tượng để làm cho
sự vật, hiện tượng là nó mà không phải những thứ khác.
2, Mối quan hệ biện chứng giữa lượng và chất:
– Chất và lượng là hai mặt đối lập: chất tương đối ổn định còn lượng thường xuyên biến đổi. Song, hai mặt đó
không tách rời mà tác động lẫn nhau một cách biện chứng. Sự thống nhất giữa chất và lượng ở trong một độ
nhất định khi sự vật đang tồn tại.
+Độ là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự thống nhất giữa lượng và chất, là khoảng giới hạn mà trong đó
sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản về chất của sự vật. Điểm giới hạn là khi lượng đạt tới sẽ làm
thay đổi về chất của sự vật thì gọi là điểm nút.
+Điểm nút: Sự thay đổi về chất qua điểm nút được gọi là bước nhảy. Đó là bước ngoặt căn bản kết thúc một
giai đoạn trong sự biến đổi về lượng, là sự gián đoạn trong quá trình biến đổi liên tục của các sự vật. Do vậy
có thể nói phát triển là sự “đứt đoạn” trong liên tục, là trạng thái liên hợp của các điểm nút.
Nói ngắn gọn hơn, bất cứ sự vật nào trong quá trình phát triển đều là quá trình biến đổi về lượng dẫn đến biến
đổi về chất .Lượng biến đổi dần dần và liên tục và khi đạt đến điểm nút sẽ dẫn đến bước nhảy về chất.
Tác động ngược
Đổi lại khi sự vật mới được hình thành thì từ chất mới thì sẽ có một lượng mới phù hợp, từ đó tạo nên sự thống
nhất mới giữa lượng và chất, sự tác động này được hiểu thông qua quy mô, nhịp điệu phát triển mới của lượng.
3, Ý nghĩa phương pháp luận:
Ý nghĩa trong nhận thức
+ Nhờ có phương pháp luận lượng chất mà chúng ta hiểu rằng bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng đều vận
động và phát triển.
+ Sự vật, hiện tượng nào cũng đều tồn tại hai mặt: Lượng và Chất. Do đó khi nhận thức, chúng ta cần nhận
thức về cả hai mặt lượng và chất để có có cái nhìn phong phú hơn về những sự vật, hiện tượng tồn tại xung
quanh chúng ta.
+ Cần phải làm rõ quy luật phát triển của sự vật, hiện tượng bằng cách xác định giới hạn độ, điểm nút, bước
nhảy.
Ý nghĩa trong thực tiễn
+ Muốn có sự biến đổi về chất thì cần kiên trì để biến đổi về lượng (bao gồm độ và điểm nút);
+ Cần tránh hai khuynh hướng sau:
Thứ nhất, nôn nóng tả khuynh: Đây là việc mà một cá nhân không kiên trì và nỗ lực để có sự thay đổi về
lượng nhưng lại muốn có sự thay đổi về chất;
Thứ hai, bảo thủ hữu khuynh: Lượng đã được tích lũy đến mức điểm nút nhưng không muốn thực hiện bước
nhảy để có sự thay đổi về chất.
+ Nếu không muốn có sự thay đổi về chất thì cần biết cách kiểm soát lượng trong giới hạn độ.
+ Bước nhảy là một giai đoạn hết sức đa dạng nên việc thực hiện bước nhảy phải được thực hiện một cách cẩn
thận.
Phần 2 : Vận dụng quy luật lượng – chất vào quá trình học tập và rèn luyện của sinh viên:
Việc nhận thức đúng đắn quy luật lượng – chất trong quá trình học tập, rèn luyện của sinh viên Thương Mại
nói riêng và của học sinh, sinh viên cả nước nói chung có ý nghĩa vô cùng to lớn. Cụ thể với cá nhân tôi-một
sinh viên khóa K56 của Đại học Thương Mại:
Trong chất sinh viên Đại học Thương Mại kéo dài từ năm 2020 đến năm 2024, khi đó lượng không ngừng
được tăng lên, đó chính là kiến thức. Cũng như học sinh phổ thông, sinh viên Đại học muốn có được tấm bằng
Đại học phải tích lũy đủ số tín chỉ học phần. Tuy nhiên việc tích lũy kiến thức ở Đại học có nhiều khác biệt, đó
là sinh viên không thể thụ động tiếp thu kiến thức mà còn phải tự tìm tòi, nghiên cứu từ những kiến thức mới
qua những chỉ dẫn của giảng viên. Nó không chỉ bao gồm những kiến thức cơ bản trong giáo trình mà kiến
thức còn đến từ việc trải nghiệm các tình huống ngoài xã hội. Kiến thức còn vô cùng phong phú từ đa dạng
đến chuyên sâu, từ cơ bản đến nâng cao, từ ít đến nhiều. Do vậy, trình độ, kết cấu cũng như quy mô nhận thức
của sinh viên cũng được thay đổi, tầm tri thức của sinh viên được nâng cao và cải thiện hơn qua từng giai
đoạn. Tuy nhiên qúa trình đó chưa đủ để làm thay đổi về chất. Chất của sinh viên Thương Mại chỉ có thể được
thay đổi khi lượng kiến thức của sinh viên đó đủ để vượt qua các điểm nút tức là những kì thi, các kì kiểm tra.
Trong đó điểm nút quan trọng nhất là sau khi viết luận văn, luận án, đến ngày nhận bằng tốt nghiệp. Đó chính
là điểm nút lớn nhất đánh dấu “bước nhảy” từ một sinh viên Thương Mại trở thành một cử nhân Thương Mại.
Điều đó chứng minh rằng lượng (kiến thức) được tích lũy qua 4 năm học đã đủ để làm chất sinh viên Thương
Mại thay đổi. Ngoài ra, là một sinh viên Thương Mại, ta phải tự trang bị cho mình tính tích cực, tự chủ,
nghiêm túc, trung thực. Trong một kì thi, nếu gian lận để một kết quả tốt thì dù ta có thể qua được kì thi,
nhưng về bản chất thì vẫn chưa có được biến đổi nào về chất, khi học những kiến thức sâu hơn, khó hơn chắc
chắn ta sẽ không tiếp thu được. Và vì thế dù có trải qua 4 năm đào tạo hệ đại học với tấm bằng loại Giỏi hay
Xuất sắc thì ta vẫn không đáp ứng được yêu cầu công việc sau này.
Bên cạnh đó, sau khi thay đổi chất mới cũng tác động ngược lại đến lượng. Đó là khi trở thành cử nhân
Thương Mại việc tiếp thu kiến thức chuyên ngành hay kĩ năng xử lý các tình huống và khả năng giao tiếp, ứng
xử cũng trở nên tốt hơn khi còn là sinh viên. Điều này thúc đẩy cử nhân Thương Mại tiếp tục tiếp thu những tri
thức mới ở cấp độ cao hơn để hoàn thiện bản thân.
Câu 2: Em xin trình bày vấn đề như sau:
Phần 1: Nội dung tính độc lập tương đối của ý thức xã hội :
Từ những quan điểm của C.Mác. Ph.Ăngghen và V.I.Lênin, chúng ta có thể hiểu khái niệm ý thức xã hội là
thuộc lĩnh vực tinh thần của xã hội, bao gồm những quan điểm, tư tưởng, học thuyết, lý thuyết và những tình
cảm, tâm trạng, truyền thống, tập quán, ...phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn lịch sử nhất định và có
tính độc lập tương đối với tồn tại xã hội.
Do đó, tính độc lập tương đối của ý thức xã hội có nghĩa là : ý thức xã hội do tồn tại xã hội quyết định, nhưng
ngay trong quá trình phản ánh ấy cũng như sau khi ra đời, ý thức xã hội có đời sống riêng, có quy luật vận
động, phát triển riêng của nó.Tính độc lập tương đối biểu hiện ở những điểm sau đây:
a,Ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội:
-Một là, ý thức xã hội chỉ là cái phản ánh của tồn tại xã hội nên luôn biến đổi sau khi tồn tại xã hội đã biến đổi.
-Hai là, ý thức xã hội thường tồn tại lâu dài, chậm thay đổi do thói quen, truyền thống và do tính bảo thủ của
một số hình thái ý thức xã hội.
-Ba là, ý thức xã hội luôn gắn với lợi ích của giai cấp, tập đoàn người trong xã hội. Vì vậy, những tư tưởng cũ
lạc hậu, thường được các lực lượng xã hội phản tiến bộ lưu giữ và truyền bá nhằm chống lại các lực lượng xã
hội tiến bộ, bảo vệ lợi ích của họ.
b, Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội:
-Ý thức xã hội tiến bộ cách mạng có khả năng vượt trước tồn tại xã hội
-Ý thức xã hội có thể dự báo tương lai, dự kiến khả năng sẽ tới và sẽ có tác dụng chỉ đạo hoạt động thực tiễn
của con người.
c,Tính kế thừa trong sự phát triển của ý thức xã hội:
-Ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội, trong quá trình phản ánh ý thức xã hội luôn có tính kế thừa các giá trị
của nhân loại để lại.
d,Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội trong sự phát triển của chúng:
Ý thức xã hội được thể hiện dưới nhiều hình thái cụ thể như: chính trị, pháp quyền, đạo đức, triết học, nghệ
thuật, tôn giáo, khoa học. Sự tác động của ý thức xã hội tới tồn tại xã hội biểu hiện qua hai chiều hướng. Nếu ý
thức xã hội tiến bộ thì tác động thúc đẩy tồn tại xã hội phát triển,ngược lại nếu ý thức xã hội lạc hậu sẽ cản trở
sự phát triển của tồn tại xã hội. Như vậy, nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử về tính độc lập tương đối của
ý thức xã hội chỉ ra bức tranh phức tạp của lịch sử phát triển ý thức xã hội, nó bác bỏ quan điểm siêu hình,
máy móc, tầm thường về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
Phần 2: Từ tính độc lập tương đối của ý thức xã hội, chứng minh đường lối đổi mới đúng đắn là điều kiện tiên
quyết để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội :
Việc đề ra đường lối đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy, nhờ đó tác động trở lại tồn tại xã hội theo hướng tích
cực là thành tựu quan trọng nhất thể hiện việc vận dụng đúng đắn tính độc lập tương đối của ý thức xã hội.
Từ ngày có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí Minh kính mến, dân tộc ta
đã giành được những thắng lợi vô cùng vĩ đại, một trong số đó là cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
thống nhất đất nước, cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó chính là kết quả của công cuộc đổi mới mang
tính cách mạng đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội và bước vào một thời kỳ mới. Thắng lợi vĩ
đại ấy chính là thắng lợi của sự kế thừa và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện, hoàn cảnh
cụ thể của nước ta, của sự kết hợp và vận dụng sáng tạo sự tác động lẫn nhau của các hình thái ý thức xã hội,
mà trong đó cốt lõi nhất là thế giới quan. Phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin kết hợp với những giá
trị tốt đẹp của 4000 năm lịch sử đã tập hợp, phát huy được sức mạnh toàn dân, viết nên những trang sử vàng
của đất nước. Công cuộc đổi mới do Đảng ta đề xướng và lãnh đạo đã và đang đạt được những thành tựu quan
trọng, càng khẳng định một sự thật rằng: chỉ có nhận thức và vận đụng dúng đắn tính độc lập tương đối của ý
thức xã hội mới góp phần đánh giá đúng đắn quá khứ, hiện tại, tương lai cũng như những nguồn lực mạnh mẽ
về vật chất và tinh thần của đất nước, nhờ đó mà tập hợp, tổ chức, lãnh đạo cả dân tộc đi đến thắng lợi.
Bên cạnh những thành tựu vĩ đại, cũng có những giai đoạn mà cách mạng nước ta gặp phải khó khăn, gian khổ
khiến đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế-xã hội. Một trong những nguyên nhân của những khó khăn ấy là
sai lầm, khuyết điểm của sự bảo thủ, trì trệ và chủ quan. Nếu xem xét sâu xa hơn dưới góc độ triết học thì đó là
những sai lầm của xu hướng không nhận thức và vận dụng đúng đắn tính độc lập tương đối của ý thức xã hội.
Chính sai lầm của xu hướng này đã gây nên những hậu quả rất nặng nề đối với sự phát triển của đất nước.
Như vậy, cả thắng lợi và khó khăn, cả những sai lầm khuyết điểm trong cách mạng nước ta đều liên quan ở các
mức độ khác nhau tới việc nhận thức và vận dụng tính độc lập tương đối của ý thức xã hội. Bởi thế, viêc vận
dụng đúng đắn tính độc lập tương đối của ý thức xã hội vào quá trình đổi mới tư duy là một đòi hỏi cấp bách,
có như vậy ý thức xã hội mới có thể phát triển và tác động trở lại tồn tại xã hội theo chiều hướng tiến bộ xã
hội.
| 1/10

Preview text:

1. “Trong nhận thưc và hoạt động thực tiễn, mọi chủ trương, đường lối, kế hoạch, mục tiêu đều phải xuất
phát từ thực tế khách quan, từ những điều kiện, tiền đề vật chất hiện có. Phải tôn trọng và hành động theo
quy luật khách quan, nếu không sẽ gây ra những hậu quả tai hại khôn lường”. (Nguồn: Giáo trình Triết
học Mác - Lênin, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.180-181)
Từ lý luận của triết học Mác - Lênin:
a. Anh (chị) hãy phân tích mối quan hệ giữa vật chất và ý thưc để làm rõ nguyên tắc phương pháp luận trên.
b. Sinh viên cần làm gì để phát huy tính năng động sáng tạo của ý thưc, phát huy vai trò của nhân tố con
người, chống tư tưởng, thái độ thụ động, ỷ lại, ngồi chờ, bảo thủ, trì trệ, thiếu tính sáng tạo? (5.0 điểm)
2. “Mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên và trong xã hội đều có nguyên nhân nhất định gây ra. Không có
hiện tượng nào không có nguyên nhân, chỉ có điều là nguyên nhân đó đã được nhận thưc hay chưa mà
thôi. Không nên đồng nhất vấn đề nhận thưc của con người về mối liên hệ nhân quả với vấn đề tồn tại của
mối liên hệ đó trong hiện thưc. (Nguồn: Giáo trình Triết học Mác - Lênin, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.234)
Từ lý luận của triết học Mác - Lênin:
a. Anh (chị) hãy phân tích căp phạm tru nguyên nhân và kết quả để làm rõ nhận định trên.
b. Làm rõ nguyên nhân vấn đề thất nghiệp của một bộ phận sinh viên sau khi tốt nghiệp Đại học, Cao
đẳng ở Việt Nam hiện nay? (5.0 điểm) BAI LAM TR.1 June 21, 2021
Thế giới xung quanh ta có vô vàn sự vật và hiện tượng phong phú và đa dạng. Nhưng du phong
phú và da dạng đến dâu thì cũng quy về hai lĩnh vực: vật chất và ý thưc. Có rất nhiều quan diểm
triết học xoay quanh vấn đế về mối quan hệ giữa vật chất và ý thưc, nhưng chỉ có quan điểm triết
học Mác - Lênin là đúng và đầy dủ đó là: vật chất là cái có trước, ý thưc là cái có sau. Vật chất
quyết định sự ra đời của ý thưc, đồng thời ý thưc tác động trở lại vật chất.
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thưc là mối quan hệ biện chưng. Trong mối quan hệ này, vật
chất có trước, ý thưc có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thưc, quyết định ý thưc, song ý thưc
không hoàn toàn thụ động mà nó có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
Từ mối quan hệ giữa vật chất và ý thưc trong triết học Mác - Lênin, rút ra nguyên tắc phương
pháp luận là tôn trọng tính khách quan kết hợp với phát huy tính năng động chủ quan. Phải tôn
trọng và hành động theo quy luật khách quan, nếu không sẽ gây ra những hậu quả tai hại khôn lường.
Vật chất quyết định nguồn gốc của ý thưc. Vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thưc và là
nguồn gốc sinh ra ý thưc. Bộ óc người là một dạng vật chất có tổ chưc cao nhất, là cơ quan phản
ánh để hình thành ý thưc. Ý thưc tồn tại phụ thuộc vào hoạt động thần kinh của bộ não trong quá
trình phản ánh hiện thực khách quan. Sự vận động của thế giới vật chất là yếu tố quyết định sự ra
đời của cái vật chất có tư duy là bộ óc người.
Vật chất quyết định nội dung của ý thưc. Suy cho cung, dưới bất kỳ hình thưc nào, ý thưc đều là
phản ánh hiện thực khách quan. Ý thưc mà trong nội dung của nó chẳng qua là kết quả của sự
phản ánh hiện thực khách quan vào trong đầu óc con người. Hay nói cách khác, có thế giới hiện
thực vận động, phát triển theo những quy luật khách quan của nó, được phản ánh vào ý thưc mới có nội dung của ý thưc.
Vật chất quyết định bản chất của ý thưc. Phản ánh và sáng tạo là hai thuộc tính không tách rời
trong bản chất của ý thưc. Nhưng sự phản ánh của con người không phải là “soi gương”, “chụp
ảnh” hoăc là “phản ánh tâm lý” mà là phản ánh tích cực, tự giác, sáng tạo thông qua thực tiễn.
Khác với chủ nghĩa duy vật cũ, xem xét thế giới vật chất như là những sự vật, hiện tượng cảm
tính, chủ nghĩa duy vật biện chưng xem xét thế giới vật chất là thế giới của con người hoạt động
thực tiễn. Chính thực tiễn là hoạt động vật chất có tính cải biến thế giới của con người - là cơ sở
để hình thành, phát triển ý thưc, trong đó ý thưc của con người vừa phản ánh, vừa sáng tạo, phản
ánh để sáng tạo và sáng tạo trong phản ánh.
Vật chất quyết định sự vận động, phát triển của ý thưc. Mọi sự tồn tại, phát triển của ý thưc đều
gắn liền với quá trình biến đổi của vật chất; vật chất thay đổi thì sớm hay muộn, ý thưc cũng phải
thay đổi theo. Con người-một sinh vật có tính xã hội ngày càng phát triển cả về thể chất lẫn tinh
thần, thì dĩ nhiên ý thưc - một hình thưc phản ánh của óc người cũng phát triển cả về nội dung và
hình thưc phản ánh. Đời sống xã hội ngày càng văn minh và khoa học ngày càng phát triển đã chưng minh điều đó.
Ý thưc có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất. Tính độc lập tương đối của ý thưc
thể hiện ở chỗ, ý thưc là sự phản ánh thế giới vật chất vào trong đầu óc con người, do vật chất
sinh ra, nhưng khi đã ra đời thì ý thưc có “đời sống” riêng, có quy luật vận động, phát triển riêng,
không lệ thuộc một cách máy móc vào vật chất. Sự tác động của ý thưc đối với vật chất phải
thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Vai trò của ý thưc thể hiện ở chỗ chỉ đạo hoạt động,
hành động của con người; nó có thể quyết định làm cho hoạt động của con người đúng hay sai,
thành công hay thất bại. Xã hội càng phát triển thì vai trò của ý thưc ngày càng to lớn, nhất là
trong thời đại ngày nay, thời đại thông tin, kinh tế tri thưc, thời đại của cuộc cách mạng khoa học
và công nghệ hiện đại, khi mà tri thưc khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Từ mối quan hệ giữa vật chất và ý thưc trong triết học Mác - Lênin, rút ra nguyên tắc phương
pháp luận là tôn trọng tính khách quan kết hợp với phát huy tính năng động chủ quan. Phải tôn
trọng và hành động theo quy luật khách quan, nếu không sẽ gây ra những hậu quả tai hại khôn lường.
b) Để phát huy tính năng động sáng tạo của ý thưc, phát huy vai trò của nhân tố con người,
chống tư tưởng, thái độ thụ động, ỷ lại, ngồi chờ, bảo thủ, trì trệ, thiếu tính sáng tạo, sinh viên cần :
Cần chủ động rèn luyện tính tự học
Tăng cường tổ chưc và quản lý hoạt động tự học của người học
Vì vật chất quyết định ý thưc nên trong nhận thưc và hoạt đọng thực tiễn đòi hỏi phải xuất phát
từ thực tế khách quan . Đầu tiên bản thân mỗi người phải xác định được các điều kiện khách
quan ảnh hưởng đến cuộc sống học tập của bản thân.măt khác phải đăc biệt chú ý tôn trọng tính
khách quan và hành vi theo các qui luật mang tính khách quan.
Vì ý thưc có sự tác động trở lại đối với vật chất nên cần phát huy tính năng động chủ quan là
phải tính năng động sáng tạo của ý thưc . điều này giúp cho việc học tập của sinh viên dễ dàng
vượt qua khó khăn , trở ngại để đạt được mục tiêu đề ra.
Cần chống lại bệnh chủ quan duy ý chí cũng như bệnh bảo thủ trì trệ
Phải phát huy tính năng động, sáng tạo trong mọi hoạt động hàng ngày. Kết cấu của ý thưc thì
tri thưc là quan trọng nhất nên mỗi chúng ta cần chú trọng phát triển tri thưc của bản thân.
Cần phải tiếp thu có chọn lọc kiến thưc mới và không chủ quan trong mọi tình huống.
Khi giải thích một hiện tượng cần phải xét có yếu tố vật chất lẫn tinh thần, cả yếu tố khách
quan và điều kiện khách quan. Câu 2 :
Trong quá trình nhận thưc, con người thâm nhập ngày càng sâu hơn vào các đối tượng để nắm
bắt và thể hiện thông qua các khái niệm những thuộc tính và mối liên hệ chung, đó là vận động,
không gian, thời gian, nhân quả, tính quy luật, tất yếu, ngẫu nhiên, giống nhau, khác nhau, mâu
thuẫn... Chúng là những đăc trưng của các đối tượng vật chất, là những hình thưc tồn tại phổ
biến của vật chất, còn các khái niệm phản ánh chúng là những phạm tru triết học.
Một là, nguyên nhân là cái sinh ra kết quả.
Nguyên nhân luôn luôn có trước kết quả, được sản sinh ra trước kết quả. Còn kết quả chỉ xuất
hiện sau khi nguyên nhân sinh ra nó đã xuất hiện. Tuy nhiên, trong tự nhiên, chúng ta bắt găp rất
nhiều các hiện tượng kế tiếp nhau như ngày luôn đến sau đêm, sấm luôn đến sau chớp v.v.,
nhưng ngày không phải là nguyên nhân sinh ra đêm, sấm không phải là nguyên nhân sinh ra
chớp. Mối liên hệ nhân quả không đơn thuần là sự kế tiếp nhau về măt thời gian. Ngoài sự kế
tiếp nhau về thời gian, mối quan hệ nhân quả còn là mối quan hệ sản sinh, trong đó nguyên nhân
là cái đẻ ra (cái sản sinh), là cái sinh ra kết qua (cái phái sinh).
Nguyên nhân sinh ra kết quả rất phưc tạp, bởi vì nó phụ thuộc vào nhiều điều kiện và hoàn cảnh
khác nhau. Cung một nguyên nhân trong điều kiện hoàn cảnh khác nhau sẽ gây nên những kết
quả khác nhau. Ví dụ, hút thuốc lá có hại cho sưc khoẻ, nhưng do thể trạng của người hút thuốc
khác nhau thì mưc độ tác hại với mỗi người sẽ khác nhau. Một kết quả có thể do một hay nhiều
nguyên nhân khác nhau tác động riêng lẻ hay tác động cung một lúc. Ví dụ, vật thể nóng lên có
thể do bị đốt nóng, có thể do cọ sát với vật thể khác, có thể do ánh sáng măt trời chiếu vào v.v.,
hoăc năng suất lúa cao do nhiều nguyên nhân như giống tốt, nước tưới đủ, phân bón đủ, chăm
sóc chu đáo. Ngược lại, một nguyên nhân lại dẫn đến nhiều kết quả. Ví dụ, do nguyên nhân chăt
phá rừng đã gây ra nhiều kết quả như lũ lụt, hạn hán, nạn đói, sự tuyệt chủng của một số loài sinh vật v.v..
Khi các nguyên nhân tác động cung một lúc lên sự vật thì hiệu quả tác động của từng nguyên
nhân tới sự hình thành kết quả sẽ khác nhau tuỳ thuộc vào hướng tác động và cường độ tác động
của nó. Nếu nhiều nguyên nhân tác động cung chiều sẽ thúc đẩy và tăng cường kết quả, nếu
nguyên nhân tác động ngược chiều thì nguyên nhân này làm suy yếu, tiêu diệt tác dụng của
nguyên nhân kia làm hạn chế và kìm hãm kết quả.
Do chỗ một kết quả có thể đựơc gây nên bởi tác động đồng thời của một số nguyên nhân và hiệu
quả tác động của từng nguyên nhân tới sự hình thành kết quả không giống nhau, cho nên chúng
ta cần phân loại để xác định đựơc vai trò, tác dụng của từng nguyên nhân đối với việc hình thành kết quả.
Tuỳ theo vai trò, tính chất,vị trí của nguyên nhân mà người ta phân ra các loại nguyên nhân như:
nguyên nhân chủ yếu, nguyên nhân thư yếu, nguyên nhân bên trong và nguyên nhân bên ngoài,
nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan, nguyên nhân trực tiếp và nguyên nhân gián tiếp.
Nguyên nhân chủ yếu là nguyên nhân mà thiếu nó thì kết quả không thể xảy ra, còn nguyên nhân
thư yếu là những nguyên nhân chỉ quyết định những đăc điểm nhất thời, không ổn định, cá biệt,
và khi tác động, nó phụ thuộc vào nguyên nhân chủ yếu. Ví dụ, để có năng suất lúa cao thì giống
là nguyên nhân chủ yếu, còn nước, phân bón, chăm sóc là nguyên nhân thư yếu. Nước, phân bón,
chăm sóc có quan trọng hay không là tuỳ thuộc yêu cầu của giống, khi nào cây lúa cần nước thì
nước trở nên quan trọng nhất, khi cây lúa cần chăm sóc thì chăm sóc trở nên quan trọng. Nguyên
nhân bên trong là sự tác động lẫn nhau giữa các măt, hay các yếu tố của cung một kết cấu vật
chất nào đó và gây nên những biến đổi nhất định.
Nguyên nhân bên ngoài là sự tác động lẫn nhau giữa những kết cấu vật chất khác nhau và gây ra
những biến đổi thích hợp với những kết cấu vật chất ấy.
Nguyên nhân bên trong bao giờ cũng giữ vai trò quyết định chi phối sự hình thành, tồn tại và
phát triển của các kết cấu vật chất. Nguyên nhân bên ngoài du to lớn đến đâu cũng không thể
thay thế được nguyên nhân bên trong, khi phát huy tác dụng nó phải thông qua nguyên nhân bên
trong. Ví dụ, để có kết quả là đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược giành độc lập, thống nhất cho đất
nước ta có nhiều nguyên nhân như do Đảng ta lãnh đạo tài tình, nhân dân ta anh hung dũng cảm,
sự giúp đỡ to lớn của Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa anh em. Nhưng yếu tố
quyết định để giành thắng lợi trong trường hợp này là Đảng ta và nhân dân ta là nguyên nhân bên trong.
Nguyên nhân chủ quan là sự hoạt động của các cá nhân, các giai cấp, các chính đảng v.v. nhằm
thúc đẩy hay kìm hãm sự xuất hiện, phát triển v.v. của các quá trình xã hội nhất định. Còn
nguyên nhân khách quan của các hiện tượng xã hội là nguyên nhân xuất hiện và tác động độc lập
với ý chí của con người, của các giai cấp, các chính đảng v.v. Trong hoạt động thực tiễn, nếu
hoạt động của con người phu hợp với quan hệ nhân quả khách quan thì sẽ thúc đẩy thế giới hiện
thực phát triển nhanh hơn. Ngược lại, nếu hoạt động của con người không phu hợp với quan hệ
nhân quả khách quan thì sẽ kìm hãm sự phát triển của thế giới hiện thực, cần phải phân biệt
nguyên nhân trực tiếp và nguyên nhân gián tiếp gây ra kết quả để có biện pháp xử lý thích hợp;
phân biệt nguyên nhân tất nhiên và nguyên nhân ngẫu nhiên.
Hai là, sự tác động trở lại của kết quả đối với nguyên nhân sinh ra nó.
Nguyên nhân là cái sản sinh ra kết quả, nhưng sau khi kết quả xuất hiện, kết quả không giữ vai
trò thụ động đối với nguyên nhân mà nó có ảnh hưởng tác động trở lại nguyên nhân sinh ra nó.
Sự tác động trở lại của kết quả đối với nguyên nhân có thể diễn ra theo hai chiều hướng: hoăc là
tác động tích cực thúc đẩy hoạt động của nguyên nhân, hoăc là tác động tiêu cực làm cản trở hoạt
động của nguyên nhân. Ví dụ, do nền kinh tế kém phát triển, ít đầu tư cho giáo dục nên trình độ
dân trí thấp. Trình độ dân trí thấp là nhân tố cản trở việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào
sản xuất, làm cản trở, kìm hãm sản xuất phát triển. Ngược lại, trình độ dân trí cao là kết quả của
chính sách phát triển kinh tế và giáo dục đúng đắn. Đến lượt nó, dân trí cao lại tác động tích cực
thúc đẩy sự phát triển của kinh tế và giáo dục.
Ba là, nguyên nhân và kết quả có thể chuyển hoá thay đổi vị trí cho nhau khi thay đổi mối quan hệ.
Mối quan hệ biện chưng giữa nguyên nhân và kết quả còn thể hiện ở chỗ nguyên nhân và kết quả
có thể chuyển hoá lẫn nhau trong những quan hệ và điều kiện nhất định. Điều đó có nghĩa là một
sự vật, hiện tượng nào đó trong mối quan hệ này là nguyên nhân, nhưng trong mối quan hệ khác
là kết quả và ngựơc lại. Trong thế giới khách quan, chuỗi nhân quả là vô cung, không có bắt đầu,
không có kết thúc, vì thế giới vật chất là vô cung vô tận. Vì vậy, muốn biết đâu là nguyên nhân,
đâu là kết qủa chúng ta phải đăt nó trong một mối quan hệ xác định.
b) Nguyên nhân vấn đề thất nghiệp của một bộ phận sinh viên sau khi tốt nghiệp Đại học, Cao
đẳng ở Việt Nam hiện nay:
Cung lao động nhiều hơn so với cầu tuyển dụng
Theo thống kê hiện nay trên cả nước có 412 trường đại học, cao đẳng và tính bình quân mỗi tỉnh,
thành có khoảng 6,6 trường với 2.200.000 sinh viên đang theo học. Con số này còn cao hơn
những nước phát triển. Các trường chạy theo số lượng đào tạo để tạo ra nguồn tài chính bu đắp
cho các khoản chi tiêu thường xuyên mà xem nhẹ chất lượng dạy dẫn đến nguồn đầu ra hạn chế,
không đáp ưng được nhu cầu của công việc thực tế.
Sinh viên thiếu kỹ năng thực tế để đáp ưng công việc
Trên 80% sinh viên mới ra trường được cho là có kiến thưc nhưng lại yếu kém về các kỹ năng
mềm - kỹ năng mà đa số nhà tuyển dụng, đăc biệt là các tập đoàn, tổ chưc nước ngoài đánh giá
cao. Chính vì thế, nhiều bạn đã mất điểm trong lần găp đầu tiên trong buổi phỏng vấn ở các công
ty. Trong quá trình học, đa số sinh viên đều tự chuẩn bị hành trang cho mình là hai bằng ngoại
ngữ và tin học và đều cho rằng đây là điều kiện đủ để có thể trúng tuyển việc làm sau này. Tuy
nhiên, đối với các nhà tuyển dụng, họ đánh giá cao các kỹ năng sống như: kỹ năng giao tiếp, kỹ
năng xử lý tình huống, giải quyết vấn đề, làm việc nhóm,... hơn là các giấy tờ chưng nhận.
Thiếu định hướng nghề nghiệp
Định hướng giá trị cho sinh viên cũng là một vấn đề cần quan tâm trong giáo dục hiện nay. Một
là không có định hướng, nghĩa là không biết mình học để làm gì. Hai là định hướng sai lệch,
không có lòng phấn đấu vì đam mê mà đơn giản chỉ học để lo toan cuộc sống. Có bao giờ bạn tự
hỏi: "Mình học đại học để làm gì và cho ai?". Ở Việt Nam, việc chọn nghề nghiệp sau này chịu
sự tác động, chi phối lớn từ các bậc phụ huynh.
Sự bị động trong quá trình tìm việc
Nhiều sinh viên mới ra trường còn thụ động trong công tác tìm việc cho bản thân. Họ chỉ gửi hồ
sơ đến các công ty trên Internet và chờ đợi nhà tuyển dụng gọi phỏng vấn. Hãy hiểu rằng hàng
ngày nhà tuyển dụng nhận được rất nhiều hồ sơ xin việc từ các nguồn khác nhau và việc bạn bị
hòa lẫn với hàng loạt các ưng viên khác là điều khó tránh khỏi. Ngoài ra, có một số người ngồi ở
nhà không làm gì vì trông chờ vào ba mẹ hay người thân quen xin việc giúp.
Sự không minh bạch trong tuyển dụng
Một quy tắc ngầm trong xin việc mà ai cũng hiểu, đó chính là: mối quan hệ và tiền tệ. Có những
bạn may mắn khi còn ngồi trên ghế nhà trường đã được ba mẹ vận dụng mối quan hệ quen biết
để xin được một công việc ổn định. Ai cũng phải công nhận rằng trong thời buổi tìm việc khó
khăn hiện nay, để tìm được một công việc là một quá trình rất khắc nghiệt và khó khăn đối với
những người không có mối quan hệ và năng lực tài chính mạnh.
Tính chuyên nghiệp: được thể hiện thông qua mục đích học tập của sinh viên nhằm rèn luyện, phát triển và
hoàn thiện nhân cách của một chuyên gia trong lĩnh vực chuyên môn. Việc học tập của sinh viên là đặc trưng
của các hoạt động nghề nghiệp trong tương lai. Ở đại học, sinh viên không chỉ tiếp thu kiến thức chung và cơ
bản (một phần của quá trình học tập), mục đích chính làthu thập kiến thức, kỹ năng và thái độ với nghề và phát
triển các phẩm chất của một chuyên gia trong một nghề.Bên cạnh những đặc điểm tích cực ấy, điểm tiêu cực
không tốt ....Tính lười nhác, ỷ lại làm sinh viên sao nhãng việc học, lãng phí thời gian, hạn chế sự sáng tạo.
Việc tốn thời gian vào mạng xã hội làm sinh viên dễ sao nhãng mục tiêu trong cuỗ sống. Thay vì bỏ thời gian
học hỏi những kiến thứ, kỹ năng, thì một bộ phận sinh viên lại đắm mình trong thế giới ảo. Dành nhiều thời
gian cho cuộc sống viễn tưởng khiến cho sinh viên chểnh mảng trong việc học, buông thả cuộc sống thực,
quên đi việc rèn luyện, trau dồi kiến thức, kỹ năng cho bản thân. Lười nhác thường xuyên làm sinh viên thụ
động trong việc tư duy sáng tạo, hình thành thói quenlười suy nghĩ, điều này rất đáng lo ngại vì sinh viên là bộ
phận rất cần sự sáng tạo để phục vụ trong việc học và công việc tương lai.Dành thời gian để “ duy trì trạng thái
thụ đông”, làm hạn chế các hoạt động thực tế: giao tiếp, giao lưu, học hỏi từ cuộc sống xung quanh. Việc đó
ảnh hưởng đến khả năng giao tiếp, ứng xử làm mất đi kỹ năng mềm để phục vụ quá trình học tập. Trong khi
hiệnnay kỹ năng mềm chiếm hơn 50% việc học tập và công việc sau này của sinh viên. Nghiên cứu cho thấy
thụ động càng nhiều thì càng dễ bị ảnh hưởng bởi các vấn đề tiêu cực, thậm chí có thể dẫn đến trầm cảm. Tất
nhiên khi sức khỏe bị ảnh hưởng, thì mọi hoạt động đều bị ảnh hưởng, bao gồm cả quá trình học tập1. Biện
pháp từ mỗi cá nhân- Cần sắp xếp thời gian hợp lí, cân bằng được việc học tập và giải trí, chỉ sử dụng khi rảnh
rỗi hay có nhu cầu xả stress.- Cá nhân hãy có ý thức đối với việc học của mình, không để những chuyện ngoài
lề ảnh hưởng đến tâm trí, hành động, có nhận thức đúng đắn về những tác động tiêu cực.- Sử dụng mxh đúng
việc, đúng mục đích để phát huy tối đa lợi ích cho kết quả học tập.- Tham gia các hoạt động thực tế, tăng khả
năng giao tiếp ứng, ứng xử, nâng caokỹ năng, gắn kết các mối quan hệ thực tế2. Biện pháp từ xã hội- Gia đình
cần dành thời gian quan tâm của con cái- Xã hội cũng cần có những định hướng để giúp đỡ giới trẻ, đặc biệt là
các bạn sinh viên tham gia các hoạt động thiết thực có ích cho mình và cộng đồng. Đẩy mạnh và nâng cao
công tác giáo dục chính trị tư tưởng, nhận thức của sinh viên về các vấn đề chính trị và xã hội sẽ dần dần giúp
sinh viên có đủ can đảm để đối phó với thông tin được tiếp nhận từ nhiều khía cạnh các nha Câu 1 : -
Khái niệm về cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả : + Nguyên Nhân + Kết quả + Cho ví dụ -
Tính chất của cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả :
+ Khái niệm tính khách quan
+ Khái niệm tính phổ biến
+ Khái niệm tính tất yếu -
Mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả
+ Nguyên nhân sản sinh ra kết quả
+ Kết quả tác động ngược trở lại nguyên nhân theo hai hướng
+ Nguyên nhân và kết quả có thể thay đổi vị trí cho nhau + Cho ví dụ cụ thể -
Ý nghĩa phương pháp luận -
Liên hệ với bản thân sinh viên : + Về phía gia đình + Về phía nhà trường + Về phía xã hội
+ Biến chất về mặt tâm lý Câu 2 : -
Khái quát chung về phạm trụ lý luận và thực tiễn : + khái niệm thực tiển
+ các hình thức cơ bản của hoạt động thực tiễn
+ đặc điểm của hoạt động thực tiễn
+ khái niệm lí luận và đặt điểm của lí luận -
Mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn
+ vai trò quyết định thực tiễn đối với lý luận
+ vai trò tác đông trở lại của lý luận đối với thực tiễn
+ sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn -
Ý nghĩa phương pháp luận -
Vận dụng phân tích công cuộc phòng chống dịch bệnh Covid-19 ở VN
+ Nguôn gốc và sự biến đổi , phát triển của vi rút corona ( các biến thể )
+ sự nguy hại của covid-19 đối với con người , kinh tế xã hội
+ Thành tựu và hạn chế trong công cuộc đấu tranh
+ Thuận lợi và khó khăn + Giải pháp
+ Dựa vào cơ chế tác động , cơ chế lây lan của vi rút đến sức khỏe con người để đưa ra phương pháp phòng
chống cho cộng đồng , thúc đẩy nhanh việc nghiên cứu , tổng kết thực tiễn việc biến đổi .
Câu 1: Em xin trình bày vấn đề này như sau:
Phần I: Những vấn đề lý luận của quy luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược lại:
Quy luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược lại chỉ ra cách thức chung nhất
của sự vận động và phát triển, theo đó sự phát triển được tiến hành theo cách thức thay đổi lượng đạt đến
ngưỡng nhất định dẫn đến chuyển hóa về chất của sự vật và đưa sự vật sang một trạng thái phát triển tiếp theo.
Ph.Ăng-ghen đã khái quát quy luật này : “Những thay đổi đơn thuần về lượng, đến một mức độ nhất định, sẽ
chuyển hóa thành những sự khác nhau về chất”— Ph.Ăng-ghen.
1, Khái niệm lượng, chất:
+Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật, biểu thị số lượng, quy mô, trình độ,
nhịp điệu và sự vận động phát triển của sự vật cũng như các thuộc tính của nó.
+Chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng được biểu
hiện thông qua sự thống nhất hữu cơ giữa các thuộc tính và các yếu tố cấu thành sự vật, hiện tượng để làm cho
sự vật, hiện tượng là nó mà không phải những thứ khác.
2, Mối quan hệ biện chứng giữa lượng và chất:
– Chất và lượng là hai mặt đối lập: chất tương đối ổn định còn lượng thường xuyên biến đổi. Song, hai mặt đó
không tách rời mà tác động lẫn nhau một cách biện chứng. Sự thống nhất giữa chất và lượng ở trong một độ
nhất định khi sự vật đang tồn tại.
+Độ là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự thống nhất giữa lượng và chất, là khoảng giới hạn mà trong đó
sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản về chất của sự vật. Điểm giới hạn là khi lượng đạt tới sẽ làm
thay đổi về chất của sự vật thì gọi là điểm nút.
+Điểm nút: Sự thay đổi về chất qua điểm nút được gọi là bước nhảy. Đó là bước ngoặt căn bản kết thúc một
giai đoạn trong sự biến đổi về lượng, là sự gián đoạn trong quá trình biến đổi liên tục của các sự vật. Do vậy
có thể nói phát triển là sự “đứt đoạn” trong liên tục, là trạng thái liên hợp của các điểm nút.
Nói ngắn gọn hơn, bất cứ sự vật nào trong quá trình phát triển đều là quá trình biến đổi về lượng dẫn đến biến
đổi về chất .Lượng biến đổi dần dần và liên tục và khi đạt đến điểm nút sẽ dẫn đến bước nhảy về chất. Tác động ngược
Đổi lại khi sự vật mới được hình thành thì từ chất mới thì sẽ có một lượng mới phù hợp, từ đó tạo nên sự thống
nhất mới giữa lượng và chất, sự tác động này được hiểu thông qua quy mô, nhịp điệu phát triển mới của lượng.
3, Ý nghĩa phương pháp luận: Ý nghĩa trong nhận thức
+ Nhờ có phương pháp luận lượng chất mà chúng ta hiểu rằng bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng đều vận động và phát triển.
+ Sự vật, hiện tượng nào cũng đều tồn tại hai mặt: Lượng và Chất. Do đó khi nhận thức, chúng ta cần nhận
thức về cả hai mặt lượng và chất để có có cái nhìn phong phú hơn về những sự vật, hiện tượng tồn tại xung quanh chúng ta.
+ Cần phải làm rõ quy luật phát triển của sự vật, hiện tượng bằng cách xác định giới hạn độ, điểm nút, bước nhảy. Ý nghĩa trong thực tiễn
+ Muốn có sự biến đổi về chất thì cần kiên trì để biến đổi về lượng (bao gồm độ và điểm nút);
+ Cần tránh hai khuynh hướng sau:
Thứ nhất, nôn nóng tả khuynh: Đây là việc mà một cá nhân không kiên trì và nỗ lực để có sự thay đổi về
lượng nhưng lại muốn có sự thay đổi về chất;
Thứ hai, bảo thủ hữu khuynh: Lượng đã được tích lũy đến mức điểm nút nhưng không muốn thực hiện bước
nhảy để có sự thay đổi về chất.
+ Nếu không muốn có sự thay đổi về chất thì cần biết cách kiểm soát lượng trong giới hạn độ.
+ Bước nhảy là một giai đoạn hết sức đa dạng nên việc thực hiện bước nhảy phải được thực hiện một cách cẩn thận.
Phần 2 : Vận dụng quy luật lượng – chất vào quá trình học tập và rèn luyện của sinh viên:
Việc nhận thức đúng đắn quy luật lượng – chất trong quá trình học tập, rèn luyện của sinh viên Thương Mại
nói riêng và của học sinh, sinh viên cả nước nói chung có ý nghĩa vô cùng to lớn. Cụ thể với cá nhân tôi-một
sinh viên khóa K56 của Đại học Thương Mại:
Trong chất sinh viên Đại học Thương Mại kéo dài từ năm 2020 đến năm 2024, khi đó lượng không ngừng
được tăng lên, đó chính là kiến thức. Cũng như học sinh phổ thông, sinh viên Đại học muốn có được tấm bằng
Đại học phải tích lũy đủ số tín chỉ học phần. Tuy nhiên việc tích lũy kiến thức ở Đại học có nhiều khác biệt, đó
là sinh viên không thể thụ động tiếp thu kiến thức mà còn phải tự tìm tòi, nghiên cứu từ những kiến thức mới
qua những chỉ dẫn của giảng viên. Nó không chỉ bao gồm những kiến thức cơ bản trong giáo trình mà kiến
thức còn đến từ việc trải nghiệm các tình huống ngoài xã hội. Kiến thức còn vô cùng phong phú từ đa dạng
đến chuyên sâu, từ cơ bản đến nâng cao, từ ít đến nhiều. Do vậy, trình độ, kết cấu cũng như quy mô nhận thức
của sinh viên cũng được thay đổi, tầm tri thức của sinh viên được nâng cao và cải thiện hơn qua từng giai
đoạn. Tuy nhiên qúa trình đó chưa đủ để làm thay đổi về chất. Chất của sinh viên Thương Mại chỉ có thể được
thay đổi khi lượng kiến thức của sinh viên đó đủ để vượt qua các điểm nút tức là những kì thi, các kì kiểm tra.
Trong đó điểm nút quan trọng nhất là sau khi viết luận văn, luận án, đến ngày nhận bằng tốt nghiệp. Đó chính
là điểm nút lớn nhất đánh dấu “bước nhảy” từ một sinh viên Thương Mại trở thành một cử nhân Thương Mại.
Điều đó chứng minh rằng lượng (kiến thức) được tích lũy qua 4 năm học đã đủ để làm chất sinh viên Thương
Mại thay đổi. Ngoài ra, là một sinh viên Thương Mại, ta phải tự trang bị cho mình tính tích cực, tự chủ,
nghiêm túc, trung thực. Trong một kì thi, nếu gian lận để một kết quả tốt thì dù ta có thể qua được kì thi,
nhưng về bản chất thì vẫn chưa có được biến đổi nào về chất, khi học những kiến thức sâu hơn, khó hơn chắc
chắn ta sẽ không tiếp thu được. Và vì thế dù có trải qua 4 năm đào tạo hệ đại học với tấm bằng loại Giỏi hay
Xuất sắc thì ta vẫn không đáp ứng được yêu cầu công việc sau này.
Bên cạnh đó, sau khi thay đổi chất mới cũng tác động ngược lại đến lượng. Đó là khi trở thành cử nhân
Thương Mại việc tiếp thu kiến thức chuyên ngành hay kĩ năng xử lý các tình huống và khả năng giao tiếp, ứng
xử cũng trở nên tốt hơn khi còn là sinh viên. Điều này thúc đẩy cử nhân Thương Mại tiếp tục tiếp thu những tri
thức mới ở cấp độ cao hơn để hoàn thiện bản thân.
Câu 2: Em xin trình bày vấn đề như sau:
Phần 1: Nội dung tính độc lập tương đối của ý thức xã hội :
Từ những quan điểm của C.Mác. Ph.Ăngghen và V.I.Lênin, chúng ta có thể hiểu khái niệm ý thức xã hội là
thuộc lĩnh vực tinh thần của xã hội, bao gồm những quan điểm, tư tưởng, học thuyết, lý thuyết và những tình
cảm, tâm trạng, truyền thống, tập quán, ...phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn lịch sử nhất định và có
tính độc lập tương đối với tồn tại xã hội.
Do đó, tính độc lập tương đối của ý thức xã hội có nghĩa là : ý thức xã hội do tồn tại xã hội quyết định, nhưng
ngay trong quá trình phản ánh ấy cũng như sau khi ra đời, ý thức xã hội có đời sống riêng, có quy luật vận
động, phát triển riêng của nó.Tính độc lập tương đối biểu hiện ở những điểm sau đây:
a,Ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội:
-Một là, ý thức xã hội chỉ là cái phản ánh của tồn tại xã hội nên luôn biến đổi sau khi tồn tại xã hội đã biến đổi.
-Hai là, ý thức xã hội thường tồn tại lâu dài, chậm thay đổi do thói quen, truyền thống và do tính bảo thủ của
một số hình thái ý thức xã hội.
-Ba là, ý thức xã hội luôn gắn với lợi ích của giai cấp, tập đoàn người trong xã hội. Vì vậy, những tư tưởng cũ
lạc hậu, thường được các lực lượng xã hội phản tiến bộ lưu giữ và truyền bá nhằm chống lại các lực lượng xã
hội tiến bộ, bảo vệ lợi ích của họ.
b, Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội:
-Ý thức xã hội tiến bộ cách mạng có khả năng vượt trước tồn tại xã hội
-Ý thức xã hội có thể dự báo tương lai, dự kiến khả năng sẽ tới và sẽ có tác dụng chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người.
c,Tính kế thừa trong sự phát triển của ý thức xã hội:
-Ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội, trong quá trình phản ánh ý thức xã hội luôn có tính kế thừa các giá trị
của nhân loại để lại.
d,Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội trong sự phát triển của chúng:
Ý thức xã hội được thể hiện dưới nhiều hình thái cụ thể như: chính trị, pháp quyền, đạo đức, triết học, nghệ
thuật, tôn giáo, khoa học. Sự tác động của ý thức xã hội tới tồn tại xã hội biểu hiện qua hai chiều hướng. Nếu ý
thức xã hội tiến bộ thì tác động thúc đẩy tồn tại xã hội phát triển,ngược lại nếu ý thức xã hội lạc hậu sẽ cản trở
sự phát triển của tồn tại xã hội. Như vậy, nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử về tính độc lập tương đối của
ý thức xã hội chỉ ra bức tranh phức tạp của lịch sử phát triển ý thức xã hội, nó bác bỏ quan điểm siêu hình,
máy móc, tầm thường về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
Phần 2: Từ tính độc lập tương đối của ý thức xã hội, chứng minh đường lối đổi mới đúng đắn là điều kiện tiên
quyết để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội :
Việc đề ra đường lối đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy, nhờ đó tác động trở lại tồn tại xã hội theo hướng tích
cực là thành tựu quan trọng nhất thể hiện việc vận dụng đúng đắn tính độc lập tương đối của ý thức xã hội.
Từ ngày có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí Minh kính mến, dân tộc ta
đã giành được những thắng lợi vô cùng vĩ đại, một trong số đó là cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
thống nhất đất nước, cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó chính là kết quả của công cuộc đổi mới mang
tính cách mạng đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội và bước vào một thời kỳ mới. Thắng lợi vĩ
đại ấy chính là thắng lợi của sự kế thừa và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện, hoàn cảnh
cụ thể của nước ta, của sự kết hợp và vận dụng sáng tạo sự tác động lẫn nhau của các hình thái ý thức xã hội,
mà trong đó cốt lõi nhất là thế giới quan. Phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin kết hợp với những giá
trị tốt đẹp của 4000 năm lịch sử đã tập hợp, phát huy được sức mạnh toàn dân, viết nên những trang sử vàng
của đất nước. Công cuộc đổi mới do Đảng ta đề xướng và lãnh đạo đã và đang đạt được những thành tựu quan
trọng, càng khẳng định một sự thật rằng: chỉ có nhận thức và vận đụng dúng đắn tính độc lập tương đối của ý
thức xã hội mới góp phần đánh giá đúng đắn quá khứ, hiện tại, tương lai cũng như những nguồn lực mạnh mẽ
về vật chất và tinh thần của đất nước, nhờ đó mà tập hợp, tổ chức, lãnh đạo cả dân tộc đi đến thắng lợi.
Bên cạnh những thành tựu vĩ đại, cũng có những giai đoạn mà cách mạng nước ta gặp phải khó khăn, gian khổ
khiến đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế-xã hội. Một trong những nguyên nhân của những khó khăn ấy là
sai lầm, khuyết điểm của sự bảo thủ, trì trệ và chủ quan. Nếu xem xét sâu xa hơn dưới góc độ triết học thì đó là
những sai lầm của xu hướng không nhận thức và vận dụng đúng đắn tính độc lập tương đối của ý thức xã hội.
Chính sai lầm của xu hướng này đã gây nên những hậu quả rất nặng nề đối với sự phát triển của đất nước.
Như vậy, cả thắng lợi và khó khăn, cả những sai lầm khuyết điểm trong cách mạng nước ta đều liên quan ở các
mức độ khác nhau tới việc nhận thức và vận dụng tính độc lập tương đối của ý thức xã hội. Bởi thế, viêc vận
dụng đúng đắn tính độc lập tương đối của ý thức xã hội vào quá trình đổi mới tư duy là một đòi hỏi cấp bách,
có như vậy ý thức xã hội mới có thể phát triển và tác động trở lại tồn tại xã hội theo chiều hướng tiến bộ xã hội.