



















Preview text:
  lOMoARcPSD|49605928
NHÓM 1: CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA TRONG THỜI DỊCH COVID 
19: KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VÀ THỰC TIỄN TẠI VIỆT NAM 
Bảng phân công nhiệm vụ   Nhiệm vụ  Người thực hiện  Lớp tín chỉ  Xây dựng nội dung  Nguyễn Hồng Ánh  61.01  Nguyễn Linh Đan  61.01  Đỗ Lê Gia Minh  61.01  Ngô Anh Ngọc  61.02  Lưu Ngọc Mai  61.02  Lê Thị Hạnh  61.02  Làm slide  Trần Bảo Hân  61.02  Phạm Phương Anh  61.02  Đào Phương Anh  61.02  Người thuyết trình  Nguyễn Nam Trung  61.02  Đào Phương Anh  61.02  Trần Bảo Hân  61.02  Nguyễn Linh Đan  61.01  Kiểm duyệt, leader  Nguyễn Hồng Ánh  61.01          lOMoARcPSD|49605928 MỞ ĐẦU 
Chỉ trong khoảng thời gian ngắn từ khi xuất hiện, đại dịch COVID-19 đã biến 
một cuộc khủng hoảng về sức khỏe thành một cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu. 
Việc điều hành chính sách tài khóa cùng với chính sách tiền tệ là thiết yếu ở nhiều 
quốc gia trên thế giới, hỗ trợ thanh khoản cho các cá nhân và doanh nghiệp cũng 
như duy trì sự tồn tại của các doanh nghiệp trong ngắn hạn. Trong đó, chính sách 
tài khóa đóng vai trò tiên phong trong việc huy động, giải phóng, định hướng 
phân bổ và sử dụng hiệu quả nguồn lực trong và ngoài nước vào các mục tiêu ưu 
tiên phát triển kinh tế - xã hội, góp phần đổi mới mô hình và nâng cao chất lượng 
tăng trưởng trên cơ sở phát triển nguồn nhân lực, khoa học và công nghệ, đổi mới 
sáng tạo và chuyển đổi số.      lOMoARcPSD|49605928 NỘI DUNG 
1. Cơ sở lý luận chung về Chính sách Tài Khóa 
1.1. Khái niệm 
Theo Samuelson, chính sách tài khóa là chương trình của Chính phủ liên quan 
đến việc mua bán hàng hóa dịch vụ và chi tiêu cho các khoản thanh toán chuyển 
nhượng và mức thuế, các sắc thuế. 
Chính sách tài khóa là hệ thống các chính sách tài chính theo niên độ (năm tài 
khóa) của mỗi quốc gia.   
1.2. Mục tiêu 
Chính sách tài khóa phải đảm bảo nguồn lực tài chính để nhà nước thực hiện các  chức năng của mình. 
Chính sách tài khóa góp phần thúc đẩy phát triển và tăng trưởng được sử dụng 
như một công cụ điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển 
theo định hướng của nhà nước.    lOMoARcPSD|49605928
Chính sách tài khóa góp phần thúc đẩy phát triển văn hóa – xã hội, giữ gìn và bảo  vệ môi trường.   
1.3. Nội dung và công cụ của Chính sách Tài khóa 
Nội dung chủ yếu của chính sách tài khóa bao gồm: 
- Chính sách động viên ngân sách (chủ yếu thông qua thuế) 
- Chính sách chi Ngân sách Nhà nước 
- Chính sách bội chi Ngân sách Nhà nước 
➢ Trong từng bộ phận chính sách nói trên lại nhiều chính sách cụ thể phục 
vụ mục đích khác nhau. Các bộ phận chính sách luôn có mối liên hệ mật 
thiết, tác động qua lại lẫn nhau để tạo nên sức mạnh tổng hợp của chính  sách tài khóa. 
Công cụ của Chính sách Tài Khóa là các khoản chi tiêu Chính phủ và thuế, phí  của Nhà nước.    lOMoARcPSD|49605928
2. Kinh nghiệm quốc tế về việc áp dụng Chính sách Tài Khóa trong 
thời dịch Covid 19 - (Minh) 
2.1. Liên minh Châu Âu 
Trước tình hình này, EU đã áp dụng Chính sách tài khóa trong bối cảnh đại dịch  COVID-19: 
- Các quốc gia thuộc khối EU đã đạt thỏa thuận về ngân sách liên minh để 
triển khai gói phục hồi kinh tế Next Generation EU (NGEU) với tổng chi 
ngân sách là 750 tỷ euro, gói phục hồi này được chia thành hai phần, một 
phần để tài trợ và một phần để cho vay, sẽ được giải ngân thông qua chương 
trình phục hồi Recovery and Resilience Facility (RRF), có hiệu lực từ tháng  2/2021. 
Gói phục hồi kinh tế NGEU được giải ngân cho các mục đích phục hồi kinh 
tế chung của các quốc gia thành viên. 
Ngoài ra, EU còn thực hiện một số CSTK khác như chi ngân sách với quy 
mô 240 tỷ euro cho các vấn đề liên quan đến y tế; khoản vay ngắn hạn 100 tỷ euro 
được bảo lãnh bởi các quốc gia thành viên để đảm bảo việc làm cho người lao 
động; khoản vay 200 tỷ euro do chính phủ bảo lãnh để hỗ trợ cho các doanh 
nghiệp (tập trung vào các doanh nghiệp vừa và nhỏ)    2.2. Hoa Kỳ 
Hoa Kỳ ghi nhận ca nhiễm COVID-19 đầu tiên vào tháng 1/2020, sau đó 
số ca nhiễm tăng nhanh trong cộng đồng. Mặc dù sớm áp dụng các biện pháp    lOMoARcPSD|49605928
ngăn chặn ảnh hưởng của đại dịch, nền kinh tế Hoa Kỳ vẫn bị giảm 31,4% trong 
quý II/2020 và tỷ lệ thất nghiệp ở mức 5,8%. 
Hoa Kỳ áp dụng CSTK trong bối cảnh đại dịch COVID-19 như sau: 
 -Về chi ngân sách, chính phủ Hoa Kỳ thực thi việc chi ngân sách theo các 
chương trình hay đạo luật gắn với mục đích cụ thể nhằm đối phó với hậu quả của 
đại dịch COVID-19. Cụ thể: 
 *Gói kế hoạch phục hồi nền kinh tế (American Rescue Plan) với ngân sách 
1,844 tỷ USD, gói phục hồi này tập trung vào lĩnh vực y tế công cộng và hỗ trợ 
cho các cá nhân, DN, cộng đồng (bao gồm nới rộng chương trình hỗ trợ thất 
nghiệp, chuyển tiền trực tiếp cho các cá nhân hoặc địa phương cần hỗ trợ, tăng 
nguồn lực tài chính cho các chương trình vắc xin, tăng tài trợ để mở lại trường  học). 
 *Gói chi ngân sách theo Đạo luật tăng cường chăm sóc sức khỏe và bảo 
vệ tiền lương (Paycheck Protection Program and Health Care Enhancement Act) 
trị giá 483 tỷ USD được thi hành nhằm hỗ trợ các khoản vay cho các DN nhỏ, 
đảm bảo họ không sa thải người lao động; hỗ trợ các bệnh viện cũng như hỗ trợ 
tài chính cho việc mở rộng quy mô xét nghiệm COVID-19. 
*Gói chi ngân sách theo Đạo luật Hỗ trợ, Cứu trợ chống Coronavirus và 
An ninh Kinh tế (CARES Act) trị giá 2,3 nghìn tỷ USD (tương đương 11% GDP 
của Hoa Kỳ) nhằm hỗ trợ giảm thuế một lần cho các cá nhân; nới lỏng việc hưởng 
các chương trình thất nghiệp; đảm bảo an ninh lương thực cho những đối tượng 
dễ bị tổn thương do đại dịch; ngăn chặn các DN phá sản bằng việc cung cấp các 
khoản vay hay bảo lãnh; hỗ trợ các DN nhỏ, các bệnh viện; chuyển tiền trợ cấp 
cho các chính quyền địa phương cũng như hỗ trợ quốc tế. 
*Gói chi ngân sách theo hai Đạo luật Ngân sách Bổ sung nhằm Chuẩn bị 
và Đối phó với Coronavirus (Coronavirus Preparedness and Response 
Supplemental Appropriations Act) và Đạo luật đối phó với Coronavirus đặt gia 
đình là ưu tiên cao nhất (Families First Coronavirus Response Act) tổng trị giá 
hơn 200 tỷ USD với mục đích hỗ trợ các hoạt động liên quan đến y tế; trả lương 
cho người lao động bị nhiễm Coronavirus; nới rộng trợ cấp các khoản vay cho 
DN nhỏ; hỗ trợ các khoản vay sinh viên; hỗ trợ quốc tế. 
Để hỗ trợ dòng chảy tín dụng, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ áp dụng một số chương 
trình trong phạm vi Đạo luật CARES như hỗ trợ việc phát hành thương phiếu của 
các DN và chính quyền địa phương; hỗ trợ thanh khoản cho các quỹ tương hỗ thị    lOMoARcPSD|49605928
trường tiền tệ; hỗ trợ tín dụng doanh nghiệp, thị trường sơ cấp và thứ cấp; hỗ trợ 
các khoản vay được đảm bảo bằng tài sản như khoản vay sinh viên, vay qua thẻ 
tín dụng, vay mua ô tô…  2.3. Singapore 
Cũng như các quốc gia khác khi đại dịch COVID-19 lây lan, nền kinh tế 
Singapore cũng chịu ảnh hưởng nghiêm trọng. 
Các biện pháp CSTK được Singapore áp dụng như sau: Trong năm 2020, 
ngay khi đại dịch bắt đầu ảnh hưởng sâu rộng đến nền kinh tế, chính phủ 
Singapore thực hiện một số gói chi tiêu chính phủ để đối phó với ảnh hưởng của 
đại dịch COVID-19 đến nền kinh tế với tổng trị giá 92 tỷ đô la Singapore (SGD). 
Các gói chi tiêu này nhằm mục đích: 
- Hỗ trợ tiền mặt cho cá nhân, 
- Hộ gia đình có thu nhập thấp, thất nghiệp; 
- Hỗ trợ các DN và người lao động thông qua trợ cấp lương, tạo công ăn việc  làm 
- Hỗ trợ tiền thuê nhà, các cá nhân tự doanh thuộc các ngành nghề chịu ảnh 
hưởng trực tiếp của đại dịch (hàng không, du lịch, văn hóa nghệ thuật, giao  thông vận tải). 
2.4. Trung Quốc 
Ca nhiễm COVID-19 đầu tiên được ghi nhận ở Trung Quốc vào tháng 
12/2019, cũng là ca nhiễm đầu tiên của thế giới. Trong quý I/2020, nền kinh tế 
Trung Quốc sụt giảm 6,8% và sau khi áp dụng một số CSTK và tiền tệ nhằm hạn 
chế, khắc phục hậu quả của đại dịch, nền kinh tế lại đạt tăng trưởng dương ở mức  2,3% trong năm 2020. 
CSTK của Trung Quốc được sử dụng trong bối cảnh đại dịch như sau:  
Chính phủ Trung Quốc thực thi gói chi ngân sách trị giá 4,9 nghìn tỷ nhân 
dân tệ (NDT) (tương đương 4,7% GDP) để hỗ trợ phát triển kinh tế trong bối cảnh 
đại dịch, trong đó có 4,2 nghìn tỷ NDT được dùng cho riêng năm 2020. Khoản 
ngân sách được dùng vào các mục tiêu cụ thể như tăng chi tiêu vào việc ngăn 
chặn và kiểm soát đại dịch; hỗ trợ việc sản xuất các thiết bị y tế; tăng cường giải    lOMoARcPSD|49605928
ngân bảo hiểm thất nghiệp và hỗ trợ người lao động nhập cư; tăng cường đầu tư  công. 
Ngoài khoản chi trong ngân sách trên, Trung Quốc cũng áp dụng gói chi 
ngoài ngân sách trị giá 400 tỷ NDT để bảo lãnh các khoản vay cho các doanh  nghiệp vừa và nhỏ.   
Một số nước như Hàn Quốc, Indonesia, Philippines cho phép Ngân hàng 
Trung ương mua trái phiếu Chính phủ từ thị trường sơ cấp/ thứ cấp. Ở chiều ngược 
lại, một số nước thông qua Ngân hàng Trung ương hỗ trợ nguồn tài chính với lãi 
suất ưu đãi cho các tổ chức tín dụng để thực hiện công cụ tài chính chuyển nhượng 
và thỏa thuận mua lại tài sản. 
Sự phối hợp chính sách còn được thể hiện rõ nét hơn trong việc hỗ trợ khu 
vực doanh nghiệp tiếp cận dòng vốn tín dụng thông qua cơ chế bảo lãnh của chính 
phủ (Trung Quốc, Hàn Quốc, Singapore…).    lOMoARcPSD|49605928
 Trong bối cảnh dư địa của chính sách tiền tệ dần bị thu hẹp khi lãi suất đã ở mức 
rất thấp, áp lực lạm phát và nợ xấu gia tăng thì vai trò của chính sách tài khóa  càng được gia tăng. 
3. Thực tiễn áp dụng Chính sách Tài Khóa tại Việt Nam trong thời 
kỳ dịch COVID - 19 - (Anh Ngọc + Ngọc Mai) 
3.1. Thực tiễn áp dụng Chính sách Tài khóa tại Việt Nam trong thời kỳ dịch  COVID - 19 
Do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19, nhiều hoạt động kinh tế bị ngưng trệ hoặc 
sụt giảm khiến nguồn thu ngân sách nhà nước bị ảnh hưởng tiêu cực. Trong khi 
đó, nhu cầu chi tiêu cho công tác phòng, chống và khắc phục hậu quả do đại dịch 
COVID-19 mang lại tăng cao. Trong bối cảnh đó, các chính sách tài khóa đã được 
nới lỏng với mục tiêu tập trung nguồn lực cho phòng, chống đại dịch COVID-19 
và hỗ trợ kịp thời cho doanh nghiệp, người dân vượt qua khó khăn. 
Về nguồn thu ngân sách nhà nước, Việt Nam thực hiện quản lý nguồn thu, đẩy 
mạnh cải cách thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, phấn đấu tăng 
mức thu ở những địa bàn, lĩnh vực có điều kiện, quyết liệt xử lý thu hồi nợ đọng 
thuế. Nhờ đà tăng trưởng của nền kinh tế từ những tháng cuối của năm 2021, một 
số ngành, lĩnh vực được hưởng lợi từ chính sách nới lỏng về tài khóa, tiền tệ như 
ngân hàng, chứng khoán, bất động sản... tạo thêm nguồn thu cho ngân sách nhà 
nước; tăng thu từ tăng giá dầu thô (khoảng 70 USD/thùng) và các hoạt động xuất,  nhập khẩu. 
Về chi ngân sách nhà nước, ưu tiên cân đối nguồn cung cho lĩnh vực phòng, chống 
đại dịch COVID-19 và hỗ trợ người dân phải chịu ảnh hưởng của đại dịch 
COVID-19; thực hiên ̣ cắt giảm tối thiểu 50% kinh phí hội nghị, kinh phí công 
tác trong và ngoài nước, tiết kiêm thêm 10% kinh phí chi thường xuyên,̣ tập trung 
kinh phí cho phòng, chống đại dịch COVID-19.    lOMoARcPSD|49605928  
Trước tác động nghiêm trọng của đợt dịch COVID-19 lần thứ 4, Ủy ban Thường 
vụ Quốc hội đã thông qua bốn giải pháp bổ sung về miễn, giảm thuế, gồm:   
+ Giảm thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp của năm 2021 đối với doanh 
nghiệp, tổ chức có doanh thu không quá 200 tỷ đồng 
+ Miễn thuế thu nhập cá nhân, thuế giá trị gia tăng và các loại thuế khác trong 
quý III và IV năm 2021 với hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh tại địa bàn 
chịu tác động của đại dịch 
+ Giảm thuế giá trị gia tăng đối với hàng hóa, dịch vụ trong nhiều ngành, nghề    lOMoARcPSD|49605928
+ Miễn tiền chậm nộp phát sinh đối với các doanh nghiệp, tổ chức phát sinh 
thua lỗ năm 2020. Tổng số tiền thuế, phí, lệ phí, tiền thuê đất mà Nhà nước 
hỗ trợ cho doanh nghiệp, người dân trong năm 2021 là khoảng 138.000 tỷ  đồng.   
Bên cạnh đó, Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản để kịp thời “tiếp sức” cho các 
đối tượng bị ảnh hưởng. Các chính sách nổi bật có thể kể đến bao gồm: 
+ Nghị quyết số 42/NQ-CP, ngày 9-4-2020, “Về các biện pháp hỗ trợ người 
dân gặp khó khăn do đại dịch COVID-19” 
+ Ngày 19-6-2020, Quốc hội ban hành Nghị quyết số 116/2020/QH14, “Về 
việc giảm thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp của năm 2020 đối với  doanh nghiệp” 
+ Ngày 9-9-2021, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 105/NQ-CP, “Về hỗ trợ 
doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh trong bối cảnh dịch COVID19”…. 
3.2. Thành tựu 
Từ năm 2020 đến nay, đại dịch COVID-19 đã gây ảnh hưởng rất nghiêm trọng 
đến mọi mặt hoạt động của nền kinh tế - xã hội, trong bối cảnh đó, các chính sách 
tài khóa đã được nới lỏng với mục tiêu tập trung nguồn lực cho phòng, chống đại    lOMoARcPSD|49605928
dịch COVID-19 và hỗ trợ kịp thời cho doanh nghiệp, người dân vượt qua thời kỳ  khó khăn. 
Việt Nam đã thực hiện tốt công tác quản lý nguồn thu, đẩy mạnh cải cách thủ tục 
hành chính, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, phấn đấu tăng mức thu ở những lĩnh 
vực có điều kiện, nhờ đà tăng trưởng của nền kinh tế từ những tháng cuối của 
năm 2021, một số ngành, lĩnh vực được hưởng lợi từ chính sách nới lỏng về tài 
khóa, tiền tệ như ngân hàng, chứng khoán, bất động sản,... 
Các chính sách được ban hành đã đem lại kết quả đáng kể thông qua những con  số tiêu biểu: 
+ Giảm 2% thuế giá trị gia tăng để thúc đẩy cả sản xuất và tiêu dùng, góp phần  kiểm soát lạm phát 
+ Gia hạn thời hạn nộp thuế, tiền thuê đất quy mô 138 nghìn tỷ đồng 
+ Hỗ trợ lãi suất từ tiền NSNN với giá trị 40 nghìn tỷ đồng 
+ Hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động quy mô 6,6 nghìn tỷ đồng 
+ Chính sách tăng đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng với quy mô 113,85 nghìn 
tỷ đồng dành cho đầu tư hạ tầng giao thông chiến lược là chính sách được 
kỳ vọng tạo cú hích cho phục hồi kinh tế khi được triển khai hiệu quả. 
Tổng gói kích thích tài khóa bao gồm giảm thuế và tiền thuê đất trị giá 180.000 
tỷ đồng tương đương 3% GDP; chiếm 11,7% thu ngân sách, 10,3% chi ngân sách 
và 88% mức thâm hụt ngân sách. Bên cạnh đó, khoản chi tiền mặt cho an sinh trị 
giá 62.000 tỷ đồng, giảm giá điện trị giá 11.000 tỷ đồng và hoãn đóng bảo hiểm 
xã hội trị giá 9.500 tỷ đồng. Như vậy, tính tổng thể quy mô gói kích thích tài khóa 
của Việt Nam tương đương 4,3% GDP.    lOMoARcPSD|49605928
Bản g Quy mô gói kích thích kinh tế 
=> Việt Nam đã áp dụng chính sách tài khóa phù hợp một cách nhanh chóng, chủ 
động và linh hoạt. Từ khi cuộc khủng hoảng do đại dịch COVID-19 xảy ra trong 
năm 2020, Chính phủ đã đưa ra những chính sách linh hoạt công cụ tài khóa. 
Chính phủ gia tăng chi tiêu hỗ trợ cho doanh nghiệp, người dân bị ảnh hưởng bởi 
đại dịch COVID-19 thông qua các gói hỗ trợ, đã giúp người dân, doanh nghiệp 
trụ vững trong đại dịch COVID-19 với các gói hỗ trợ tài chính đã góp phần giảm 
thiểu căng thẳng, giúp cân đối chi phí và áp lực tài chính ngắn hạn cho các doanh 
nghiệp, hộ sản xuất, kinh doanh. 
3.3. Hạn chế và nguyên nhân dẫn đến hạn chế 
Nhìn vào thực tiễn áp dụng Chính sách Tài khóa tại Việt Nam, bên cạnh những 
thành tựu đáng kể đã đạt được trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và hỗ trợ 
người dân, ta có thể nhận thấy một vài hạn chế còn tồn đọng trong việc nới lỏng 
Chính sách Tài khóa của Việt Nam.    lOMoARcPSD|49605928  
Theo thống kê từ Viện chiến lược và chính sách tài chính, việc triển khai gói hỗ 
trợ tài khóa và an sinh xã hội còn chậm, mới đạt khoảng 46% giá trị gói tài khóa 
và 63% gói an sinh xã hội. Nguyên nhân của tình trạng này chủ yếu là do điều 
kiện đặt ra ban đầu chưa phù hợp, chưa rõ ràng, chưa sát thực tiễn; quy trình, thủ 
tục còn phức tạp, xử lý lâu khiến nhiều doanh nghiệp e ngại. Từ đó, các gói chính 
sách chưa kịp thời đến tay doanh nghiệp, người lao động và chưa có độ phủ tới 
các đối tượng khó khăn. Nhiều doanh nghiệp mong muốn được tiếp cận nguồn 
vốn vay ưu đãi để có thể phục hồi tốt hơn. 
Theo các chuyên gia, một số nguyên nhân chủ yếu gây ra hạn chế trong việc thực 
thi Chính sách Tài khóa bao gồm:      lOMoARcPSD|49605928
+ Thứ nhất, các chính sách đa số được thiết kế và thực thi theo hướng bình 
quân giữa các địa phương, ngành nghề, quy mô mà ít tính đến mức độ ảnh 
hưởng và khả năng chống chịu. Trong khi đó du lịch lại là lĩnh vực chịu 
ảnh hưởng trực tiếp nhất và nặng nề nhất. 
+ Thứ hai, liều lượng chính sách còn khiêm tốn, cùng với đó là số lượng đối 
tượng được hỗ trợ quá nhiều, nên lợi ích từ chính sách bị dàn trải. 
+ Thứ ba, mức độ hữu ích của chính sách hỗ trợ có xu hướng tỉ lệ thuận với 
mức độ tiếp cận thông tin về chính sách. Theo đó, những doanh nghiệp tiếp 
cận thông tin chính sách kém thường là những doanh nghiệp nhỏ và vừa, 
trong khi đó doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực du lịch lại chủ yếu là 
doanh nghiệp nhỏ và vừa. Doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực du lịch 
cũng gặp khó khăn nhiều hơn tuy nhiên lại chưa được hỗ trợ hiệu quả từ  chính sách. 
+ Thứ tư, nhiều chính sách hỗ trợ có quy trình xét duyệt còn phức tạp, các điều 
kiện để được thụ hưởng chưa rõ ràng, thời gian xử lý lâu do bị ảnh hưởng 
bởi các quy định giãn cách xã hội… 
+ Thứ năm, các chính sách cải thiện đầu tư công được thực hiện trong giai 
đoạn vừa qua chưa phát huy hiệu quả cao để thúc đẩy tốc độ giải ngân đầu 
tư công, chưa tạo được cú hích mạnh để thúc đẩy tăng trưởng. 
4. Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam - (Linh Đan) 
Trên cơ sở thực tiễn, tác giả hệ thống một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam 
khi thực hiện Chính sách tài khóa hỗ trợ doanh nghiệp trong giai đoạn khủng 
hoảng do tác động của Covid-19: 
Thứ nhất, về quy mô chính sách tài khóa 
Do những tác động của việc tăng chi tiêu đến cán cân ngân sách và nợ công, quy 
mô của các chính sách hỗ trợ cần phù hợp với vị thế tài khóa của các quốc gia    lOMoARcPSD|49605928
trước dịch bệnh. Các quốc gia có vị thế tài khóa tốt có thể duy trì quy mô hỗ trợ 
tài khóa ở mức cao, nhờ chi phí phát hành trái phiếu chính phủ thấp. Trong khi 
đó, các quốc gia có vị thế tài khóa kém, chịu áp lực tài khóa và chi phí phát hành 
lớn gặp hạn chế trong việc hỗ trợ doanh nghiệp trước dịch bệnh, dẫn đến quy mô 
hỗ trợ tài khóa bị thu hẹp. 
Thứ hai, về công cụ chính sách tài khóa sử dụng 
Trong các chính sách cứu trợ tài khóa, hiệu quả của việc giảm thuế TNDN cho 
các doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh bị hạn chế do khả năng sinh lời của 
các doanh nghiệp thấp. Điều này cho thấy, các khoản hỗ trợ mở rộng đầu tư và 
xóa bỏ, cũng như chính sách hồi tố thuế (cho phép các công ty bù trừ phần lỗ liên 
quan đến dịch bệnh vào thu nhập tính thuế năm trước), như Chính phủ Australia 
đã thông qua, là những chính sách cứu trợ tài khóa có hiệu quả hơn. Các chính 
sách hỗ trợ tài khóa gián tiếp, như thông qua các khoản cho vay và bảo lãnh khoản 
vay cũng được sử dụng tại nhiều quốc gia, bao gồm các quốc gia Liên minh châu 
Âu và một số nước thuộc thị trường mới nổi như Ấn Độ và Brazil. 
Thứ ba, về lưu ý trong triển khai 
Các chính sách trong giai đoạn này cần phải điều chỉnh từ cung cấp hỗ trợ đồng 
bộ sang tập trung vào các lĩnh vực bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi đại dịch. Bên cạnh 
đó, chính phủ các nước cần chú trọng việc lựa chọn đối tượng thụ hưởng của các 
chính sách hỗ trợ. Đồng thời, phối hợp quốc tế là rất quan trọng để thúc đẩy sự 
phục hồi kinh tế ở cấp độ toàn cầu, đồng thời tránh mất cân bằng thương mại và 
căng thẳng địa kinh tế. (Phạm Mạnh Hùng và Trương Hoàng Diệp Hương, 2021).    lOMoARcPSD|49605928    
5. Giải pháp - (Hạnh) 
 Đại dịch COVID-19 đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến mọi mặt hoạt động của nền 
kinh tế - xã hội, tạo sức ép rất lớn đến cân đối ngân sách nhà nước, nhiều hoạt 
động kinh tế bị ngưng trệ hoặc sụt giảm khiến nguồn thu ngân sách nhà nước bị 
ảnh hưởng tiêu cực. Trong khi đó, nhu cầu chi tiêu cho công tác phòng, chống và 
khắc phục hậu quả do đại dịch COVID-19 mang lại tăng cao. Trong bối cảnh đó,    lOMoARcPSD|49605928
các chính sách tài khóa đã được nới lỏng(chính sách tài khoá mở rộng) với mục 
tiêu tập trung nguồn lực cho phòng, chống đại dịch COVID-19 và hỗ trợ kịp thời 
cho doanh nghiệp, người dân vượt qua khó khăn.    5.1 Đối với quốc tế 
Hầu hết chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ của các nước, có thể thấy rõ 
trong điều kiện suy giảm kinh tế kéo dài, doanh nghiệp phải ngừng sản xuất, kinh 
doanh, người lao động mất việc làm, mất thu nhập, các giải pháp tài khóa của 
các Chính phủ đều có nhiều nét tương đồng, mặc dù, quy mô và tính chất có khác 
nhau nhưng đều tập trung vào hỗ trợ các đối tượng: 
 -Thứ nhất, hỗ trợ người lao động bị mất và giảm việc làm, để họ có thể sống 
được và tiếp tục gắn bó với các doanh nghiệp mà họ đang làm việc. 
 -Thứ hai, hỗ trợ các doanh nghiệp, từ quy mô lớn (Hàng không) đến các doanh 
nghiệp nhỏ và siêu nhỏ :miễn, giảm thuế, giúp họ không bị phá sản, có đủ điều 
kiện tiếp tục sản xuất kinh doanh khi dịch bệnh giảm và kết thúc. 
 -Thứ ba, hỗ trợ người dân có được thu nhập cần thiết để duy trì cuộc sống, nuôi 
dạy trẻ em, không bị tống ra khỏi nhà đang thuê vì không có khả năng trả tiền  nhà.    lOMoARcPSD|49605928  
 -Thứ tư, hỗ trợ ngành y tế và các nhân viên y tế để có thể mua sắm thiết bị, thuốc 
men, vật tư phục vụ chống dịch, hỗ trợ người trực tiếp làm công tác chống dịch. 
 -Thứ năm, hỗ trợ các trường học để có kinh phí mua thiết bị, vật tư để phòng, 
chống dịch ở các nhà trường và tiền lương cho các giáo viên. 
 -Thứ sáu, hỗ trợ các cơ sở văn hóa, các tổ chức hoạt động phúc lợi xã hội. -Thứ 
bảy, hỗ trợ chính quyền các bang, các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có 
đủ ngân sách để phòng, chống dịch và duy trì các hoạt động khi thu ngân sách 
không đạt kế hoạch vì các đơn vị sản xuất kinh doanh phải ngừng hoạt động, 
người lao động không có lương đóng thuế thu nhập như bình thường. => Hầu hết 
các nước đều tăng cường chi ngân sách hỗ trợ, kết hợp miễn, giảm, hoãn, gia hạn 
nộp thuế, phí các loại, nhiều nước cũng có hỗ trợ gián tiếp thông qua các biện 
pháp hỗ trợ lãi vay, thanh khoản, bảo lãnh .Các gói hỗ trợ tài khóa là hết sức cần 
thiết trong giai đoạn nền kinh tế bị ảnh hưởng bởi đại dịch và cũng không kém 
phần quan trọng khi nền kinh tế bước sang giai đoạn chuyển tiếp hướng tới  phục hồi.  5.2 Đối với Việt Nam 
 Dưới góc độ chính sách kinh tế vĩ mô, cần sử dụng công cụ chính là chính 
sách tài khóa còn chính sách tiền tệ sẽ đóng vai trò hỗ trợ. Các nhà phân tích 
chính sách ở hầu hết các quốc gia đều thống nhất về sự cần thiết của việc sử dụng 
ngân sách để hỗ trợ doanh nghiệp, người dân và nền kinh tế. Thông thường, chính 
sách tài khóa tập trung thực hiện 5 nhóm giải pháp sau:    lOMoARcPSD|49605928
-Thứ nhất, hoàn thiện chính sách về thu ngân sách nhà nước, phân bổ hợp lý 
nguồn lực phục vụ các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội ( Hiện nay việc thu 
thuế/GDP ở nước ta còn thấp,có thể tăng thuế ở một số ngành như là bất động sản 
,thuế thừa kế,...Ngoài ra, để mở rộng nguồn vốn, Chính phủ có thể thông qua 
nguồn tài sản là doanh nghiệp nhà nước, giao quyền tự chủ cho người đại diện 
phần vốn tại doanh nghiệp để thực hiện đầu tư các dự án theo kế hoạch đầu tư 
trung hạn. Theo đó, doanh nghiệp nhà nước được quyền đem vốn và tài sản thế 
chấp tại ngân hàng để đầu tư các dự án đó.   
-Thứ hai, vay nợ là một nguồn tiềm năng, có thể vay nợ nước ngoài từ các tổ chức 
tài chính quốc tế (trong bối cảnh khả năng cho vay trên thị trường quốc tế đang 
gặp hạn chế thì việc phát hành trái phiếu cho nhà đầu tư trong nước là một lựa 
chọn. Bên cạnh đó, để thu hút các nhà đầu tư trong nước mua trái phiếu, Chính 
phủ có thể xem xét phát hành trái phiếu có lãi suất điều chỉnh theo lạm phát, phát 
hành trái phiếu chính phủ cả nội tệ và ngoại tệ để có thu hút nguồn lực thực hiện 
hỗ trợ cho doanh nghiệp phục hồi sau đại dịch COVID-19 và tái cơ cấu nền kinh  tế)