



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 61785836
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA KHÁCH SẠN - DU LỊCH _________ _________
ĐỀ TÀI THẢO LUẬN
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH ĐỀ TÀI:
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐOÀN KẾT QUỐC TẾ. LIÊN HỆ VỚI
THỰC TIỄN ĐOÀN KẾT QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY. Nhóm: 01
Lớp học phần: 251-HCMI0111-09
Giảng viên: ThS. Ngô Thị Minh Nguyệt
Hà Nội – Tháng 10 Năm 2025 lOMoAR cPSD| 61785836 MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 5
CHƯƠNG 1. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐOÀN KẾT QUỐC TẾ .................... 6
1.1. Sự cần thiết phải đoàn kết quốc tế ........................................................................ 6
1.1.1. Thực hiện đoàn kết quốc tế nhằm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại, tạo sức mạnh tổng hợp cho cách mạng ....................................................... 6
1.1.2. Thực hiện đoàn kết quốc tế nhằm góp phần cùng nhân dân thế giới thực
hiện thắng lợi các mục tiêu cách mạng của thời đại ................................................. 6
1.2. Lực lượng đoàn kết quốc tế và hình thức tổ chức ............................................... 8
1.2.1. Các lực lượng cần đoàn kết .............................................................................. 8
1.2.2. Hình thức tổ chức ............................................................................................. 9
1.3. Nguyên tắc đoàn kết quốc tế ................................................................................ 10
1.3.1. Đoàn kết trên cơ sở thống nhất mục tiêu và lợi ích, có lý, có tình ............... 10
1.3.2. Đoàn kết trên cơ sở độc lập, tự chủ ................................................................ 12
CHƯƠNG 2. LIÊN HỆ VỚI THỰC TIỄN ĐOÀN KẾT QUỐC TẾ CỦA VIỆT ...... 13
NAM HIỆN NAY ............................................................................................................. 13
2.1. Thành tựu .............................................................................................................. 13
2.2. Hạn chế .................................................................................................................. 16
2.3. Bài học kinh nghiệm ............................................................................................. 19
KẾT LUẬN ....................................................................................................................... 20
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................... 21
BẢNG PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ CỦA CÁC THÀNH VIÊN TRONG NHÓM ST Họ và tên Mã sinh Nhiệm vụ Mức độ tham gia T viên 1 Lê Mai Anh
23D252047 Tìm tài liệu mục Tham gia đóng góp, 2.1 đúng hạn deadline 2 Lê Minh Anh 23D252001 Thiết kế slide Tham gia đóng góp tích cực làm slide 3
Trần Thị Phương Anh 23D252048 Tìm tài liệu mục Tham gia đóng góp, 2.2 đúng hạn deadline 4 Vũ Hoài Anh 23D252003 Thiết kế slide Tham gia đóng góp làm silde 2 lOMoAR cPSD| 61785836 5 Vũ Hoài Anh
23D252049 Phần mở đầu + kết Tham gia đóng góp,
luận và Tìm tài liệu đúng hạn deadline mục 2.3 6 Vũ Vân Anh (Nhóm 23D252004 Xây dựng đề Tham gia tích cực, trưởng) cương xây dựng bài, chỉnh
Chỉnh sửa tài liệu, nội dung, góp ý xây dựng nội dung. chỉnh word Thuyết trình + phản biện 7 Lê Ngọc Ánh
23D252050 Tìm tài liệu mục Tham gia đóng góp 1.3 tích cực, đúng hạn deadline 8 Nguyễn Hoàng Bảo
23D252005 Tìm tài liệu mục Tham gia đóng góp Châu 1.2 hoàn thành đúng hạn deadline 9 Hoàng Thị Kim Chi 23D252052 Thuyết trình + Tham gia đóng góp, phản biện hoàn thành deadline 10 Yên Mai Chi
23D252053 Tìm tài liệu mục Tham gia đóng góp, 1.1 hoàn thành deadline. 3 lOMoAR cPSD| 61785836
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
BIÊN BẢN HỌP NHÓM LẦN 1
Học phần: Học Phần Tư tưởng Hồ Chí Minh
Giảng viên: Ngô Thị Minh Nguyệt
Lớp học phần: 251-HCMI0111-09 Nhóm: 01
I. Thời gian thảo luận và địa điểm
1. Địa điểm: Google meet
2. Thời gian thảo luận: Từ 19h00 đến 20h00 ngày 05/10/2025
II. Số thành viên tham gia: 10/10
III. Nội dung thảo luận: 1.
Nhóm trưởng thông báo chủ đề thảo luận và hình thức thảo luận cho các thành viên trong nhóm 2.
Tìm hiểu, nghiên cứu và tìm ra phương hướng giải quyết đề tài thảo luận, lập đề cươngcho đề tài. 3.
Nhóm trưởng phân chia công việc cụ thể cho từng thành viên IV. Đánh giá chung
kết quả cuộc họp:
Các thành viên nhiệt tình trong quá trình thảo luận, hiểu được đề tài thảo luận và nhận
nhiệm vụ mà nhóm trưởng giao. Nhóm Trưởng Anh Vũ Vân Anh
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
BIÊN BẢN HỌP NHÓM LẦN 2
Học phần: Học Phần Tư tưởng Hồ Chí Minh
Giảng viên: Ngô Thị Minh Nguyệt
Lớp học phần: 251-HCMI0111-09 Nhóm: 01
I. Thời gian thảo luận và địa điểm
1. Địa điểm: Google meet
2. Thời gian thảo luận: Từ 19h00 đến 20h00 ngày 08/10/2025 4 lOMoAR cPSD| 61785836
II. Số thành viên tham gia: 10/10
III. Nội dung thảo luận:
1. Sửa chữa và hoàn thiện chỉn chu nhất phần tài liệu của nhóm 2. Phân
công, góp ý hướng triển khai và đặt câu hỏi cho nhóm thảo luận IV.
Đánh giá chung kết quả cuộc họp:
Các thành viên nhiệt tình trong quá trình thảo luận, hiểu được hình thức thảo luận và nhận
nhiệm vụ mà nhóm trưởng giao. Nhóm Trưởng Anh Vũ Vân Anh LỜI MỞ ĐẦU
Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc của Chủ tịch Hồ
Chí Minh về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng giải phóng dân
tộc đến xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng của Người được hình thành trên cơ sở kế thừa
và phát triển tinh hoa văn hóa dân tộc, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại và
vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễn Việt Nam. Đây là nền tảng tư
tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng và nhân dân ta trong suốt quá trình cách mạng.
Trong hệ thống đó, tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế là một nội dung rất
quan trọng. Người luôn khẳng định cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng
thế giới, vì vậy phải biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, đoàn kết với các
lực lượng tiến bộ, yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới để cùng đấu tranh vì mục tiêu
chung: độc lập, tự do và hạnh phúc cho con người. Theo Hồ Chí Minh, đoàn kết quốc tế
không chỉ là chiến lược cách mạng đúng đắn, mà còn thể hiện tinh thần nhân văn, lòng yêu
thương và tôn trọng giữa các dân tộc.
Chính vì thế, việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế giúp chúng
ta hiểu rõ hơn giá trị tư tưởng của Người, đồng thời rút ra những bài học quý báu cho công
cuộc xây dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ hội nhập hiện nay. 5 lOMoAR cPSD| 61785836
CHƯƠNG 1. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐOÀN KẾT QUỐC TẾ
1.1. Sự cần thiết phải đoàn kết quốc tế
1.1.1. Thực hiện đoàn kết quốc tế nhằm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại, tạo sức mạnh tổng hợp cho cách mạng
Theo Hồ Chí Minh, thực hiện đoàn kết quốc tế để tập hợp lực lượng bên ngoài, tranh
thủ sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của bạn bè quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh của các trào lưu với sức mạnh của các trào lưu cách mạng thời đại để tạo thành sức
mạnh tổng hợp cho cách mạng Việt Nam. Đây là một trong những nội dung chủ yếu trong
tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế và cũng là một trong những bài học quan trọng
nhất, mang tính thời sự sâu sắc nhất của cách mạng Việt Nam.
Sức mạnh dân tộc là sự tổng hợp của các yếu tố vật chất và tinh thần, song trước hết
là sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và ý thức tự lực, tự cường dân tộc; sức mạnh của tinh
thần đoàn kết; của ý chí đấu tranh anh dũng, bất khuất cho độc lập, tự do... Sức mạnh đó
đã giúp cho dân tộc Việt Nam vượt qua mọi thử thách, khó khăn trong dựng nước và giữ nước.
Sức mạnh thời đại là sức mạnh của phong trào cách mạng thế giới, đó còn là sức
mạnh của chủ nghĩa Mác Lênin được xác lập bởi thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười
Nga năm 1917. Trong quá trình hoạt động cách mạng, nhờ chú ý tổng kết thực tiễn dưới
ánh sáng chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã từng bước phát hiện ra sức mạnh vĩ đại
tiềm ẩn trong các phong trào cách mạng thế giới mà Việt Nam cần tranh thủ. Các phong
trào đó nếu được liên kết, tập hợp trong khối đoàn kết quốc tế sẽ tạo nên sức mạnh to lớn.
Hồ Chí Minh đã sớm xác định cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng
thế giới ngay từ khi tìm thấy con đường cứu nước. Người cho rằng, cách mạng Việt Nam
chỉ có thể thành công khi thực hiện đoàn kết chặt chẽ với phong trào cách mạng thế giới.
Thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế; đại đoàn kết toàn
dân tộc là cơ sở cho việc thực hiện đoàn kết quốc tế. Cùng với quá trình phát triển thắng
lợi của cách mạng Việt Nam trong quan hệ với quốc tế, tư tưởng đoàn kết với phong trào
cách mạng thế giới đã được Hồ Chí Minh phát triển ngày càng đầy đủ, rõ ràng và cụ thể hơn.
1.1.2. Thực hiện đoàn kết quốc tế nhằm góp phần cùng nhân dân thế giới thực hiện
thắng lợi các mục tiêu cách mạng của thời đại
Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, chủ nghĩa yêu nước chân chính phải được gắn liền với chủ
nghĩa quốc tế vô sản, đại đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế; thực hiện 6 lOMoAR cPSD| 61785836
đoàn kết quốc tế không vì thắng lợi của cách mạng mỗi nước mà còn vì sự nghiệp chung
của nhân loại tiến bộ trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản
động quốc tế vì các mục tiêu cách mạng của thời đại.
Thời đại mà Hồ Chí Minh sống và hoạt động chính trị là thời đại đã chấm dứt thời
kỳ tồn tại biệt lập giữa các quốc gia, mở ra các quan hệ quốc tế ngày càng sâu rộng cho các
dân tộc, làm cho vận mệnh của mỗi dân tộc không thể tách rời vận mệnh chung của cả loài người.
Ngay sau khi nắm được đặc điểm của thời đại mới, Hồ Chí Minh đã hoạt động không
mệt mỏi để phá thế đơn độc của cách mạng Việt Nam, gắn cách mạng Việt Nam với cách
mạng thế giới. Trong suốt quá trình đó, Người không chỉ phát huy triệt để sức mạnh chủ
nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc trong đấu tranh giành độc lập, tự do cho dân tộc mình
mà còn kiên trì đấu tranh không mệt mỏi để củng cố và tăng cường đoàn kết giữa các lực
lượng cách mạng thế giới đấu tranh cho mục tiêu chung, hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Theo Hồ Chí Minh, muốn tăng cường đoàn kết quốc tế trong cuộc đấu tranh vì mục
tiêu chung, các đảng cộng sản trên thế giới phải kiên trì chống lại mọi khuynh hướng sai
lầm của chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa vị kỷ dân tộc, chủ nghĩa sôvanh... - những khuynh
hướng làm suy yếu sức mạnh đoàn kết, thống nhất các lực lượng cách mạng thế giới. Nói
cách khác, các đảng cộng sản trên thế giới phải tiến hành có hiệu quả việc giáo dục chủ
nghĩa yêu nước chân chính kết hợp với chủ nghĩa quốc tế vô sản cho nhân dân.
Thắng lợi của cách mạng Việt Nam là thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh, thắng
lợi của độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Nhờ kết hợp giải phóng dân tộc với
giải phóng giai cấp, chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam đã được bổ sung nguồn
lực mới. Nhờ giương cao ngọn cờ chủ nghĩa xã hội, Việt Nam đã tranh thủ được sự đồng
tình, ủng hộ của quốc tế, huy động được sức mạnh của các trào lưu cách mạng thời đại,
làm cho sức mạnh dân tộc được nhân lên gấp bội, chiến thắng được những kẻ thù có sức
mạnh to lớn hơn mình về nhiều mặt.
Như vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, thực hiện đoàn kết quốc tế, kết hợp chặt chẽ
chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản là nhằm góp phần cùng nhân dân thế giới
thực hiện thắng lợi các mục tiêu cách mạng của dân tộc và thời đại. Bởi lẽ, nhân dân Việt
Nam không chỉ chiến đấu vì độc lập, tự do của đất nước mình mà còn vì độc lập, tự do của
các nước khác, không chỉ bảo vệ lợi ích sống còn của dân tộc mình mà còn vì những mục
tiêu cao cả của thời đại là hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. 7 lOMoAR cPSD| 61785836
1.2. Lực lượng đoàn kết quốc tế và hình thức tổ chức
1.2.1. Các lực lượng cần đoàn kết
Lực lượng đoàn kết quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm: phong trào cộng
sản và công nhân quốc tế; phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc và phong trào hoà bình,
dân chủ thế giới, trước hết là phong trào chống chiến tranh của nhân dân các nước đang xâm lược Việt Nam.
Đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, Hồ Chí Minh cho rằng, sự đoàn
kết giữa giai cấp công nhân quốc tế là một bảo đảm vững chắc cho thắng lợi của chủ nghĩa
cộng sản. Chủ trương đoàn kết giai cấp công nhân quốc tế, đoàn kết giữa các đảng cộng
sản trong tư tưởng Hồ Chí Minh xuất phát từ tính tất yếu về vai trò của giai cấp công nhân
trong thời đại ngày nay. Hồ Chí Minh cho rằng, chủ nghĩa tư bản là một lực lượng phản
động quốc tế, là kẻ thù chung của nhân dân lao động toàn thế giới. Trong hoàn cảnh đó,
chỉ có sức mạnh của sự đoàn kết, nhất trí, sự đồng tình và ủng hộ lẫn nhau của lao động
toàn thế giới theo tinh thần “bốn phương vô sản đều là anh em” mới có thể chống lại được
những âm mưu thâm độc của chủ nghĩa đế quốc thực dân.
Đối với phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã thấy
rõ âm mưu chia rẽ dân tộc của các nước đế quốc. Chính vì vậy, Người đã lưu ý Quốc tế
Cộng sản về những biện pháp nhằm “làm cho các dân tộc thuộc địa, từ trước đến nay vẫn
cách biệt nhau, hiểu biết nhau hơn và đoàn kết lại để đặt cơ sở cho một liên minh phương
Đông tương lai, khối liên minh này sẽ là một trong những cái cánh của cách mạng vô sản”.
Thêm vào đó, để tăng cường đoàn kết giữa cách mạng thuộc địa và cách mạng vô sản chính
quốc, Hồ Chí Minh còn đề nghị Quốc tế Cộng sản, bằng mọi cách phải “làm cho đội quân
tiên phong của lao động thuộc địa tiếp xúc mật thiết với giai cấp vô sản phương Tây để dọn
đường cho một sự hợp tác thật sự sau này; chỉ có sự hợp tác này mới bảo đảm cho giai cấp
công nhân quốc tế giành thắng lợi cuối cùng".
Đối với các lực lượng tiến bộ, những người yêu chuộng hoà bình, dân chủ, tự do và
công lý, Hồ Chí Minh cũng tìm mọi cách để thực hiện đoàn kết. Trong xu thế mới của thời
đại, sự thức tỉnh dân tộc gắn liền với sự thức tỉnh giai cấp, Hồ Chí Minh đã gắn cuộc đấu
tranh vì độc lập ở Việt Nam với mục tiêu bảo vệ hòa bình, tự do, công lý và bình đẳng để
tập hợp và tranh thủ sự ủng hộ của các lực lượng tiến bộ trên thế giới.
Gắn cuộc đấu tranh vì độc lập của dân tộc với mục tiêu hòa bình, tự do và công lý,
Hồ Chí Minh đã khơi gợi lương tri của những người tiến bộ tạo nên những tiếng nói ủng
hộ mạnh mẽ của các tổ chức quần chúng, các nhân sĩ trí thức và từng con người trên hành 8 lOMoAR cPSD| 61785836
tinh. Thật hiếm có những cuộc đấu tranh giành được sự đồng tình, ủng hộ rộng rãi và lớn
lao như vậy. Nhiều lần, Hồ Chí Minh khẳng định: Chính vì đã biết kết hợp phong trào cách
mạng nước ta với phong trào cách mạng của giai cấp công nhân và của các dân tộc bị áp
bức, mà Đảng đã vượt qua được mọi khó khăn, đưa giai cấp công nhân và nhân dân ta đến
những thắng lợi vẻ vang.
1.2.2. Hình thức tổ chức
Đoàn kết quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là vấn đề sách lược, một
thủ đoạn chính trị nhất thời mà là vấn đề có tính nguyên tắc, một đòi hỏi khách quan của
cách mạng Việt Nam. Từ năm 1924, Hồ Chí Minh đã đưa ra quan điểm về thành lập “Mặt
trận thống nhất của nhân dân chính quốc và thuộc địa” chống chủ nghĩa đế quốc, đồng thời
kiến nghị Quốc tế Cộng sản cần có giải pháp cụ thể để quan điểm này trở thành sự thật.
Hồ Chí Minh dành sự quan tâm đặc biệt đối với các dân tộc trên bán đảo Đông
Dương. Cả ba dân tộc đều là láng giềng gần gũi của nhau, có nhiều điểm tương đồng về
lịch sử, văn hoá và cùng chung một kẻ thù là thực dân Pháp. Năm 1941, để khơi dậy sức
mạnh và quyền tự quyết của mỗi dân tộc, theo đúng quan điểm của Hồ Chí Minh về tập
hợp lực lượng cách mạng, Đảng quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam Độc lập đồng
minh (gọi tắt là Việt Minh); giúp Lào và Campuchia thành lập mặt trận yêu nước. Trong
hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Hồ Chí Minh đã chỉ đạo việc
hình thành Mặt trận nhân dân ba nước Đông Dương.
Đồng thời, Hồ Chí Minh chăm lo củng cố mối quan hệ đoàn kết hữu nghị, hợp tác
nhiều mặt với Trung Quốc - nước láng giềng có quan hệ lịch sử văn hoá lâu đời với Việt
Nam; thực hiện đoàn kết với các dân tộc châu Á và châu Phi đấu tranh giành độc lập. Với
các dân tộc châu Á: Người chỉ rõ, các dân tộc châu Á có độc lập thì nền hoà bình thế giới
mới thực hiện. Vận mệnh dân tộc châu Á có quan hệ mật thiết với vận mệnh dân tộc Việt
Nam. Do vậy, từ những năm 20 của thế kỷ XX, cùng với việc sáng lập Hội Liên hiệp thuộc
địa tại Pháp, Hồ Chí Minh đã tham gia sáng lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức tại
Trung Quốc. Đây là hình thức sơ khai của mặt trận thống nhất các dân tộc bị áp bức theo
xu hướng vô sản, lần đầu tiên xuất hiện trong lịch sử phong trào đấu tranh giải phóng dân
tộc. Với việc tham gia sáng lập các tổ chức này, Hồ Chí Minh đã góp phần đặt cơ sở cho
sự ra đời của Mặt trận nhân dân Á - Phi đoàn kết với Việt Nam.
Những năm đấu tranh giành độc lập dân tộc, Hồ Chí Minh tìm mọi cách xây dựng
các quan hệ với mặt trận dân chủ và lực lượng đồng minh chống phát xít, nhằm tạo thế và
lực cho cách mạng Việt Nam. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc 9 lOMoAR cPSD| 61785836
Mỹ, bằng hoạt động ngoại giao không mệt mỏi, Hồ Chí Minh đã nâng cao vị thế của Việt
Nam trên trường quốc tế, tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ của các nước xã hội chủ
nghĩa, của bạn bè quốc tế và nhân loại tiến bộ, trong đó có cả nhân dân yêu chuộng hoà
bình Pháp trong kháng chiến chống Pháp và cả nhân dân yêu chuộng hoà bình Mỹ trong
kháng chiến chống Mỹ, hình thành Mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết với Việt Nam chống đế quốc xâm lược.
Như vậy, tư tưởng đoàn kết vì thắng lợi của cách mạng Việt Nam đã định hướng cho
việc hình thành bốn tầng mặt trận: Mặt trận đại đoàn kết dân tộc; Mặt trận đoàn kết Việt
Nam – Lào – Campuchia; Mặt trận nhân dân Á - Phi đoàn kết với Việt Nam; Mặt trận nhân
dân thế giới đoàn kết với Việt Nam chống đế quốc xâm lược. Đây thực sự là sự phát triển
rực rỡ nhất và thắng lợi to lớn nhất của tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết.
1.3. Nguyên tắc đoàn kết quốc tế
1.3.1. Đoàn kết trên cơ sở thống nhất mục tiêu và lợi ích, có lý, có tình
Cũng như xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, muốn thực hiện được đoàn kết quốc
tế trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc và các lực lượng phản động quốc tế phải
tìm ra được những điểm tương đồng về mục tiêu và lợi ích giữa các dân tộc, các lực lượng
tiến bộ và phong trào cách mạng thế giới. Đây là vấn đề cốt từ có tính nguyên tắc trong
công tác tập hợp lực lượng. Từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã phát hiện ra sự tương đồng này
nhờ đặt cách mạng Việt Nam trong bối cảnh chung của thời đại, kết hợp lợi ích của cách
mạng Việt Nam với trào lưu cách mạng thế giới và nhận thức về nghĩa vụ của Việt Nam
đối với sự nghiệp cách mạng chung của nhân dân tiến bộ trên thế giới.
Đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, Hồ Chí Minh giương cao ngọn
cờ độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, thực hiện đoàn kết thống nhất trên nền
tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý, có tình. Là một chiến
sĩ cách mạng quốc tế kiên định, Hồ Chí Minh đã suốt đời đấu tranh cho sự nghiệp củng cố
khối đoàn kết, thống nhất giữa các lực lượng cách mạng thế giới, trước hết là trong phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế, lực lượng tiên phong của cách mạng thế giới đấu tranh
chống chủ nghĩa đế quốc vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng, để thực hiện đoàn kết thống nhất trong phong trào cộng
sản và công nhân quốc tế thì đoàn kết giữa các Đảng “là điều kiện quan trọng nhất để bảo
đảm cho phong trào cộng sản và công nhân toàn thắng trong cuộc đấu tranh vĩ đại cho
tương lai tươi sáng của toàn thể loài người”. Người cho rằng, thực hiện sự đoàn kết đó phải 10 lOMoAR cPSD| 61785836
đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân, quán triệt sâu sắc những nguyên tắc của chủ nghĩa quốc tế vô sản.
Đối với các dân tộc trên thế giới, Hồ Chí Minh giương cao ngọn cờ độc lập, tự do
và quyền bình đẳng giữa các dân tộc. Hồ Chí Minh không chỉ suốt đời đấu tranh cho tự do
của dân tộc mình mà còn đấu tranh cho độc lập, tự do của các dân tộc khác. Trong quan hệ
giữa Việt Nam với các nước trên thế giới, Hồ Chí Minh thực hiện nhất quán quan điểm có
tính nguyên tắc: Dân tộc Việt Nam tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ và quyền tự quyết của tất cả các quốc gia - dân tộc trên thế giới, đồng thời mong muốn
các nước trên thế giới quan hệ hợp tác, hữu nghị với Việt Nam trên cơ sở những nguyên
tắc đó. Tháng 9/1947, trả lời nhà báo Mỹ S.ÊIi Mâysi, Hồ Chí Minh tuyên bố chính sách
đối ngoại của nước Việt Nam là “làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai.”
Thời đại Hồ Chí Minh sống là thời đại của phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc
diễn ra mạnh mẽ trên hầu khắp các châu lục của thế giới. Trong tiến trình đó, Người không
chỉ là nhà tổ chức, người cổ vũ mà còn là người ủng hộ nhiệt thành cuộc đấu tranh của các
dân tộc vì các quyền dân tộc cơ bản của họ. Nêu cao tư tưởng độc lập và quyền bình đẳng
giữa các dân tộc, Hồ Chí Minh trở thành người khởi xướng, người cầm cờ và là hiện thân
của những khát vọng của nhân dân thế giới trong việc khẳng định cốt cách dân tộc, đồng
thời thúc đẩy sự đoàn kết, hữu nghị giữa các dân tộc trên thế giới vì thắng lợi của cách mạng mỗi nước.
Đối với các lực lượng tiến bộ trên thế giới, Hồ Chí Minh giương cao ngọn cờ hòa
bình, chống chiến tranh xâm lược. Tư tưởng đó bắt nguồn từ truyền thống hòa hiếu của dân
tộc Việt Nam kết hợp với chủ nghĩa nhân đạo cộng sản và những giá trị nhân văn nhân loại.
Suốt cuộc đời mình, Hồ Chí Minh luôn giương cao ngọn cờ hòa bình, đấu tranh cho hòa
bình, một nền hòa bình thật sự cho tất cả các dân tộc, hòa bình trong độc lập tự do. Giương
cao ngọn cờ hòa bình và đấu tranh bảo vệ hòa bình là tư tưởng bất di bất dịch của Hồ Chí
Minh. Nền hòa bình đó không phải là một nền hòa bình trừu tượng, mà là “một nền hòa
bình chân chính xây trên công bình và lý tưởng dân chủ”, chống chiến tranh xâm lược vì
các quyền dân tộc cơ bản của mỗi quốc gia. Trong suốt hai cuộc kháng chiến, quan điểm
hòa bình trong công lý, lòng thiết tha hòa bình trong sự tôn trọng độc lập và thống nhất đất
nước của Hồ Chí Minh và nhân dân Việt Nam đã làm rung động trái tim nhân loại. Nó có
tác dụng cảm hóa, lôi kéo các lực lượng tiến bộ thế giới đứng về phía nhân dân Việt Nam
đòi chấm dứt chiến tranh, đòi hòa bình. Trên thực tế, đã hình thành một mặt trận nhân dân 11 lOMoAR cPSD| 61785836
thế giới, có cả nhân dân Pháp và nhân dân Mỹ, đoàn kết với Việt Nam chống đế quốc xâm
lược, góp phần kết thúc thắng lợi hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.
Đánh giá vai trò và những cống hiến của Hồ Chí Minh trong công tác tập hợp lực
lượng cách mạng xây dựng khối đại đoàn kết, Rômét Chanđra, nguyên Chủ tịch Hội đồng
Hòa bình thế giới cho rằng: “Bất cứ nơi nào chiến đấu cho độc lập, tự do, ở đó có Hồ Chí
Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao. Bất cứ ở đâu chiến đấu cho hòa bình và công lý,
ở đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao. Bất cứ ở đâu, nhân dân chiến đấu
cho một thế giới mới, chống lại đói nghèo, ở đó có ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao”.
1.3.2. Đoàn kết trên cơ sở độc lập, tự chủ
Đoàn kết quốc tế là để tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ của các lực lượng
quốc tế, nhằm tăng thêm nội lực, tạo sức mạnh thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ cách mạng
đặt ra. Để đoàn kết tốt phải có nội lực tốt. Nội lực là nhân tố quyết định, còn nguồn lực
ngoại sinh chỉ có thể phát huy tác dụng thông qua nguồn lực nội sinh. Chính vì vậy trong
đấu tranh cách mạng, Hồ Chí Minh luôn nêu cao khẩu hiệu: “Tự lực cánh sinh, dựa vào
sức mình là chính”, “Muốn người ta giúp cho, thì trước mình phải tự giúp lấy mình đã”.
Trong đấu tranh giành chính quyền. Người chủ trương “đem sức ta mà giải phóng cho ta”.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Người chỉ rõ: “Một dân tộc không tự lực cánh
sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”.
Trong quan hệ quốc tế. Người nhấn mạnh: phải có thực lực, thực lực là cái chiêng, ngoại
giao là cái tiếng, chiêng có to tiếng mới lớn...
Hồ Chí Minh chỉ rõ, muốn tranh thủ được sự ủng hộ quốc tế, Đảng phải có đường
lối độc lập, tự chủ và đúng đắn. Trả lời một phóng viên nước ngoài, Người nói: “Độc lập
nghĩa là chúng tôi điều khiển lấy mọi công việc của chúng tôi, không có sự can thiệp ở
ngoài vào”. Trong quan hệ giữa các Đảng thuộc phong trào cộng sản, công nhân quốc tế,
Người xác định: “Các đảng dù lớn dù nhỏ đều độc lập và bình đẳng, đồng thời đoàn kết
nhất trí giúp đỡ lẫn nhau”. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, với đường lối đúng
đắn, sáng tạo của Đảng đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, cách mạng giành chiến thắng
lợi. Trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, với đường lối độc lập, tự chủ, kết hợp
hài hòa lợi ích dân tộc và lợi ích quốc tế, Đảng ta đã tranh thủ được sự ủng hộ của phong
trào nhân dân thế giới đoàn kết với Việt Nam, nhận được sự giúp đỡ vô cùng to lớn của
Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa đã đánh thắng cuộc chiến tranh xâm
lược của đế quốc Mỹ. 12 lOMoAR cPSD| 61785836
CHƯƠNG 2. LIÊN HỆ VỚI THỰC TIỄN ĐOÀN KẾT QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY
Trong giai đoạn hội nhập quốc tế sâu rộng, Đảng và Nhà nước ta đã vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế trong đường lối đối ngoại, điều đó được thể hiện
sơ lược qua những quan điểm của các kỳ đại hội như sau:
Kỳ Đại hội Nội dung thể hiện quan điểm đoàn kết quốc tế
Đại hội VI Mở đầu công cuộc Đổi mới – chủ trương “mở rộng quan hệ đối ngoại”, “đa (1986)
dạng hóa, đa phương hóa”, “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước
trong cộng đồng thế giới”.
Đại hội VII Khẳng định đường lối “độc lập, tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa phương (1991)
hóa các quan hệ đối ngoại”.
Đại hội IX Nêu rõ mục tiêu “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế”, giữ vững độc lập dân (2001)
tộc và bản sắc văn hóa.
Đại hội XI Tiếp tục phương châm “Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy, là thành viên có (2011)
trách nhiệm của cộng đồng quốc tế”.
Đại hội Nhấn mạnh đối ngoại hiện đại, toàn diện, “chủ động, tích cực hội nhập
XIII (2021) quốc tế toàn diện, sâu rộng, hiệu quả” – phát huy tinh thần hòa bình, hợp
tác, hữu nghị và phát triển bền vững. 2.1. Thành tựu
Những thành công của đối ngoại Việt Nam, nhất là trong gần 40 năm đổi mới, là
thực tiễn chứng minh rõ ràng và đầy đủ nhất về tầm nhìn, bản lĩnh, trí tuệ của con người vĩ đại Hồ Chí Minh.
Thứ nhất, hợp tác quốc tế luôn là nguyên tắc, chiến lược, có vai trò, vị trí, ý nghĩa
quan trọng trong quan điểm, chính sách đối ngoại của Việt Nam. Việt Nam đã và đang triển
khai hiệu quả đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa, là bạn, là
đối tác tin cậy, là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Qua đó, Việt Nam đã
nâng cao vị thế, uy tín và khẳng định năng lực của đất nước.
Sau chiến thắng năm 1975, sau gần 10 năm rơi vào tình thế khó khăn trên trường
quốc tế, tới năm 1986, Đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã mở ra một giai
đoạn phát triển mới, một thời kỳ “Đổi mới” toàn diện, tạo nên thế và lực mới cho dân tộc. 13 lOMoAR cPSD| 61785836
Trên nền tảng những thành quả trong giai đoạn đầu đổi mới, hội nhập, ngoại giao bước vào
giai đoạn mới mở rộng quan hệ đối ngoại với chủ trương “là bạn là đối tác tin cậy và là
thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”, “đa phương hóa, đa dạng hóa quan
hệ”. Về nguyên tắc đoàn kết quốc tế, Người nhấn mạnh đoàn kết phải “có lý, có tình” -
nghĩa là dựa trên mục tiêu và lợi ích chung, nhưng đồng thời phải thể hiện tinh thần nhân
văn, tôn trọng, giúp đỡ lẫn nhau: Việt Nam trúng cử Ủy viên không thường trực Hội đồng
Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020-2021 với số phiếu cao 192/193 - đây là việc cộng
đồng quốc tế công nhận vị thế và lợi ích hợp lý của Việt Nam. Trong nhiệm kỳ đó, Việt
Nam đã hoàn thành tốt vai trò, đề xuất sáng kiến, thúc đẩy hợp tác đa phương, được đánh
giá cao về phương thức làm việc mềm dẻo, hợp tình hợp lý. Đây là minh chứng cho việc
Việt Nam đoàn kết dựa trên lợi ích chung được công nhận, và cách hành xử ngoại giao “có
lý, có tình” - không quá cứng nhắc nhưng vẫn giữ vững lập trường. Ngoài ra, Việt Nam đã
thực hiện đoàn kết quốc tế qua nhiều hình thức như ngoại giao Đảng, Nhà nước và nhân
dân: tăng cường đối thoại, giao lưu văn hoá, du lịch, nhân đạo đồng thời tăng cường hợp
tác phát triển – gìn giữ hòa bình: Năm 2023, Việt Nam hỗ trợ hàng hóa, vật tư y tế cho
nhân dân Lào và Campuchia trong đại dịch COVID-19. Đặc biệt, Việt Nam còn cử lực
lượng tham gia phái bộ gìn giữ hòa bình Liên Hợp Quốc, hỗ trợ nhân đạo ở châu Phi. Đây
là biểu hiện sinh động của tinh thần “Việt Nam yêu chuộng hòa bình, tích cực góp phần
cho hòa bình thế giới” mà Bác Hồ từng khẳng định.
Thứ hai, Việt Nam đã mở rộng được quan hệ với nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ.
Nếu trước đổi mới ta chỉ có quan hệ với hơn 100 quốc gia thì đến năm 2025 đã chính thức
thiết lập quan hệ ngoại giao với 195 quốc gia. Các mối quan hệ ngày càng đi vào chiều sâu,
bền vững hơn, đặc biệt là việc hình thành khuôn khổ quan hệ với 38 quốc gia, trong đó có
13 đối tác chiến lược toàn diện, 10 đối tác chiến lược và 15 đối tác toàn diện. Sau gần 40
năm đổi mới, ta đã tạo dựng cục diện đối ngoại rộng mở và thuận lợi hơn bao giờ hết cho
sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Việt Nam giữ vững quan hệ hữu nghị truyền
thống với các nước láng giềng như Lào, Campuchia, Trung Quốc, xây dựng biên giới hòa
bình, hợp tác cùng phát triển. Với ASEAN, Việt Nam đoàn kết cùng các nước Đông Nam
Á để xây dựng khu vực hoà bình, ổn định, phát triển thịnh vượng - đúng tinh thần “đoàn
kết quốc tế rộng rãi” mà Hồ Chí Minh đề cao. Việt Nam mở rộng quan hệ đối tác chiến
lược toàn diện với Nga, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Hoa Kỳ và Liên minh
châu Âu (EU), thúc đẩy hợp tác kinh tế, giáo dục, văn hoá, du lịch. Đây là sự vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh “thêm bạn, bớt thù”, coi trọng hòa bình, hợp tác thay vì đối đầu. Đoàn 14 lOMoAR cPSD| 61785836
kết với các tổ chức và lực lượng tiến bộ trên thế giới: Việt Nam là thành viên tích cực của
Liên Hợp Quốc, tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình, thúc đẩy các mục tiêu phát triển bền
vững (SDGs). Đồng thời chủ động tham gia WTO, APEC, ASEM, RCEP, cùng hợp tác giải
quyết vấn đề toàn cầu: thương mại công bằng, môi trường, bình đẳng giới… có thể thấy sự
kế thừa tư tưởng Hồ Chí Minh về “kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại”.
Thứ ba, trong việc thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế, Việt Nam
đã tận dụng được sức mạnh quốc tế để phát triển đất nước đặc biệt là về vấn đề kinh tế
thông qua các hoạt động đối ngoại. Việt Nam tập trung vào các đối tác ưu tiên, chủ chốt,
các nước lớn, các nước láng giềng, khu vực và các đối tác quan trọng khác. Từ chỗ chỉ có
quan hệ kinh tế - thương mại với gần 30 nước và vùng lãnh thổ, đến nay ta đã có quan hệ
kinh tế - thương mại với hơn 230 nước và vùng lãnh thổ; tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu
đạt gần 800 tỷ USD, gia nhập nhóm 20 nước có quy mô thương mại lớn nhất thế giới; thu
hút được hơn 500 tỷ USD vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), trở thành nước đang phát
triển thu hút đầu tư nước ngoài hàng đầu thế giới. Việt Nam trở thành mắt xích quan trọng
trong kinh tế thế giới và ngày càng gia tăng vị thế trong chuỗi sản xuất toàn cầu với 17 hiệp
định thương mại tự do (FTA), trong đó có nhiều FTA thế hệ mới, hơn 500 hiệp định song phương và đa phương.
Thứ tư, đoàn kết, hợp tác quốc tế, với Hồ Chí Minh, gắn với nguyên tắc bất di bất
dịch và mục tiêu quan trọng là góp phần đấu tranh bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ;
hợp tác tìm giải pháp ổn định, lâu dài, cùng có lợi trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế và
tôn trọng lợi ích chính đáng của nhau. Nguy cơ lớn nhất đối với độc lập, chủ quyền, toàn
vẹn lãnh thổ của Việt Nam hiện nay, là vấn đề Biển Đông. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
về đoàn kết quốc tế, Việt Nam đã, đang và luôn sẵn sàng giải quyết những tranh chấp, bất
đồng trên Biển Đông bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế, đồng thời coi
trọng việc giữ gìn mối quan hệ hữu nghị truyền thống với các nước láng giềng. Nhờ lập
trường chính nghĩa, nhờ những bằng chứng pháp lý và căn cứ lịch sử khẳng định chủ quyền
của Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa, Việt Nam luôn nhận được sự quan tâm, ủng
hộ của cộng đồng quốc tế. Bên cạnh đó, trong quan hệ quốc tế, Người khẳng định đoàn kết
phải dựa trên tinh thần bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền, không phụ thuộc hay chịu
áp lực từ bên ngoài. Trong báo cáo kết thúc nhiệm vụ tại Hội đồng Bảo an, các lãnh đạo đã
nhấn mạnh rằng Việt Nam hoạt động tích cực nhưng luôn giữ lập trường độc lập, tôn trọng
luật pháp quốc tế và chủ quyền, không để bị chi phối. Đặc biệt, đường lối đối ngoại được
khẳng định trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng: “Kiên định đường lối đối ngoại độc lập, 15 lOMoAR cPSD| 61785836
tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa; là bạn, là đối tác tin cậy, là thành viên tích cực, có
trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”. Điều này thể hiện đúng tinh thần Hồ Chí Minh:
“Độc lập, tự chủ nhưng không cô lập; hòa nhập quốc tế nhưng giữ vững bản sắc và chủ quyền.”
Trong quá trình đổi mới, hội nhập, ngoại giao đã phối hợp chặt chẽ với quốc phòng,
an ninh xây dựng vành đai biên giới hòa bình, hữu nghị với các nước láng giềng. Chúng ta
đã hoàn thành việc phân giới, cắm mốc trên biên giới đất liền với Lào và Trung Quốc; đạt
kết quả tích cực về phân giới cắm mốc với Campuchia; ký kết các hiệp định, hiệp ước về
phân định biển với Trung Quốc (trên Vịnh Bắc Bộ) và với các nước Thái Lan, Indonesia….
Đối với những vấn đề phức tạp về biên giới lãnh thổ, chúng ta vừa kiên quyết đấu tranh
với các hoạt động xâm phạm chủ quyền, lãnh thổ, đồng thời giương cao ngọn cờ hòa bình,
hợp tác, tích cực trao đổi, đàm phán với các nước liên quan để kiểm soát bất đồng, tìm
kiếm giải pháp cơ bản, lâu dài cho các tranh chấp bằng biện pháp hoà bình trên cơ sở luật pháp quốc tế. 2.2. Hạn chế
Mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong việc vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh về đoàn kết quốc tế, nhưng trên thực tế, việc hiện thực hóa tư tưởng ấy vẫn còn
tồn tại không ít hạn chế.
Thứ nhất, Việt Nam vẫn còn những hạn chế nhất định trong việc hiện thực hóa
nguyên tắc kết hợp giữa độc lập, tự chủ và đoàn kết quốc tế một cách linh hoạt, hiệu quả.
Tư tưởng Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh: độc lập, tự chủ là nền tảng, còn đoàn kết quốc tế
là điều kiện cần thiết để phát triển và bảo vệ lợi ích dân tộc. Tuy nhiên, trong quá trình hội
nhập sâu rộng, việc vận dụng hài hòa giữa “giữ vững độc lập, tự chủ” và “mở rộng đoàn
kết quốc tế” vẫn gặp nhiều khó khăn.
Thực tế cho thấy, trong một số lĩnh vực hợp tác quốc tế như khoa học – công nghệ,
giáo dục và chuyển giao công nghệ, Việt Nam vẫn còn phụ thuộc vào đối tác nước ngoài,
chưa làm chủ hoàn toàn chuỗi giá trị. Như Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nêu rõ: “Trong
tình hình thế giới và khu vực diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường, chưa có tiền lệ,
tác động sâu sắc đến thế giới và các quốc gia, trong đó có Việt Nam”; đồng thời, “Năng
lực tham gia và chủ động thích ứng của Việt Nam trong toàn cầu hóa còn yếu; hội nhập
quốc tế sâu rộng nhưng hiệu quả chưa cao; sức cạnh tranh của nền kinh tế, của doanh
nghiệp và sản phẩm còn thấp”. Bên cạnh đó, chất lượng và hiệu quả quan hệ với một số
đối tác quốc tế vẫn chưa cao, một số tổ chức nhân dân Việt Nam còn thụ động, thiếu chiều 16 lOMoAR cPSD| 61785836
sâu trong quan hệ đối ngoại, khiến vị thế và vai trò của Việt Nam tại một số diễn đàn đa
phương khu vực và quốc tế chưa đạt mức mong muốn. Điều này cho thấy, dù Việt Nam
kiên định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa và đa dạng hóa theo tư tưởng
Hồ Chí Minh, việc hiện thực hóa nguyên tắc kết hợp giữa độc lập, tự chủ và đoàn kết quốc
tế vẫn chưa thật linh hoạt và hiệu quả.
Thứ hai, mặc dù Việt Nam đã chủ động tham gia nhiều cơ chế, tổ chức quốc tế và
khu vực như Liên Hợp Quốc, ASEAN, APEC, ASEM, WTO…, đồng thời đảm nhiệm vai
trò quan trọng như Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc hay Chủ
tịch ASEAN 2020. Tuy nhiên, cần nhìn nhận rằng tác động và tiếng nói của Việt Nam trên
trường quốc tế vẫn chưa thật sự mạnh mẽ, phần lớn mới dừng lại ở mức “tham gia tích
cực” chứ chưa đạt đến “dẫn dắt chủ động” trong các vấn đề khu vực và toàn cầu. Bên cạnh
đó, ở những lĩnh vực mang tính toàn cầu như biến đổi khí hậu, an ninh mạng, chuyển đổi
xanh và phát triển bền vững, Việt Nam vẫn còn hạn chế về năng lực nghiên cứu, nguồn lực
tài chính và tầm ảnh hưởng chính sách, nên chưa thể đưa ra được nhiều sáng kiến nổi bật
mang tầm khu vực hoặc quốc tế. Theo Tạp chí Cộng sản, số 985 (2022), bài “Phát huy vai
trò Việt Nam trong các vấn đề toàn cầu” nhận định rằng: “Việt Nam cần tiếp tục nâng cao
năng lực, chủ động hơn trong việc đề xuất sáng kiến, tham gia định hình luật chơi và cơ
chế hợp tác quốc tế, qua đó khẳng định vai trò, vị thế và trách nhiệm của mình trong cộng
đồng quốc tế.” Báo cáo chính trị Đại hội XIII của Đảng cũng nhấn mạnh yêu cầu “phát huy
vai trò, vị thế quốc tế của Việt Nam; chủ động, tích cực tham gia và đóng góp có trách
nhiệm vào các hoạt động chung của cộng đồng quốc tế”. Điều đó cho thấy, để hiện thực
hóa tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam cần chuyển từ “tham gia”
sang “dẫn dắt”, từ “thụ động hưởng ứng” sang “chủ động kiến tạo”, góp phần cùng nhân
dân thế giới thực hiện các mục tiêu cách mạng của thời đại mới.
Thứ ba, trong quan hệ với các quốc gia và khu vực, Việt Nam vẫn còn thiếu tính chủ
động và chưa thật sự đa dạng hóa đối tác. Dù Việt Nam đã thiết lập quan hệ đối tác chiến
lược và toàn diện với nhiều nước lớn như Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nhật Bản, Nga, Ấn Độ,
Hàn Quốc và Liên minh châu Âu, nhưng sự hợp tác này vẫn tập trung chủ yếu vào lĩnh vực
kinh tế – thương mại. Trong khi đó, hợp tác về khoa học – công nghệ, văn hóa, giáo dục
và đặc biệt là hợp tác nhân dân còn hạn chế. Việt Nam vẫn chưa tận dụng tốt cơ hội mở
rộng quan hệ với các quốc gia ở châu Phi, Mỹ Latin hay Nam Á – những khu vực mà Chủ
tịch Hồ Chí Minh từng xem là “bạn đồng chí hướng” trong phong trào giải phóng dân tộc.
Mặc dù hiện nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với toàn bộ 55 quốc gia châu 17 lOMoAR cPSD| 61785836
Phi, tuy nhiên số dự án hợp tác cụ thể vẫn còn ít. Kim ngạch thương mại song phương mới
đạt khoảng 26 tỷ USD/năm (năm 2024), trong đó xuất khẩu chiếm 11,7 tỷ USD, nhập khẩu
14,3 tỷ USD (theo số liệu Bộ Công Thương). Điều này cho thấy chính sách đối ngoại và
hợp tác quốc tế của Việt Nam tuy đã mở rộng phạm vi địa lý, nhưng vẫn chưa thật sự toàn
diện, chưa khai thác hết tiềm năng của các khu vực đang phát triển năng động, cũng như
chưa kết nối được sâu rộng với các lực lượng tiến bộ, độc lập trên thế giới – những yếu tố
có thể góp phần củng cố vị thế của Việt Nam trong một trật tự quốc tế đa cực đang hình thành.
Thứ tư, mặc dù Việt Nam luôn vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh gắn với nguyên tắc
bất di bất dịch và mục tiêu quan trọng là góp phần đấu tranh bảo vệ vững chắc chủ quyền
lãnh thổ, nhưng thực tế cho thấy việc hiện thực hóa nguyên tắc này vẫn còn nhiều hạn chế.
Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Đoàn kết quốc tế là để tăng cường sức mạnh dân tộc, chứ
không phải để đánh đổi chủ quyền.” Tuy nhiên, trong quá trình hội nhập sâu rộng, Việt
Nam đôi khi gặp khó khăn trong việc cân bằng giữa hợp tác kinh tế và bảo vệ lợi ích chiến
lược, điển hình là trong các dự án đầu tư hạ tầng, năng lượng hoặc khai thác tài nguyên ở
khu vực nhạy cảm. Trong vấn đề Biển Đông, dù Việt Nam kiên định giải quyết tranh chấp
bằng biện pháp hòa bình, dựa trên luật pháp quốc tế và coi trọng quan hệ hữu nghị truyền
thống với các nước láng giềng, nhưng việc tận dụng sức mạnh đoàn kết quốc tế để tạo mặt
trận thống nhất trong ASEAN vẫn chưa đạt hiệu quả cao, bởi lợi ích và mức độ ưu tiên của
các nước thành viên còn khác nhau. Ngoài ra, ngoại giao nhân dân về Biển Đông và chủ
quyền quốc gia vẫn còn mờ nhạt, thiếu các chiến dịch truyền thông quốc tế đủ mạnh để
tranh thủ dư luận và sự ủng hộ của cộng đồng tiến bộ toàn cầu, khác với tinh thần Hồ Chí
Minh, người rất chú trọng công tác tuyên truyền quốc tế để vận động sự ủng hộ từ nhân
dân tiến bộ trên thế giới. Trong các sáng kiến hợp tác quốc tế về môi trường, năng lượng
hay phát triển bền vững, như “Đối tác chuyển dịch năng lượng công bằng” (JETP) hay
“Cam kết phát thải ròng bằng 0”, Việt Nam vẫn còn mang tính hình thức, thiếu cơ chế phối
hợp thực chất giữa Nhà nước và các tổ chức nhân dân, dẫn đến hiệu quả trên bình diện xã
hội chưa cao. Những hạn chế này phản ánh rằng, mặc dù Việt Nam luôn theo đuổi nguyên
tắc “có lý, có tình” – tức đoàn kết quốc tế gắn với lợi ích và mục tiêu chung nhưng vẫn giữ
lập trường độc lập, tự chủ – việc hiện thực hóa nguyên tắc đó trong bối cảnh hội nhập sâu
rộng, cạnh tranh chiến lược khu vực và biến động quốc tế phức tạp vẫn chưa thật sự linh hoạt và hiệu quả. 18 lOMoAR cPSD| 61785836
Từ những hạn chế trên có thể thấy, Việt Nam tuy đã đạt được nhiều thành tựu trong
quá trình mở rộng đoàn kết quốc tế, song vẫn cần tiếp tục đổi mới tư duy, đa dạng hóa lực
lượng, chủ động hơn trong việc phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị,
đồng thời tăng cường vai trò của nhân dân trong công tác đối ngoại. Chỉ khi đó, tinh thần
“đoàn kết quốc tế chân thành, trong sáng, vì chính nghĩa” mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra
mới thật sự được hiện thực hóa một cách toàn diện trong giai đoạn mới.
2.3. Bài học kinh nghiệm
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết và hợp tác quốc tế là một trong những nội dung
đặc sắc, thể hiện tầm nhìn chiến lược và nhân văn sâu sắc của Người đối với sự nghiệp
cách mạng Việt Nam. Người luôn khẳng định rằng cách mạng Việt Nam là một bộ phận
của cách mạng thế giới, phải biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Trong
bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, việc nghiên cứu và vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh về đoàn kết quốc tế không chỉ có ý nghĩa lý luận mà còn mang giá trị thực tiễn
to lớn, góp phần định hướng đường lối đối ngoại của Việt Nam trong thời kỳ mới.
Thứ nhất, tăng cường thực lực quốc gia là nền tảng của đoàn kết và hợp tác quốc tế.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Thực lực là cái chiêng, ngoại giao là cái tiếng.
Chiêng có to, tiếng mới lớn.” Điều đó cho thấy sức mạnh đối ngoại của Việt Nam phải bắt
nguồn từ nội lực của chính mình – bao gồm kinh tế, khoa học, văn hóa, quốc phòng và con
người. Trong giai đoạn hiện nay, bài học này vẫn còn nguyên giá trị: muốn mở rộng hợp
tác quốc tế hiệu quả, Việt Nam cần không ngừng củng cố thực lực quốc gia, phát triển bền
vững, nâng cao vị thế và khả năng tự chủ trong quan hệ đối ngoại.
Thứ hai, phải kết hợp chặt chẽ giữa độc lập, tự chủ và đoàn kết quốc tế. Theo Hồ
Chí Minh, một dân tộc không thể phụ thuộc vào nước khác mà vẫn có thể đoàn kết chân
thành và bình đẳng. Độc lập, tự cường chính là cơ sở để hợp tác thật sự. Vì vậy, trong quá
trình hội nhập, Việt Nam cần kiên định với nguyên tắc “độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa
dạng hóa quan hệ đối ngoại”, đồng thời tích cực tham gia các hoạt động quốc tế nhằm nâng
cao uy tín, góp phần xây dựng môi trường hòa bình, hợp tác và phát triển bền vững.
Thứ ba, luôn đặt lợi ích quốc gia – dân tộc lên hàng đầu trong mọi hoạt động đối
ngoại. Tư tưởng Hồ Chí Minh về ngoại giao cho rằng mục tiêu cao nhất của mọi chính sách
phải là phục vụ nhân dân, bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Trong khi hội
nhập quốc tế, Việt Nam cần giữ vững nguyên tắc đó, vừa hội nhập sâu rộng, vừa bảo đảm
lợi ích dân tộc, không để bị lôi kéo, chi phối bởi các thế lực bên ngoài. Đây là bài học có ý 19 lOMoAR cPSD| 61785836
nghĩa chiến lược, giúp đất nước phát triển ổn định trong môi trường toàn cầu nhiều biến động.
Thứ tư, xây dựng mối quan hệ quốc tế trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng và cùng có
lợi. Hồ Chí Minh luôn đề cao tinh thần “thêm bạn, bớt thù”, coi đó là nền tảng của hòa bình
và hợp tác. Người nhấn mạnh rằng đoàn kết quốc tế phải xuất phát từ thiện chí, tôn trọng
độc lập và lợi ích của nhau. Ngày nay, Việt Nam kiên trì đường lối đối ngoại độc lập, hợp
tác bình đẳng và tuân thủ luật pháp quốc tế, góp phần củng cố lòng tin, tạo vị thế uy tín
trong khu vực và trên thế giới.
Thứ năm, vận dụng linh hoạt, sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong bối cảnh mới.
Người luôn dạy rằng phải “kiên định về mục tiêu, linh hoạt về sách lược”. Trong thế giới
đầy biến động hiện nay – với các vấn đề như cạnh tranh địa chính trị, biến đổi khí hậu, an
ninh phi truyền thống – Việt Nam cần vận dụng sáng tạo tư tưởng đoàn kết quốc tế, mở
rộng ngoại giao đa phương, thúc đẩy hợp tác quốc phòng, văn hóa, khoa học, nhân dân,
qua đó kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để bảo vệ và phát triển đất nước.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế không chỉ là kim chỉ nam cho đường lối
đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam, mà còn là bài học quý báu cho thế hệ trẻ hôm
nay. Trong bối cảnh hội nhập toàn cầu, sinh viên cần hiểu rõ tinh thần “đoàn kết – hợp tác
– hội nhập”, biết mở rộng tầm nhìn, học hỏi tri thức nhân loại nhưng vẫn giữ vững lòng
yêu nước, bản sắc dân tộc và ý thức tự cường. Đó chính là cách thiết thực để mỗi người trẻ
tiếp nối di sản tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, góp phần xây dựng một Việt Nam độc
lập, tự chủ, hòa bình và thịnh vượng giữa lòng thế giới hiện đại. KẾT LUẬN
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế là một giá trị tư tưởng lớn, thể hiện sâu
sắc tinh thần nhân văn, lòng yêu nước gắn liền với tinh thần yêu chuộng hòa bình và công
lý. Tư tưởng ấy không chỉ góp phần làm nên thắng lợi của cách mạng Việt Nam mà còn trở
thành nguồn cảm hứng cho phong trào đấu tranh vì tự do, độc lập của các dân tộc trên thế giới.
Trong thời đại ngày nay, việc kế thừa và vận dụng tư tưởng đoàn kết quốc tế của Hồ
Chí Minh có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ,
hòa bình, hợp tác và phát triển. Đó cũng là cơ sở để Việt Nam tiếp tục khẳng định vai trò,
vị thế và trách nhiệm của mình trong cộng đồng quốc tế, vì mục tiêu chung là hòa bình,
hữu nghị và phát triển bền vững. 20