BÀI THU HOẠCH
THAM QUAN THỰC TẾ TẠI BẢO TÀNG HỒ CHÍ MINH
Họ tên sinh viên : NGUYỄN THỊ LAN HƯƠNG
Lớp : ĐH11KE13
Môn học : TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Giáo viên hướng dẫn : TS.VŨ THỊ A
Chủ đề thu hoạch: Qua buổi tham quan thực tế tại Bảo tàng Hồ Chí Minh,
anh chị hiểu biết v cuộc đời sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh?
BÀI M
1. Khái quát v bảo tàng Hồ Chí Minh
- Bảo tàng Hồ Chí Minh một bảo tàng vào loại lớn nhất của Việt Nam.
Bảo tàng tập trung chủ yếu vào việc trưng bày những hiện vật, liệu về
cuộc đời con người Hồ Chí Minh.
- Địa chỉ: 19 Phường Ngọc Hà, Đội Cấn, quận Ba Đình, Thành phố Nội.
Nằm phía sau Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh cạnh công viên Bách Thảo.
- Bảo tàng mở cửa các ngày thứ Ba, thứ Tư, thứ Năm, thứ Bảy Chủ
Nhật Thời gian: Sáng từ 8h00 - 12h00, Chiều từ 14h00 - 16h30.
- Ngày thành lập: Ngày 12/9/1977, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số
04/NQ/TW về việc thành lập Viện Bảo tàng Hồ Chí Minh, trong đó
nhiệm vụ quy hoạch Hệ thống các chi nhánh của Viện bảo tàng c di
tích lưu niệm về Chủ tịch Hồ Chí Minh, chỉ đạo hướng dẫn về xây
dựng nghiệp vụ cho các nơi đó.
Công trình được khởi công xây dựng ngày 31/8/1985 khánh
thành vào đúng dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh,
19/5/1990
- Bảo tàng Hồ Chí Minh được thiết kế mang biểu tượng bông sen u
trắng, cao gần 20 m tượng trưng cho cuộc đời giản dị, thanh tao của Chủ
tịch H Chí Minh, đồng thời thể hiện lòng kính trọng biết ơn sâu sắc
của nhân dân Việt Nam đối với vị lãnh tụ kính yêu, quyết tâm đi theo con
đường cách mạng Người đã vạch ra.
1
- Nội dung trưng bày Bảo tàng Hồ Chí Minh được xây dựng trên sở kết
quả nghiên cứu của nhiều nhà sử học, kiến trúc, mỹ thuật của Việt Nam
về cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, về lịch sử Việt Nam lịch sử
thế giới trong thời đại Hồ Chí Minh đã sống hoạt động.
- Phương châm xây dựng Bảo tàng Hồ Chí Minh đòi hỏi sự kết hợp hài hòa
giữa kiến trúc ngôi nhà Bảo tàng với cảnh quan xung quanh khu vực
Quảng trường Ba Đình, bảo đảm tính hiện đại, dân tộc, trang nghiêm,
giản dị, trong đó các tài liệu, hiện vật, tác phẩm nghệ thuật được kết hợp
thống nhất tạo thành một hệ thống tác động đến tưởng nghệ thuật của
người xem, giúp cho họ cảm nhận được cuộc sống sinh động Hồ Chí
Minh đã trải qua.
2. Cuộc đời sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh
- Khái quát về Chủ tịch Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh sinh ngày 19/05/1890 người mất ngày 02/09/1969
tên khai sinh là Nguyễn Sinh Cung một nhà cách mạng chính khách
người Việt Nam. Ông người sáng lập nên Đảng Cộng sản Việt Nam,
một nhà ái quốc chân chính, nhà cách mạng sáng suốt, vị lãnh t thiên tài.
Cuộc đời sự nghiệp cách mạng của Người gắn liền với lịch sử vẻ vang
của dân tộc Việt Nam. Người đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp
giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam với sự kiên định lòng dũng
cảm, kiên trung trong cuộc đấu tranh kiên trì một nước Việt Nam độc
lập, hoà bình, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ. Ngoài các hoạt động về
chính trị người cũng là một nhà văn, nhà thơ nhà báo với nhiều tác
phẩm suất sắc để đời.
- Xuất thân, quê quán
+ Quê mẹ là làng Hoàng Trù (thường gọi làng Trùa) huyện Nam Đàn,
tỉnh Nghệ An (nay thuộc Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Ngh An). Quê
nội ông làng Kim Liên (tên Nôm ng Sen).
+ Gia đình: Thân phụ Nguyễn Sinh Sắc (1862 1929) một n nho
từng đỗ Phó bảng người ảnh hưởng lớn lao đến tưởng nhân cách
của Hồ Chí Minh. Thân mẫu Hoàng Thị Loan (1868 1901) người phụ
nữ điển hình của phụ nữ Việt Nam. Nguyễn Sinh Cung có một người chị
Nguyễn Thị Thanh (sinh năm 1884), một người anh Nguyễn Sinh
Khiêm (sinh năm 1888, tự Tất Đạt, còn gọi Cả Khiêm) một người em
trai mất sớm Nguyễn Sinh Nhuận (1900 1901), tên khi mới lọt lòng
Xin).
2
Hình 1: Gia đình Ch tịch Hồ Chí Minh
Người sinh ra trong một gia đình nhà Nho yêu nước, ngay từ thuở nhỏ đã
tiếp thu được truyền thống yêu nước, lòng nhân ái từ gia đình quê
hương đất nước.
- Giai đoạn từ năm 1890 đến năm 1911
Năm 1895, Nguyễn Sinh Cung cùng cha mẹ anh trai vào Huế lần đầu
tiênSau khi mẹ mất (1901), ông về Nghệ An với ngoại một thời gian ngắn.
Không lâu sau t cha ông đỗ Phó bảng, ông liền theo cha về quê nội từ đây ông
bắt đầu dùng tên Nguyễn Tất Thành.
Năm 1906, Nguyễn Sinh Cung theo cha vào Huế lần thứ hai học
Trường Tiểu học Pháp-Việt Đông Ba
Trong thời gian 10 năm sống Huế - trung m văn hóa, chính trị của đất
nước, Người tiếp xúc với nhiều sách báo Pháp, với nền văn hóa mới những
bàn luận về các phong trào chống Pháp của các phu yêu nước.
Nguyễn Tất Thành thường gặp gỡ một số n nho yêu ớc đương thời,
tham gia công tác mật, nhận công việc liên lạc và chí đuổi thực dân Pháp,
giải phóng đồng bào. Ông tuy khâm phục Đề Thám (Hoàng Hoa Thám), Phan
Châu Trinh, Phan Bội Châu nhưng không hoàn toàn tán thành cách làm của một
người nào cả.
3
thi gian, sau đó
Theo quan điểm của ông, Phan Châu Trinh chỉ yêu cầu người Pháp thực hiện
cải cách, điều đó chẳng khác nào "xin giặc rủ lòng thương", còn Phan Bội
Châu thì hy vọng Đế quốc Nhật Bản giúp đ đ chống Pháp, điều đó nguy hiểm
chẳng khác nào "đuổi hổ cửa trước, rước báo cửa sau". Nguyễn Tất Thành thấy
cần quyết định con đường đi của riêng mình.
Theo Người, muốn cứu nước phải tìm ra một con đường cách mạng mới.
Người khẳng định: "Tôi muốn ra nước ngoài xem, xem nước Pháp các nước
khác. Sau khi xem xét họ làm như thế nào, tôi s trở về giúp đồng bào chúng ta".
- Giai đoạn từ năm 1911 đến năm 1920
+ Ngày 5 tháng 6 năm 1911, từ Bến Nhà Rồng, Nguyễn Tất Thành lấy
tên Văn Ba lên đường sang Pháp với nghề phụ bếp trên chiếc tàu buôn Đô đốc
Latouche-Tréville, với mong muốn học hỏi những tinh hoa tiến bộ từ các
nước phương Tây.
Người vừa lao động để kiếm sống, vừa học tập, nghiên
cứu các học thuyết cách mạng. Khi trả lời phỏng vấn
một nhà báo Nga, Người nói: "Khi tôi độ mười ba tuổi,
lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ Pháp Tự do, Bình
đẳng, Bác ái…Tôi rất muốn làm quen với nền văn minh
Pháp, muốn tìm xem những ẩn giấu đằng sau những
chữ ấy”
(1)
+ Pháp một
Hình 2: Nguyễn Tất Thành m
bồi bếp Luân Đôn 1914
Nguyễn Tất Thành qua Hoa Kỳ, sau khi
Hoa Kỳ một năm (cuối 1912 - cuối 1913), ông đến nước Anh làm nghề cào
tuyết, đốt rồi phụ bếp cho khách sạn, học tiếng Anh, Luân Đôn cho đến
cuối năm 1916 sau khi đến các nước Phương Tây người đã tận mắt thấy cuộc
sống khổ cực của nhân dân những tội ác, thủ đoạn của chủ nghĩa thực dân.
+ Cuối năm 1917, người trở lại nước Pháp. Người tham gia phong trào công
nhân Pháp đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân.
+ Năm 1919, Người tham gia "Hội những người Việt Nam yêu nước" tại
Pháp vào Đảng hội Pháp- đảng của giai cấp công nhân Pháp, theo Người đây
tổ chức theo đuổi tưởng cao quý của Đại Cách mạng Pháp: Tự do, Bình
đẳng, Bác ái.
4
Tháng 2 năm 1919, Nguyễn Tất Thành gia nhập Đảng hội Pháp.
Tháng 06/1919 thay mặt nhóm những người yêu nước Việt Nam, Hồ Chí
Minh đã gửi tới Hội nghị Vécxây bản Yêu sách của nhân dân An Nam, với hai
nội dung chính đòi quyền bình đẳng về mặt pháp đòi các quyền tự do,
dân chủ nhưng không được Hội nghị chấp nhận.
Người khẳng định các dân tộc muốn được giải phóng chỉ thể dựa vào sức
của bản thân mình, Người viết: "Muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ thể
trông cậy vào mình, trông cậy vào lực lượng của bản thân mình"
(2)
+ Tháng 7/1920, Người đọc bản thảo lần thứ nhất những luận cương về
vấn đề dân tộc vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin, Khi đọc Luận cương của
Lênin, Người hiểu hơn về chủ nghĩa Lênin, Quốc tế Cộng sản, về cách mạng
sản, về phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới.
Người đã tìm thấy phương hướng đường lối bản của phong trào cách
mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng sản, trong đó cách
mạng Việt Nam
- Giai đoạn từ năm 1920 đến năm 1930
+ Nguyễn Ái Quốc đến Liên lần đầu tiên vào năm 1922 tham gia Đại hội
lần thứ của Quốc tế Cộng sản, đó người gặp Lênin trở thành thành viên
của Ban Đông Nam Á của Quốc tế Cộng sản.
+ Người thành lập Hội liên hiệp các dân tộc thuộc địa xuất bản báo Người
cùng khổ (Le Paria) bằng tiếng Pháp vào năm 1922.
Trong bài Lời kêu gọi đăng số báo đầu tiên, Người cũng chỉ ra mục đích
của tờ báo đấu tranh để giải phóng con người.
+ Năm 1924 Nguyễn Ái Quốc tham dự đại hội lần thứ V Quốc tế Cộng sản
Tại Mátxcơva.
+ Năm 1925, Người đã viết tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp, nhằm tố
cáo tội ác của chủ nghĩa thực dân Pháp, nêu nỗi thống khổ sức mạnh của
nhân dân các nước thuộc địa.
+ Tại Quảng Châu, Nguời thành lập Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng
chí hội mở lớp huấn luyện, đào tạo trực tiếp cán bộ cho cách mạng Việt Nam, ra
báo Thanh niên bằng tiếng Việt.
Các bài giảng của Người tại lớp huấn luyện được tập hợp in thành
cuốn Đường Cách mệnh (1927) đề cập nhiều nội dung, nhiều vấn đề trong
đường lối phương pháp cách mạng Việt Nam. Đây một trong những văn
5
kiện luận đầu tiên của Đảng, đặt sở tưởng cho đường lối cách mạng
Việt Nam sau này.
Hình 3: Cuốn Đường
Cách mệnh
+ Năm 1930, Người ch trì Hội nghị hợp nhất ba t chức cộng sản, thành lập
ra một Đảng Cộng sản thống nhất lấy tên Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt do
Nguyễn Ái Quốc dự thảo, các văn kiện này trở thành Cương lĩnh chính trị đầu
tiên của Đảng. Bản Cương lĩnh chính trị th hiện sự vận dụng sáng tạo
phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin trong việc giải quyết mối quan hệ giai cấp - dân
tộc - quốc tế về đường lối cách mạng Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời mở đầu một thời kỳ mới trong lịch sử
dân tộc, đưa nhân dân Việt Nam bước vào cuộc đấu tranh độc lập, tự
do cùng các dân tộc bị áp bức, đấu tranh giải phóng dân tộc, xóa bỏ hệ
thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, góp phần giải phóng loài người
khỏi bóc lột bất công.
- Giai đoạn từ năm 1930 đến năm 1945
+ Năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời mở đầu cho một thời kỳ mới
trong lịch sử của dân tộc. Tuy Đảng vừa mới ra đời nhưng đã trực tiếp lãnh đạo
cao trào cách mạng 1930-1931, đỉnh cao Viết Nghệ Tĩnh. Bên cạnh đó,
Người còn thẳng thắn p ý p bình Đảng còn kém đường mật công c,
6
nhắc nhở Đảng phải tìm cách bảo vệ cán bộ, không để kẻ thù tìm cách bắt giữ
hết cán bộ của ta.
+ Năm 1931, Nguyễn Ái Quốc bị nhà cầm quyền Hồng Kông bắt giam với ý
định trao cho chính quyền Pháp Đông Dương.
Hình 4: Báo “Báo động” tại
Pari. Bài “Nguyễn Ái Quốc
bị bắt Hồng Kông”
+ Đại hội I của Đảng Cộng sản Đông Dương Ma Cao vẫn cử đồng chí
Nguyễn Ái Quốc đại biểu chính thức của Đảng đi dự Đại hội VII Quốc tế
Cộng sản.
+ Tháng 10/1934, Người được vào học Trường Quốc tế Lênin, Người học
đầy đủ các môn luận bản của chủ nghĩa Mác-Lênin những phương pháp
học tự nghiên cứu kết hợp với thực tế.
+ Cuối năm 1936, Người trúng tuyển vào lớp nghiên cứu sinh, ngành lịch sử
của Viện Nghiên cứu các vấn đề dân tộc thuộc địa. Năm 1937, Người dự kỳ
thi học kỳ I của lớp nghiên cứu sinh đạt kết quả tất cả các môn học.
+ Do chiến tranh ngày một ác liệt, Người không thể yên tâm ngồi học
nóng lòng muốn trở về nước hoạt động. Năm 1938, Người đã gửi thư cho Quốc
tế Cộng sản bày tỏ nguyện vọng được về nước.
+ Được Quốc tế Cộng sản chấp thuận nguyện vọng, vào ngày 28-01-1941,
Người trở về Việt Nam sau 30 năm hoạt động nước ngoài.
+ Tháng 05/1941, Hội nghị Trung ương lần thứ tám họp tại Pác (Cao
Bằng) dưới sự chủ trì của Người. Hội nghị đã đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc
7
lên hàng đầu, Người khẳng định: "Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng
cao hơn hết thảy. Chúng ta phải đoàn kết lại đánh đ bọn đế quốc bọn Việt
gian đặng cứu giống nòi ra khỏi nước sôi lửa nóng"
(3)
Hình 5: Bàn ghế đá nơi
Nguyễn Ái Quốc ngồi
làm việc Pác
Hội nghị quyết định thành lập "Việt Nam độc lập đồng minh", gọi tắt Mặt
trận Việt Minh vào ngày 19/05/1941.
+ Ngày 13 tháng 8 năm 1942, ông lấy tên Hồ Chí Minh, sang Trung
Quốc với danh nghĩa đại diện của cả Việt Minh Hội Quốc tế Phản Xâm lược
Việt Nam để tranh thủ sự ủng hộ của Trung Hoa Dân quốc.
Hồ Chí Minh b chính quyền địa phương của Trung Hoa n quốc bắt giữ
ngày 29 tháng 8 khi đang đi cùng một người Trung Quốc dẫn đường bị giam
hơn một năm, trải qua khoảng 30 nhà tù. Người viết Nhật trong trong thời
gian này (từ tháng 8 năm 1942 đến tháng 9 năm 1943). Hồ Chí Minh được trả t
do ngày 10 tháng 9 năm 1943, cuối tháng 9 năm 1944, Hồ Chí Minh trở về Việt
Nam.
+ Ngày 22/12/1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được thành
lập, tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam. Ngày 18/08/1945, Người viết
thư kêu gọi Tổng khởi nghĩa giành chính quyền, Người viết: "Giờ quyết định
cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta
tự giải phóng cho ta"
(4)
.
+Ngày 16 tháng 8 năm 1945, Tổng bộ Việt Minh triệu tập Đại hội quốc
dân tại Tân Trào (Tuyên Quang), cử ra Ủy ban Dân tộc Giải phóng tức Chính
phủ Lâm thời, do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.
8
Hình 6: Chủ tịch Hồ
Chí Minh với các
thành viên Chính phủ
lâm thời Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa
+ Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, lật đổ chế độ phong kiến,
lật đổ ách thống trị của thực dân Pháp giành lại độc lập dân tộc từ tay phát xít
Nht.
Đây thắng lợi to lớn của dân tộc vừa sự kế thừa truyền thống của cha
ông ta trong lịch sử, vừa là sự tiếp thu, vận dụng sáng tạo của chủ nghĩa
Mác-Lênin sự lãnh đạo tài tình của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
+ Ngày 02/09/1945, Ch tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập lịch
sử, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa: "Tất cả mọi người đều sinh
ra bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai thể xâm phạm được,
trong những quyền ấy, quyền được sống, quyền tự do quyền mưu cầu
hạnh phúc”
(5)
Hình 7: Bản Tuyên ngôn độc lập
9
Downloaded by Nguyen Linh (vjt6@gmail.com)
Bản tuyên ngôn khẳng định quyền tự do, độc lập của các dân tộc nói lên ý
chí của toàn dân quyết đem tinh thần lực lượng, tính mạng của cải để giữ
vững quyền tự do và độc lập y "Nước Việt Nam quyền hưởng tự do và độc
lập, sự thực đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân Việt Nam
quyết đem tất cả tinh thần lực lượng, tính mệnh của cải để giữ vững quyền
tự do độc lập ấy".
Bản Tuyên ngôn độc lập một văn kiện lịch sử giá trị to lớn, trong đó
độc lập, t do gắn với phương hướng phát triển lên chủ nghĩa hội
tưởng chính trị cốt lõi vốn đã được Người phác thảo lần đầu trong Cương
lĩnh của Đảng năm 1930.
- Giai đoạn từ m 1945 đến năm 1969
+ Ngày 23 tháng 9 năm 1945, quân Pháp tấn công Sài Gòn đánh dấu sự trở
lại xâm lược Việt Nam của Thực dân Pháp. Tháng 12 năm 1946 miền Bắc thì
hơn 20 vạn quân Tưởng kéo vào hòng thực hiện âm mưu tiêu diệt Đảng nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Vận mệnh dân tộc lúc đó như "ngàn cân treo sợi tóc" trước tình thế đó Người
cùng Trung ương Đảng một mặt lãnh đạo đồng bào Nam Bộ kháng chiến, mặt
khác chăm lo xây dựng Đảng, củng cố chính quyền non trẻ.
Hình 8: Thư gửi đồng bào Nam Bộ của
Chủ tịch Hồ Chí Minh
10
11
Về đối ngoại, Người vận dụng sách lược mềm dẻo, khôn khéo, thêm bạn, bớt
thù, "dĩ bất biến, ứng vạn biến", với những nhân nhượng cần thiết để tranh thủ
thời gian chuẩn bị lực lượng đi vào cuộc kháng chiến lâu dài.
Về đối nội, "giặc đói, giặc dốt" như chính cách ông gọi ngân quỹ
trống rỗng những vấn đề hệ trọng nhất. Bởi thế, Hồ Chí Minh chú trọng đến
việc phát triển giáo dục, trước hết xóa nạn chữ bằng cách mở các lớp
học Bình dân học vụ.
Hình 9: Chủ tịch Hồ Chí
Minh kêu gọi người dân
chống nạn đói nạn dt
Tháng 9 năm 1945, nhân ngày khai trường, Hồ Chí Minh đã viết thư gửi cho
học t Việt Nam. Thư đoạn: Non sông Việt Nam trở nên tươi đẹp hay
không, dân tộc Việt Nam bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường
quốc năm châu được hay không, chính nhờ một phần lớn công học tập của
các em.”
(6)
+ Ngày 6 tháng 1 năm 1946, Tổng tuyển cử tự do trong cả nước được tổ
chức, bầu ra Quốc hội Quốc hội thông qua Hiến pháp dân chủ đầu tiên của
Việt Nam.
Hình 10: Chủ tịch Hồ Chí
Minh kêu gọi quốc dân đi bỏ
phiếu nêu ý nghĩa tổng
tuyển cử
12
g.
Hồ Chí Minh trở thành Chủ tịch Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, với
chức danh Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ông cũng đảm
nhiệm luôn công việc của thủ tướn
Hình 11: Thẻ đại biểu
Quốc hội của Chủ tịch
Hồ Chí Minh
+ Tháng 12-1946, chính quyền cách mạng trong cả nước được giữ vững với
thế sẵn sàng lòng tin sắt đá vào cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ
nhưng nhất định thắng lợi.
Ngày 19/12/1946 Người ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến: " phải
gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất
định về dân tộc ta!"
(7)
Người đề ra đường lối kháng chiến lâu dài, toàn dân, toàn diện, tự lực cánh
sinh đồng thời Người lãnh đạo, t chức, chỉ đạo kháng chiến chống thực dân
Pháp kiên quyết chiến đấu bảo vệ tổ quốc với ý chí "Không! Chúng ta thà hy
sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm
lệ"
(8)
Hình 12: Lời kêu gọi
toàn quốc kháng chiến
của Chủ tịch Hồ Chí
Minh
+ Năm 1951, Người cùng Trung ương Đảng quyết định triệu tập Đại hội
toàn quốc lần thứ II của Đảng, đưa Đảng ra công khai với tên Đảng Lao động
Việt Nam bầu Người làm Chủ tịch Ban chấp hành Trung ương Đảng.
Trong Thư gửi Đại hội trù bị, Người viết: "Nhiệm vụ chính của Đại hội ta
đẩy kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn xây dựng Đảng Lao động Việt
Nam
(9)
Đại hội đã thông qua Cương lĩnh mới, Điều lệ mới của Đảng đề ra chủ
trương, đường lối đúng đắn, giải quyết mối quan hệ giữa dân tộc giai cấp
nhằm động viên toàn Đảng toàn quân, toàn dân ta đẩy mạnh kháng chiến đưa
đến thắng lợi Điện Biên Phủ lịch sử (năm 1954) lừng lẫy năm châu, chấn
động địa cầu.
Trong Thư gửi Mặt trận Điện Biên Phủ, Người viết: "Thu Đông năm nay,
các chú lại nhiệm vụ tiến quân vào Điện Biên Phủ để tiêu diệt thêm sinh lực
địch, mở rộng thêm căn cứ kháng chiến, giải phóng thêm đồng bào còn bị giặc
đè nén"
(10)
+ Tháng 7-1954, Hiệp định Giơnevơ được kết, miền Bắc Việt Nam được
giải phóng, nhưng miền Nam vẫn bị đế quốc Mỹ xâm lược. Người cùng Trung
ương Đảng lãnh đạo nhân dân cả nước đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ chiến
lược: Cách mạng hội chủ nghĩa miền Bắc cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân miền Nam.
+ m 1960, Đại hội lần thứ III của Đảng, Người được bầu làm Chủ tịch
Ban Chấp hành Trung ương Đảng Người nêu ra hai nhiệm vụ chiến lược:
“Xây dựng chủ nghĩa hội miền Bắc đấu tranh hòa bình thống nhất nước
nhà
(11)
Cả hai nhiệm vụ đều nhằm mục tiêu chung củng c hòa bình, thực hiện
thống nhất nước nhà trên sở độc lập dân chủ. Người còn nêu miền Bắc
hậu phương lớn, vai trò quyết định đối với cách mạng cả nước, miền Nam
vai trò quyết định trực tiếp đối với hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ
miền Nam.
Người lãnh đạo nhân dân miền Bắc vừa sản xuất, vừa chiến đấu, đánh thắng
chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ, đồng thời ra sức hoàn thành nhiệm vụ chi
viện cho cách mạng miền Nam. Sau Hiệp định Giơnevơ, Người nêu : "Để
giành lấy thắng lợi, toàn thể nhân dân, quân đội cán bộ ta từ Bắc đến Nam
13
+ Hồ Chí Minh bắt đầu viết di chúc vào dịp
sinh nhật lần thứ 75 của ông vào ngày 10
hững dịp sinh nhật tiếp theo
Hồ Chí Minh đã qua đời, Người để lại cho
ng liêng.
ối cùng đầy tâm huyết, nói lên tình sâu nghĩa
cần phải đoàn kết chặt chẽ, tưởng phải thống nhất, hành động phải nhất
trí"
(12)
.
Người còn viết Thư gửi đồng bào cả nước vạch trần những âm mưu trong
nước thế giới về những hành động sai trái của đế quốc Mỹ, Người khẳng
định: "Nước Việt Nam ta nhất định phải thống nhất. Đồng bào Nam Bắc
nhất định sẽ sum họp một nhà"
(13)
+ Năm 1965, trước thất bại của chiến lược "chiến tranh đặc biệt", đế quốc
Mỹ đã chuyển sang chiến lược "chiến tranh cục bộ". Trước những hành động
leo thang xâm lược tàn bạo của đế quốc Mỹ, Người khẳng định: " phải chiến
đấu 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa, chúng ta cũng kiên quyết chiến
đấu đến thắng lợi hoàn toàn"
(14)
.
+ Năm 1966 khi đế quốc Mỹ tăng cường mở rộng chiến tranh Việt Nam,
Hồ Chí Minh đã nêu lên một chân thời đại, một tuyên ngôn bất hủ “Không
quý hơn độc lập, tự do”
(15)
Hình 13: Quyển sách
bằng đá do hội những
người lao động Việt Nam
tại pháp Tặng
tháng 5 năm 1965 sửa lại trong n
+ Ngày 02/09/1969, Chủ tịch
nhân dân Việt Nam bản Di chúc thiê
Di chúc những lời căn dặn cu
nặng của Người với nước, với dân; nói lên niềm tin tất thắng sự nghiệp chống
Mỹ cứu nước. Đề ra những phương sách lớn để xây dựng lại đất nước sau chiến
tranh nhằm thực hiện mục tiêu: "Xây dựng một ớc Việt Nam hoà bình, thống
nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần xứng đáng vào s nghiệp
cách mạng thế giới"
(16)
.
=>Di chúc một văn kiện lịch sử giá, kết tinh trong đó cả tinh hoa
tưởng, đạo đức tâm hồn cao đẹp của Người đã suốt đời phấn đấu hy sinh
Tổ quốc nhân loại.
3. Kết luận
14
Cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh một cuộc đời trong sáng cao đẹp của một
người cộng sản đại, một anh hùng dân tộc kiệt xuất, một chiến quốc tế lỗi
lạc, đã đấu tranh không mệt mỏi hiến dâng c đời mình cho Tổ quốc, cho
nhân dân, tưởng cộng sản, độc lập, t do của các dân tộc bị áp bức,
hòa bình công trên thế giới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mở ra một thời đại mới trong lịch sử dân tộc Việt
Nam Thời đại độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa hội. Trong suốt chặng
đường hoạt động cách mạng, Người đã vạch đường chỉ lối cho cách mạng Việt
Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng
đại của Người luôn là tấm gương sáng ngời cho chúng ta học tập noi theo.
Mỗi chúng ta cần c gắng, nỗ lực hết mình để chăm lo hạnh phúc của nhân dân,
ra sức phấn đấu, rèn luyện, noi gương tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh để thực
sự những người cán bộ, đảng viên chân chính hết lòng phụng sự tổ quốc,
phụng sự nhân dân xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành
của nhân dân. Với cách một sinh viên em phải học tập làm theo
tưởng Hồ Chính Minh.
Hình14: Tượng đài Của Chủ tịch Hồ Chí Minh
15
Chú thích
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, H.2011, tập 1, tr.461
(2) Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch,
Nxb. Sự Thật, Nội, 1975, tr.33
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 3, tr.230, tr.596
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 3, tr.230, tr.596
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 4, tr.1, tr.3, tr.534
(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 4, tr.1, tr.3, tr.534
(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 6, tr.579
(9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 7, tr.15
(10) H Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 8, tr.378
(11) H Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 13, tr.477
(12) H Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 9, tr.3
(13) H Chí Minh: Toàn tập, d, tập 10, tr.359-360
(14) H Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 14, tr.577
(15) H Chí Minh(2011), Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Nội,
t.15,tr.131
(16) H Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 15, tr.131, tr.614
16

Preview text:

BÀI THU HOẠCH
THAM QUAN THỰC TẾ TẠI BẢO TÀNG HỒ CHÍ MINH
Họ và tên sinh viên
: NGUYỄN THỊ LAN HƯƠNG Lớp : ĐH11KE13 Môn học
: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Giáo viên hướng dẫn : TS.VŨ THỊ HÒA
Chủ đề thu hoạch: Qua buổi tham quan thực tế tại Bảo tàng Hồ Chí Minh,
anh chị có hiểu biết gì về cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh? BÀI LÀM
1. Khái quát về bảo tàng Hồ Chí Minh
- Bảo tàng Hồ Chí Minh là một bảo tàng vào loại lớn nhất của Việt Nam.
Bảo tàng tập trung chủ yếu vào việc trưng bày những hiện vật, tư liệu về
cuộc đời và con người Hồ Chí Minh.
- Địa chỉ: 19 Phường Ngọc Hà, Đội Cấn, quận Ba Đình, Thành phố Hà Nội.
Nằm phía sau Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh và cạnh công viên Bách Thảo.
- Bảo tàng mở cửa các ngày thứ Ba, thứ Tư, thứ Năm, thứ Bảy và Chủ
Nhật Thời gian: Sáng từ 8h00 - 12h00, Chiều từ 14h00 - 16h30.
- Ngày thành lập: Ngày 12/9/1977, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số
04/NQ/TW về việc thành lập Viện Bảo tàng Hồ Chí Minh, trong đó có
nhiệm vụ quy hoạch Hệ thống các chi nhánh của Viện bảo tàng và các di
tích lưu niệm về Chủ tịch Hồ Chí Minh, chỉ đạo và hướng dẫn về xây
dựng và nghiệp vụ cho các nơi đó.
Công trình được khởi công xây dựng ngày 31/8/1985 và khánh
thành vào đúng dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, 19/5/1990
- Bảo tàng Hồ Chí Minh được thiết kế mang biểu tượng bông sen màu
trắng, cao gần 20 m tượng trưng cho cuộc đời giản dị, thanh tao của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, đồng thời thể hiện lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc
của nhân dân Việt Nam đối với vị lãnh tụ kính yêu, quyết tâm đi theo con
đường cách mạng mà Người đã vạch ra. 1
- Nội dung trưng bày Bảo tàng Hồ Chí Minh được xây dựng trên cơ sở kết
quả nghiên cứu của nhiều nhà sử học, kiến trúc, mỹ thuật của Việt Nam
về cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, về lịch sử Việt Nam và lịch sử
thế giới trong thời đại Hồ Chí Minh đã sống và hoạt động.
- Phương châm xây dựng Bảo tàng Hồ Chí Minh đòi hỏi sự kết hợp hài hòa
giữa kiến trúc ngôi nhà Bảo tàng với cảnh quan xung quanh khu vực
Quảng trường Ba Đình, bảo đảm tính hiện đại, dân tộc, trang nghiêm,
giản dị, trong đó các tài liệu, hiện vật, tác phẩm nghệ thuật được kết hợp
thống nhất tạo thành một hệ thống tác động đến tư tưởng nghệ thuật của
người xem, giúp cho họ cảm nhận được cuộc sống sinh động mà Hồ Chí Minh đã trải qua.
2. Cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh
- Khái quát về Chủ tịch Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh sinh ngày 19/05/1890 người mất ngày 02/09/1969
tên khai sinh là Nguyễn Sinh Cung là một nhà cách mạng và chính khách
người Việt Nam. Ông là người sáng lập nên Đảng Cộng sản Việt Nam, là
một nhà ái quốc chân chính, nhà cách mạng sáng suốt, vị lãnh tụ thiên tài.
Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Người gắn liền với lịch sử vẻ vang
của dân tộc Việt Nam. Người đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp
giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam với sự kiên định và lòng dũng
cảm, kiên trung trong cuộc đấu tranh kiên trì vì một nước Việt Nam độc
lập, hoà bình, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Ngoài các hoạt động về
chính trị người cũng là một nhà văn, nhà thơ và nhà báo với nhiều tác
phẩm suất sắc để đời. - Xuất thân, quê quán
+ Quê mẹ là làng Hoàng Trù (thường gọi là làng Trùa) huyện Nam Đàn,
tỉnh Nghệ An (nay thuộc xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An). Quê
nội ông là làng Kim Liên (tên Nôm là làng Sen).
+ Gia đình: Thân phụ là Nguyễn Sinh Sắc (1862 – 1929) là một nhà nho
từng đỗ Phó bảng và là người có ảnh hưởng lớn lao đến tư tưởng nhân cách
của Hồ Chí Minh. Thân mẫu là bà Hoàng Thị Loan (1868 – 1901) người phụ
nữ điển hình của phụ nữ Việt Nam. Nguyễn Sinh Cung có một người chị
là Nguyễn Thị Thanh (sinh năm 1884), một người anh là Nguyễn Sinh
Khiêm (sinh năm 1888, tự Tất Đạt, còn gọi là Cả Khiêm) và một người em
trai mất sớm là Nguyễn Sinh Nhuận (1900 – 1901), tên khi mới lọt lòng là Xin). 2
Hình 1: Gia đình Chủ tịch Hồ Chí Minh
⇨ Người sinh ra trong một gia đình nhà Nho yêu nước, ngay từ thuở nhỏ đã
tiếp thu được truyền thống yêu nước, lòng nhân ái từ gia đình và quê hương đất nước.
- Giai đoạn từ năm 1890 đến năm 1911
Năm 1895, Nguyễn Sinh Cung cùng cha mẹ và anh trai vào Huế lần đầu
tiênSau khi mẹ mất (1901), ông về Nghệ An ở với bà ngoại một thời gian ngắn.
Không lâu sau thì cha ông đỗ Phó bảng, ông liền theo cha về quê nội từ đây ông
bắt đầu dùng tên Nguyễn Tất Thành.
Năm 1906, Nguyễn Sinh Cung theo cha vào Huế lần thứ hai và học
ở Trường Tiểu học Pháp-Việt Đông Ba
Trong thời gian 10 năm sống ở Huế - trung tâm văn hóa, chính trị của đất
nước, Người tiếp xúc với nhiều sách báo Pháp, với nền văn hóa mới và những
bàn luận về các phong trào chống Pháp của các sĩ phu yêu nước.
Nguyễn Tất Thành thường gặp gỡ một số nhà nho yêu nước đương thời,
tham gia công tác bí mật, nhận công việc liên lạc và có chí đuổi thực dân Pháp,
giải phóng đồng bào. Ông tuy khâm phục Đề Thám (Hoàng Hoa Thám), Phan
Châu Trinh, Phan Bội Châu nhưng không hoàn toàn tán thành cách làm của một người nào cả. 3
Theo quan điểm của ông, Phan Châu Trinh chỉ yêu cầu người Pháp thực hiện
cải cách, điều đó chẳng khác nào "xin giặc rủ lòng thương", còn Phan Bội
Châu thì hy vọng Đế quốc Nhật Bản giúp đỡ để chống Pháp, điều đó nguy hiểm
chẳng khác nào "đuổi hổ cửa trước, rước báo cửa sau". Nguyễn Tất Thành thấy
rõ là cần quyết định con đường đi của riêng mình.
Theo Người, muốn cứu nước phải tìm ra một con đường cách mạng mới.
Người khẳng định: "Tôi muốn ra nước ngoài xem, xem nước Pháp và các nước
khác. Sau khi xem xét họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta".
- Giai đoạn từ năm 1911 đến năm 1920
+ Ngày 5 tháng 6 năm 1911, từ Bến Nhà Rồng, Nguyễn Tất Thành lấy
tên Văn Ba lên đường sang Pháp với nghề phụ bếp trên chiếc tàu buôn Đô đốc
Latouche-Tréville, với mong muốn học hỏi những tinh hoa và tiến bộ từ các nước phương Tây.
Người vừa lao động để kiếm sống, vừa học tập, nghiên
cứu các học thuyết cách mạng. Khi trả lời phỏng vấn
một nhà báo Nga, Người nói: "Khi tôi độ mười ba tuổi,
lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ Pháp Tự do, Bình
đẳng, Bác ái…Tôi rất muốn làm quen với nền văn minh
Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau những chữ ấy”(1)

Hình 2: Nguyễn Tất Thành làm + Ở Pháp một
bồi bếp ở Luân Đôn 1914 thời gian, sau đó Nguyễn Tất Thành qua Hoa Kỳ, sau khi
ở Hoa Kỳ một năm (cuối 1912 - cuối 1913), ông đến nước Anh làm nghề cào
tuyết, đốt lò rồi phụ bếp cho khách sạn, học tiếng Anh, và ở Luân Đôn cho đến
cuối năm 1916 sau khi đến các nước Phương Tây người đã tận mắt thấy cuộc
sống khổ cực của nhân dân và những tội ác, thủ đoạn của chủ nghĩa thực dân.
+ Cuối năm 1917, người trở lại nước Pháp. Người tham gia phong trào công
nhân Pháp đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân.
+ Năm 1919, Người tham gia "Hội những người Việt Nam yêu nước" tại
Pháp vào Đảng Xã hội Pháp- đảng của giai cấp công nhân Pháp, theo Người đây
là tổ chức theo đuổi lý tưởng cao quý của Đại Cách mạng Pháp: Tự do, Bình đẳng, Bác ái. 4
Tháng 2 năm 1919, Nguyễn Tất Thành gia nhập Đảng Xã hội Pháp.
Tháng 06/1919 thay mặt nhóm những người yêu nước Việt Nam, Hồ Chí
Minh đã gửi tới Hội nghị ở Vécxây bản Yêu sách của nhân dân An Nam, với hai
nội dung chính là đòi quyền bình đẳng về mặt pháp lý và đòi các quyền tự do,
dân chủ nhưng không được Hội nghị chấp nhận.
Người khẳng định các dân tộc muốn được giải phóng chỉ có thể dựa vào sức
của bản thân mình, Người viết: "Muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể
trông cậy vào mình, trông cậy vào lực lượng của bản thân mình"(2)
+ Tháng 7/1920, Người đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về
vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin, Khi đọc Luận cương của
Lênin, Người hiểu hơn về chủ nghĩa Lênin, Quốc tế Cộng sản, về cách mạng vô
sản, về phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới.
Người đã tìm thấy phương hướng và đường lối cơ bản của phong trào cách
mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản, trong đó có cách mạng Việt Nam
- Giai đoạn từ năm 1920 đến năm 1930
+ Nguyễn Ái Quốc đến Liên Xô lần đầu tiên vào năm 1922 tham gia Đại hội
lần thứ tư của Quốc tế Cộng sản, ở đó người gặp Lênin và trở thành thành viên
của Ban Đông Nam Á của Quốc tế Cộng sản.
+ Người thành lập Hội liên hiệp các dân tộc thuộc địa và xuất bản báo Người
cùng khổ (Le Paria) bằng tiếng Pháp vào năm 1922.
Trong bài Lời kêu gọi đăng ở số báo đầu tiên, Người cũng chỉ ra mục đích
của tờ báo là đấu tranh để giải phóng con người.
+ Năm 1924 Nguyễn Ái Quốc tham dự đại hội lần thứ V Quốc tế Cộng sản Tại Mátxcơva.
+ Năm 1925, Người đã viết tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp, nhằm tố
cáo tội ác của chủ nghĩa thực dân Pháp, nêu rõ nỗi thống khổ và sức mạnh của
nhân dân các nước thuộc địa.
+ Tại Quảng Châu, Nguời thành lập Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng
chí hội mở lớp huấn luyện, đào tạo trực tiếp cán bộ cho cách mạng Việt Nam, ra
báo Thanh niên bằng tiếng Việt.
Các bài giảng của Người tại lớp huấn luyện được tập hợp in thành
cuốn Đường Cách mệnh (1927) đề cập nhiều nội dung, nhiều vấn đề trong
đường lối và phương pháp cách mạng Việt Nam. Đây là một trong những văn 5
kiện lý luận đầu tiên của Đảng, đặt cơ sở tư tưởng cho đường lối cách mạng Việt Nam sau này. Hình 3: Cuốn Đường Cách mệnh
+ Năm 1930, Người chủ trì Hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản, thành lập
ra một Đảng Cộng sản thống nhất lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt do
Nguyễn Ái Quốc dự thảo, các văn kiện này trở thành Cương lĩnh chính trị đầu
tiên của Đảng. Bản Cương lĩnh chính trị thể hiện rõ sự vận dụng sáng tạo và
phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin trong việc giải quyết mối quan hệ giai cấp - dân
tộc - quốc tế về đường lối cách mạng Việt Nam.
⇨ Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời mở đầu một thời kỳ mới trong lịch sử
dân tộc, đưa nhân dân Việt Nam bước vào cuộc đấu tranh vì độc lập, tự
do cùng các dân tộc bị áp bức, đấu tranh giải phóng dân tộc, xóa bỏ hệ
thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, góp phần giải phóng loài người
khỏi bóc lột và bất công.
- Giai đoạn từ năm 1930 đến năm 1945
+ Năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời mở đầu cho một thời kỳ mới
trong lịch sử của dân tộc. Tuy Đảng vừa mới ra đời nhưng đã trực tiếp lãnh đạo
cao trào cách mạng 1930-1931, đỉnh cao là Xô Viết Nghệ Tĩnh. Bên cạnh đó,
Người còn thẳng thắn góp ý phê bình Đảng còn kém đường bí mật công tác, 6
nhắc nhở Đảng phải tìm cách bảo vệ cán bộ, không để kẻ thù tìm cách bắt giữ hết cán bộ của ta.
+ Năm 1931, Nguyễn Ái Quốc bị nhà cầm quyền Hồng Kông bắt giam với ý
định trao cho chính quyền Pháp ở Đông Dương.
Hình 4: Báo “Báo động” tại
Pari. Bài “Nguyễn Ái Quốc bị bắt ở Hồng Kông”
+ Đại hội I của Đảng Cộng sản Đông Dương ở Ma Cao vẫn cử đồng chí
Nguyễn Ái Quốc là đại biểu chính thức của Đảng đi dự Đại hội VII Quốc tế Cộng sản.
+ Tháng 10/1934, Người được vào học Trường Quốc tế Lênin, Người học
đầy đủ các môn lý luận cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin và những phương pháp
học tự nghiên cứu kết hợp với thực tế.
+ Cuối năm 1936, Người trúng tuyển vào lớp nghiên cứu sinh, ngành lịch sử
của Viện Nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa. Năm 1937, Người dự kỳ
thi học kỳ I của lớp nghiên cứu sinh đạt kết quả tất cả các môn học.
+ Do chiến tranh ngày một ác liệt, Người không thể yên tâm ngồi học mà
nóng lòng muốn trở về nước hoạt động. Năm 1938, Người đã gửi thư cho Quốc
tế Cộng sản bày tỏ nguyện vọng được về nước.
+ Được Quốc tế Cộng sản chấp thuận nguyện vọng, vào ngày 28-01-1941,
Người trở về Việt Nam sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài.
+ Tháng 05/1941, Hội nghị Trung ương lần thứ tám họp tại Pác Bó (Cao
Bằng) dưới sự chủ trì của Người. Hội nghị đã đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc 7
lên hàng đầu, Người khẳng định: "Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng
cao hơn hết thảy. Chúng ta phải đoàn kết lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn Việt
gian đặng cứu giống nòi ra khỏi nước sôi lửa nóng"(3) Hình 5: Bàn ghế đá nơi Nguyễn Ái Quốc ngồi làm việc ở Pác Bó
Hội nghị quyết định thành lập "Việt Nam độc lập đồng minh", gọi tắt là Mặt
trận Việt Minh vào ngày 19/05/1941.
+ Ngày 13 tháng 8 năm 1942, ông lấy tên Hồ Chí Minh, sang Trung
Quốc với danh nghĩa đại diện của cả Việt Minh và Hội Quốc tế Phản Xâm lược
Việt Nam để tranh thủ sự ủng hộ của Trung Hoa Dân quốc.
Hồ Chí Minh bị chính quyền địa phương của Trung Hoa Dân quốc bắt giữ
ngày 29 tháng 8 khi đang đi cùng một người Trung Quốc dẫn đường và bị giam
hơn một năm, trải qua khoảng 30 nhà tù. Người viết Nhật ký trong tù trong thời
gian này (từ tháng 8 năm 1942 đến tháng 9 năm 1943). Hồ Chí Minh được trả tự
do ngày 10 tháng 9 năm 1943, cuối tháng 9 năm 1944, Hồ Chí Minh trở về Việt Nam.
+ Ngày 22/12/1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được thành
lập, là tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam. Ngày 18/08/1945, Người viết
thư kêu gọi Tổng khởi nghĩa giành chính quyền, Người viết: "Giờ quyết định
cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta
mà tự giải phóng cho ta"(4).
+Ngày 16 tháng 8 năm 1945, Tổng bộ Việt Minh triệu tập Đại hội quốc
dân tại Tân Trào (Tuyên Quang), cử ra Ủy ban Dân tộc Giải phóng tức Chính
phủ Lâm thời, do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. 8 Hình 6: Chủ tịch Hồ Chí Minh với các thành viên Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
+ Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, lật đổ chế độ phong kiến,
lật đổ ách thống trị của thực dân Pháp và giành lại độc lập dân tộc từ tay phát xít Nhật.
⇨ Đây là thắng lợi to lớn của dân tộc vừa là sự kế thừa truyền thống của cha
ông ta trong lịch sử, vừa là sự tiếp thu, vận dụng sáng tạo của chủ nghĩa
Mác-Lênin và sự lãnh đạo tài tình của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
+ Ngày 02/09/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập lịch
sử, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa: "Tất cả mọi người đều sinh
ra bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được,
trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”(5)
Hình 7: Bản Tuyên ngôn độc lập 9
Downloaded by Nguyen Linh (vjt6@gmail.com)
Bản tuyên ngôn khẳng định quyền tự do, độc lập của các dân tộc và nói lên ý
chí của toàn dân quyết đem tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ
vững quyền tự do và độc lập ấy "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc
lập, và sự thực đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân Việt Nam
quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền
tự do và độc lập ấy".
⇨ Bản Tuyên ngôn độc lập là một văn kiện lịch sử có giá trị to lớn, trong đó
độc lập, tự do gắn với phương hướng phát triển lên chủ nghĩa xã hội là tư
tưởng chính trị cốt lõi vốn đã được Người phác thảo lần đầu trong Cương lĩnh của Đảng năm 1930.
- Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1969
+ Ngày 23 tháng 9 năm 1945, quân Pháp tấn công Sài Gòn đánh dấu sự trở
lại xâm lược Việt Nam của Thực dân Pháp. Tháng 12 năm 1946 ở miền Bắc thì
hơn 20 vạn quân Tưởng kéo vào hòng thực hiện âm mưu tiêu diệt Đảng và nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Vận mệnh dân tộc lúc đó như "ngàn cân treo sợi tóc" trước tình thế đó Người
cùng Trung ương Đảng một mặt lãnh đạo đồng bào Nam Bộ kháng chiến, mặt
khác chăm lo xây dựng Đảng, củng cố chính quyền non trẻ.
Hình 8: Thư gửi đồng bào Nam Bộ của Chủ tịch Hồ Chí Minh 10
Về đối ngoại, Người vận dụng sách lược mềm dẻo, khôn khéo, thêm bạn, bớt
thù, "dĩ bất biến, ứng vạn biến", với những nhân nhượng cần thiết để tranh thủ
thời gian chuẩn bị lực lượng đi vào cuộc kháng chiến lâu dài.
Về đối nội, "giặc đói, giặc dốt" – như chính cách ông gọi – và ngân quỹ
trống rỗng là những vấn đề hệ trọng nhất. Bởi thế, Hồ Chí Minh chú trọng đến
việc phát triển giáo dục, mà trước hết là xóa nạn mù chữ bằng cách mở các lớp học Bình dân học vụ.
Hình 9: Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi người dân
chống nạn đói và nạn dốt
Tháng 9 năm 1945, nhân ngày khai trường, Hồ Chí Minh đã viết thư gửi cho
học trò Việt Nam. Thư có đoạn: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay
không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường
quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em.”(6)
+ Ngày 6 tháng 1 năm 1946, Tổng tuyển cử tự do trong cả nước được tổ
chức, bầu ra Quốc hội và Quốc hội thông qua Hiến pháp dân chủ đầu tiên của Việt Nam.
Hình 10: Chủ tịch Hồ Chí
Minh kêu gọi quốc dân đi bỏ
phiếu và nêu ý nghĩa tổng tuyển cử 11
Hồ Chí Minh trở thành Chủ tịch Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, và với
chức danh Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ông cũng đảm
nhiệm luôn công việc của thủ tướng. Hình 11: Thẻ đại biểu
Quốc hội của Chủ tịch Hồ Chí Minh
+ Tháng 12-1946, chính quyền cách mạng trong cả nước được giữ vững với
tư thế sẵn sàng và lòng tin sắt đá vào cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ
nhưng nhất định thắng lợi.
Ngày 19/12/1946 Người ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến: "Dù phải
gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất
định về dân tộc ta!"(7)
Người đề ra đường lối kháng chiến lâu dài, toàn dân, toàn diện, tự lực cánh
sinh đồng thời Người lãnh đạo, tổ chức, chỉ đạo kháng chiến chống thực dân
Pháp và kiên quyết chiến đấu bảo vệ tổ quốc với ý chí "Không! Chúng ta thà hy
sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ"(8) Hình 12: Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh 12
+ Năm 1951, Người cùng Trung ương Đảng quyết định triệu tập Đại hội
toàn quốc lần thứ II của Đảng, đưa Đảng ra công khai với tên là Đảng Lao động
Việt Nam và bầu Người làm Chủ tịch Ban chấp hành Trung ương Đảng.
Trong Thư gửi Đại hội trù bị, Người viết: "Nhiệm vụ chính của Đại hội ta là
đẩy kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn và xây dựng Đảng Lao động Việt Nam”(9)
Đại hội đã thông qua Cương lĩnh mới, Điều lệ mới của Đảng đề ra chủ
trương, đường lối đúng đắn, giải quyết mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp
nhằm động viên toàn Đảng toàn quân, toàn dân ta đẩy mạnh kháng chiến đưa
đến thắng lợi ở Điện Biên Phủ lịch sử (năm 1954) lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu.
Trong Thư gửi Mặt trận Điện Biên Phủ, Người viết: "Thu Đông năm nay,
các chú lại có nhiệm vụ tiến quân vào Điện Biên Phủ để tiêu diệt thêm sinh lực
địch, mở rộng thêm căn cứ kháng chiến, giải phóng thêm đồng bào còn bị giặc đè nén"(10)
+ Tháng 7-1954, Hiệp định Giơnevơ được ký kết, miền Bắc Việt Nam được
giải phóng, nhưng miền Nam vẫn bị đế quốc Mỹ xâm lược. Người cùng Trung
ương Đảng lãnh đạo nhân dân cả nước đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ chiến
lược: Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam.
+ Năm 1960, Đại hội lần thứ III của Đảng, Người được bầu làm Chủ tịch
Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Người nêu ra hai nhiệm vụ chiến lược:
“Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hòa bình thống nhất nước nhà”(11)
Cả hai nhiệm vụ đều nhằm mục tiêu chung là củng cố hòa bình, thực hiện
thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ. Người còn nêu rõ miền Bắc
là hậu phương lớn, có vai trò quyết định đối với cách mạng cả nước, miền Nam
có vai trò quyết định trực tiếp đối với hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam.
Người lãnh đạo nhân dân miền Bắc vừa sản xuất, vừa chiến đấu, đánh thắng
chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ, đồng thời ra sức hoàn thành nhiệm vụ chi
viện cho cách mạng miền Nam. Sau Hiệp định Giơnevơ, Người nêu rõ: "Để
giành lấy thắng lợi, toàn thể nhân dân, quân đội và cán bộ ta từ Bắc đến Nam 13
cần phải đoàn kết chặt chẽ, tư tưởng phải thống nhất, hành động phải nhất trí"(12).
Người còn viết Thư gửi đồng bào cả nước vạch trần những âm mưu trong
nước và thế giới về những hành động sai trái của đế quốc Mỹ, Người khẳng
định: "Nước Việt Nam ta nhất định phải thống nhất. Đồng bào Nam và Bắc
nhất định sẽ sum họp một nhà"(13)
+ Năm 1965, trước thất bại của chiến lược "chiến tranh đặc biệt", đế quốc
Mỹ đã chuyển sang chiến lược "chiến tranh cục bộ". Trước những hành động
leo thang xâm lược tàn bạo của đế quốc Mỹ, Người khẳng định: "Dù phải chiến
đấu 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa, chúng ta cũng kiên quyết chiến
đấu đến thắng lợi hoàn toàn"(14).
+ Năm 1966 khi đế quốc Mỹ tăng cường mở rộng chiến tranh ở Việt Nam,
Hồ Chí Minh đã nêu lên một chân lý thời đại, một tuyên ngôn bất hủ “Không có
gì quý hơn độc lập, tự do”(15) Hình 13: Quyển sách bằng đá do hội những
người lao động Việt Nam tại pháp Tặng
+ Hồ Chí Minh bắt đầu viết di chúc vào dịp
sinh nhật lần thứ 75 của ông vào ngày 10
tháng 5 năm 1965 và sửa lại trong những dịp sinh nhật tiếp theo
+ Ngày 02/09/1969, Chủ tị H c ồ
h Chí Minh đã qua đời, Người để lại cho
nhân dân Việt Nam bản Di chúc thiêng liêng.
Di chúc là những lời căn dặn cuối cùng đầy tâm huyết, nói lên tình sâu nghĩa
nặng của Người với nước, với dân; nói lên niềm tin tất thắng ở sự nghiệp chống
Mỹ cứu nước. Đề ra những phương sách lớn để xây dựng lại đất nước sau chiến
tranh nhằm thực hiện mục tiêu: "Xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống
nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp
cách mạng thế giới"(16).
=>Di chúc là một văn kiện lịch sử vô giá, kết tinh trong đó cả tinh hoa tư
tưởng, đạo đức và tâm hồn cao đẹp của Người đã suốt đời phấn đấu hy sinh vì Tổ quốc và nhân loại. 3. Kết luận 14
Cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh là một cuộc đời trong sáng cao đẹp của một
người cộng sản vĩ đại, một anh hùng dân tộc kiệt xuất, một chiến sĩ quốc tế lỗi
lạc, đã đấu tranh không mệt mỏi và hiến dâng cả đời mình cho Tổ quốc, cho
nhân dân, vì lý tưởng cộng sản, vì độc lập, tự do của các dân tộc bị áp bức, vì
hòa bình và công lý trên thế giới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mở ra một thời đại mới trong lịch sử dân tộc Việt
Nam – Thời đại độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Trong suốt chặng
đường hoạt động cách mạng, Người đã vạch đường chỉ lối cho cách mạng Việt
Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng
vĩ đại của Người luôn là tấm gương sáng ngời cho chúng ta học tập và noi theo.
Mỗi chúng ta cần cố gắng, nỗ lực hết mình để chăm lo hạnh phúc của nhân dân,
ra sức phấn đấu, rèn luyện, noi gương tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh để thực
sự là những người cán bộ, đảng viên chân chính hết lòng phụng sự tổ quốc,
phụng sự nhân dân xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành
của nhân dân. Với tư cách là một sinh viên em phải học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chính Minh.
Hình14: Tượng đài Của Chủ tịch Hồ Chí Minh 15 Chú thích
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, H.2011, tập 1, tr.461
(2) Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch,
Nxb. Sự Thật, Hà Nội, 1975, tr.33
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 3, tr.230, tr.596
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 3, tr.230, tr.596
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 4, tr.1, tr.3, tr.534
(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 4, tr.1, tr.3, tr.534
(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 6, tr.579
(9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 7, tr.15
(10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 8, tr.378
(11) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 13, tr.477
(12) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 9, tr.3
(13) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 10, tr.359-360
(14) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 14, tr.577
(15) Hồ Chí Minh(2011), Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.15,tr.131
(16) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 15, tr.131, tr.614 16
Document Outline

  • -Giai đoạn từ năm 1890 đến năm 1911
  • -Giai đoạn từ năm 1911 đến năm 1920
  • -Giai đoạn từ năm 1920 đến năm 1930
  • -Giai đoạn từ năm 1930 đến năm 1945
  • - Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1969