



















Preview text:
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HOA SEN           
BÀI THU HOẠCH BẢO TÀNG CHỨNG TÍCH CHIẾN TRANH   
CHỦ ĐỀ: TỘI ÁC CỦA ĐẾ QUỐC MỸ TRONG CHIẾN TRANH VIỆT  NAM   
Môn học: Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam 
Giảng viên: Nguyễn Minh Quang 
Lớp: DC 144DV01 - 0300 
Sinh viên thực hiện:  Trần Kim Ngân  22112442  Lê Thị Tường Nghi  22115802  Bùi Minh Thư  22112251  Nguyễn Phương Hiền  22115813          04/2024    
PHÂN CHIA CÔNG VIỆC  Họ và Tên  Công việc 
Mức độ hoàn thành  Bùi Minh Thư  Soạn nội dung  100%  Nguyễn Phương Hiền  Soạn nội dung  100%  Lê Thị Tường Nghi  Soạn nội dung  100%  Trần Kim Ngân  Tổng hợp, trình bày  100%          i    MỤC LỤC 
Phân chia công việc ......................................................................................................... i 
Mục lục ........................................................................................................................... ii 
I. Lý do chọn đề tài ......................................................................................................... 1 
II. Giới thiệu chủ đề ........................................................................................................ 2 
III. Giới thiệu sơ lược về bảo tàng .................................................................................. 3 
IV. Tội ác của đế quốc Mỹ trong chiến tranh xâm lược Việt Nam ................................. 5 
4.1. Âm mưu ............................................................................................................... 5 
4.1.1. Mục tiêu tổng thể .......................................................................................... 5 
4.1.2. Âm mưu cụ thể. ............................................................................................ 5 
4.2. Những tội ác vô nhân tính. .................................................................................. 6  4.2.1. Thảm sát ỹ
M Lai........................................................................................... 6 
4.2.2. Chất độc da cam ........................................................................................... 8 
4.3. Những tổn thất to lớn từ chiến tranh xâm lược ................................................. 10 
4.3.1. Sự tổn thất về sinh mạng vì những mục tiêu đối lập nhau giữa Việt Nam và 
Hoa Kỳ trong chiến tranh ..................................................................................... 10 
4.3.2. Những biến đổi môi trường sinh thái ở Việt Nam - sự tàn phá ghê gớm của 
chiến tranh ............................................................................................................ 12 
4.3.3. Hậu quả đau đớn kéo dài nhiều thế hệ của chiến tranh hoá học, nhất là chất 
độc màu da cam/điôxin ......................................................................................... 13 
V. Ý NGHĨA ĐÚC KẾT VÀ LIÊN HỆ MÔN HỌC .................................................... 16 
5.1. Ý nghĩa nhóm đúc kết đ ợc
ư sau quá trình tham quan ....................................... 16 
5.2. Liên hệ môn học ................................................................................................ 16 
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................ 18    ii   
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 
Vai trò của lịch sử không chỉ là việc ghi chép những sự kiện đã qua mà còn là việc 
hiểu và rút ra những bài học từ quá khứ để áp dụng vào hiện tại và tương lai. Đúng là 
chiến tranh hiện đã dừng lại, việc nhìn lại quá khứ không có nghĩa là đào bới lại và gặm 
nhấm những mối thù từ chiến tranh, mà đó là một phần không thể thiếu của quá trình 
học hỏi và hòa giải trong xã hội. 
Trong lịch sử chiến tranh Việt Nam, tội ác của đế quốc Mỹ đã để lại dấu ấn đau 
lòng và đầy tranh cãi. Việc khám phá và thảo luận về những sự kiện và hậu quả của 
cuộc xung đột này không chỉ là để học hỏi từ quá khứ mà còn là để thẳng thắn lên án 
những cuộc chiến tranh vô nhân đạo và rút ra những bài học về hòa bình, lòng nhân ái 
và sự phục hồi xã hội. 
Cơ hội được ghé thăm Bảo Tàng Chứng Tích Chiến Tranh trong quá trình học môn 
Lịch sử Đảng đã giúp nhóm có cái nhìn trực quan hơn về toàn cảnh các cuộc chiến tranh 
xâm lược Việt Nam. Với những cung bậc cảm xúc được chạm tới trong quá trình tham 
quan, nhóm đã thôi thúc mình tìm hiểu và bàn luận sâu sắc hơn về chủ đề “Tội ác của 
đế quốc Mỹ trong chiến tranh Việt Nam”.    1   
II. GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ 
Trong thời điểm mà Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ năm 1776 khẳng định những 
nguyên tắc cao quý về quyền bình đẳng và tự do cho mọi người, thì thực tế trên chiến 
trường Việt Nam lại tiêu biểu cho một câu chuyện đối ngược đầy bi kịch. Quân đội Mỹ, 
mặc dù đứng dưới bóng dáng của các nguyên tắc dân chủ và nhân quyền, nhưng lại tiến 
hành những hành động tàn bạo và không thể chấp nhận được. 
Bằng cách bất chấp luật pháp quốc tế và thậm chí cả những nguyên tắc cơ bản của 
nhân quyền, quân đội Mỹ đã thực hiện một loạt các tội ác trong chiến tranh Việt Nam. 
Từ những vụ tra tấn, bắt bớ, hãm hiếp đến những cuộc thảm sát hàng loạt như vụ Sơn 
Mỹ, Quảng Ngãi năm 1968, tất cả đều là những vết thương không thể lành và là một 
phần của lịch sử đau thương của dân Việt Nam. 
Bằng việc áp dụng những phương tiện chiến tranh tàn ác như bom bi, bom lân tinh, 
và chất độc dioxin, quân đội Mỹ đã gieo rắc cảnh đau khổ và hủy hoại không chỉ cuộc 
sống của hàng triệu dân Việt Nam mà còn là môi trường sống của họ. Hành động này 
không chỉ phản bội những giá trị nhân quyền mà Mỹ từng tuyên bố, mà còn khẳng định 
sự độc tài và tham vọng xâm lược. Tháng 11/1965, tướng Curtis Lemay chỉ huy lực 
lượng Không quân chiến lược Mỹ đã trắng trợn tuyên bố "sẽ đẩy lùi miền Bắc Việt Nam 
trở về thời kỳ đồ đá", đó là một biểu hiện rõ ràng của sự tàn bạo và độc tài trong chiến  tranh. 
Tiêu biểu về tội ác chiến tranh của quân đội Mỹ, như vụ thảm sát Mỹ Lai, đã làm 
rung động cả thế giới và hạ thấp uy tín của Mỹ. Trái lại với những nỗ lực của quân đội 
Mỹ để tìm kiếm chiến thắng quân sự, những hậu quả của những hành động tàn bạo này 
là một vết sẹo không thể xóa nhòa trong lịch sử, cũng như trong tâm trí của người Việt  Nam. 
Những tội ác chiến tranh của đế quốc Mỹ trong cuộc chiến tranh Việt Nam là một 
trang đen đậm trong lịch sử nhân loại, là biểu tượng cho sự phản bội của những nguyên 
tắc nhân quyền và quyền tự do. Dù đã trải qua nhiều thập kỷ, nhưng câu chuyện về 
những tội ác này vẫn là một bài học đắng cay về những hậu quả của chiến tranh và sự  cần thiết ủ
c a hòa bình và sự công bằng trong mối quan hệ quốc tế.    2   
III. GIỚI THIỆU SƠ LƯỢC VỀ BẢO TÀNG 
Cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp và sau đó là đế quốc Mỹ đã ghi dấu 
những vết sẹo đau đớn trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Từ những ngày đầu tiên của cuộc 
kháng chiến cho đến ngày chiến thắng hoàn toàn, nhân dân Việt Nam đã chiến đấu với 
sự hy sinh cao cả để bảo vệ độc lập, tự do và chủ quyền của Tổ quốc. 
Ngày 31/8/1858 đánh dấu bước đầu tiên của cuộc xâm lược của thực dân Pháp 
vào Đà Nẵng, mở đầu cho hơn 100 năm cuộc chiến tranh ác liệt. Qua những năm tháng 
gian khổ, nhân dân Việt Nam không ngừng chiến đấu, không ngừng hy sinh để giành 
lại tự do cho Tổ quốc. Ngày 2/9/1945, với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, Chủ 
tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập, khẳng định quyền độc lập tự do của dân tộc 
Việt Nam. Tuy nhiên, chiến tranh chưa dừng lại, mà tiếp tục với sự can thiệp của đế 
quốc Mỹ, đẩy dân tộc Việt Nam vào thời ỳ k đối ầ
đ u gay gắt và đau thương. 
Trải qua 30 năm gian khổ, nhân dân Việt Nam đã gianh giữ chiến thắng hoàn toàn 
vào ngày 30/4/1975. Cuộc kháng chiến kiên cường đã giải phóng đất nước khỏi ách 
thống trị, mang lại hòa bình, độc lập và chủ quyền cho Tổ quốc. Tuy nhiên, hậu quả của 
cuộc chiến tranh vẫn còn đọng lại, là những vết thương không thể phai mờ và những kỉ 
niệm đau buồn trong lòng dân tộc. 
Nhằm lưu lại những bài học lịch sử đắng cay và tố cáo những tội ác của chiến 
tranh, Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh đã ra đời. Không chỉ là nơi lưu trữ các hiện vật, 
tư liệu về những thời kỳ đen tối của lịch sử, bảo tàng còn là nơi giáo dục và tuyên truyền 
về ý thức đấu tranh bảo vệ hòa bình và tự do cho Tổ quốc. 
Với hơn 20.000 tài liệu, hiện vật và phim ảnh, Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh 
không chỉ là một địa điểm văn hóa lịch sử mà còn là điểm thu hút du khách trong và 
ngoài nước. Với mục tiêu mở rộng nội dung trưng bày mới, bảo tàng đang nỗ lực để lan 
tỏa thông điệp về ý thức chống chiến tranh xâm lược và tình thương hòa bình.    3   
Những thành quả đạt được của Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh đã được công 
nhận và đánh giá cao thông qua việc được trao các Huân chương Lao động từ Nhà nước. 
Việc đầu tư xây dựng mới và nâng cấp hoạt động của bảo tàng cũng là bước đi quan 
trọng trong việc duy trì và phát triển di sản văn hóa của dân tộc. 
Từ những trang lịch sử đau buồn, Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh không chỉ là 
nơi lưu trữ những kỷ vật mà còn là biểu tượng của ý chí kiên cường và lòng yêu nước 
của dân tộc Việt Nam. Qua bảo tàng, chúng ta học được bài học quý báu về tình thương, 
hòa bình và tự do - những giá trị mà nhân loại luôn khát khao và vẫn đang bảo vệ.  4   
IV. TỘI ÁC CỦA ĐẾ QUỐC MỸ TRONG CHIẾN TRANH XÂM LƯỢC VIỆT  NAM  4.1. Âm mưu 
4.1.1. Mục tiêu tổng thể 
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, phong trào giải phóng dân tộc ở các nước Đông 
Nam Á phát triển mạnh mẽ. Mỹ lo ngại sự chiến thắng của phong trào cộng sản ở Việt 
Nam sẽ tạo hiệu ứng domino, dẫn đến sự sụp đổ của các chính phủ phi cộng sản khác 
trong khu vực. Thế nên, việc âm mưu bằng mọi cách ngăn chặn sự lan rộng của chủ 
nghĩa công sản ở Đông Nam Á như một tất ế
y u. Bên cạnh đó sự tồn tại của chủ nghĩa 
cộng sản ở khu vực Đông Nam Á nói chung và trong nước nói riêng là một mối đe dọa 
đối với sự an ninh của Mỹ. Đó chính là lý do để chúng ngăn chặn sự lan rộng chủ 
nghĩa cộng sản và lật ổ đ chính quyền nhân dân. 
Ngoài ra, để duy trì ảnh hưởng và vị thế của Mỹ trên toàn cầu Chiến tranh Việt 
Nam được xem là một phần trong cuộc chiến tranh Lạnh, nơi Mỹ và Liên Xô cạnh 
tranh ảnh hưởng trên toàn thế giới. Mỹ muốn khẳng định sức mạnh quân sự và vị thế 
lãnh đạo của mình. Điều quan trọng không kém chính là vì Mỹ muốn bảo vệ lợi ích 
kinh tế, bởi Mỹ có nhiều lợi ích kinh tế ở Việt Nam, bao gồm cao su, cà phê và gạo 
nên chúng muốn duy trì quyền kiểm soát đối với những tài nguyên này. 
4.1.2. Âm mưu cụ t ể h . 
Chiến lược chiến tranh đặc biệt (1961-1964), đây là giai đoạn Mỹ tập trung vào 
việc hỗ trợ chính quyền Ngô Đình Diệm ở 
 miền Nam Việt Nam và tiêu diệt phong trào 
du kích Việt Cộng. Mỹ sử dụng cố vấn quân sự, viện trợ kinh tế và lực lượng quân đội 
Sài Gòn để thực hiện mục tiêu này. Tuy nhiên, khi không đạt được mục tiêu của mình 
và không thể tiêu diệt phong trào du kích Việt Cộng và cũng không thể lật đổ chính 
phủ cộng sản ở Bắc Việt Nam. Tình hình khiến cho chiến tranh ngày càng leo thang 
và trở nên tàn khốc hơn. Để đáp ứng với sự thất bại trong chiến tranh đặc biệt, Mỹ bắt 
đầu đưa quân viễn chinh vào Việt Nam vào năm 1965, đánh dấu sự khởi đầu của giai 
đoạn chiến tranh cục bộ. 
Chiến tranh cục bộ là giai đoạn thứ hai của cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam 
của đế quốc Mỹ, diễn ra từ năm 1965 đến năm 1968. Đây là giai đoạn Mỹ mở rộng 
chiến tranh ra miền Bắc Việt Nam và tăng cường ném bom miền Bắc. Mỹ sử dụng 
không quân, hải quân và quân đội Mỹ để ném bom miền Bắc và tấn công các tuyến 
đường mòn Hồ Chí Minh. Tưởng rằng bằng cách gia tăng sức ép quân sự, Mỹ có thể 
buộc Việt Nam nhượng bộ trên bàn đàm phán và chấp nhận những yêu cầu. Thế nhưng  5   
mục đích đó của Đế quốc nhanh chóng thất bại và còn không thể ngăn cản sự chi viện 
của Liên Xô hay Trung Quốc cho Việt Nam. Chiến tranh ngày một trở nên kịch tính 
và ác liệt hơn, đồng thời cũng gây ra nhiều tổn thất thiệt hại cho nhân dân ta. Trước 
tình thế đó, Mỹ bắt đầu tìm kiếm một giải pháp hòa bình cho chiến tranh. 
Việt Nam hóa chiến tranh là chiến lược của Chính phủ Hoa Kỳ dưới thời Tổng 
thống Richard Nixon trong Chiến tranh Việt Nam, được áp dụng từ ngày 8 tháng 6 
năm 1969 trên toàn Đông Dương nhằm từng bước chuyển giao trách nhiệm chiến đấu 
cho Quân lực Việt Nam Cộng hòa (QLVNCH) để Mỹ rút dần quân về nước; nhưng 
vẫn giữ được miền Nam Việt Nam và cả bán đảo Đông Dương trong tầm ảnh hưởng 
của Hoa Kỳ. Thông qua đó sẽ giảm bớt được thương vong cho quân đội Mỹ trong 
chiến tranh cũng như sự phản đối của dư luận đối với chiến. Tuy nhiên, chiến lược này 
thất bại do quân đội VNCH yếu kém và thiếu tinh thần chiến đấu. Do sự thất bại trong 
Việt Nam hóa chiến tranh, Mỹ buộc phải ký Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, 
lập lại hòa bình ở V ệ
i t Nam vào tháng 1 năm 1973. Âm mưu của đế quốc Mỹ trong 
chiến tranh Việt Nam cuối cùng đã thất bại. Sau hơn 20 năm chiến tranh, Mỹ buộc 
phải rút quân khỏi Việt Nam vào năm 1975. Chiến tranh Việt Nam là một thất ạ b i lớn 
đối với Mỹ, gây ra tổn thất nặng nề về người và của cho cả hai bên. 
4.2. Những tội ác vô nhân tính 
Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ năm 1776 có đoạn viết: '“Tất cả mọi người sinh 
ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm 
được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh 
phúc”. Tuy nhiên, trong chiến tranh xâm lược Việt Nam, quân đội Mỹ đã vi phạm các 
"quyền" đã nêu trên, bao gồm cả luật pháp quốc tế, và thực hiện một cách có hệ thống 
việc bắt bớ, tra tấn, hãm hiếp, bắn giết dân thường và tù binh, kể cả thảm sát hàng loạt 
Ngoài ra, quân đội Mỹ đã sử dụng các vũ khí chiến tranh bị các công ước quốc tế cấm 
như bom bi, bom lân tinh và chất độc hoá học, đặc biệt là dioxin. Tiêu biểu nhất chính 
là Thảm sát Mỹ Lai và chất ộ đ c màu da cam. 
4.2.1.  Thảm sát Mỹ Lai 
Tình báo Mỹ đã cho rằng tiểu đoàn 48 thuộc Mặt Trận Giải phóng miền Nam đang 
ẩn náu tại làng Mỹ Lai sau sự kiện Tết Mậu Thân đầu năm 1968. Trên bản đồ quân sự, 
địa điểm này được gọi là "Pinkville", còn được gọi là "làng Hồng", nơi được cho là có 
sự ẩn náu của người Việt Cộng. Sau khi nã một loạt pháo và đạn dội xuống từ trực thăng, 
đại đội Charlie tiến vào Mỹ Lai, với trung đội mở đường và hai trung đội khác bao vây 
hai bên sườn. Làng không có một người lính "Việt Cộng" nào. Lính Mỹ bắt đầu giết  6   
bừa bãi trẻ em, phụ nữ và ông già. Sau khi những người thường dân đầu tiên rơi xuống,  họ “bắn vào bất ứ
c thứ gì động đậy”. 
Hình 1: Lính Mỹ đổ bộ trực thăng xuống bên ngoài làng
Sơn Mỹ sáng 16/03/1968. 
(Ảnh: Ronald L.Haeberle) 
Theo BBC, “Những tên lính dường như phát điên, bắn hạ tất cả những người không 
mang vũ khí, kể cả trẻ sơ sinh. Những gia đình ẩn nấp trong các ngôi nhà lá hoặc các 
căn hầm mong được yên thân cũng không được tha. Những người đã giơ tay hàng cũng 
không thoát khỏi cảnh bị bắn giết. ... Khắp trong làng, những cảnh bắn giết dã man diễn 
ra. Phụ nữ bị hãm hiếp tập thể; những người khác bị đánh, tra tấn, đập vào đầu bằng 
báng súng rồi sau đó bị đâm bằng lưỡi lê". Chỉ trong vòng 4 giờ, lính Mỹ đã sát hại hơn 
500 người. Sau đó, hàng chục thi thể nạn nhân đã bị những tên lính đẩy xuống một cái 
mương. Có những người thậm chí còn bị khắc chữ cái C - chữ đầu tiên của tên đại đội  lính Mỹ - lên ngực.                 
Hình 2: Thi thể của các nạn nhân chồng chất trên một co
đường ở thôn Mỹ Lai sau vụ t ả
h m sát ngày 16/3/1968 của lính  7   
Trong tình huống cấp bách lúc đó, một phi công thuộc phi đội thám không, Hugh 
Thompson, cùng các đồng đội đã hạ trực thăng xuống cạnh một con mương, nơi được 
ví chẳng khác nào “bể máu” để giúp đỡ và giải cứu những người còn sống sót. Khi nhìn 
thấy một nhóm người Việt Nam, chủ yếu là trẻ con, phụ nữ và ông già, trong một căn 
hầm mà lính bộ binh Mỹ đang đi đến. Thompson hạ cánh và nói rằng anh sẽ giúp dân 
thoát khỏi nơi này nếu toán lính bắn vào họ. Trực thăng được sử dụng để đưa khoảng 
12 đến 16 người trong hầm ra k ỏ h i vụ thảm sát. 
Đến tận tháng 11/1969, đồng loạt các tạp chí nổi tiếng như Time, Life và Newsweek 
đều phơi bày những sự thật ầ
đ u tiên ở trang nhất. Tin tức kinh hoàng về vụ thảm sát đã 
khuyến khích những người dân Việt Nam phản đối chiến tranh. Nhân dân Mỹ và cả thế 
giới đều yêu cầu quân đội Mỹ rời khỏi miền Nam Việt Nam. Vụ Mỹ Lai đã cho nhiều 
thanh niên Mỹ một lý do khác để phản đối việc đăng lính; những người đã có tư tưởng 
phản chiến được thúc đẩy và những người đang lưỡng lự chuyển hẳn sang phe phản  chiến.   
Hình 3: Trang nhất tờ The Plain Dealer ngày 20/11/1969 
4.2.2. C ấ
h t độc da cam 
Đã hơn 60 năm trôi qua, thảm họa da cam vẫn luôn là nỗi ám ảnh với nhiều thế hệ 
dân tộc Việt Nam và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới. Chất độc da cam là 
một loại hóa chất được quân đội Mỹ sử dụng trong chiến tranh Việt Nam từ năm 1961 
đến năm 1971 nhằm mục đích phá hủy rừng rậm, nơi trú ẩn của quân Giải phóng. Chất 
độc này chứa dioxin, một chất cực độc có thể gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng cho 
sức khỏe con người và môi trường. Theo thống kê, quân đội Mỹ đã gieo rắc xuống Việt 
Nam gần 80 triệu lít chất độc hóa học (CĐHH), trong đó 61% là chất độc da cam 
(CĐDC), chứa lượng dioxin khổng lồ lên đến 366kg. Loại chất độc này mang trong 
mình mối nguy hại kinh hoàng, có thể gây ra nhiều căn bệnh nguy hiểm như ung thư 
da, đột biến gen, dị tật bẩm sinh, ảnh hưởng đến hệ sinh sản và di truyền qua nhiều thế  hệ.  8   
Hậu quả của CĐDC/dioxin vô cùng nặng nề, khiến hơn 4,8 triệu người Việt Nam 
phải hứng chịu, trong đó hơn 3 triệu người trở thành nạn nhân. Nỗi ám ảnh dai dẳng của 
CĐDC/dioxin không chỉ dừng lại ở thế hệ đầu tiên mà còn di truyền sang thế hệ thứ 3 
và có cả nạn nhân thuộc thế hệ thứ 4. Bi kịch này đã cướp đi hạnh phúc làm vợ, làm mẹ 
của nhiều phụ nữ, khiến nhiều gia đình không thể duy trì nòi giống, thậm chí có n ữ h ng 
gia đình ba thế hệ cùng là nạn nhân. Hàng trăm nghìn người đang phải vật lộn với những 
căn bệnh hiểm nghèo, đau đớn, dần dần chết mòn vì di chứng của CĐDC.                 
Hình 4: Máy bay UC-123 rải chất độc da cam tại Việt Na   Số l ợng  ư
khổng lồ chất độc hóa học được phun rải liên tục trong suốt một thời gian  dài đã biến Việt N
 am thành một vùng đất đầy độc tố. Hậu quả là môi trường bị ô nhiễm 
nặng nề, các hệ sinh thái bị đảo lộn, chức năng bảo vệ nguồn nước và chống lũ lụt của 
rừng bị suy giảm nghiêm trọng. Đa dạng sinh học suy thoái, trở nên nghèo nàn, khiến 
nhiều loài động thực vật quý hiếm đứng trước nguy cơ tuyệt chủng. Thay vào đó, các 
loài gậm nhấm và cỏ dại phát triển mạnh mẽ, gây mất cân bằng sinh thái. Hệ thống rừng  ngập mặn ở m ề
i n Nam, đặc biệt là Rừng Sác (phía Đông Bắc Sài Gòn) và huyện Năm 
Căn (Cà Mau), cũng bị tàn phá nặng nề. Vai trò quan trọng của rừng ngập mặn trong 
việc giữ đất, lấn biển bị suy giảm đáng kể, tác động tiêu cực đến môi trường ven biển  và hệ sinh thái ven bờ. 
Thảm họa CĐDC/dioxin là một vết thương lòng không thể phai mờ trong lịch sử 
Việt Nam. Nó là lời nhắc nhở về tội ác chiến tranh tàn khốc và những hậu quả dai dẳng 
mà nó gây ra. Việc chung tay góp sức để hỗ trợ các nạn nhân da cam/dioxin và khắc 
phục hậu quả của thảm họa này là trách nhiệm chung của mỗi cá nhân và toàn xã hội. 
Chính phủ Việt Nam đã và đang triển khai nhiều biện pháp hỗ trợ cho nạn nhân da cam 
như: trợ cấp xã hội, hỗ trợ y tế, đào tạo nghề nghiệp,... Đồng thời, Việt Nam cũng tích  9   
cực kêu gọi sự hỗ trợ từ cộng đồng quốc tế để khắc phục hậu quả của chất ộ đ c da cam. 
Các tổ chức phi chính phủ đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ nạn nhân da cam 
về mặt y tế, giáo dục, tâm lý,... Mỗi cá nhân: cũng có thể chung tay góp sức bằng cách 
tham gia các hoạt động thiện nguyện, ủng hộ các quỹ hỗ trợ nạn nhân da cam,... 
4.3. Những tổn thất to lớn từ chiến tranh xâm lược 
4.3.1.  Sự tổn thất về sinh mạng vì những mục tiêu đối lập nhau giữa Việt Nam và 
Hoa Kỳ trong chiến tranh 
Tiến hành cuộc chiến xâm lược Việt Nam, một cuộc chiến tranh dài ngày nhất 
trong lịch sử nước Mỹ, các chính quyền Mỹ qua 5 đời Tổng thống (Aixenhao, Kenơđy, 
Giônxơn, Nichxơn, Pho) với lý do đảm bảo “an ninh quốc gia”, nhằm chia cắt lâu dài 
nước Việt Nam, biến miền Nam thành một quốc gia riêng biệt nằm trong “thế giới tự 
do”, đối lập với “phe cộng sản”, đã huy động một lực lượng lớn quân Mỹ và 5 nước 
đồng minh của Mỹ trực tiếp tham chiến, sử dụng hầu hết các chiến lược chiến tranh (trừ 
chiến tranh tổng lực), hầu hết vũ khí hiện đại (trừ vũ khí hạt nhân) với những khoản chi 
phí chiến tranh khổng lồ. Trong lịch sử chiến tranh thế giới, Việt Nam là đất nước bị 
ném nhiều bom nhất. Số bom Mỹ ném xuống Việt Nam gần gấp 3 tổng số bom sử dụng 
trong Chiến tranh thế giới thứ thứ hai, trong cái gọi là chính sách "lunarization" (mặt  trăng hóa). 
Nghiêm trọng hơn, Mỹ đã sử dụng vũ khí hoá học, tiến hành khai quang rừng 
núi và đồng ruộng ở miền Nam bằng chiến dịch Ranch Hand, biến nhiều vùng rừng núi 
nhiệt đới rậm rạp với nhiều tầng thực vật khác nhau ở m ề
i n Nam Việt Nam thành đồi, 
núi trọc; biến nhiều vùng rừng ngập mặn thành các bãi hoang trống, triệt ạ h các căn cứ 
của Quân Giải phóng và du kích; hủy diệt mùa màng, nhằm cắt nguồn tiếp tế của lực 
lượng cách mạng; đồng thời cưỡng bức, dồn dân vào các trại tập trung hoặc những vùng 
do Mỹ và chính quyền Việt Nam ộ C ng hoà kiểm soát. 
Vì độc lập tự do, cả dân tộc Việt Nam anh dũng đứng lên chiến đấu, nêu cao 
quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ. Trong cuộc đụng đầu lịch sử mang tính chất thời đại 
và có tầm vóc quốc tế, nhân dân Việt Nam phải trải qua những tổn thất, hy sinh vô bờ 
bến. Tùy theo nguồn tin, có từ 3 đến 5 triệu người Việt Nam bị chết trong chiến tranh, 
hàng triệu người khác bị thương và tàn tật. Những người còn sống tiếp tục phải đối mặt 
với các vấn đề nghiêm trọng về kinh tế, xã hội và môi trường mà cuộc chiến đã gây ra, 
trong đó tỷ lệ dị dạng bẩm sinh ở Việt Nam là cao nhất t ế h giới. 
Số liệu về thương vong của phía Việt Nam được chính thức công bố gần đây nhất 
là gần 2 triệu thường dân chết; hơn 2 triệu thường dân mang thương tật suốt đời; khoảng  10   
2 triệu người (gồm cả quân nhân) phơi nhiễm các loại hóa chất độc hại. Lực lượng Quân 
đội Nhân dân Việt Nam (bao gồm cả Quân Giải phóng miền Nam) có khoảng 1,1 triệu 
quân nhân hy sinh trong những trường hợp khác nhau (trực tiếp chiến đấu trên chiến 
trường, gặp tai nạn, ốm đau trên đường hành quân), 600.000 quân nhân bị thương hoặc 
bị bệnh. Trong số hy sinh, có 300.000 quân nhân chưa tìm được hài cốt. 
Những tổn thất về con người đối với Mỹ và các đồng minh của Mỹ không phải 
nhỏ. Theo danh sách của Đài tưởng niệm Chiến tranh Việt Nam ở thủ đô Washington 
DC, Hoa Kỳ, và Tạp chí Lịch sử Quân sự V ệ
i t Nam, tổng số thương vong của quân đội 
Hoa Kỳ ở Việt Nam là 365.157 quân, trong đó có 58.168 người chết trong lúc giao tranh 
(kill in action). Ngoài ra còn có 1.875 người mất tích (tính đến năm 2004). Trong số 
58.168 người Mỹ tử trận, có 7.878 sĩ quan. Trong số sĩ quan chết trận, có 426 tư lệnh 
và sĩ quan chỉ huy (37 người cấp tướng). Sự tổn thất về nhân mạng của Mỹ ở Việt Nam 
đã vượt số tương vong trong Chiến tranh thế giới thứ nhất và chiến tranh Triều Tiên. 
Trong số 303.704 người bị thương, có 153.329 người bị thương nặng phải nằm bệnh 
viện dài ngày. 20.000 người Mỹ chắc chắn đã nhiễm chất da cam do Mỹ sử dụng ở Việt 
Nam. Ngoài ra còn có gần 350.000 cựu binh khác (15% tổng số) bị giải ngũ một cách 
không vinh dự, không được bảo đảm việc làm, không được tôn trọng và tin cậy sau khi 
về nước. Quân đội các nước đồng minh của Mỹ cũng chịu nhiều thương vong ở Việt  Nam. 
Bên cạnh những tổn thất về sinh mạng, lính Mỹ còn phải chịu những mất mát nặng 
nề về tinh thần. Hàng trăm ngàn lính Mỹ khi về nước đã mắc nhiều chứng rối loạn tâm 
thần do bị chấn thương tâm lý bởi những nỗi khiếp sợ họ gặp ở Việt Nam (thường được 
người Mỹ gọi là Hội chứng Việt Nam); khoảng 200 ngàn lính Mỹ đã mắc nghiện ma 
túy trong những ngày ở Việt Nam. Đó là những chấn động lớn về tâm lý và tình cảm 
của người Mỹ nói chung và các cựu chiến binh Mỹ nói riêng. Bên cạnh đó, những tổn 
thương về tâm lý ở họ còn biểu hiện rõ ràng là thường xuyên trong trạng thái lo lắng,  căng thẳng. Số l ợng  ư
quân nhân Mỹ bị mắc bệnh tâm thần trong và sau thời gian ch ế i n 
đấu ở Việt Nam là nhiều nhất trong tất cả các cuộc chiến mà quân đội nước này tham 
gia trong lịch sử. Hàng chục năm sau chiến tranh, những triệu chứng bệnh đó vẫn còn  tồn tại. 
Trong thời gian chiến tranh, có hơn 6 triệu người Mỹ sinh sống trong những vùng  tạm chiếm ở m ề
i n Nam Việt Nam, hậu quả là gần nửa triệu con lai Mỹ ra đời, nhiều 
người trong đó không biết rõ cha mình là ai, nhiều người phải sống trong các cô nhi 
viện cả trong và sau cuộc chiến.  11   
Những tổn thất về con người không phải là cơ sở để khẳng định bên nào thắng hay 
thua trong chiến tranh, nhưng chắc chắn Việt Nam phải chịu nhiều đau thương, tổn thất 
nhất vì những vũ khí hiện đại và cường độ đánh phá ác liệt của quân đội Mỹ. 
4.3.2. Những biến đổi môi trường sinh thái ở Việt Nam - sự tàn phá ghê gớm của  chiến tranh 
 Theo thống kê, tổng cộng đế quốc Mỹ đã rải 72 triệu lít chất diệt cỏ (bao gồm 44 
triệu lít chất độc màu da cam, 20 triệu lít chất trắng, 8 triệu lít chất xanh) lên 1,7 triệu 
ha đất trồng và rừng ở miền Nam Việt Nam, ít nhất có 12% diện tích rừng, 5% diện tích 
đất trồng trọt bị rải chất độc màu da cam một hay nhiều lần. 
Việc sử dụng chất độc màu da cam (dioxin) trong chiến tranh Việt Nam đã gây 
ra những hậu quả tàn khốc và lâu dài đối với hệ sinh thái rừng. Hậu quả trước mắt là 
nghiêm trọng, với hơn 3,06 triệu ha rừng bị phá hủy ở các mức độ khác nhau, dẫn đến 
thiệt hại 112 triệu mét khối gỗ. Sự đa dạng sinh thái bị ảnh hưởng nặng nề khi các nguồn 
tài nguyên quý giá như cây thuốc, mây, nhựa và động vật hoang dã bị suy giảm. Hậu 
quả nghiêm trọng nhất là khí hậu ở tầng thấp bị thay đổi, gây ảnh hưởng đến sự phát 
triển của cây non và lửa rừng do bom đạn lan đến tiêu diệt các cây con. Đến mùa mưa, 
đất bị xói mòn, thoái hóa dần, chỉ có một số loài thực vật ưa sáng như chè vè, lau, tre, 
nứa mới có thể sinh tồn. Nhiều vùng rừng bị nhiễm chất độc nặng nề, không thể hồi 
sinh, đặc biệt là hệ thống rừng ngập mặn ở miền Nam. Rừng Sát và rừng ở huyện Năm 
Căn bị phá hủy nặng nề, ảnh hưởng đến nguồn cung cấp gỗ và vai trò của rừng ngập 
mặn trong việc giữ đất, lấn biển. Ðộng vật chết vì thiếu thức ăn, không có nơi trú ẩn và 
nguồn nước uống bị nhiễm độc. 
Tác động lâu dài cũng nghiêm trọng không kém, làm thay đổi cơ bản hệ sinh thái 
rừng. Xói mòn đất xảy ra khi đất rừng bị tước bỏ lớp vỏ bảo vệ, dẫn đến sự xâm lấn của 
các loài thực vật hung hãn như cỏ cogon, tre và cây bụi, thay thế các cây rừng bản địa.  Sự mất cân ằ
b ng sinh thái này đã cản trở quá trình tái sinh tự nhiên của rừng, làm phức 
tạp thêm các nỗ lực phục hồi và tái trồng rừng. Hơn nữa, việc phá hủy rừng phòng hộ 
thượng nguồn của 28 hệ thống sông đã dẫn đến lũ lụt gia tăng ở hạ lưu, làm trầm t ọ r ng 
thêm những thách thức đối với các khu vực bị ảnh hưởng. 
Di chứng của chất độc da cam/dioxin là một lời nhắc nhở rõ ràng về tác động lâu 
dài của các tác nhân hóa học đối với môi trường và tầm quan trọng của việc bảo tồn hệ 
sinh thái tự nhiên của chúng ta. Những nỗ lực khắc phục và phục hồi những khu vực 
này vẫn tiếp tục, phản ánh cam kết hàn gắn những vết sẹo do thảm kịch lịch sử này để  lại.  12     
Hình 5: Khu rừng Dương Minh Châu (tỉnh Tây Ninh) trước và sau khi bị rải  chất khai quang. 
4.3.3. Hậu quả đau đớn kéo dài nhiều thế hệ của chiến tranh hoá học, nhất là chất 
độc màu da cam/điôxin 
Có rất nhiều tranh cãi về tác hại t ự
h c tế của chất độc màu da cam. Nó có thể làm 
giảm thọ những người bị phơi nhiễm và có khả năng làm ảnh hưởng đến những thế hệ 
kế tiếp trong tương lai. Theo báo cáo của Viện Y học Mỹ, việc phơi nhiễm CĐMDC 
gây ra các loại bệnh: ung thư mô mềm, u lym phô lành tính, bệnh bạch cầu u lym phô 
mãn tính (bao gồm cả bệnh bạch cầu mô lông, bệnh ung thư và chứng ban clor). Còn 
Hội Chữ Thập Đỏ Việt Nam cũng thống kê được sự phơi nhiễm với dioxin có liên quan 
đến các bệnh như: bệnh thần kinh ngoại biên cấp tính, mạn tính và bán cấp tính, chứng 
ban clor, tiểu đường type 2, ung thư gan, sinh sản bất thường và dị tật bẩm sinh, dị dạng 
ở chân, tràn dịch não, khuyết tật ống thần kinh, tật dính ngón, dị tật cơ bắp, bệnh bại 
liệt và một số khuyết tật phát triển khác. 
Những tác động và biến chứng của chất độc da cam thường thấy là: 
- Gây kích ứng da và các bệnh ngoài da.  - Rối l ạ o n thần kinh.  - Gây sẩy thai.  13   
- Bệnh tiểu đường type 2.  - Dị tật ẩ b m sinh cho đời sau. 
- Gây các bệnh ung thư, bện Hodgkin, bệnh bạch cầu. 
Quân đội cũng như người dân Việt Nam là những người phải ứ h ng chịu hậu quả 
nặng nề nhất, tuy nhiên chính những người lính Mỹ trong chiến tranh Việt Nam cũng 
chịu tác hại của chất độc màu da cam do tiếp xúc. 
Bính lính Mỹ được bồi thường và hưởng những chính sách đặc biệt do tác hại 
của chất độc màu da cam gây ra, còn những người lính và nhân dân Việt Nam lại chưa 
thực sự được đền bù xứng đáng. Đó cũng chính là nguyên nhân dẫn đến những vụ kiện 
đòi quyền lợi cho những người Việt Nam bị ảnh hưởng bởi chất độc màu da cam trong  thời gian qua. 
Theo thống kê, hiện nay chất độc hóa học đã làm cho gần 5 triệu người Việt Nam 
bị phơi nhiễm; trong đó có hơn 3 triệu người là nạn nhân. Hiện cả nước đã có hàng chục 
vạn người chết, hàng triệu người mắc chứng bệnh hiểm nghèo do chất độc da cam. Vì 
lẽ đó, sức khỏe cộng đồng đã và vẫn đang bị đe dọa nghiêm trọng. Thực tế là những 
đứa trẻ sinh ra từ ông bà, cha mẹ của người phơi nhiễm p ả
h i tiếp tục mang những dị tật 
bẩm sinh cả về thể xác lẫn trí tuệ, nguy cơ mắc các bệnh ung thư của chúng rất 
cao. CĐMDC đã có ảnh hưởng về di truyền sinh thái; đặc biệt tác động về gen, nó có 
Hình 6: Đứa bé bị nhiễm chất ộ đ c màu da cam  14   
thể bỏ qua một thế hệ và lại tái hiện trong thế hệ thứ ba hoặc các thế hệ sau. Thai nhi bị 
ảnh hưởng CĐMDC khi sinh ra thường bị các dị tật như hở hàm ếch, thiếu hoặc thừa 
ngón chân, ngón tay, não úng thủy, vô sọ, thoát vị não- màng não, thoát vị tủy- màng 
tủy; với sản phụ hay gặp các trường hợp thai chết lưu, sảy thai, thai trứng, thai chết bất  thường. 
Khó mà nói đủ và nói hết được những tổn thương tâm lý, tinh thần cũng như thể 
chất hoặc tốn kém về thời gian, sức lực và kinh tế của những gia đình có người thân là 
nạn nhân chất da cam/dioxin. Là người những người may mắn không bị ảnh hưởng của 
chất da cam/dioxin, nhiều lắm thì chúng ta cũng chỉ có thể hiểu được ở một mức độ nào 
đó, với sự cảm thông, chia sẻ về những mất mát vô biên mà họ đang hàng ngày, hàng 
giờ phải gánh chịu. Nhưng chúng ta không thể nào hiểu hết được những vất vả, lo toan, 
sự tổn thương tâm lý, tinh thần mà họ với nghị lực như những người anh hùng đã và 
đang chứng kiến người thân ruột thịt đang bị hành hạ bởi các loại hình bệnh tật do chất  da cam/dioxin gây nên. 
Ngày nay, cuộc sống của những nạn nhân chất độc da cam vô cùng khó khăn do 
bị nhiều dị tật; có những trường hợp mất ý thức, không có cơ hội tham gia các mặt hoạt 
động xã hội. Vì vậy, đã có nhiều công tác hỗ trợ nạn nhân bị nhiễm CĐMDC thông qua 
các hoạt động như: trợ cấp ưu đãi; tổ chức khám, giám định bệnh, dị dạng, dị tật, chăm 
sóc, chữa bệnh, phục hồi chức năng, xây mới, sửa chữa nhà ở, tặng quà, học bổng cho 
nạn nhân. Với sự chung tay của xã hội, những đau thương, mất mát của các gia đình 
nạn nhân chất độc da cam cũng phần nào được vơi bớt đi. Tuy nhiên, việc giải quyết 
hậu quả và chăm sóc nạn nhân chất độc màu da cam/dioxin là vấn đề vô cùng phức tạp, 
vừa cấp bách lại vừa mang tính lâu dài, vì hậu quả của nó để lại là di truyền từ đời này  sang đời khác.    15   
V. Ý NGHĨA ĐÚC KẾT VÀ LIÊN HỆ MÔN HỌC 
5.1. Ý nghĩa nhóm đúc kết được sau quá trình tham quan 
Chuyến tham quan bảo tàng vừa qua không chỉ là một hành trình đơn thuần qua 
những di tích lịch sử, mà còn là một cuộc phiêu lưu sâu vào lòng tâm hồn của con người. 
Mỗi chúng em đã được chứng kiến những hiện vật, những câu chuyện về những ngày  đen tối ủ
c a quá khứ, những vết thương sâu đậm còn vương vấn trong lịch sử dân tộc. 
Nhìn lại quá khứ, chúng em không thể không cảm nhận được sự liên kết mạnh mẽ 
giữa lịch sử và cảm xúc cá nhân. Những bức tranh về cuộc sống trong chiến tranh, 
những mảnh vỡ của quá khứ, và những câu chuyện đằng sau mỗi vết thương đã khiến 
chúng em hiểu rõ hơn về sự đau đớn và tàn khốc của chiến tranh. Chúng em không chỉ 
là những người chứng kiến, mà còn là những người trải nghiệm một phần của lịch sử  đầy sóng gió. 
Sau khi bước ra khỏi cánh cửa của bảo tàng, trong lòng mỗi chúng em đã hiểu rõ 
hơn về ý nghĩa của hòa bình và giá trị của sự hy sinh cho tổ quốc. Chúng em tự hào về 
những người chiến sĩ đã hy sinh tất cả vì dân, vì Tổ quốc. Ý chí kiên cường, sự gan dạ 
của cha ông ta đã là nguồn động viên lớn lao cho chúng em tiếp tục con đường xây dựng  và bảo vệ hòa bình. 
Nhóm chúng em không chỉ muốn giữ vững hòa bình nơi chúng em sinh sống mà 
còn muốn lan tỏa thông điệp đến tất cả mọi người. Chúng em quyết định sẽ không ngồi 
yên trên bàn ghế, mà sẽ chủ động tham gia vào những hoạt động cộng đồng, góp phần 
nhỏ bé của mình vào sự hiểu biết và lan tỏa giá trị của hòa bình và lòng nhân ái. 
5.2. Liên hệ môn học 
Môn học Lịch sử Đảng Cộng sản đã cho chúng em cái nhìn sâu sắc và toàn diện 
hơn về quá khứ lịch sử của dân tộc. Qua việc tìm hiểu về những sự kiện và bi kịch trong 
chiến tranh Việt Nam, chúng em nhận ra rằng chiến tranh không chỉ là sự giao tranh về 
vũ khí mà còn là sự đấu tranh về tinh thần và lòng dũng cảm ủ c a dân tộc. 
Những tội ác của đế quốc Mỹ trong chiến tranh đã để lại những vết thương không 
thể lành và những hậu quả không thể phủ nhận. Tuy nhiên, điều quan trọng là chúng em 
không chỉ nhìn vào quá khứ với lòng oán hận mà còn học hỏi từ những sai lầm để không 
lặp lại trong tương lai. 
Nhưng đồng thời, chúng em cũng không quên những nỗi đau, những sự hy sinh 
của những người đi trước, để chúng em có được ngày hôm nay. Chúng em nhận ra trách  16   
nhiệm của mình, và quyết tâm góp phần xây dựng đất nước ngày càng vững mạnh, để 
không phải ai phải chịu đựng những gì mà tổ tiên đã trải qua. 
Trải qua những bài học từ lịch sử và những trải nghiệm đầy ý nghĩa từ chuyến 
tham quan, chúng em hiểu rõ hơn về ý nghĩa của hòa bình, sự quý trọng của tự do, và 
trách nhiệm của mỗi người trong việc bảo vệ và xây dựng đất nước. Chúng em quyết 
tâm sẽ không ngừng phấn đấu, không ngừng học hỏi, để có thể góp phần vào sự phát 
triển bền vững của đất nước và tạo ra một t ế
h giới hòa bình, nơi mà tình yêu thương và 
lòng nhân ái trở thành điều bình dịch nhất.    17    
