Bài thảo luận: “Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về những chuẩn mực, nguyên tắc đạo đức cách mạng. Liên hệ tới sự nghiệp đổi mới hiện nay ở nước ta”
Bài thảo luận: “Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về những chuẩn mực, nguyên tắc đạo đức cách mạng. Liên hệ tới sự nghiệp đổi mới hiện nay ở nước ta”, môn tư tưởn Hồ Chí Minh , giúp sinh viên ôn luyện và học tập
Môn: Tư tưởng Hồ Chí Minh (HCM01)
Trường: Đại học Thương Mại
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoARcPSD| 38372003
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
BÀI THẢO LUẬN MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
PHÂN TÍCH QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ NHỮNG CHUẨN
MỰC, NGUYÊN TẮC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG. LIÊN HỆ TỚI SỰ
NGHIỆP ĐỔI MỚI HIỆN NAY Ở NƯỚC TA Nhóm thực hiện: Nhóm 6 Lớp học phần: 2242HCMI0111
Giảng viên hướng dẫn: ThS.Vũ Thị Thu Hà Hà Nội, 2022 LỜI MỞ ĐẦU
Đạo đức là một phạm trù quen thuộc trong cuộc sống mỗi người. Nó được
coi là biểu hiện của nhân cách văn hóa xã hội nói chung và là của mỗi cá nhân nói lOMoARcPSD| 38372003
riêng. Chủ tịch Hồ Chí Minh, Lãnh tụ vĩ đại của Đảng Cộng sản Việt Nam tuy đã
về với cõi vĩnh hằng nhưng đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân ta một di sản vô
cùng to lớn – đó là tư tưởng về đạo đức cách mạng. Có thể nói rằng, tư tưởng Hồ
Chí Minh về đạo đức cách mạng được bắt nguồn từ truyền thống đạo đức của dân
tộc Việt Nam, nền đạo đức đã được hình thành từ ngàn năm xa và kế thừa tư tưởng
đạo đức phương Đông cũng như tinh hoa đạo đức của nhân loại, đặc biệt dựa vào
nền tảng tư tưởng đạo đức cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin. Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã kế thừa có chọn lọc những giá trị đạo đức của dân tộc, vừa tiếp thu
những đạo đức của thời đại, đề xuất những tư tưởng đạo đức mới, phù hợp với
yêu cầu và bối cảnh của cách mạng Việt Nam trong thời đại mới và hướng tới việc
xây dựng con người mới có đủ đức, đủ tài phục vụ đất nước và đạt đến “chân,
thiện, mỹ” của con người.
Hồ Chí Minh coi đạo đức như là nền tảng của cách mạng, như “gốc của
cây, ngọn nguồn của sông suối”. Việc chăm nuôi cho cái gốc, cái nguồn ấy là rất
cần thiết, là công việc thường xuyên của Đảng, của toàn dân, toàn xã hội. Do vậy,
việc tìm hiểu, học tập, vận dụng và làm theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong
giai đoạn mới vô cùng cấp thiết và có ý nghĩa quan trọng cả về mặt lý luận và mặt
thực tế đối với mỗi thành viên trong xã hội, đặc biệt là thế hệ sinh viên – chủ nhân
tương lai của đất nước. Chính vì những lý do trên, nhóm 6 lựa chọn đối tượng
nghiên cứu của đề tài “Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về những chuẩn
mực, nguyên tắc đạo đức cách mạng. Liên hệ tới sự nghiệp đổi mới hiện nay ở
nước ta” là thế hệ sinh viên ngày nay. MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU i MỤC LỤC ii
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN LIÊN QUAN ĐẾN TƯ TƯỞNG
ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH 1 1.1.Các khái niệm 1
1.1.1. Khái niệm “Tư tưởng Hồ Chí Minh” 1 1 lOMoARcPSD| 38372003
1.1.2. Định nghĩa “Đạo đức cách mạng” 1
1.1.3. Chuẩn mực đạo đức cách mạng 1
1.1.4. Nguyên tắc đạo đức cách mạng 2
1.2.Nguồn gốc tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh 2
1.3.Vai trò đạo đức cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh 3
CHƯƠNG 2. QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ NHỮNG CHUẨN 4
MỰC, NGUYÊN TẮC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG 4
2.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về chuẩn mực đạo đức cách mạng 4
2.1.1. Trung với nước, hiếu với dân 4
2.1.2. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư 6
2.1.3. Yêu thương con người, sống có tình nghĩa 9
2.1.4. Tinh thần quốc tế trong sáng 10
2.2.Quan điểm của Hồ Chí Minh về nguyên tắc đạo đức cách mạng 12
2.2.1. Nói đi đôi với làm, nêu gương về đạo đức 12
2.2.2. Xây đi đôi với chống 13
2.2.3. Tu dưỡng đạo đức suốt đời 14
CHƯƠNG 3. LIÊN HỆ TỚI VIỆC RÈN LUYỆN ĐẠO ĐỨC CHO THẾ 16
HỆ SINH VIÊN HIỆN NAY Ở VIỆT NAM 16
3.1. Thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào quá trình rèn luyện
đạo đức của thế hệ sinh viên hiện nay 16
3.1.1. Nhận thức của thế hệ sinh viên Việt Nam về việc vận dụng tư tưởng 16
Hồ Chí Minh vào quá trình rèn luyện đạo đức hiện nay 16
3.1.2. Đánh giá quá trình rèn luyện đạo đức của thế hệ sinh viên Việt Nam 22 trong giai đoạn hiện nay 22
3.2. Đề xuất giải pháp nâng cao quá trình rèn luyện đạo đức cho thế hệsinh viên hiện nay 26 2 lOMoAR cPSD| 38372003 LỜI KẾT iii
TÀI LIỆU THAM KHẢO iv 3 lOMoARcPSD| 38372003
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN LIÊN QUAN ĐẾN TƯ TƯỞNG
ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH 1.1. Các khái niệm
1.1.1. Khái niệm “Tư tưởng Hồ Chí Minh”
Trải qua một quá trình nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về tư tưởng
Hồ Chí Minh, trong Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản
Việt Nam (năm 2011) đã nêu khái niệm “Tư tưởng Hồ Chí Minh” như sau:
“Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát
triển, sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa
và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa
nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta,
mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi.”
1.1.2. Định nghĩa “Đạo đức cách mạng”
Trong lịch sử Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đầu tiên đưa ra
thuật ngữ và khái niệm “Đạo đức cách mạng” và dày công định nghĩa khái niệm
“Đạo đức cách mạng” và phân tích nội dung bản chất cũng như các nguyên tắc,
chuẩn mực của đạo đức cách mạng. Đạo đức cách mạng là sự phát triển cao của
đạo đức truyền thống Việt Nam, nảy sinh và phát triển trong cách mạng, là đạo
đức phục vụ cho cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng lên chủ nghĩa xã hội.
1.1.3. Chuẩn mực đạo đức cách mạng
Chuẩn mực đạo đức cách mạng là những chuẩn mực chung nhất của nền
đạo đức cách mạng Việt Nam theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng.
Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức là nền tảng, là sức mạnh, là tiêu chuẩn
hàng đầu của người cách mạng. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm
nền tảng thì mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang vì sự nghiệp độc
lập dân tộc và tiến lên chủ nghĩa xã hội. Người quan niệm đạo đức tạo ra sức 1 lOMoARcPSD| 38372003
mạnh, nhân tố quyết định sự thắng lợi của mọi công việc. Nhưng như vậy không
có nghĩa Hồ Chí Minh tuyệt đối hóa mặt đức, coi nhẹ mặt tài. Người cho rằng “có
tài mà không có đức là người vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì
cũng khó”. Cho nên, đức là gốc nhưng đức và tài phải kết hợp với nhau để hoàn
thành tốt nhiệm vụ cách mạng.
Những chuẩn mực đạo đức cách mạng được Hồ Chí Minh quan niệm là: •
Một là, trung với nước, hiếu với dân. •
Hai là, cần, kiệm, liêm, chính. •
Ba là, thương yêu con người, sống có tình nghĩa. •
Bốn là, tinh thần quốc tế trong sáng.
1.1.4. Nguyên tắc đạo đức cách mạng
Nguyên tắc đạo đức là tiêu chuẩn phổ quát quy định về các hành vi, phẩm
chất mà một người, tập thể có đạo đức cần tuân theo.
Từ những quan điểm về đạo đức cách mạng của Hồ Chí Minh, các nguyên
tắc trong rèn luyện đạo đức cách mạng được đúc kết như sau: •
Một là, nói đi đôi với làm, nêu gương về đạo đức. •
Hai là, xây đi đôi với chống. •
Ba là, tu dưỡng đạo đức suốt đời.
1.2. Nguồn gốc tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh do chính truyền thống đạo đức của dân tộc
Việt Nam xây dựng nên nền móng, một truyền thống lâu đời được hình thành
trong hàng ngàn năm lịch sử, cùng với quá trình kế thừa tư tưởng đạo đức phương
Đông và tinh hoa đạo đức của nhân loại, đặc biệt là những tư tưởng đạo đức của
Các Mác, Ăngghen, Lênin, cũng như học tập những tấm gương đạo đức trong
sáng do các ông để lại. Cũng chính vì vậy mà Hồ Chí Minh đã viết nên những
dòng đầy cảm xúc nói về Lênin là “tấm gương sáng về sự giản dị vĩ đại và sự
khiêm tốn cao độ” và gọi ông là người thầy mang tấm lòng đạo đức vĩ đại và cao đẹp. 2 lOMoARcPSD| 38372003
Hồ Chí Minh đã sử dụng nhiều khái niệm, phạm trù của các tư tưởng đạo
đức đã có từ trước, nhất là đạo đức nho giáo trong lĩnh vực đạo đức. Nhưng như
vậy không phải nói Nho giáo chính là bản chất của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
Người đã không áp dụng một cách khuôn mẫu mà chọn lọc và phát triển những
khái niệm, phạm trù của các tư tưởng đó cho phù hợp với lợi ích của con người Việt Nam hiện đại.
Hồ Chí Minh đã đưa những nội dung mới vào trong những khái niệm, phạm
trù đạo đức quen thuộc của dân tộc Việt Nam, bên cạnh đó bổ sung những khái
niệm, phạm trù đạo đức của thời đại mới. Chính vì vậy mà những giá trị đạo đức
truyền thống được nâng lên một tầng cao mới, giúp người thực hiện việc kết hợp
giữa truyền thống và hiện đại. Việc tiếp thu tinh hoa đạo đức nhân loại đã giúp
cho tư tưởng Hồ Chí Minh trở nên phong phú, được đông đảo bạn bè quốc tế đón
nhận, bởi họ nhìn thấy điểm chung của bản thân mình trong đó, cũng như một
Việt Nam đang hòa nhập vào trong nhân loại. Sự kết hợp giữa truyền thống và
hiện đại, giữa dân tộc và quốc tế cũng là một đặc trưng của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
Như vậy, với tư duy độc lập và sáng tạo, Hồ Chí Minh đã kế thừa có chọn
lọc, khái quát và phát triển những giá trị của đạo đức từ ngàn đời, đưa ra những
tư tưởng, đạo đức hiện đại, phù hợp với yêu cầu của cách mạng Việt Nam trong thời đại mới.
1.3. Vai trò đạo đức cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Đạo đức cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh trước hết chính là sức mạnh
tinh thần, là vũ khí sắc bén của cách mạng.
Đạo đức là quy ước, là thước đo nhân cách của mỗi con người, là mục tiêu
và cũng là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng.
Hồ Chí Minh coi đạo đức là phẩm chất đầu tiên và tiên quyết, là nền tảng
của người cách mạng, giống như gốc của cây, nguồn của sông, suối. Gốc rễ càng
khỏe thì cây mới cao lớn, đầu nguồn càng nhiều nước thì sông suối mới dài, đạo
đức vững chắc thì người làm cách mạng mới đủ mạnh mẽ. Việc nuôi dưỡng đạo 3 lOMoARcPSD| 38372003
đức cách mạng đó chính là công việc thường xuyên của Đảng, toàn dân, mỗi gia
đình và mỗi con người trong xã hội.
Đạo đức ảnh hưởng đến sự nghiệp chuyển biến xã hội cũ thành xã hội mới
tốt đẹp hơn, xây dựng thuần phong mỹ tục của dân tộc, ảnh hưởng rất lớn đến
hành vi của mỗi người. Đạo đức tốt thì hành vi phù hợp với chuẩn mực và quy tắc
của xã hội, người không có đạo đức tất sẽ hành động sai trái.
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức chính là yếu tố liên quan trực tiếp đến việc
thành hay bại của cách mạng.
Hồ Chí Minh không tuyệt đối hóa mặt đạo đức mà khuyến khích người cách
mạng rèn luyện song song cả đức lẫn tài. Phẩm chất và năng lực của một người
phải đi đôi với nhau, không thể có mặt này mà mặt kia yếu kém.Một người làm
cách mạng giỏi chính là một người tài đức vẹn toàn.
Do vậy, cùng với việc giáo dục nâng cao trình độ hiểu biết, năng lực chuyên
môn, nghiệp vụ của cán bộ, Đảng viên và các tầng lớp nhân dân, Hồ Chí Minh
đặc biệt chú trọng đến giáo dục đạo đức con người. Tùy theo tình hình thực tế của
cách mạng theo từng thời kỳ, Người đề ra những yêu cầu đạo đức thiết thực để
mọi người phấn đấu rèn luyện, tạo điều kiện thuận lợi để hoàn thành nhiệm vụ
ngày càng nặng nề, khó khăn và phức tạp hơn mà cách mạng đề ra, từ đó đi đến
thắng lợi cuối cùng của sự nghiệp cách mạng
CHƯƠNG 2. QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ NHỮNG CHUẨN
MỰC, NGUYÊN TẮC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG
2.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về chuẩn mực đạo đức cách mạng
2.1.1. Trung với nước, hiếu với dân
Trong mối quan hệ đạo đức thì mối quan hệ giữa mỗi người với đất nước,
với nhân dân, với dân tộc là mối quan hệ lớn nhất. Theo Hồ Chí Minh Trung, hiếu
là phẩm chất quan trọng nhất, bao trùm nhất và chi phối các phẩm chất khác. Từ
quan niệm cũ “ trung với vua, hiếu với cha mẹ” trong đạo đức truyền thống của
xã hội phong kiến phương Đông, Hồ Chí Minh đưa vào đó một nội dung mới, cao
rộng hơn là “ trung với nước, hiếu với dân”, phản ánh bổn phận của dân đối với
vua, con cái đối với cha mẹ. 4 lOMoAR cPSD| 38372003
Theo Người, “trung” là trung với nước, là trung thành với lợi ích của quốc
gia, dân tộc, với sự nghiệp đấu tranh cách mạng của Đảng, với sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa... “Nước” ở đây với ý
nghĩa "Dân là con nước, nước là mẹ chung", là nước của dân, của toàn dân tộc
chứ không phải của riêng ai và chính mỗi người dân là những "chủ nhân" của đất
nước. Mối quan hệ nước-dân, dân-nước mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc, hòa quyện
với nhau trong một thể thống nhất về trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi công dân
với cộng đồng, quốc gia, dân tộc.
Nội dung chủ yếu của trung với nước bao gồm: Đặt lợi ích của Đảng, của
Tổ quốc, của cách mạng lên trên hết; Quyết tâm phấn đấu thực hiện mục tiêu của
cách mạng; Thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Về chữ “hiếu”, theo Hồ Chí Minh, là hiếu với dân. Hiếu với dân không phải
chỉ là hiếu với cha mẹ mình như người xưa vẫn nói, mà là hiếu với nhân dân, với
toàn dân tộc, vì "nước lấy dân làm gốc", dân là "gốc" của nước. Bác Hồ từng chỉ
rõ: "Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân... Trong xã hội không có gì tốt
đẹp, vẻ vang bằng phục vụ cho lợi ích của nhân dân"; "Nhân dân ta từ lâu đã sống
với nhau có tình có nghĩa như thế. Từ khi có Đảng ta lãnh đạo và giáo dục, tình
nghĩa ấy càng cao đẹp hơn, trở thành tình nghĩa đồng bào, đồng chí, tình nghĩa
năm châu bốn biển một nhà... đạo đức ngày nay cao rộng hơn: không phải chỉ có
hiếu với bố mẹ, mà phải trung với nước, hiếu với dân".
Nội dung của hiếu với dân bao gồm: Khẳng định vai trò sức mạnh thực sự
của nhân dân; Tin dân, lắng nghe dân, học dân, tổ chức vận động nhân dân cùng
thực hiện tốt đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước; Chăm lo đến đời sống
vật chất và tinh thần của nhân dân; Mọi đường lối, chính sách đều phục vụ lợi ích của nhân dân.
Đây là chuẩn mực đạo đức có ý nghĩa quan trọng hàng đầu. Người khẳng
định: Trung với nước, hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do của
Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng
vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Câu nói của Bác vừa là lời kêu gọi hành 5 lOMoARcPSD| 38372003
động, vừa là định hướng chính trị, đạo đức cho mỗi người Việt Nam, không phải
chỉ trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc mà còn lâu dài mãi về sau.
“Trung với nước, hiếu với dân” theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh được
thể hiện trong mọi công việc cách mạng của Đảng, trong từng suy nghĩ, việc làm
cụ thể của mỗi cán bộ, đảng viên và mỗi người dân. Vì vậy, trong suốt quá trình
xây dựng Đảng, lãnh đạo cách mạng, Bác thường xuyên quan tâm tới việc nâng
cao tinh thần trung, hiếu ở mỗi người dân Việt Nam yêu nước nói chung, cán bộ,
đảng viên nói riêng, và đòi hỏi họ phải luôn ghi sâu trong lòng những chữ "trung
với nước, hiếu với dân".
Hồ Chí Minh mong muốn mỗi người Việt Nam phải trung với nước, hiếu
với dân còn đối với cán bộ, đảng viên, Hồ Chí Minh cho rằng ''điều chủ chốt nhất'
của đạo đức cách mạng là ''tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân'', là ''trung
với nước, hiếu với dân'', hơn nữa phải là ''tận trung, tận hiếu'' thì mới xứng đáng
vừa là người lãnh đạo, vừa là đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Tư tưởng hiếu
với dân không còn dừng lại ở chỗ thương dân mà còn phải phục vụ hết lòng vì
dân. Vì vậy phải gần dân, gắn bó với dân, kính trọng và học tập dân, dựa hẳn vào dân, lấy dân làm gốc.
2.1.2. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
Đây là phẩm chất đạo đức gắn liền với hoạt động hằng ngày của mỗi người,
là đại cương đạo đức Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, bọn phong kiến
ngày xưa nêu ra “cần, kiệm, liêm, chính” nhưng không bao giờ thực hiện mà lại
bắt nhân dân tuân theo để phụng sự quyền lợi cho chúng. Ngày nay ta đề ra cần,
kiệm, liêm, chính cho cán bộ thực hiện làm gương cho nhân dân là để đem lại
hạnh phúc cho dân. Với ý nghĩa như vậy cần, kiệm liêm, chính, chí công vô tư
cũng là một biểu hiện cụ thể, một nội dung của phẩm chất “trung với nước, hiếu với dân”.
Cũng như khái niệm “Trung, Hiếu”, “Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí công
vô tư” cũng là những khái niệm cũ trong truyền thống dân tộc, được Hồ Chí Minh 6 lOMoAR cPSD| 38372003
lọc bỏ những nội dung không phù hợp và đưa vào những nội dung mới đáp ứng
yêu cầu của cách mạng. Theo Hồ Chí Minh:
Cần tức là lao động cần cù, siêng năng, lao động có kế hoạch, sáng tạo, có
năng suất cao, lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ
lại, không dựa dẫm. Phải thấy rõ “lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống,
nguồn hạnh phúc của chúng ta”.
Kiệm tức là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của của
dân, của đất nước, của bản thân mình; phải tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ, nhiều
cái nhỏ cộng lại thành cái to, “không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi”,
không phô trương hình thức, không liên hoan, chè chén lu bù.
Liêm tức là “luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân”, “không xâm
phạm một đồng xu, hạt thóc của Nhà nước, của nhân dân”. Phải “trong sạch,
không tham lam”. “Không tham địa vị. Không tham tiền tài. Không tham sung
sướng. Không ham người tâng bốc mình. Vì vậy, mà quang minh chính đại, không bao giờ hủ hóa”.
Chính nghĩa là “không tà, thẳng thắn, đứng đắn”. Đối với mình: không tự
cao, tự đại, luôn chịu khó học tập cầu tiến bộ, luôn tự kiểm điểm để phát triển điều
hay, sửa đổi điều dở của bản thân mình. Đối với người: không nịnh hót người trên,
không xem khinh người dưới, luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết
thật thà, không dối trá, lừa lọc. Đối với việc: để việc công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà.
Theo Hồ Chí Minh, Cần, Kiệm, Liêm, Chính là “tứ đức” không thể thiếu
được của con người. Đó là thước đo văn minh tiến bộ của dân tộc. Một dân tộc
biết cần, kiệm, liêm, chính là một dân tộc giàu về vật chất, mạnh mẽ tinh thần, là
dân tộc văn minh tiến bộ, đặc điểm của xã hội hưng thịnh.
Chí công vô tư là tính tốt có thể gồm 5 điều: nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm.
Bồi dưỡng phẩm chất đạo đức: “Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí công vô tư” là để
người cách mạng vững vàng qua mọi thử thách: “Giàu sang không quyến rũ,
nghèo khó không thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục”. Bác nói: “Đem 7 lOMoAR cPSD| 38372003
lòng chí công vô tư mà đối với người, với việc”. “Khi làm bất cứ việc gì cũng
đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau”, phải “lo trước
thiên hạ, vui sau thiên hạ”.
Người coi Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí công vô tư là phẩm chất đạo đức
cơ bản nhất của con người mới, đồng thời là chuẩn mực cơ bản của nền đạo đức
mới của dân tộc ta. Đây là phẩm chất được Người đề cập đến nhiều nhất, thường
xuyên nhất với một nội dung đạo đức mới rất cách mạng mà vẫn giữ được nền
tảng của các khái niệm đạo đức cũ rất quen thuộc với mọi người. Phẩm chất này
gắn liền với hoạt động hàng ngày của mỗi con người và có quan hệ mật thiết với
tư tưởng trung với nước, hiếu với dân. Người từng nói: “Người đảng viên, người
cán bộ tốt muốn trở nên người cách mạng chân chính, không có gì là khó cả. Điều
đó hoàn toàn do lòng mình mà ra. Lòng mình chỉ biết vì Đảng, vì Tổ quốc, vì đồng
bào thì mình sẽ tiến đến chỗ chí công, vô tư. Mình đã chí công, vô tư thì khuyết
điểm sẽ càng ít, mà những tính tốt như sau, ngày càng thêm”. Có thể thấy rằng từ
các khái niệm đạo đức cũ như: nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm, Người đã đưa vào đây
nội dung đạo đức mới bằng cách giải thích nó theo quan niệm mới, với một nội
dung hoàn toàn khác, rất cách mạng, phản ánh các mối quan hệ một cách rõ ràng, cụ thể và dễ hiểu.
Cần, kiệm, liêm, chính có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và với chí công
vô tư. Cần, kiệm, liêm, chính sẽ dẫn đến chí công vô tư. Ngược lại, chí công vô
tư, một lòng vì nước, vì Đảng, hết lòng với dân thì nhất định thực hiện được cần,
kiệm, liêm, chính và tu dưỡng được những phẩm chất đạo đức khác.
Ở quan điểm của Bác thì Cần, Kiệm, Liêm, Chính là thước đo giá trị giàu
có, là nền tảng của đời sống mới, của các phong trào thi đua yêu nước. Một dân
tộc biết Cần, Kiệm, Liêm, Chính là một dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh
thần, là một dân tộc văn minh, tiến bộ. Để làm được đúng lời căn dặn của Bác
“mỗi cán bộ, đảng viên phải thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”, thì
lúc này phải thắng được “giặc nội xâm”, “giặc quốc nạn” loại giặc vô ảnh, vô hình
là tên giặc tham nhũng ở ngay trong lòng mình, trong tổ chức mình. Vì loại giặc 8 lOMoARcPSD| 38372003
này đang rình rập phá hoại Đảng, phá hoại chế độ và sẽ làm cho Đảng hỏng, nếu
mỗi cán bộ đảng viên không thắng được nó.
2.1.3. Yêu thương con người, sống có tình nghĩa
Quan niệm của Bác về con người rất toàn diện và độc đáo. Bác xác định
tình yêu thương con người là một trong những phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất.
Với Hồ Chí Minh, tình yêu thương con người là không biên giới. Tình yêu thương
con người được xây dựng trên lập trường giai cấp công nhân, được thể hiện trong
mối quan hệ giữa bạn bè, đồng chí, với mọi người bình thường trong quan hệ hàng
ngày. Yêu thương con người trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh xuất phát từ
truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp với chủ nghĩa nhân văn của nhân
loại, chủ nghĩa nhân đạo cộng sản. Yêu thương con người thể hiện mối quan hệ
giữa cá nhân với cá nhân trong quan hệ xã hội". Quan điểm của Bác là phải tất cả
vì con người. Chúng ta không có mục đích nào khác là chăm lo cho con người,
giải phóng con người, nhằm tạo điều kiện phát triển toàn diện cá nhân, nghĩa là
xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa. Chính vì vậy, Bác coi đây là phẩm chất cao đẹp nhất.
Tư tưởng yêu thương con người của Hồ Chí Minh rất rõ ràng, cụ thể, không
trừu tượng chung chung. Tình yêu thương đó là tình cảm rộng lớn, trước hết dành
cho những người cùng khổ, những người lao động bị áp bức, bóc lột không phân
biệt màu da dân tộc. Yêu thương con người của Bác rất đúng mực, thể hiện rõ
quan điểm yêu và chống, nhằm vun đắp bồi bổ cho tình yêu thương con người.
Điều này, được Bác Hồ kết luận: "Chỉ có một mối tình hữu ái thật mà thôi, đó là
tình hữu ái vô sản”. Với lòng nhân ái bao la, Người đã dành tình yêu thương, sự
chia sẻ nỗi đau với mỗi người. Người đau nỗi đau của một người từng trải và
chứng kiến nhiều cảnh đau thương mất mát, bao cảnh bất công, ngang trái mà
đồng bào mình, đất nước mình và các dân tộc đồng cảnh ngộ phải gánh
chịu…Người nói: “Mỗi người, mỗi gia đình đều có một nỗi đau khổ riêng và gộp
cả những nỗi đau khổ riêng của mỗi người, mỗi gia đình lại thì thành nỗi đau khổ
của tôi”; hay “Một ngày mà Tổ quốc chưa thống nhất, đồng bào còn chịu khổ là 9 lOMoARcPSD| 38372003
một ngày tôi ăn không ngon, ngủ không yên”. Tình yêu thương của Bác Hồ là rất
cụ thể, từ việc to như lo giải phóng con người đến chăm lo từng con người cụ thể.
Việc lo giải phóng con người, chúng ta có thể thấy minh chứng rõ ràng nhất là cả
cuộc đời của Người. Cụ thể với nhân dân Việt Nam, Người đã có lời nhắn nhủ
đầy tâm huyết, rất nhân văn: “Tôi khuyên đồng bào đoàn kết chặt chẽ và rộng rãi.
Năm ngón tay cũng có ngón ngắn ngón dài. Nhưng ngắn dài đều họp lại nơi bàn
tay. Trong mấy triệu người cũng có người thế này thế khác đều dòng dõi tổ tiên
ta. Vậy nên ta phải khoan hồng đại độ”.
Tình yêu thương con người thể hiện trước hết là tình thương yêu với đại đa
số nhân dân, những người lao động bình thường trong xã hội, những người nghèo
khổ, bị áp bức, bóc lột. Yêu thương con người phải làm mọi việc để phát huy sức
mạnh của mỗi người, đoàn kết để phấn đấu cho đạt được mục tiêu “ai cũng có
cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Yêu thương con người là giúp cho mỗi
người ngày càng tiến bộ, tốt đẹp hơn. Vì vậy, phải thực hiện phê bình, tự phê bình
chân thành, giúp nhau sửa chữa khuyết điểm, phát huy ưu điểm để không ngừng
tiến bộ. Yêu thương con người phải biết và dám dấn thân để đấu tranh giải phóng
con người. Đối với những người cộng sản, Chủ tịch Hồ
Chí Minh dạy: học tập chủ nghĩa Mác - Lênin để thương yêu nhau hơn. Người
viết: "Hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin là phải sống với nhau có tình có nghĩa. Nếu
thuộc bao nhiêu sách mà sống không có tình có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin được".
2.1.4. Tinh thần quốc tế trong sáng
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế là sự mở rộng những
quan niệm đạo đức nhân đạo, nhân văn của Người ra phạm vi toàn nhân loại, vì
Người là “người Việt Nam nhất” đồng thời là nhà văn hóa kiệt xuất của thế giới,
anh hùng giải phóng dân tộc, chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc tế. Đó
là tinh thần đoàn kết quốc tế vô sản mà Hồ Chí Minh đã nêu lên bằng một mệnh
đề “bốn phương vô sản đều là anh em”, là tinh thần đoàn kết với các dân tộc bị áp
bức, với nhân dân lao động các nước mà Bác đã dày công vun đắp bằng hoạt động 10 lOMoARcPSD| 38372003
cách mạng thực tiễn của bản thân mình và bằng sự nghiệp cách mạng của dân tộc,
là tinh thần đoàn kết của nhân dân Việt Nam với tất cả nhân dân tiến bộ trên toàn
thế giới vì hòa bình, công lý và tiến bộ xã hội, vì mục tiêu hòa bình, độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội, là tinh thần hợp tác và hữu nghị.
Quan niệm đạo đức về tình đoàn kết quốc tế trong sáng của Hồ Chí Minh
thể hiện trong các điểm sau:
Thứ nhất, đoàn kết với nhân dân lao động các nước. Đó chính là tinh thần
đoàn kết với các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao động các nước trong cuộc
đấu tranh giải phóng con người khỏi ách áp bức mà Hồ Chí Minh đã dày công vun
đắp bằng hoạt động cách mạng thực tiễn của bản thân mình và bằng sự nghiệp
cách mạng của cả dân tộc.
Thứ hai, đoàn kết quốc tế giữa những người vô sản toàn thế giới vì một mục
tiêu chung, “bốn phương vô sản đều là anh em”. Người khẳng định thực dân đế
quốc là kẻ thù của nhân dân thuộc địa và cũng là kẻ thù của nhân dân lao động
chính quốc. Để chống lại kẻ thù chung, đạt tới mục tiêu giải phóng thân phận nô
lệ và bị bóc lột, đòi hỏi sự đoàn kết liên minh chặt chẽ nhân dân lao động ở thuộc
địa và chính quốc. Vì thế, nhiệm vụ chống thực dân đế quốc, đánh đổ chủ nghĩa
tư bản là nhiệm vụ của cả nhân dân lao động chính quốc và thuộc địa. Nhiệm vụ
đó đòi hỏi phải đoàn kết cả hai lực lượng nói trên. Đoàn kết với nhân loại tiến bộ
vì hòa bình, công lý và tiến bộ xã hội. Vì lẽ đó, Người luôn động viên nhân dân
Việt Nam vừa tiến hành sự nghiệp bảo vệ độc lập tự do của dân tộc mình, vừa
thực hiện sự giúp đỡ vô tư chí tình, chí nghĩa đối với các dân tộc anh em. Sự đoàn
kết ấy là nhằm những mục tiêu lớn của thời đại là hoà bình, độc lập dân tộc, dân
chủ và tiến bộ xã hội, là hợp tác hữu nghị với tất cả các nước, các dân tộc. Sự đoàn
kết ấy dựa trên cơ sở bình đẳng và kết hợp giữa lợi ích quốc gia với lợi ích quốc tế.
Thứ ba, đoàn kết quốc tế gắn liền với chủ nghĩa yêu nước. Chủ nghĩa yêu
nước chân chính sẽ dẫn đến chủ nghĩa quốc tế trong sáng, chống lại mọi biểu hiện
của chủ nghĩa sô vanh, vị kỷ, hẹp hòi, kỳ thị dân tộc... Nếu tinh thần yêu nước 11 lOMoARcPSD| 38372003
không chân chính và tinh thần quốc tế không trong sáng thì có thể dẫn tới tư tưởng
dân tộc hẹp hòi, hoặc chủ nghĩa bành trướng bá quyền nước lớn, kỳ thị dân tộc...
Những khuynh hướng sai lệch ấy có thể dẫn đến phá vỡ một quốc gia dân tộc hay
một liên bang đa quốc gia dân tộc, phá vỡ tình đoàn kết quốc tế trong cuộc đấu
tranh chung, thậm chí có thể đưa đến tình trạng đối đầu, thù địch.
Có thể nói tinh thần quốc tế trong sáng trong đạo đức Hồ Chí Minh bắt
nguồn từ tình thương yêu đối với con người; vì mục tiêu giải phóng các dân tộc
bị áp bức, giải phóng giai cấp, giải phóng con người, mang lại tự do và bình đẳng
thực sự cho con người. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh
đã dày công xây đắp tình đoàn kết hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân
thế giới, đã tạo ra một kiểu quan hệ quốc tế mới: đối thoại thay đối đầu nhằm kiến
tạo một nền văn hóa hòa bình cho nhân loại. Trong Tuyên ngôn Độc lập (2-9-
1945), Hồ Chí Minh đã viết: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng,
tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền
ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc… suy rộng ra,
câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc
nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Người cũng nhấn
mạnh, thắng lợi cuối cùng nhất định sẽ thuộc về chúng ta, sẽ thuộc về chủ nghĩa
xã hội nếu như tất cả các nước anh em và các đảng anh em đoàn kết chặt chẽ với nhau.
2.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về nguyên tắc đạo đức cách mạng
2.2.1. Nói đi đôi với làm, nêu gương về đạo đức
Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, Hồ Chí Minh luôn luôn nêu gương
sáng về đạo đức, Người nói ít làm nhiều, có nhiều vấn đề về đạo đức Người làm
mà không nói, phải đi sâu nghiên cứu hành vi đạo đức của Người mới thấy được
bản chất sâu xa của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
Đối với cán bộ đảng viên Hồ Chí Minh nêu: “… Trước mặt quần chúng
không phải ta cứ viết lên trán hai chữ cộng sản mà được họ yêu mến. Quần chúng 12 lOMoARcPSD| 38372003
chỉ yêu mến những người có tư cách, đạo đức muốn hướng dẫn nhân dân mình
phải làm mực thước cho người ta bắt chước”.
Trong cuốn đường cách mệnh, khi nói về tư cách người cách mệnh Hồ Chí
Minh viết: “Nói thì phải làm” “Có lòng bày vẽ cho người” hay trong tác phẩm
nâng cao đạo đức cách mạng quét sạch chủ nghĩa cá nhân, Hồ Chí Minh yêu cầu
Đảng cần thực hiện “Đảng viên đi trước, làng nước theo sau”.
Luận điểm ấy đã khẳng định rất rõ vấn đề nêu gương có tầm quan trọng đặc
biệt trong đời sống đạo đức, nhất là đối với trách nhiệm của cán bộ, đảng viên.
Những tấm gương về đạo đức phải được hiểu theo cả nghĩa rộng và nghĩa
hẹp, có tấm gương chung và riêng, lớn nhỏ, xa gần. Một nền đạo đức mới chỉ được
xây dựng trên một nền rộng lớn, vững chắc, những phẩm chất chuẩn mực đạo đức
đã trở thành hành vi đạo đức hàng ngày phổ biến trong toàn xã hội mà những tấm
gương đạo đức của những người tiêu biểu, những người tốt việc tốt có ý nghĩa
thúc đẩy cho quá trình đó.
Tấm gương đạo đức của Hồ Chí Minh là tấm gương chung cho cả dân tộc,
cho các thế hệ mai mãi về sau. Nhưng còn nhiều tấm gương của các vị anh hùng,
chiến sỹ thi đua những tấm gương của những người tiêu biểu cho từng ngành,
từng cấp, những tấm gương “Người tốt việc tốt” rất gần gũi trong đời thường có
ở mọi lúc mọi nơi mà chúng ta không thể coi thường. Về vấn đề này Hồ Chí Minh
đã nói: “Người tốt, việc tốt nhiều lắm ở đâu cũng có. Ngành nào, giới nào, địa
phương nào, lứa tuổi nào cũng có”.
2.2.2. Xây đi đôi với chống
Theo Hồ Chí Minh trong đời sống hàng ngày cái tốt, cái xấu, đạo đức, phi
đạo đức luôn luôn đan xen lẫn nhau. Chính vì vậy vừa phải xây dựng đạo đức
mới, vừa phải chống cái phi đạo đức.
Muốn xây phải chống, chống nhằm mục đích cho xây. Cũng vì vậy Hồ Chí
Minh căn dặn toàn Đảng: “Phải cương quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân nâng
cao đạo đức cách mạng bồi dưỡng tư tưởng tập thể, tinh thần đoàn kết, tính tổ chức và kỷ luật”. 13 lOMoARcPSD| 38372003
Việc xây dựng đạo đức mới trước hết phải được tiến hành bằng việc giáo
dục những phẩm chất, chuẩn mực đạo đức từ trong gia đình, nhà trường, xã hội
nhất là trong những tập thể gắn với hoạt động mỗi người. Vấn đề quan trọng trong
việc giáo dục đạo đức là phải khơi dậy ý thức đạo đức lành mạnh ở mọi người để
mọi người tự giác nhận thức được trách nhiệm đạo đức của mình. Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã nói, cảm nhận thấy sâu sắc việc trau dồi đạo đức cách mạng là việc
làm “Sung sướng vẻ vang nhất trong đời này” tiếp nhận sự giáo dục đạo đức là
vấn đề nhất thiết không thể thiếu được, nhưng sự tự giáo dục, tự trau dồi đạo đức
ở mỗi người còn quan trọng hơn nhiều đó cũng chính là điều mà Hồ Chí Minh nói
về niềm vui của việc trau dồi đạo đức phải trở thành phổ biến trong xã hội.
Khi xây dựng, bồi dưỡng phẩm chất đạo đức mới phải gắn liền chống lại
cái xấu, cái sai, cái vô đạo đức thường diễn ra hàng ngày.
Để xây và chống có kết quả để tạo thành phong trào quần chúng rộng rãi.
Muốn xây dựng đạo đức mới, chung quy lại phải chống cho được chủ nghĩa cá
nhân. Trong tác phẩm: Nâng cao đạo đức cách mạng quét sạch chủ nghĩa cá nhân
được công bố vào ngày 3/2/1969, nhân kỷ niệm lần thứ 39 ngày thành lập Đảng
cộng sản Việt Nam đã mang ý nghĩa xây đi đôi với chống. Muốn nêu cao đạo đức
cách mạng phải quét sạch chủ nghĩa cá nhân.
2.2.3. Tu dưỡng đạo đức suốt đời
Theo Hồ Chí Minh, Người đã nhiều lần chỉ rõ: Mỗi con người phải thường
xuyên chăm lo tu dưỡng đạo đức như việc rửa mặt hàng ngày, đấy cũng là công
việc phải kiên trì bền bỉ suốt đời, không người nào có thể chủ quan tự mãn. Theo
Người: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh rèn
luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng
sáng, vàng càng luyện càng trong”.
Nếu không thường xuyên rèn luyện thì lúc khó khăn có thể vượt qua, có
công với cách mạng, nhưng đến khi an nhàn lại xa vào chủ nghĩa cá nhân trở thành
con người ngăn cản cách mạng, cho dân, cho nước. Cũng chính vì lẽ đó mà tu 14 lOMoAR cPSD| 38372003
dưỡng đạo đức phải gắn với thực tiễn bền bỉ trong mọi lúc mọi nơi, mọi hoàn
cảnh, có như vậy mới phân biệt được đạo đức mới khác với đạo đức cũ.
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh thì mỗi con người đều có cái tốt, cái xấu,
vấn đề là không tự lừa dối mình mà nhìn thẳng vào mình thấy rõ cái tốt, cái thiện
để phát huy, thấy cái xấu, cái ác để khắc phục. Vì vậy việc tu dưỡng rèn luyện
phải được thực hiện trong hoạt động thực tiễn. Hồ Chí Minh là một tấm gương
suốt đời tự rèn luyện và trở thành tấm gương tuyệt vời về con người mới. Những
đức tính quý báu của người không phải là bẩm sinh có được mà do quá trình tu
dưỡng rèn luyện học tập, từng bước hấp thụ tinh hoa đạo đức dân tộc và nhân loại
mà đã trở thành tư tưởng bất tử.
Đây là những nhân tố cơ bản để hình thành đạo đức cách mạng của người
Việt Nam trong thời đại mới, nhân tố quyết định thắng lợi sự nghiệp đổi mới do
Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức luôn luôn có ý nghĩa lý luận và thực tiễn
hết sức sâu sắc, là động lực, là sức mạnh thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong
suốt những năm qua và đang tiếp tục toả sáng trên con đường xây dựng đất nước
Việt Nam trong giai đoạn mới. Thực tế cuộc sống hiện nay cho thấy, việc vận
dụng tư tưởng, đạo đức, tác phong Hồ Chí Minh là hết sức cần thiết, là công việc
quan trọng để mỗi chúng ta góp sức mình vào việc xây dựng đất nước.
Để làm tốt cuộc vận động các tổ chức Đảng cần tăng cường công tác giáo
dục trong toàn Đảng về lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, đường lối chính sách của
Đảng, nhiệm vụ đạo đức của người đảng viên. Từng cán bộ, đảng viên phải đặt
lợi ích của Đảng của nhân dân lên trên hết, phát huy dân chủ, nâng cao đạo đức
cách mạng, từng bước quét sạch chủ nghĩa cá nhân, học tập nâng cao trình độ,
hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Học tập tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cần gắn việc học tập với giải
quyết những vấn đề thực tiễn đang đặt ra trong các cơ quan, đơn vị, nhằm phê
phán những biểu hiện tiêu cực đang diễn ra giúp cho cán bộ, đảng viên nâng cao
nhận thức, giác ngộ trước những lỗi lầm sai phạm, tự giác thực hành sửa chữa, 15 lOMoARcPSD| 38372003
đồng thời phát hiện những nhân tố mới, những điển hình người tốt, việc tốt, những
tấm gương sáng tiêu biểu để nhân rộng, tạo nên một phong trào sống chiến đấu,
lao động và học tập theo đạo đức Hồ Chí Minh mang đầy đủ ý nghĩa thực tiễn và có sức thuyết phục.
CHƯƠNG 3. LIÊN HỆ TỚI VIỆC RÈN LUYỆN ĐẠO ĐỨC CHO THẾ
HỆ SINH VIÊN HIỆN NAY Ở VIỆT NAM
3.1. Thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào quá trình rèn luyện
đạo đức của thế hệ sinh viên hiện nay
3.1.1. Nhận thức của thế hệ sinh viên Việt Nam về việc vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh vào quá trình rèn luyện đạo đức hiện nay
Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc được ví “là tấm gương sáng, là
hiện thân của nền đạo đức cách mạng Việt Nam, mãi mãi là ngọn đèn pha chiếu
rọi con đường rèn luyện, phấn đấu để trở nên “tốt” hơn, đạt đến “chân thiện mỹ”
của con người Việt Nam ngày nay và mai sau”. Theo Người, đạo đức là một yếu
tố quan trọng nhất của nhân cách tạo nên giá trị con người, mọi người cần chú
trọng rèn luyện đạo đức để ngày càng hoàn thiện hơn. Đạo đức Hồ Chí Minh là
đạo đức của bậc “đại nhân, đại trí, đại dũng”, của một vĩ nhân, một lãnh tụ cách
mạng, một người cộng sản ưu tú; đồng thời, cũng là đạo đức của một người chân
chính nhưng cũng rất gần gũi và bình thường mà ai cũng có thể học tập và noi
theo. Bác Hồ từng viết trong thư gửi các bạn thanh niên (1947): “Thanh niên là
người chủ tương lai của nước nhà. Thật vậy nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh
một phần lớn là do các thanh niên. Thanh niên muốn làm người chủ tương lai cho
xứng đáng thì ngay hiện tại phải rèn luyện tinh thần và lực lượng của mình, phải
ra làm việc để chuẩn bị cái tương lai đó”. Theo Người, thường xuyên chú trọng
quan tâm giáo dục về tư tưởng đạo đức, chăm lo rèn luyện đạo đức cho thế hệ sinh
viên là vô cùng cần thiết và cấp thiết.
Sinh viên là tầng lớp tri thức cao của mỗi quốc gia - là tương lai của đất
nước, là những người quyết định sự phồn thịnh của dân tộc vì chính họ là những
“mùa xuân” của xã hội, đất nước. Hành trang vào đời quan trọng của sinh viên
chính là vốn kiến thức được học để thành danh trên ghế nhà trường. Tuy nhiên, 16 lOMoAR cPSD| 38372003
một hành trang không thể thiếu bên cạnh những vốn kiến thức là đạo đức của mỗi
người. Họ phải là những người có đạo đức, có lối sống tốt nếu không muốn nói là
chuẩn mực để xứng đáng với cương vị là một sinh viên – chủ nhân tương lai của
đất nước, hay nói đúng hơn “Trước khi thành tài thì phải thành nhân".
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Có tài mà không có đức thì là người vô dụng,
có đức mà không có tài thì làm gì cũng khó". Qua đó cũng đủ hiểu Người coi
trọng như thế nào về đạo đức, lối sống của mỗi người, đặc biệt đối với những
“mùa xuân” của đất nước.
Để tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cho bản thân, trước tiên mỗi sinh viên cần
nhận thức đầy đủ và đúng đắn về các nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức Hồ Chí Minh như sau:
Thứ nhất, nhận thức đầy đủ về vai trò của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với
đời sống xã hội. Tuy Người đã đi xa nhưng đã để lại cho dân tộc một tài sản vô
giá đó là hệ thống tư tưởng của mình, đặc biệt là tư tưởng về đạo đức. Xã hội đang
có những thay đổi, tư tưởng Hồ Chí Minh giúp con người tự giáo dục, rèn luyện
mình, hướng mỗi người trở thành cách mạng vừa hồng vừa chuyên, góp phần xây
dựng đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội và phát triển đất nước phồn thịnh.
Thứ hai, nhận thức đầy đủ về vai trò, nhiệm vụ của sinh viên Việt Nam với
sự phát triển xã hội. Thế kỉ XXI là thế kỉ của văn minh trí tuệ, của sự phát triển
khoa học - kĩ thuật nên rất cần những con người trẻ tuổi, nhiệt huyết có trình độ
và năng lực sáng tạo cao, có khả năng tiếp thu cái mới nhanh và biến đổi linh hoạt.
Nhiệm vụ của mỗi sinh viên là nỗ lực học tập, tiếp thu kiến thức mới, rèn luyện
bản thân bằng những hoạt động cụ thể góp phần xây dựng đất nước.
Ngày nay, cùng với sự phát triển của kinh tế - xã hội là những mặt trái của
nó: những trào lưu tư tưởng, kinh tế thị trường, văn hóa ngoại lai… ảnh hưởng
không nhỏ đến tâm tư, tình cảm, trách nhiệm và đạo đức, lối sống của thế hệ trẻ
hiện nay. Việc quán triệt tinh thần học tập và rèn luyện theo tư tưởng đạo đức Hồ
Chí Minh là việc làm rất cấp thiết, có ý nghĩa về cả lý luận và thực tiễn, đáp ứng
được yêu cầu xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước trong thời kỳ mới. Thực tế, 17 lOMoAR cPSD| 38372003
trong thời kỳ đổi mới hiện nay, thế hệ sinh viên đã và đang vận dụng tốt tư tưởng
đạo đức Hồ Chí Minh vào quá trình rèn luyện đạo đức của mình, cụ thể là: •
Trong công tác, sinh hoạt, cuộc sống đời thường sinh viên:
Dành thời gian thỏa đáng tìm hiểu tư tưởng, đạo đức, phong cách và học
theo tấm gương Hồ Chí Minh về tinh thần trách nhiệm, trung thực, “nói đi đôi với
làm”. Tự soi mình, sửa mình và rèn luyện, tạo được thói quen cho bản thân làm
theo lời Bác dạy. Phấn đấu trở thành tấm gương sáng về nêu cao tinh thần trách
nhiệm, tính trung thực, luôn “nói đi đôi với làm” để cho những người khác noi
theo. Tham gia tích cực, hiệu quả các phong trào của Đoàn Thanh niên, Hội Sinh
viên các cấp. Phấn đấu tu dưỡng, rèn luyện đạt danh hiệu "Sinh viên 5 tốt" với các
tiêu chí: Đạo đức tốt, Học tập tốt, Thể lực tốt, Tình nguyện tốt, Hội nhập tốt.
Tích cực tuyên truyền, làm cho nhiều người xung quanh mình có nhận thức
đúng đắn, đầy đủ về vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng, lợi ích to lớn của tinh thần
trách nhiệm, trung thực, “nói đi đôi với làm”; chỉ rõ tác hại của những hành vi vô
trách nhiệm, sự giả dối, nói một đàng làm một nẻo, hoặc "nói thì hay mà làm thì
dở" đối với bản thân, gia đình và xã hội. Chú ý phát hiện, tuyên dương, nhân rộng
các gương điển hình thanh niên, sinh viên hoặc các cơ sở Đoàn, Hội có những ý
tưởng, sáng kiến, cách làm hiệu quả trong thực hành theo tư tưởng, tấm gương
của Bác về tinh thần trách nhiệm, trung thực, nói đi đôi với làm. •
Mỗi sinh viên đều xác định rõ trách nhiệm của mình đối với Tổ quốc,
với Đảng, với nhân dân; sẵn sàng xung phong cống hiến, hy sinh vì sự nghiệp chung của đất nước.
Thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Chúng ta không một phút
nào được quên lý tưởng cao cả của mình là phấn đấu cho Tổ quốc hoàn toàn độc
lập, cho chủ nghĩa xã hội hoàn toàn thắng lợi trên đất nước ta và trên toàn thế
giới". Nhiệm vụ của thanh niên không phải là hỏi nước nhà đã cho mình những
gì. Mà phải tự hỏi mình đã làm gì cho nước nhà? Mình phải làm thế nào cho ích
lợi nước nhà nhiều hơn? Mình đã vì lợi ích nước nhà mà hy sinh phấn đấu chừng
nào?". Phải dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm. Sẵn sàng nhận nhiệm 18 lOMoAR cPSD| 38372003
vụ và có trách nhiệm với nhiệm vụ của mình, nỗ lực hết sức mình để hoàn thành
nhiệm vụ không tránh né, đùn đẩy nhiệm vụ qua cho hoàn cảnh hay người khác.
Sẵn sàng nhận lỗi và gánh chịu hậu quả xấu đến với mình khi mình không hoàn
thành nhiệm vụ, không đổ thừa cho hoàn cảnh hay người khác.
Nâng cao nhận thức về phẩm chất trung thực, trách nhiệm trong công việc
và trong cuộc sống, coi đó là đức tính cần thiết và quý báu, là phẩm giá cần thiết của mỗi người. •
Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về trung thực,
trách nhiệm, trước hết phải nói đi đôi với làm, phải tạo ra sự chuyển biến về tình cảm và nhân cách:
Tôn trọng chân lý, yêu cái đúng, ghét cái sai, tôn trọng sự thật, lẽ phải. Sống
ngay thẳng, thật thà, dũng cảm nhận lỗi khi mình mắc khuyết điểm. Phải tự giác
phấn đấu, rèn luyện đạo đức, tự phê bình, phê bình, cầu thị, sửa chữa khuyết điểm,
khắc phục những mặt hạn chế, tiêu cực, phát huy ưu điểm và mặt tích cực
Sinh viên cần xây dựng lối sống trong sáng, giản dị, chân tình, thật sự trung
thực, trách nhiệm với chính mình, với gia đình, người thân, bạn bè, đồng chí, với
Tổ quốc và nhân dân. Tự khắc phục cho được tình trạng thiếu trung thực, dối
mình, dối người, dối Đảng, dối dân. Biết chống lại thói ích kỷ, tính tham lam; kiên
quyết đấu tranh với thói vô cảm,"đục nước béo cò" khi người khác gặp hoạn nạn.
Luôn đấu tranh với tệ làm ăn chụp giật, quay cóp, học hộ, thi hộ, bằng giả, mua
bán tri thức, chảy máu chất xám,…
Đã trung thực với chính mình thì không bao giờ từ bỏ trách nhiệm của mình.
Trung thực và trách nhiệm góp phần để khắc phục suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống trong Đảng, trong xã hội. Phần lớn sinh viên Việt Nam luôn tin
tưởng và đồng thuận với đường lối chính trị của Đảng, chấp hành chính sách, pháp
luật của Nhà nước, ra sức học tập, rèn luyện và lao động sản xuất. Nhiều sinh viên
có thái độ, nhận thức tốt và ý thức chính trị cao, có ý chí vươn lên, phát huy mạnh
mẽ truyền thống xung kích của những thế hệ thanh niên lớp trước, trở thành tấm
gương sáng cho đông đảo thanh niên noi theo. Ở nhiều cuộc thi trí tuệ thế giới, 19 lOMoAR cPSD| 38372003
học sinh, sinh viên nước ta luôn đạt giải cao. Cùng với đó là những tấm gương
điển hình tiên tiến, xung kích đi đầu trong học tập và công tác, nhất là trong sự
nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế đã tiếp tục khẳng định vị thế và vai trò quan
trọng của thế hệ trẻ; là kết quả và minh chứng sinh động cho quá trình bồi dưỡng,
đào tạo thế hệ cách mạng kế cận của Đảng và Nhà nước.
Ngoài ra, mỗi người sinh viên cần nhận thức sâu sắc hơn, đầy đủ hơn những
hy sinh to lớn của ông cha để chúng ta có non sông, Tổ quốc Việt Nam độc lập,
tự do, thống nhất trọn vẹn hôm nay. Nâng cao tinh thần yêu nước, tự hào về truyền
thống anh hùng của dân tộc là lương tâm và trách nhiệm của mỗi người Việt Nam
chân chính. Trung với nước ngày nay là trung thành vô hạn với sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, nền văn
hóa, bảo vệ Đảng, chế độ, nhân dân, sự nghiệp đổi mới, bảo vệ lợi ích đất nước.
Trung với nước hiếu với dân ngày nay là tôn trọng, phát huy quyền làm chủ
của nhân dân, kính già yêu trẻ, có ý chí vươn lên vượt khó, vượt qua nghèo nàn,
lạc hậu; tham gia các phong trào góp phần xây dựng đất nước. Thực tiễn cách
mạng Việt Nam đã chứng minh rằng thế hệ trẻ Việt Nam luôn xứng đáng với sự
tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân, thực sự là lực lượng xung kích trong sự
nghiệp cách mạng. Theo suốt chiều dài lịch sử, nhiều tấm gương, điển hình tiên
tiến trong chiến đấu, lao động, học tập và công tác đã thuộc về tuổi trẻ Việt Nam.
Trong giai đoạn hội nhập quốc tế và phát triển đất nước hiện nay, thanh niên vẫn
khẳng định là lực lượng hăng hái xung kích, đi đầu trong thực hiện các chương
trình, mục tiêu của sự nghiệp đổi mới, nổi bật là hai phong trào lớn “Thanh niên
lập nghiệp” và “Tuổi trẻ giữ nước” được tiến hành cụ thể ở bốn chương trình hành
động “Lập thân, lập nghiệp, xây dựng đất nước phồn vinh”, “Bảo vệ Tổ quốc, giữ
gìn trật tự, an ninh”, “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng tài năng trẻ, phát triển văn hóa,
thể thao”, “Công tác xã hội, bảo vệ môi trường”... đã thu hút hàng triệu thanh niên
tham gia, chủ động sáng tạo, cống hiến cho Tổ quốc.
Bên cạnh đó, dân tộc ta có truyền thống “lá lành đùm lá rách”, đó là truyền
thống đạo đức cao cả của toàn dân tộc. Sinh viên đã phát huy truyền thống này 20 lOMoAR cPSD| 38372003
qua việc yêu thương, giúp đỡ bạn bè trong học tập. Một người giỏi giúp một người
yếu sẽ được hai người giỏi, hai người giỏi giúp hai người nữa được bốn người
giỏi, cứ như vậy mọi người trong lớp sẽ đều giỏi lên. Sinh viên giỏi thì cả trường
sẽ giỏi, đất nước sẽ giàu mạnh hơn. Sinh viên luôn đặt mình trong tập thể, tôn
trọng nguyên tắc, pháp luật, kỷ cương, biết gần dân, học dân, có trách nhiệm với
dân, nghiêm khắc với chính mình.
Sinh viên ngày nay cũng đã phát huy chủ nghĩa yêu nước gắn liền với chủ
nghĩa quốc tế trong sáng, đoàn kết, hữu nghị giữa các dân tộc trong điều kiện toàn
cầu hóa, chủ động, tích cực hội nhập kinh tế bằng các hoạt động trao đổi học tập,
du nhập các tinh hoa văn hóa – xã hội quốc tế để nâng cấp xã hội nước nhà,...
Nâng cao tinh thần độc lập dân tộc, kiên quyết đấu tranh chống tâm lý tự ti, phê
phán các biểu hiện vong bản, vọng ngoại, ảo tưởng trước chủ nghĩa tư bản.
Sinh viên Việt Nam vẫn đang quyết tâm học tập và làm theo tư tưởng, đạo
đức, phong cách của Hồ Chí Minh, thi đua học tập, rèn luyện, vì ngày mai lập
nghiệp, xây dựng đất nước giàu mạnh, văn minh, sánh vai với các cường quốc
năm châu như Hồ Chí Minh hằng mong muốn. Tuy nhiên vẫn còn một bộ phận
sinh viên không có chí hướng rõ ràng, chưa hiểu biết đầy đủ truyền thống cách
mạng của Đảng, của dân tộc, ít quan tâm đến tình hình của đất nước, quốc tế. Một
bộ phận sinh viên “nhạt Đảng, phai Đoàn, xa chính trị”, không có ý thức vươn lên
trong học tập và rèn luyện đạo đức, có những sinh viên giảm sút niềm tin, thiếu
niềm tin, bản lĩnh non kém, thậm chí bị các thế lực thù địch lôi kéo, kích động
tham gia vào các hoạt động vi phạm pháp luật, ảnh hưởng xấu đến văn hóa đất
nước. Một bộ phận sinh viên hiện đang chỉ quan tâm đến lợi ích trước mắt, lợi ích
cá nhân của mình. Số này chỉ quan tâm đến việc học tập chuyên môn; tập trung
vào việc đi học, sau đó, đi làm thêm, ít quan tâm tới các vấn đề xã hội, chính trị;
ít tham gia các phong trào, các hoạt động xã hội. Một bộ phận sinh viên còn chịu
tác động ảnh hưởng của các hoạt động tuyên truyền xuyên tạc của các thế lực thù
địch; tư tưởng còn bị dao động; nhiều lúc còn mơ hồ, thiếu kiên định, thiếu hoài
bão, không tích cực tham gia các phong trào và hoạt động xã hội. 21 lOMoARcPSD| 38372003
3.1.2. Đánh giá quá trình rèn luyện đạo đức của thế hệ sinh viên Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay
Trong thời kỳ đổi mới và hội nhập, việc tích cực triển khai các chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước tuyên truyền, giáo dục đạo đức cho thế hệ sinh
viên giúp thế hệ sinh viên Việt Nam hiện nay có môi trường tốt, điều kiện tốt để
học tập và rèn luyện đạo đức và lối sống, hình thành lý tưởng cách mạng, từng
bước hoàn thành nhân cách, góp phần phát triển đất nước. Qua quá trình rèn luyện
đạo đức và lối sống văn hóa cho thế hệ sinh viên đã đạt được những thành tựu
nhất định cũng như các hạn chế cần được khắc phục.
a) Những thành tựu đạt được của thế hệ sinh viên Việt Nam trong quá trình
rèn luyện đạo đức hiện nay ●
Giáo dục đạo đức thanh niên đã góp phát triển toàn diện, đáp ứng
yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước. Tuổi trẻ Việt Nam ngày càng có môi
trường, điều kiện tốt hơn để học tập, rèn luyện, trưởng thành, góp phần nâng cao
trình độ, hình thành lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa, từng bước
hoàn thành nhân cách. Phần lớn sinh viên Việt Nam luôn tin tưởng và đồng thuận
với đường lối chính trị của Đảng, chấp hành chính sách, pháp luật của Nhà nước,
ra sức học tập, rèn luyện và lao động sản xuất. ●
Nhiều sinh viên có thái độ, nhận thức tốt và ý thức chính trị cao, có
ý chí vươn lên, phát huy mạnh mẽ truyền thống xung kích của những thế hệ thanh
niên lớp trước, trở thành tấm gương sáng cho đông đảo thanh niên noi theo. ●
Ở nhiều cuộc thi trí tuệ thế giới, học sinh, sinh viên nước ta luôn đạt
những thành tích đáng kể làm rạng danh đất nước Việt Nam: Năm 2020, đội tuyển
Việt Nam dự thi Olympic quốc tế theo hình thức trực tuyến với 5 đoàn học sinh
tham dự. Kết quả, 100% học sinh đều đoạt giải với 9 huy chương vàng, 8 huy
chương bạc, 5 huy chương đồng và 2 bằng khen, mang vinh quang về cho đất
nước, được bạn bè quốc tế ghi nhận, đánh giá cao. Đặc biệt, đội tuyển Olympic
Hóa học quốc tế với 4/4 thành viên đều giành Huy chương Vàng, kết quả xếp thứ
2 thế giới, chỉ sau Hoa Kỳ. Ngoài ra, năm 2020 cũng là năm đầu tiên, Việt Nam 22 lOMoARcPSD| 38372003
có 1 thí sinh lớp 10 lọt vào đội tuyển dự thi Olympic Toán quốc tế và xuất sắc
giành Huy chương Vàng. Có thể nói đây là sự nỗ lực, kiên trì, quyết tâm rất lớn
của cả thầy và trò trong quá trình học tập và rèn luyện. ●
Cùng với đó là những tấm gương điển hình tiên tiến, xung kích đi
đầu trong học tập và công tác: Bạn Bùi Hồng Đức (2002) đoạt Huy chương Vàng
Olympic Tin học quốc tế 2 năm liên tiếp ( 2019 – 2020), là học sinh đầu tiên nhận
được Huân chương Lao động hạng Nhất, được bình chọn là Gương mặt trẻ Việt Nam tiêu biểu năm 2020.
Có thể thấy rằng thế hệ sinh viên ngày nay luôn học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh, mang vinh quang về cho đất nước. Trong sự nghiệp
đổi mới và hội nhập quốc tế ngày nay, Việt Nam đã khẳng định được vị thế và vai
trò quan trọng của thế hệ trẻ đối với sự phát triển của đất nước; là kết quả và minh
chứng sinh động cho quá trình bồi dưỡng, đào tạo thế hệ cách mạng kế cận của Đảng và Nhà nước ta. b)
Những tồn tại trong quá trình rèn luyện đạo đức của thế hệ sinh viên
Việt Nam hiện nay ●
Công tác giáo dục đạo đức thanh niên vẫn chưa thực sự đáp ứng được
hết các yêu cầu phát triển của đất nước. Vẫn còn một bộ phận thanh niên sống
không có lý tưởng, giảm sút niềm tin, có biểu hiện lệch lạc, có lối sống thực dụng,
quá bám víu vào vật chất, bản lĩnh chính trị non yếu, lập trường tư tưởng không
vững, thờ ơ với các vấn đề chính trị - xã hội, dễ bị kích động, lôi kéo vào các hoạt
động trái pháp luật. Theo Thống kê của Bộ Công an cho thấy, giai đoạn 2018 -
2020, cả nước đã ghi nhận 10.786 vụ người chưa thành niên vi phạm pháp luật.
Cùng với đó là những hiện tượng suy thoái đạo đức của thanh niên, học sinh, sinh
viên trong môi trường học đường diễn ra với tính chất ngày càng nghiêm trọng.
Những hiện tượng trên chính là hồi chuông báo động trong công tác tuyên truyền
và giáo dục đạo đức thanh niên Việt Nam hiện nay, cần phải nhanh chóng chấn
chỉnh kịp thời nhằm xây dựng con người Việt Nam vừa “hồng” vừa “chuyên” 23 lOMoAR cPSD| 38372003
phục vụ đắc lực công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay trong bối cảnh
tình hình trong nước và thế giới có nhiều biến động khó lường. ●
Mục tiêu, nội dung và phương pháp giáo dục đạo đức thanh niên
trong thời gian qua còn nhiều bất cập. Trước những biến động khó lường của tình
hình trong nước và quốc tế, công tác giáo dục đạo đức thanh niên đã có nhiều
chuyển biến đáng kể. Có nhiều thay đổi về mục tiêu, nội dung, phương pháp để
thích ứng với tình hình mới, nhưng vẫn còn nhiều hạn chế. Văn kiện Đại hội XII
của Đảng khẳng định: “Hệ thống giáo dục và đào tạo thiếu liên thông giữa các
trình độ và giữa các phương thức giáo dục đào tạo; còn nặng lý thuyết, nhẹ thực
hành. Đào tạo thiếu gắn kết với nghiên cứu khoa học, sản xuất kinh doanh và nhu
cầu của thị trường lao động; chưa chú trọng đúng mức việc giáo dục đạo đức, lối
sống và kỹ năng làm việc. Phương pháp giáo dục, công tác thi, kiểm tra và đánh
giá kết quả còn lạc hậu, thiếu thực chất”. ❖
Về mục tiêu: Mục tiêu xuyên suốt cần đạt được trong công tác giáo
dục đạo đức thanh niên là nhằm đào tạo ra những con người phát triển toàn diện,
mà hiệu quả, chất lượng là ba trọng điểm “nhân cách, trí tuệ và tài năng, thể lực
và tầm vóc”, phát triển ngang tầm thời đại để đáp ứng yêu cầu của thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, do nhiều nguyên
nhân khách quan và chủ quan, một bộ phận thanh niên được giáo dục vẫn chưa
đạt mục tiêu đã đề ra hoặc do một số cơ sở đào tạo khi xây dựng chuẩn đầu ra của
ngành đào tạo hoặc mục tiêu đào tạo của trường lại đặt mục tiêu chủ yếu đào tạo
ra nguồn nhân lực thanh niên chỉ đáp ứng yêu cầu của vùng, của miền hoặc của
trong nước; mà không hướng đến mục tiêu giáo dục đạo đức cho nguồn nhân lực
thanh niên đáp ứng được yêu cầu của thời đại, của quốc tế. ❖
Về nội dung: Nội dung giáo dục là một trong những nhân tố góp phần
vào sự thành công của công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên. Tuy nhiên, nội
dung giáo dục hiện nay chưa kết hợp tốt giữa giáo dục đạo đức, giáo dục văn hóa
với giáo dục khoa học, công nghệ và kỹ thuật, nội dung còn chưa phù hợp với nhu
cầu và xu thế thị trường lao động trong nước và quốc tế. Đặc biệt có một thời gian 24 lOMoARcPSD| 38372003
dài, chúng ta xem nhẹ việc giáo dục đạo đức cho thanh niên, nếu có thì chỉ mang
tính hình thức, kém hiệu quả. Nhìn chung, nội dung giáo dục đạo đức thanh niên
Việt Nam hiện nay vẫn chỉ mới tập trung vào những vấn đề như giáo dục tư tưởng
chính trị, giáo dục tri thức, giáo dục nghề nghiệp, công ăn việc làm... Trong khi
đó có những nội dung cơ bản, quan trọng và cấp bách vẫn chưa được quan tâm
đúng mức, trong đó đặc biệt là những vấn đề giáo dục đạo đức. Nghị quyết số 25-
NQ/TW của Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa X khẳng định
“Việc đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Đoàn Thanh niên Cộng
sản Hồ Chí Minh và Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam chưa theo kịp sự phát
triển của tình hình thanh niên”. ❖
Về phương pháp: Quá trình giáo dục đạo đức nói chung và giáo dục
đạo đức sinh viên nói riêng muốn đạt được hiệu quả cao thì cần phải có phương
pháp giáo dục phù hợp, đúng đắn và hiện đại. Tuy nhiên, thực tế cho thấy rằng,
phương pháp giáo dục và rèn luyện đạo đức sinh viên thời gian qua vẫn chủ yếu
sử dụng phương pháp truyền thống, còn lạc hậu, chậm đổi mới, chậm hiện đại
hóa, chưa gắn với đời sống xã hội và lao động nghề nghiệp, chưa phát huy tính
năng động, sáng tạo và năng lực thực hành của thanh niên. Vì vậy, trong giai đoạn
hiện nay, để đạt được mục tiêu giáo dục đạo đức thanh niên, dưới tác động của xu
hướng toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế cần phải đổi mới phương pháp giáo dục.
c) Nguyên nhân dẫn đến những tồn tại trong quá trình rèn luyện đạo đức cho
sinh viên Việt Nam hiện nay ●
Sự phối hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong việc giáo dục
và rèn luyện đạo đức cho sinh viên còn chưa thường xuyên, liên tục và chưa có
sự liên kết chặt chẽ với nhau. ●
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, với sự du nhập ồ
ạt của những giá trị văn hóa, đạo đức mới vào Việt Nam, bên cạnh những tác động
tích cực cũng có những cái phản giá trị, phản văn hóa. Thế hệ sinh viên là những
người chưa có sự trưởng thành hoàn toàn về tâm sinh lý nhưng lại thích làm theo 25 lOMoARcPSD| 38372003
những điều mới lạ. Vì thế thanh niên là đối tượng dễ bị kích động, lôi kéo bởi
những nội dung bạo lực, đồi trụy, bởi những thế lực phản động…
Công tác tự giáo dục, tự rèn luyện của thanh niên nước ta còn yếu. Giáo dục
thanh niên xứng đáng trở thành chủ nhân tương lai của đất nước là nhiệm vụ chung
của toàn xã hội và của các tổ chức, nhưng trên hết là trách nhiệm của từng cá nhân
thanh niên. Bởi thanh niên là đối tượng của giáo dục nhưng cũng là chủ thể của
quá trình giáo dục, do nhu cầu và năng lực tự giáo dục của thanh niên.
3.2. Đề xuất giải pháp nâng cao quá trình rèn luyện đạo đức cho thế hệ sinh viên hiện nay
Trong thời gian tới, để nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho sinh viên,
từ phía xã hội, nhà trường và chính sinh viên cần thực hiện một số giải pháp sau:
Về phía xã hội
Cần nâng cao nhận thức về vai trò của công tác giáo dục đạo đức thanh
niên. Để nâng cao nhận thức về vai trò của công tác giáo dục đạo đức thanh niên,
cần đẩy mạnh tuyên truyền giáo dục trong toàn xã hội ý thức chăm lo giáo dục
thanh niên, làm cho toàn dân thấy được thanh niên là lực lượng xã hội to lớn, đóng
vai trò quyết định của sự nghiệp cách mạng, là người chủ tương lai của đất nước,
để có sự quan tâm đến thanh niên, đầu tư cho công tác giáo dục đạo đức thanh
niên, cùng với Đảng, chính quyền, mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội làm
tốt công tác giáo dục đạo đức thanh niên. Bên cạnh đó, không ngừng giáo dục cho
thanh niên nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí của mình trong đời sống xã hội,
trong sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, kế thừa và phát huy truyền
thống vẻ vang của các thế hệ thanh niên; đề cao ý thức tự tôn dân tộc hướng tới
những giá trị chân - thiện - mỹ; có ý thức lập thân lập nghiệp vì mục tiêu độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh. Về phía nhà trường
Một là, nâng cao nhận thức và tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các nhà
trường trong giáo dục đạo đức cho sinh viên. Nhà trường cần phát huy hơn nữa
vai trò chủ đạo của mình trong giáo dục đạo đức cho sinh viên. Nhà trường cần 26 lOMoAR cPSD| 38372003
phát huy vai trò, trách nhiệm, phối hợp giữa phòng công tác sinh viên và với các
khoa, bộ môn giảng dạy về lý luận chính trị trong giáo dục cho sinh viên ý thức
bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phê phán các quan điểm
sai trái, thù địch; tăng cường lồng ghép những nội dung này trong các tài liệu, giáo
trình, bài trong giảng lý luận chính trị. Đồng thời, tăng cường tổ chức các buổi hội
thảo, giao lưu, trao đổi, toạ đàm về học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh; phát động các phong trào thi đua gương điển hình người tốt,
việc tốt trong các nhà trường với các chính sách khen thưởng, động viên kịp thời.
Nhà trường cần phát huy hơn nữa vai trò của tổ chức Đoàn và Hội sinh viên
trong giáo dục đạo đức cho sinh viên. Với tư cách là tổ chức chính trị - xã hội của
thanh niên Việt Nam nói chung, sinh viên nói riêng, Đoàn Thanh niên cộng sản
Hồ Chí Minh đã tạo môi trường đưa thanh niên vào các hoạt động giúp học tập
rèn luyện và phát triển nhân cách, năng lực của người lao động mới phù hợp với
yêu cầu của xã hội hiện nay. Tổ chức Đoàn và Hội sinh viên các trường cần phát
huy vai trò của mình trong tổ chức các hoạt động trải nghiệm cho sinh viên, qua
đó giáo dục, bồi dưỡng toàn diện cho sinh viên, hướng họ đến những việc làm tích
cực và tránh xa các tệ nạn xã hội góp phần hình thành một thế hệ thanh niên Việt
Nam luôn phấn đấu vì mục tiêu, lý tưởng của Đảng là độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Hai là, thường xuyên đổi mới nội dung, phương pháp, hình thức giáo dục
đạo đức. Học tập ở bậc đại học, cao đẳng là học một chuyên ngành gắn với nghề
nghiệp tương lai. Đây cũng là giai đoạn sinh viên phát triển và hoàn thiện tính
cách, có sự phát triển tích cực nhất về tình cảm, đạo đức và thẩm mỹ. Do đó, nội
dung giáo dục đạo đức cũng phải có sự đổi mới so với các giai đoạn trước đó.
Cùng với đào tạo về trình độ chuyên môn cao, mỗi nhà trường cần tăng cường
giáo dục đạo đức cho họ, đặc biệt là giáo dục tinh thần yêu nước cho sinh viên.
Nhà trường cần thường xuyên quan tâm bồi dưỡng cho sinh viên những tình cảm
cao đẹp về tình yêu quê hương, đất nước như: “Mình vì mọi người”, “Thương
người như thể thương thân”, “Quên mình vì nghĩa lớn”… Từ đó, hình thành cho 27 lOMoARcPSD| 38372003
sinh viên lối sống trong sạch, lành mạnh, những hành vi đạo đức trong sáng phù
hợp với các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc và thời đại.
Nhà trường cần quan tâm hình thành cho sinh viên nhu cầu, động cơ phấn
đấu, rèn luyện đúng đắn, làm cho mỗi người có ý thức làm chủ, ham học hỏi, cầu
tiến bộ, vươn lên tự khẳng định mình; tạo mọi điều kiện thuận lợi để học sinh,
sinh viên phấn đấu, rèn luyện; đồng thời phải thường xuyên theo dõi, kiểm tra,
đánh giá kết quả, định hướng phấn đấu cho sinh viên; quan tâm đáp ứng những
nhu cầu chính đáng của sinh viên về vật chất, tinh thần; giao nhiệm vụ phù hợp
với sở trường, năng khiếu đặc điểm tâm, sinh lý của họ đồng thời tạo điều kiện tốt
để thanh niên rèn luyện đạo đức, lối sống. Cùng với đó, mỗi nhà trường cần thường
xuyên lấy tấm gương người tốt, việc tốt để giáo dục sinh viên; trong đó mỗi thầy
cô giáo phải thực sự là tấm gương sáng về đạo đức để sinh viên học tập, noi theo.
Ba là, xây dựng các bộ quy tắc ứng xử tại trường học đối với sinh viên và
giáo viên. Xây dựng bộ quy tắc ứng xử trong các nhà trường sẽ giúp cho sinh viên
có môi trường thuận lợi để rèn luyện, hình thành các hành vi ứng xử, hành vi đạo
đức đúng chuẩn mực trong quan hệ với thầy cô, bạn bè từ đó hình thành nhu cầu
và thói quen thực hành các hành vi đạo đức; có tinh thần tập thể, không ngừng nỗ
lực học tập phấn đấu vì ngày mai lập thân, lập nghiệp.
Các bộ quy tắc ứng xử trong trường học với những quy định cụ thể đối với
cả cán bộ, giáo viên và sinh viên của nhà trường mang tính bắt buộc trở thành căn
cứ quan trọng để đánh giá, xếp loại điểm rèn luyện của sinh viên được ghi trên
bảng điểm khi tốt nghiệp sẽ giúp sinh viên hình thành thói quen và có ý thức chủ
động, tự giác thực hiện.
Về phía sinh viên
Ở phía sinh viên, cần phát huy tính chủ động của sinh viên trong thường
xuyên tu dưỡng đạo đức. Sinh viên là những người đang trong thời kỳ phấn đấu
lập thân, lập nghiệp. Ở mỗi con người khi cần và thiếu cái gì họ sẽ đề cao và mong
muốn đạt được những cái còn thiếu đó. Đối với sinh viên cũng vậy, cái họ dễ nhìn
thấy và mong muốn phấn đấu là công việc sau khi ra trường, là sự nghiệp lâu dài. 28 lOMoAR cPSD| 38372003
Chính vì thế, nhiều sinh viên dễ nảy sinh những quan niệm lệch lạc, coi thường
các giá trị tinh thần, trong đó có các giá trị đạo đức. Do đó, bên cạnh sự giáo dục
của nhà trường, gia đình mỗi sinh viên cần nhận thức tầm quan trọng của tự tu
dưỡng đạo đức. Đó là hành trang, là phẩm chất mà mỗi người không thể thiếu
trong cuộc sống. Tu dưỡng đạo đức của mỗi sinh viên phải là sự tự nguyện, tự
giác. Sự hoàn thiện về đạo đức không chỉ ở nhận thức mà còn ở thái độ, tình cảm
đạo đức đúng mực, lời nói và việc làm phải thống nhất, “nói phải đi đôi với làm”.
Đạo đức không phải tự nhiên sẵn có, mà được hình thành, phát triển trong suốt cả
quá trình giáo dục và tự giáo dục công phu, gian khổ chính vì vậy cần giáo dục
cho sinh viên có được ý thức tu dưỡng đạo đức suốt đời.
Mỗi học sinh, sinh viên phải xác định rõ trách nhiệm trước Tổ quốc và nhân
dân, sống có lý tưởng, có hoài bão, khát khao vươn tới cái mới, cái tiến bộ. Bản
thân mỗi người tự giác rèn luyện, biết tự kiềm chế, biết vượt qua những cám dỗ
và tiêu cực xã hội, những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, ích kỷ, thực dụng, lợi
mình hại người. Gia đình, nhà trường và xã hội cần cổ vũ, định hướng sinh viên
trong tu dưỡng, rèn luyện đạo đức. Đồng thời, mỗi sinh viên cần nghiêm túc đánh
giá đúng vai trò của những giá trị tinh thần, trong đó có đạo đức đối với sự hoàn thiện của bản thân.
Trước những tác động của tình hình kinh tế - xã hội, tăng cường giáo dục
đạo đức của sinh viên càng trở nên quan trọng nhằm bồi dưỡng họ trở thành những
công dân hoàn thiện về phẩm chất và năng lực. Thực hiện đồng bộ các giải pháp
trên là điều kiện thiết yếu để mỗi sinh viên hoàn thiện đạo đức, từ đó góp phần
nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo của các nhà trường hiện nay. 29 lOMoARcPSD| 38372003 LỜI KẾT
Hồ Chí Minh tuy đã đi về cõi vĩnh hằng nhưng Người đã để lại cho thế hệ
sau một hệ tư tưởng vĩ đại về đạo đức cách mạng. Chính những tư tưởng đạo đức
ấy đã giúp Đảng ta nói chung và thế hệ sinh viên nói riêng có được sự hiểu biết,
cái nhìn sâu xa về đạo đức. Để từ đó có những hành động rèn luyện đạo đức noi
gương Bác Hồ, học tập và làm theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, những người có đạo đức tốt phải có những
chuẩn mực nhất định. Đó là: Trung với nước, hiếu với dân; Cần, kiệm, liêm, chính,
chí công vô tư; Thương yêu con người, sống có tình nghĩa và Tinh thần quốc tế
trong sáng. Theo Người, các chuẩn mực này là những chuẩn mực chung nhất của
nền đạo đức Việt Nam mà người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền
tảng thì mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang vì sự nghiệp độc lập
dân tộc và tiến lên chủ nghĩa xã hội được.
Để trở thành người cách mạng có đạo đức tốt, Hồ Chí Minh chỉ ra những nguyên tắc cụ thể sau:
Thứ nhất, nói đi đôi với làm, nêu gương về đạo đức.
Thứ hai, xây đi đôi với chống.
Thứ ba, tu dưỡng đạo đức suốt đời.
Nhờ vào những chuẩn mực, nguyên tắc đạo đức Hồ Chí Minh, thế hệ sinh
viên Việt Nam ngày nay đã nhận thức được đầy đủ và vận dụng tốt vào quá trình
rèn luyện đạo đức của mình. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn nhiều bất cập: các
thanh niên ít quan tâm đến Đảng và chính trị, ít tham gia vào các hoạt động xã
hội, còn bị lôi kéo và kích động bởi các thế lực thù địch, xuyên tạc lịch sử nước
nhà,… Chính vì những bất cập nêu trên, nhóm 7 đề xuất một số giải pháp cụ thể
từ phía nhà trường, xã hội và từ chính bản thân sinh viên để có thể trở thành một
người có đạo đức tốt, rèn luyện và noi gương Bác Hồ. 3 lOMoARcPSD| 38372003
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Can, I. (2020). Quan điểm của Hồ Chí Minh về những chuẩn mực đạo đức cách mạng. Hocluat.vn.
ĐIỂU, T. T. (2020). Giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ theo Di chúc của Chủ tịch
Hồ Chí Minh. tapchicongsan.org.vn.
Guess. (2021). Giáo dục đạo đức cách mạng cho sinh viên theo Tư tưởng Hồ Chí
Minh . quangbinh.gov.vn.
Mạch Quang Thắng và các đồng biên soạn. (2021). Giáo Trình Tư Tưởng Hồ Chí
Minh. Hà Nội: NXB Chính Trị Quốc Gia Sự Thật.
TS, N. M. (2020). Giáo dục đạo đức cho thanh niên Việt Nam hiện nay và một số
giải pháp phát huy hiệu quả. lyluanchinhtri.vn. 4