TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BÀI TIỂU LUẬN THAM QUAN DINH
ĐỘC LÂP
MÔN: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM
Giảng viên hướng dẫn: : Đinh Thị Nguyệt Nga
Nhóm sinh viên thực hiện:
Phan Thị Mỹ Xuyên: 2157050414
Hồ Kỳ Vỹ: 2153013139
Phan Ngọc Thu Uyên: 2157050384
Nguyễn Thiện Mỹ Uyên: 2157050383
TP. Hồ Chí Minh, ngày 03 tháng 09 năm 2023
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN 2
LỜI NÓI ĐẦU 3
PHẦN A: NỘI DUNG----------------------------4
1. Lịch sử hình thành 4
2. Kiến trúc Dinh Độc Lập-----------------------6
3. Đặc điểm nổi bật n trong của Dinh Độc
lập 14
4. Những hiện vật còn t lại trong Dinh Độc
Lập 23
PHẦN B: CẢM NHẬN CỦA NHÓM--------32
1
LỜI CẢM ƠN
Lời nói đầu tiên, nhóm em xin chân thành cảm ơn đến Trường
Đại học Mở Thành phố Hồ C Mình đã tạo điều kiện cho chúng
em tham quan, tìm hiểu về Dinh Độc Lập để có một cái nhìn
tổng quan giá tr lịch sử của Dinh.
Cảm ơn Đinh Thị Nguyệt Nga đã hướng dẫn đồng hành
cùng chúng em trong chuyến thăm Dinh Độc Lập. Đặc biệt cảm
ơn những kiến thức quan trọng, quý báu về môn Lịch sử Đảng
Cộng Sản Việt Nam truyền đạt trong các buổi học.
Trong q trình học tập, chúng em đã rất c gắng nhưng do hạn
chế về mặc thời gian điều kiện khi tham quan Dinh nên
không tránh khỏi sai sót phần nào. Rất mong nhận được ý kiến
đóng góp của để nhóm nhìn nhận hoàn thiện hơn các đề
tài liên quan.
2
LỜI NÓI ĐẦU
Dinh Độc Lập là một trong những công trình kiến trúc độc đáo
nổi tiếng bậc nhất thành phố Hồ Chí Minh, đã tồn tại hơn 150
năm. Công trình được ông La Grandière, viên Thống đốc Pháp
tại miền Nam Việt Nam, đặt viên đá khởi công xây dựng vào
năm 1868 hoàn tất vào năm 1871.
Dinh Độc Lập được công nhận là Di tích lịch sử văn hóa quốc
gia vào năm 1976. Đến năm 2009, Dinh Độc Lập được xếp hạng
một trong mười Di tích quốc gia đặc biệt đầu tiên củaViệt
Nam. Nơi đây đã chứng kiến rất nhiều sự kiện lịch sử, thăng
trầm của đất nước, đặc biệt sự kiện Giải phóng miền Nam
thống nhất đất nước vào ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Ngày Giải phóng miền Nam thống nhất đất nước 30/4 một
dấu ấn sâu sắc của đất nước con người Việt Nam. Sự kiện lịch
sử cắm c Mặt trận dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam
trên nóc Dinh Độc Lập khoảnh khắc thiêng liêng của dân tộc,
kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Giờ
đây nơi đây vẫn hiện hữu giữa lòng thành phố như một minh
chứng cho lịch s hào ng của dân tộc. Dinh Độc Lập một
trong những ng trình kiến trúc nổi tiếng thành phố Hồ Chí
Minh. Năm 1976 nơi đây được công nhận Di tích lịch sử n
hoá quốc gia. Năm 2009, Dinh Độc Lập được xếp hạng Di
tích quốc gia đặc biệt của Việt Nam. Nhờ vào chuyến thăm Dinh
Độc Lập chúng em đã thêm những kiến thức để làm bài o
cáo sau đây.
3
PHẦN A: NỘI DUNG
1. Lịch sử hình thành
Năm 1858, thực dân Pháp n súng tấn công Ðà Nẵng mở đầu
cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Sau khi chiếm xong 6 tỉnh
Nam kỳ, m 1868, chính quyền Pháp bắt đầu cho thiết kế
xây dựng tại trung tâm Sài Gòn một Dinh thự làm nơi cho
Thống đốc Nam kỳ.
Công trình do viên thống đốc Pháp tại miền Nam Việt Nam
La Grandière đặt viên đá đầu tiên khởi công xây dựng ngày
23/2/1868. Theo sử liệu, do chiến tranh Pháp - Ðức (xảy ra năm
1870) nên công trình này kéo dài mãi đến năm 1873 mới xong,
riêng việc trang trí dinh phải kéo dài thêm 2 năm nữa. Sau khi
khánh thành, Dinh này được đặt tên Dinh Norodom - tên một
vị quốc vương Campuchia.
Từ khi xây xong cho đến 1887, dinh được dành cho Thống đốc
Nam kỳ (Gouverneur de la Cochinchine) n còn gọi Dinh
Thống đốc. Từ 1887 đến 1945, nhiều đời toàn quyền Pháp đã s
dụng dinh thự này m nơi làm việc trong suốt thời kỳ xâm
lược Ðông Dương. Đây cũng quan biểu thị cho b y cai
trị Pháp trên toàn cõi Ðông Dương.
Ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp, Dinh Norodom trở thành
nơi làm việc của chính quyền Nhật Việt Nam. Nhưng ch sáu
tháng sau, Nhật thất bại trong Thế chiến II, Pháp trở lại chiếm
Nam bộ, Dinh Norodom trở lại thành trụ sở làm việc của Pháp
Việt Nam.
Ngày 07/5/1954, thực dân Pháp thất bại nặng nề trong chiến
dịch Ðiện Biên Phủ buộc phải Hiệp định Gienève rút khỏi
Việt Nam. Mỹ tìm cách nhảy vào thực hiện ý đồ xâm chiếm
miền Nam, Việt Nam tạm thời bị chia cắt thành 2 miền, miền
Bắc Việt Nam n ch Cộng a, còn miền Nam Quốc gia
Việt Nam.
4
Ngày 07/9/1954, Dinh Norodom được bàn giao giữa đại diện
chính ph Pháp, Ðại tướng Paul Ely với đại diện chính quyền
Sài Gòn Thủ tướng Ngô Ðình Diệm. Ngô Ðình Diệm đã quyết
định đổi tên Dinh thành Dinh Ðộc Lập. Theo thuật phong thủy,
dinh được đặt vị trí đầu rồng, n dinh cũng còn được gọi
Phủ đầu rồng.
Ngày 26/10/1955, Thủ ớng Ngô Đình Diệm đã truất phế Quốc
trưởng Bảo Đại, thành lập chính quyền Việt Nam Cộng a
lên làm Tổng thống. Từ đó Dinh Ðộc Lập trở thành nơi của
gia đình Ngô Ðình Diệm nơi chứng kiến nhiều biến cố
chính trị.
Ngày 27/02/1962, phe đảo chính đã c hai viên phi công quân
đội Sài Gòn Nguyễn Văn Cử Phạm Phú Quốc i 2 máy
bay AD6 ném bom làm sập toàn b phần chính cánh trái của
Dinh. Do không thể khôi phục lại, Ngô Ðình Diệm đã cho san
bằng xây một dinh thự mới ngay trên nền đất theo đồ án
thiết kế của Kiến trúc Ngô Viết Thụ người Việt Nam đầu
tiên đạt giải Khôi nguyên La Mã.
Dinh Độc Lập mới được khởi công xây dựng ngày 01/7/1962.
Trong thời gian xây dựng, gia đình Tổng thống Ngô Đình Diệm
tạm thời chuyển sang sống tại Dinh Gia Long (nay là trụ sở của
Bảo tàng Thành phố H Chí Minh). Công trình đang xây dựng
dở dang thì Ngô Đình Diệm b phe đảo chính ám sát ngày
02/11/1963.
Ngày khánh thành Dinh 31/10/1966, người chủ tọa buổi lễ
Nguyễn Văn Thiệu, Chủ tịch U ban lãnh đạo quốc gia. Mặc
Ngô Ðình Diệm người khởi xướng xây dựng Dinh Ðộc Lập
nhưng ông ta không được sống đây một ngày nào, người
thời gian sống Dinh thự này u nhất Tổng thống Đệ nhị
Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Văn Thiệu (từ tháng 10/1967 đến
21/4/1975).
5
Ngày 8/4/1975, máy bay F-5E do phi công Nguyễn Thành
Trung lái, xuất phát từ Biên Hòa, đã ném bom dinh gây hại
không đáng kể. Một trái bom rơi cạnh n trực thăng trên nóc
dinh nhưng chỉ nổ phần đầu cắm xuống làm lún sạt một khoảng
nhỏ. Đây lần thứ hai trong lịch sử Dinh Độc Lập bị đánh bom.
10h45’ ngày 30/4/1975, xe ng mang s hiệu 843 của quân giải
phóng thuộc Ðại đội 4, Tiểu đoàn 1, Lữ đoàn xe tăng 203, Quân
đoàn 2 dẫn đầu đội hình đã húc nghiêng cổng phụ của Dinh Ðộc
Lập, tiếp đó xe tăng mang số hiệu 390 đã húc tung cổng chính
tiến thẳng vào Dinh.
11h30’ cùng ngày, Trung úy Bùi Quang Thận Ðại đội trưởng
chỉ huy xe tăng 843 đã hạ cờ 3 sọc xuống, kéo cờ mặt trận
dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam lên. Cờ phấp phới tung
bay trên nóc Dinh, kết thúc 30 năm chiến tranh gian khổ anh
dũng của dân tộc Việt Nam. Cũng chính vào giờ phút y, Tổng
thống cuối ng của chế độ Việt Nam Cộng hòa Dương Văn
Minh cùng toàn bộ nội các của chính quyền Sài Gòn phải tuyên
bố đầu hàng điều kiện chính quyền cách mạng.
Từ ngày 16 đến ngày 21/11/1975, Dinh Độc Lập đã được chọn
làm nơi tổ chức Hội ngh Hiệp thương chính trị thống nhất hai
miền Nam Bắc trong một đất nước Việt Nam thống nhất. Tiếp
đó, các hội nghị hợp nhất các tổ chức quần chúng của cả nước
(Công đoàn, Thanh niên, Phụ nữ) cũng đã được tổ chức tại đây.
Để kỷ niệm các sự kiện chính trị đặc biệt này, Chính phủ đã
quyết định đổi tên Dinh Độc Lập thành Hội trường Thống Nhất.
Ngày 25/6/1976, Bộ trưởng Bộ n hóa đã quyết định số
77A/VH-QĐ, xếp hạng Dinh Độc Lập di tích lịch sử quốc gia.
2. Kiến trúc Dinh Độc Lập
Dinh Ðộc Lập một công trình kiến trúc độc đáo của Kiến trúc
Ngô Viết Thụ. Dinh được khởi công xây dựng ngày
01/7/1962 khánh thành vào ngày 31/10/1966.
6
Khi thiết kế, kiến trúc N Viết Th muốn tìm một ý nghĩa
văn hóa cho công trình nên mọi sự xếp đặt từ bên trong nội thất
cho đến tiền diện bên ngoài, tất c đều tượng trưng cho triết
cổ truyền, nghi lễ phương Đông tính của dân tộc, kết hợp
hài h với nghệ thuật kiến trúc hiện đại.
Toàn thể nh diện của Dinh làm thành hình chữ CÁT ( )
nghĩa tốt nh, may mắn; Tâm của Dinh vị trí phòng Trình
quốc thư; Lầu thượng Tứ phương sự lầu hình ch KHẨU
( ) để đ cao giáo dục tự do ngôn luận. Hình chữ KHẨU
( ) cột cờ chính giữa sổ dọc tạo thành hình chữ TRUNG
( ) như nhắc nhở muốn n chủ thì phải trung kiên. Nét
gạch ngang được tạo bởi mái hiên lầu tứ phương, bao lơn danh
dự mái hiên lối vào tiền sảnh tạo thành hình chữ TAM ( ),
theo quan niệm dân ch hữu tam viết nhân, viết minh, viết võ, ý
mong muốn một đất ớc hưng thịnh thì phải những con
người hội đ 3 yếu tố Nhân, Minh, Võ. Ba nét gạch ngang này
được nối liền nét sổ dọc tạo thành hình chữ VƯƠNG ( ), trên
kỳ đài làm thành nét chấm tạo thành hình ch CHỦ ( )
tượng trưng cho chủ quyền đất nước. Mặt trước của dinh thự,
toàn bộ bao lơn lầu 2 lầu 3 kết hợp với mái hiên lối vào chính
cùng 2 cột bọc gỗ phía dưới mái hiên tạo thành hình chữ HƯNG
( ) ý cầu chúc cho nước nhà được ng thịnh mãi.
7
Hình 1: Ý nghĩa kiến trúc n ngoài Dinh Độc Lập (Nguồn:
internet)
Dinh Độc Lập diện ch 120.000m² (300m x 400m), được
giới hạn bởi bốn trục đường chính đó là:
Ðường Nam K Khởi Nghĩa phía Ðông Bắc (mặt chính của
Dinh)
Ðường Huyền Trân Công Chúa phía Tây Nam (mặt sau của
Dinh)
Ðường Nguyễn Thị Minh Khai phía Tây Bắc (phía bên trái
Dinh)
Ðường Nguyễn Du phía Ðông Nam (phía n phải Dinh)
8
Hình 2: đồ Dinh Độc lập (Nguồn: internet)
Dinh rộng 4.500 m2, diện tích sử dụng 20.000 m2, gồm 3 tầng
chính, sân thượng, 2 gác lửng, tầng nền, 2 tầng hầm một sân
thượng cho máy bay trực thăng. Hơn 100 căn phòng của dinh
được trang trí theo phong cách khác nhau tùy theo mục đích sử
dụng bao gồm các phòng khánh tiết, phòng họp hội đồng nội các,
phòng làm việc của Tổng thống của Phó tổng thống, phòng
trình ủy nhiệm thư, phòng đại yến…
Dinh cao 26 m, tọa lạc trong khuôn viên rợp bóng y. Giữa
những năm 1960, đây công trình quy lớn nhất miền
Nam chi phí xây dựng cao nhất (150.000 lượng vàng).
Tầng hầm chịu được oanh kích của bom lớn pháo. Mặt tiền
dinh được trang trí ch điệu c đốt mành trúc phỏng theo
phong cách các bức mành của các ngôi nhà Việt họa tiết các
ngôi chùa cổ tại Việt Nam.
9
Hình 3: Dinh Độc lập (Nguồn: nhóm chụp)
Hình 4: Phong cách các bức mành của Dinh Độc lập (Nguồn:
internet)
Sân trước của Dinh một thảm c hình oval đường kính
102m. Màu xanh của thảm cỏ tạo ra một cảm giác êm dịu, sảng
10
khoái cho khách ngay khi bước qua cổng.
Hình 5: Sân trước Dinh Độc lập (Nguồn: nhóm chụp)
Ngoài ra, góc trái Dinh phía đường Nguyễn Thị Minh Khai
còn một nhà t giác đường kính 4m, y trên một đất cao,
xung quanh không xây tường, mái ngói cong cổ kính làm nơi
hóng mát, t giãn.
11
Hình 6: Nhà bát giác (Nguồn: internet)
Xung quanh Dinh những bãi cỏ xanh mướt, vườn cây cổ thụ,
những chậu cây kiểng quý, sân quần vợt phía sau khu nhà chính
nhà hàng cafe phục vụ du khách tham quan.
12
Hình 7: Bãi cỏ xanh mướt xung quanh Dinh (Nguồn: internet)
Hình 8: N hàng cafe 30/4 trong khuôn viên Dinh (Nguồn:
13
internet)
Hình 9: Sân quần vợt phía sau khu nhà chính (Nguồn: internet)
3. Đặc điểm nổi bật bên trong của Dinh Độc lập
Dinh Độc Lập được chia thành ba khu vực độc lập nhau, bao
gồm: khu cố định, khu chuyên đề khu bổ sung. Mỗi khu vực
mang những đặc điểm riêng, tạo cho du khách những trải
nghiệm khác nhau để khám phá.
Khu cố định: Dinh được xây dựng trên thiết kế của kiến trúc
Ngô Viết Thụ gồm 3 tầng chính, 1 sân thượng, 2 gác lửng, tầng
nền, 2 tầng hầm và một n thượng cho máy bay trực thăng đáp
xuống. Trong Dinh hơn 100 n phòng được trang trí theo
từng phong cách riêng biệt, gồm phòng nội các, phòng đại yến,
phòng khánh tiết, phòng tiếp khách tổng thống, phòng họp hội
đồng an ninh quốc gia, phòng trình quốc thư, khu gia đình tổng
thống, phòng tham mưu tác chiến .... Đây nơi mà chính quyền
xưa dùng đ làm việc sinh hoạt.
14
Phòng Đại Yến: đây diễn ra những buổi yến tiệc sang trọng
để chiêu đãi những vị khách đặc biệt của tổng thống Nguyễn
Văn Thiệu. Màu chủ đạo màu vàng theo quan niệm phương
Đông thì ý nghĩa màu vàng màu của vua chúa, màu
của hoàng gia nó giúp cho không gian của phòng tiệc sang
trọng hơn. u vàng giúp cho thực khách cảm giác ngon miệng
n.
Hình 10: Phòng Đại Yến (Nguồn: internet)
Phòng Khánh Tiết: căn phòng diện tích lớn nhất của c
Dinh Độc Lập nằm ngay tầng trệt của Dinh. Với sức chứa thể
lên đến 500 người o cùng thời điểm. Màu đỏ chính là gam
màu chủ đạo ý nghĩa may mắn và quyền lực, m tăng thêm
tính trang trọng cho cả không gian. i đây diễn ra các cuộc
họp hội nghị cũng n những sự kiện quan trọng nhất của chính
quyền VNCH lúc bấy giờ. Ngày 21/4/1975 đây chính i
Tổng Thống chế độ đọc diễn văn từ chức ông Trần Văn
Hương n nắm quyền. Tháng 11/1975, Hội nghị hiệp thương đã
được tổ chức tại đây đ thống nhất 2 miền Nam Bắc chính từ
15
thời khắc lịch sử đó, Việt Nam chính thức trở thành một quốc
gia độc lập không còn bị chia cắt dưới sự lãnh đạo của đảng
cộng sản Việt Nam.
Hình 11: Phòng Khánh Tiết (Nguồn: internet)
Phòng họp Nội c: đây nơi diễn ra các cuộc họp nội các
định kỳ vào mỗi sáng thứ 4 hàng tuần giữa tổng thống Thiệu
các thành viên Nội Các của ông. Trong n phòng này 2 điểm
rất đặc trưng:
* Hình dáng của bàn họp: không phải tròn, vuông hay chữ nhật
hình oval với ý nghĩa tạo không khí gần i và tăng cường
sự thấu hiểu giữa các thành viên ban nội các lại với nhau.
* Màu xanh cây: màu chủ đạo của cả căn phòng. Từ màn cửa
cho đến thảm lót nền và da bọc ghế đều màu xanh cây tạo
không khí thoải mái, giảm đi sự ng thẳng cho c thành viên
ban nội các trong những cuộc họp kéo dài.
+Phòng làm việc của Tổng Thống: ngày 24/3/1975, từ phòng
làm việc của nh, Tổng Thống Thiệu viết thư tay cho Tổng
Thống M lúc bấy giờ Ford yêu cầu Mỹ cho y bay B52
oanh tạc vào các điểm đóng quân của quân giải phóng khẩn
16
cấp viện trợ những phương tiện cần thiết để ngăn chặn đẩy
lùi các cuộc tiến công của quân giải phóng. Phía sau bàn làm
việc trang trí bức tranh sơn dầu do họa Phạm vẽ cảnh cầu
Tri Thủy vùng biển Ninh Chữ, Phan Rang. Đây quê hương
của ông Thiệu. Góc phải của phòng bức tranh thêu tay trên
nền nhung đ với hình nh chim hạc đậu trên cây tùng biểu ý
cho câu chúc thọ. Đó q tặng của Đại tướng Mul Hien The
thuộc lục quân đại hàn dân quốc tặng cho Tổng thống Việt Nam
Cộng Hòa nhân cuộc họp cấp cap tham u cao 1971. Bên trái
một cánh cửa màu nâu, đó cầu thang dẫn xuống tầng hầm
mỗi khi chiến sự xảy ra.
Hình 12: Phòng họp Nội Các (Nguồn: internet)
Phòng làm việc của Tổng Thống: Ngày 24/3/1975, từ phòng
làm việc của mình, Tổng Thống Thiệu viết thư tay cho Tổng
Thống Mỹ c bấy giờ Ford yêu cầu Mỹ cho máy bay B52
oanh tạc vào các điểm đóng quân của quân giải phóng khẩn
cấp viện trợ những phương tiện cần thiết để ngăn chặn đẩy
lùi các cuộc tiến công của quân giải phóng. Phía sau bàn làm
việc trang trí bức tranh sơn dầu do họa Phạm vẽ cảnh cầu
17
Tri Thủy vùng biển Ninh Chữ, Phan Rang. Đây quê hương
của ông Thiệu. Góc phải của phòng bức tranh thêu tay trên
nền nhung đ với hình nh chim hạc đậu trên cây tùng biểu ý
cho câu chúc thọ. Đó quà tặng của Đại tướng Mul Hien The
thuộc lục quân đại hàn dân quốc tặng cho Tổng thống Việt Nam
Cộng Hòa nhân cuộc họp cấp cap tham mưu cao 1971. Bên trái
một cánh cửa màu nâu, đó là cầu thang dẫn xuống tầng hầm
mỗi khi chiến sự xảy ra.
Hình 13: Phòng làm việc của Tổng Thống (Nguồn: nhóm chụp)
Phòng tiếp khách Tống Thống: i tiếp khách của Tổng
thống gồm hai phòng thông nhau. Trong phòng đầu tiên, ghế
của Tổng thống được đặt cao hơn c ghế khác. Phía sau tấm
gỗ lớn ợng trưng cho quốc kỳ Việt Nam Cộng hòa. Đối diện
ghế Tổng thống ghế của thượng khách. C hai ghế này đều
được chạm đầu rồng. Những ghế n lại chạm đầu phụng hoặc
chữ “Thọ dành cho t phụ tá. Phòng bên cạnh bài t
đơn giản hơn, các ghế đặt ngang bằng nhau. Hai tủ n mài
“Mai Lan”, Cúc Trúc do trang trí gia Nguyễn n Triêm thc
18
hiện năm 1966. T 19 đến 23/10/1972, tại đây Henry Kissinger -
Cố vấn an ninh Quốc gia Hoa Kỳ đã 6 cuộc họp với Tổng
thống Nguyễn Văn Thiệu nhằm thuyết phục chính quyền i
Gòn ký vào hiệp định chấm dứt chiến tranh nhưng không đem
lại kết quả. Hiệp định được vào tháng 1/1973 tại Paris.
Hình 14: Phòng tiếp khách Tổng Thống (Nguồn: internet)
Phòng họp hội đồng an ninh quốc gia: Nơi Tổng thống họp
bàn với các tướng lĩnh cố vấn quân sự Hoa kỳ. Xung quanh
tường bản đồ một số nước, đặc biệt các bản đồ phản ánh
tình hình chiến sự Việt Nam. 9 giờ 30 ngày 25/3/1975, trước
sức tiến công của quân Giải phóng, tại đây Tổng thống Nguyễn
Văn Thiệu ra lệnh cho lệnh Quân đoàn I - Trung tướng Ngô
Quang Trưởng rút quân khỏi Huế v cố thủ Đà Nẵng. Trong
hoàn cảnh đó, Tổng thống Hoa Kỳ Gerald Ford cử phái đoàn do
Tham mưu trưởng Lục quân Frederick C.Weyand dẫn đầu sang
xem xét tình hình chiến sự. Ngày 3/4/1975, phái đoàn đã họp
với Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu các tướng về việc cứu
vãn tình hình quân sự miền Nam Việt Nam.
19

Preview text:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BÀI TIỂU LUẬN THAM QUAN DINH ĐỘC LÂP
MÔN: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Giảng viên hướng dẫn: : Đinh Thị Nguyệt Nga
Nhóm sinh viên thực hiện:
Phan Thị Mỹ Xuyên: 2157050414 Hồ Lê Kỳ Vỹ: 2153013139
Phan Ngọc Thu Uyên: 2157050384
Nguyễn Thiện Mỹ Uyên: 2157050383
TP. Hồ Chí Minh, ngày 03 tháng 09 năm 2023 MỤC LỤC LỜI CẢM ƠN 2 LỜI NÓI ĐẦU 3
PHẦN A: NỘI DUNG----------------------------4 1. Lịch sử hình thành 4
2. Kiến trúc Dinh Độc Lập-----------------------6
3. Đặc điểm nổi bật bên trong của Dinh Độc lập 14
4. Những hiện vật còn sót lại trong Dinh Độc Lập 23
PHẦN B: CẢM NHẬN CỦA NHÓM--------32 1 LỜI CẢM ƠN
Lời nói đầu tiên, nhóm em xin chân thành cảm ơn đến Trường
Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Mình đã tạo điều kiện cho chúng
em tham quan, tìm hiểu về Dinh Độc Lập để có một cái nhìn
tổng quan giá trị lịch sử của Dinh.
Cảm ơn cô Đinh Thị Nguyệt Nga đã hướng dẫn và đồng hành
cùng chúng em trong chuyến thăm Dinh Độc Lập. Đặc biệt cảm
ơn những kiến thức quan trọng, quý báu về môn Lịch sử Đảng
Cộng Sản Việt Nam mà cô truyền đạt trong các buổi học.
Trong quá trình học tập, chúng em đã rất cố gắng nhưng do hạn
chế về mặc thời gian và điều kiện khi tham quan Dinh nên
không tránh khỏi sai sót phần nào. Rất mong nhận được ý kiến
đóng góp của cô để nhóm nhìn nhận và hoàn thiện hơn ở các đề tài liên quan. 2 LỜI NÓI ĐẦU
Dinh Độc Lập là một trong những công trình kiến trúc độc đáo
và nổi tiếng bậc nhất thành phố Hồ Chí Minh, đã tồn tại hơn 150
năm. Công trình được ông La Grandière, viên Thống đốc Pháp
tại miền Nam Việt Nam, đặt viên đá khởi công xây dựng vào
năm 1868 và hoàn tất vào năm 1871.
Dinh Độc Lập được công nhận là Di tích lịch sử văn hóa quốc
gia vào năm 1976. Đến năm 2009, Dinh Độc Lập được xếp hạng
là một trong mười Di tích quốc gia đặc biệt đầu tiên củaViệt
Nam. Nơi đây đã chứng kiến rất nhiều sự kiện lịch sử, thăng
trầm của đất nước, đặc biệt là sự kiện Giải phóng miền Nam
thống nhất đất nước vào ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Ngày Giải phóng miền Nam thống nhất đất nước 30/4 là một
dấu ấn sâu sắc của đất nước con người Việt Nam. Sự kiện lịch
sử cắm lá cờ Mặt trận dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam
trên nóc Dinh Độc Lập là khoảnh khắc thiêng liêng của dân tộc,
kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Giờ
đây nơi đây vẫn hiện hữu giữa lòng thành phố như một minh
chứng cho lịch sử hào hùng của dân tộc. Dinh Độc Lập là một
trong những công trình kiến trúc nổi tiếng ở thành phố Hồ Chí
Minh. Năm 1976 nơi đây được công nhận là Di tích lịch sử văn
hoá quốc gia. Năm 2009, Dinh Độc Lập được xếp hạng là Di
tích quốc gia đặc biệt của Việt Nam. Nhờ vào chuyến thăm Dinh
Độc Lập chúng em đã có thêm những kiến thức để làm bài báo cáo sau đây. 3 PHẦN A: NỘI DUNG
1. Lịch sử hình thành
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng tấn công Ðà Nẵng mở đầu
cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Sau khi chiếm xong 6 tỉnh
Nam kỳ, năm 1868, chính quyền Pháp bắt đầu cho thiết kế và
xây dựng tại trung tâm Sài Gòn một Dinh thự làm nơi ở cho Thống đốc Nam kỳ.
Công trình do viên thống đốc Pháp tại miền Nam Việt Nam là
La Grandière đặt viên đá đầu tiên khởi công xây dựng ngày
23/2/1868. Theo sử liệu, do chiến tranh Pháp - Ðức (xảy ra năm
1870) nên công trình này kéo dài mãi đến năm 1873 mới xong,
riêng việc trang trí dinh phải kéo dài thêm 2 năm nữa. Sau khi
khánh thành, Dinh này được đặt tên là Dinh Norodom - tên một vị quốc vương Campuchia.
Từ khi xây xong cho đến 1887, dinh được dành cho Thống đốc
Nam kỳ ở (Gouverneur de la Cochinchine) nên còn gọi là Dinh
Thống đốc. Từ 1887 đến 1945, nhiều đời toàn quyền Pháp đã sử
dụng dinh thự này làm nơi ở và làm việc trong suốt thời kỳ xâm
lược Ðông Dương. Đây cũng là cơ quan biểu thị cho bộ máy cai
trị Pháp trên toàn cõi Ðông Dương.
Ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp, Dinh Norodom trở thành
nơi làm việc của chính quyền Nhật ở Việt Nam. Nhưng chỉ sáu
tháng sau, Nhật thất bại trong Thế chiến II, Pháp trở lại chiếm
Nam bộ, Dinh Norodom trở lại thành trụ sở làm việc của Pháp ở Việt Nam.
Ngày 07/5/1954, thực dân Pháp thất bại nặng nề trong chiến
dịch Ðiện Biên Phủ buộc phải ký Hiệp định Gienève và rút khỏi
Việt Nam. Mỹ tìm cách nhảy vào thực hiện ý đồ xâm chiếm
miền Nam, Việt Nam tạm thời bị chia cắt thành 2 miền, miền
Bắc là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, còn miền Nam là Quốc gia Việt Nam. 4
Ngày 07/9/1954, Dinh Norodom được bàn giao giữa đại diện
chính phủ Pháp, Ðại tướng Paul Ely với đại diện chính quyền
Sài Gòn Thủ tướng Ngô Ðình Diệm. Ngô Ðình Diệm đã quyết
định đổi tên Dinh thành Dinh Ðộc Lập. Theo thuật phong thủy,
dinh được đặt ở vị trí đầu rồng, nên dinh cũng còn được gọi là Phủ đầu rồng.
Ngày 26/10/1955, Thủ tướng Ngô Đình Diệm đã truất phế Quốc
trưởng Bảo Đại, thành lập chính quyền Việt Nam Cộng hòa và
lên làm Tổng thống. Từ đó Dinh Ðộc Lập trở thành nơi ở của
gia đình Ngô Ðình Diệm và là nơi chứng kiến nhiều biến cố chính trị.
Ngày 27/02/1962, phe đảo chính đã cử hai viên phi công quân
đội Sài Gòn là Nguyễn Văn Cử và Phạm Phú Quốc lái 2 máy
bay AD6 ném bom làm sập toàn bộ phần chính cánh trái của
Dinh. Do không thể khôi phục lại, Ngô Ðình Diệm đã cho san
bằng và xây một dinh thự mới ngay trên nền đất cũ theo đồ án
thiết kế của Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ – người Việt Nam đầu
tiên đạt giải Khôi nguyên La Mã.
Dinh Độc Lập mới được khởi công xây dựng ngày 01/7/1962.
Trong thời gian xây dựng, gia đình Tổng thống Ngô Đình Diệm
tạm thời chuyển sang sống tại Dinh Gia Long (nay là trụ sở của
Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh). Công trình đang xây dựng
dở dang thì Ngô Đình Diệm bị phe đảo chính ám sát ngày 02/11/1963.
Ngày khánh thành Dinh 31/10/1966, người chủ tọa buổi lễ là
Nguyễn Văn Thiệu, Chủ tịch Uỷ ban lãnh đạo quốc gia. Mặc dù
Ngô Ðình Diệm là người khởi xướng xây dựng Dinh Ðộc Lập
nhưng ông ta không được sống ở đây một ngày nào, mà người
có thời gian sống ở Dinh thự này lâu nhất là Tổng thống Đệ nhị
Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Văn Thiệu (từ tháng 10/1967 đến 21/4/1975). 5
Ngày 8/4/1975, máy bay F-5E do phi công Nguyễn Thành
Trung lái, xuất phát từ Biên Hòa, đã ném bom dinh gây hư hại
không đáng kể. Một trái bom rơi cạnh sân trực thăng trên nóc
dinh nhưng chỉ nổ phần đầu cắm xuống làm lún sạt một khoảng
nhỏ. Đây là lần thứ hai trong lịch sử Dinh Độc Lập bị đánh bom.
10h45’ ngày 30/4/1975, xe tăng mang số hiệu 843 của quân giải
phóng thuộc Ðại đội 4, Tiểu đoàn 1, Lữ đoàn xe tăng 203, Quân
đoàn 2 dẫn đầu đội hình đã húc nghiêng cổng phụ của Dinh Ðộc
Lập, tiếp đó xe tăng mang số hiệu 390 đã húc tung cổng chính tiến thẳng vào Dinh.
11h30’ cùng ngày, Trung úy Bùi Quang Thận – Ðại đội trưởng
chỉ huy xe tăng 843 đã hạ lá cờ 3 sọc xuống, kéo lá cờ mặt trận
dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam lên. Cờ phấp phới tung
bay trên nóc Dinh, kết thúc 30 năm chiến tranh gian khổ và anh
dũng của dân tộc Việt Nam. Cũng chính vào giờ phút này, Tổng
thống cuối cùng của chế độ Việt Nam Cộng hòa là Dương Văn
Minh cùng toàn bộ nội các của chính quyền Sài Gòn phải tuyên
bố đầu hàng vô điều kiện chính quyền cách mạng.
Từ ngày 16 đến ngày 21/11/1975, Dinh Độc Lập đã được chọn
làm nơi tổ chức Hội nghị Hiệp thương chính trị thống nhất hai
miền Nam Bắc trong một đất nước Việt Nam thống nhất. Tiếp
đó, các hội nghị hợp nhất các tổ chức quần chúng của cả nước
(Công đoàn, Thanh niên, Phụ nữ) cũng đã được tổ chức tại đây.
Để kỷ niệm các sự kiện chính trị đặc biệt này, Chính phủ đã
quyết định đổi tên Dinh Độc Lập thành Hội trường Thống Nhất.
Ngày 25/6/1976, Bộ trưởng Bộ Văn hóa đã ký quyết định số
77A/VH-QĐ, xếp hạng Dinh Độc Lập là di tích lịch sử quốc gia.
2. Kiến trúc Dinh Độc Lập
Dinh Ðộc Lập là một công trình kiến trúc độc đáo của Kiến trúc
sư Ngô Viết Thụ. Dinh được khởi công xây dựng ngày
01/7/1962 và khánh thành vào ngày 31/10/1966. 6
Khi thiết kế, kiến trúc sư Ngô Viết Thụ muốn tìm một ý nghĩa
văn hóa cho công trình nên mọi sự xếp đặt từ bên trong nội thất
cho đến tiền diện bên ngoài, tất cả đều tượng trưng cho triết lý
cổ truyền, nghi lễ phương Đông và cá tính của dân tộc, kết hợp
hài hoà với nghệ thuật kiến trúc hiện đại.
Toàn thể bình diện của Dinh làm thành hình chữ CÁT ( 吉 ) có
nghĩa là tốt lành, may mắn; Tâm của Dinh là vị trí phòng Trình
quốc thư; Lầu thượng là Tứ phương vô sự lầu hình chữ KHẨU
(口 ) để đề cao giáo dục và tự do ngôn luận. Hình chữ KHẨU
(口 ) có cột cờ chính giữa sổ dọc tạo thành hình chữ TRUNG
( 中 ) như nhắc nhở muốn có dân chủ thì phải trung kiên. Nét
gạch ngang được tạo bởi mái hiên lầu tứ phương, bao lơn danh
dự và mái hiên lối vào tiền sảnh tạo thành hình chữ TAM ( 三 ),
theo quan niệm dân chủ hữu tam viết nhân, viết minh, viết võ, ý
mong muốn một đất nước hưng thịnh thì phải có những con
người hội đủ 3 yếu tố Nhân, Minh, Võ. Ba nét gạch ngang này
được nối liền nét sổ dọc tạo thành hình chữ VƯƠNG ( 王 ), trên
có kỳ đài làm thành nét chấm tạo thành hình chữ CHỦ ( 主 )
tượng trưng cho chủ quyền đất nước. Mặt trước của dinh thự,
toàn bộ bao lơn lầu 2 và lầu 3 kết hợp với mái hiên lối vào chính
cùng 2 cột bọc gỗ phía dưới mái hiên tạo thành hình chữ HƯNG
( 興 ) ý cầu chúc cho nước nhà được hưng thịnh mãi. 7
Hình 1: Ý nghĩa kiến trúc bên ngoài Dinh Độc Lập (Nguồn: internet)
Dinh Độc Lập có diện tích 120.000m² (300m x 400m), được
giới hạn bởi bốn trục đường chính đó là:
• Ðường Nam Kỳ Khởi Nghĩa ở phía Ðông Bắc (mặt chính của Dinh)
• Ðường Huyền Trân Công Chúa ở phía Tây Nam (mặt sau của Dinh)
• Ðường Nguyễn Thị Minh Khai ở phía Tây Bắc (phía bên trái Dinh)
• Ðường Nguyễn Du ở phía Ðông Nam (phía bên phải Dinh) 8
Hình 2: Sơ đồ Dinh Độc lập (Nguồn: internet)
Dinh rộng 4.500 m2, diện tích sử dụng 20.000 m2, gồm 3 tầng
chính, sân thượng, 2 gác lửng, tầng nền, 2 tầng hầm và một sân
thượng cho máy bay trực thăng. Hơn 100 căn phòng của dinh
được trang trí theo phong cách khác nhau tùy theo mục đích sử
dụng bao gồm các phòng khánh tiết, phòng họp hội đồng nội các,
phòng làm việc của Tổng thống và của Phó tổng thống, phòng
trình ủy nhiệm thư, phòng đại yến…
Dinh cao 26 m, tọa lạc trong khuôn viên rợp bóng cây. Giữa
những năm 1960, đây là công trình có quy mô lớn nhất miền
Nam và có chi phí xây dựng cao nhất (150.000 lượng vàng).
Tầng hầm chịu được oanh kích của bom lớn và pháo. Mặt tiền
dinh được trang trí cách điệu các đốt mành trúc phỏng theo
phong cách các bức mành của các ngôi nhà Việt và họa tiết các
ngôi chùa cổ tại Việt Nam. 9
Hình 3: Dinh Độc lập (Nguồn: nhóm chụp)
Hình 4: Phong cách các bức mành của Dinh Độc lập (Nguồn: internet)
Sân trước của Dinh là một thảm cỏ hình oval có đường kính
102m. Màu xanh của thảm cỏ tạo ra một cảm giác êm dịu, sảng 10
khoái cho khách ngay khi bước qua cổng.
Hình 5: Sân trước Dinh Độc lập (Nguồn: nhóm chụp)
Ngoài ra, ở góc trái Dinh phía đường Nguyễn Thị Minh Khai
còn có một nhà bát giác đường kính 4m, xây trên một gò đất cao,
xung quanh không xây tường, mái ngói cong cổ kính làm nơi hóng mát, thư giãn. 11
Hình 6: Nhà bát giác (Nguồn: internet)
Xung quanh Dinh là những bãi cỏ xanh mướt, vườn cây cổ thụ,
những chậu cây kiểng quý, sân quần vợt phía sau khu nhà chính
và nhà hàng cafe phục vụ du khách tham quan. 12
Hình 7: Bãi cỏ xanh mướt xung quanh Dinh (Nguồn: internet)
Hình 8: Nhà hàng cafe 30/4 trong khuôn viên Dinh (Nguồn: 13 internet)
Hình 9: Sân quần vợt phía sau khu nhà chính (Nguồn: internet)
3. Đặc điểm nổi bật bên trong của Dinh Độc lập
Dinh Độc Lập được chia thành ba khu vực độc lập nhau, bao
gồm: khu cố định, khu chuyên đề và khu bổ sung. Mỗi khu vực
mang những đặc điểm riêng, tạo cho du khách những trải
nghiệm khác nhau để khám phá.
Khu cố định: Dinh được xây dựng trên thiết kế của kiến trúc sư
Ngô Viết Thụ gồm 3 tầng chính, 1 sân thượng, 2 gác lửng, tầng
nền, 2 tầng hầm và một sân thượng cho máy bay trực thăng đáp
xuống. Trong Dinh có hơn 100 căn phòng được trang trí theo
từng phong cách riêng biệt, gồm phòng nội các, phòng đại yến,
phòng khánh tiết, phòng tiếp khách tổng thống, phòng họp hội
đồng an ninh quốc gia, phòng trình quốc thư, khu gia đình tổng
thống, phòng tham mưu tác chiến . . Đây là nơi mà chính quyền
xưa dùng để làm việc và sinh hoạt. 14
Phòng Đại Yến: ở đây diễn ra những buổi yến tiệc sang trọng
để chiêu đãi những vị khách đặc biệt của tổng thống Nguyễn
Văn Thiệu. Màu chủ đạo là màu vàng vì theo quan niệm phương
Đông thì nó có ý nghĩa là màu vàng là màu của vua chúa, là màu
của hoàng gia và nó giúp cho không gian của phòng tiệc sang
trọng hơn. Màu vàng giúp cho thực khách cảm giác ngon miệng hơn.
Hình 10: Phòng Đại Yến (Nguồn: internet)
Phòng Khánh Tiết: căn phòng có diện tích lớn nhất của cả
Dinh Độc Lập nằm ngay tầng trệt của Dinh. Với sức chứa có thể
lên đến 500 người vào cùng thời điểm. Màu đỏ chính là gam
màu chủ đạo có ý nghĩa may mắn và quyền lực, làm tăng thêm
tính trang trọng cho cả không gian. Nơi đây diễn ra các cuộc
họp hội nghị cũng như những sự kiện quan trọng nhất của chính
quyền VNCH lúc bấy giờ. Ngày 21/4/1975 đây chính là nơi
Tổng Thống chế độ cũ đọc diễn văn từ chức và ông Trần Văn
Hương lên nắm quyền. Tháng 11/1975, Hội nghị hiệp thương đã
được tổ chức tại đây để thống nhất 2 miền Nam Bắc và chính từ 15
thời khắc lịch sử đó, Việt Nam chính thức trở thành một quốc
gia độc lập không còn bị chia cắt dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản Việt Nam.
Hình 11: Phòng Khánh Tiết (Nguồn: internet)
Phòng họp Nội Các: đây là nơi diễn ra các cuộc họp nội các
định kỳ vào mỗi sáng thứ 4 hàng tuần giữa tổng thống Thiệu và
các thành viên Nội Các của ông. Trong căn phòng này có 2 điểm rất đặc trưng:
* Hình dáng của bàn họp: không phải tròn, vuông hay chữ nhật
mà là hình oval với ý nghĩa tạo không khí gần gũi và tăng cường
sự thấu hiểu giữa các thành viên ban nội các lại với nhau.
* Màu xanh lá cây: màu chủ đạo của cả căn phòng. Từ màn cửa
cho đến thảm lót nền và da bọc ghế đều màu xanh lá cây tạo
không khí thoải mái, giảm đi sự căng thẳng cho các thành viên
ban nội các trong những cuộc họp kéo dài.
+Phòng làm việc của Tổng Thống: ngày 24/3/1975, từ phòng
làm việc của mình, Tổng Thống Thiệu viết thư tay cho Tổng
Thống Mỹ lúc bấy giờ là Ford yêu cầu Mỹ cho máy bay B52
oanh tạc vào các điểm đóng quân của quân giải phóng và khẩn 16
cấp viện trợ những phương tiện cần thiết để ngăn chặn và đẩy
lùi các cuộc tiến công của quân giải phóng. Phía sau bàn làm
việc trang trí bức tranh sơn dầu do họa sĩ Phạm Cơ vẽ cảnh cầu
Tri Thủy ở vùng biển Ninh Chữ, Phan Rang. Đây là quê hương
của ông Thiệu. Góc phải của phòng có bức tranh thêu tay trên
nền nhung đỏ với hình ảnh chim hạc đậu trên cây tùng biểu ý
cho câu chúc thọ. Đó là quà tặng của Đại tướng Mul Hien The
thuộc lục quân đại hàn dân quốc tặng cho Tổng thống Việt Nam
Cộng Hòa nhân cuộc họp cấp cap tham mưu cao 1971. Bên trái
có một cánh cửa màu nâu, đó là cầu thang dẫn xuống tầng hầm
mỗi khi chiến sự xảy ra.
Hình 12: Phòng họp Nội Các (Nguồn: internet)
Phòng làm việc của Tổng Thống: Ngày 24/3/1975, từ phòng
làm việc của mình, Tổng Thống Thiệu viết thư tay cho Tổng
Thống Mỹ lúc bấy giờ là Ford yêu cầu Mỹ cho máy bay B52
oanh tạc vào các điểm đóng quân của quân giải phóng và khẩn
cấp viện trợ những phương tiện cần thiết để ngăn chặn và đẩy
lùi các cuộc tiến công của quân giải phóng. Phía sau bàn làm
việc trang trí bức tranh sơn dầu do họa sĩ Phạm Cơ vẽ cảnh cầu 17
Tri Thủy ở vùng biển Ninh Chữ, Phan Rang. Đây là quê hương
của ông Thiệu. Góc phải của phòng có bức tranh thêu tay trên
nền nhung đỏ với hình ảnh chim hạc đậu trên cây tùng biểu ý
cho câu chúc thọ. Đó là quà tặng của Đại tướng Mul Hien The
thuộc lục quân đại hàn dân quốc tặng cho Tổng thống Việt Nam
Cộng Hòa nhân cuộc họp cấp cap tham mưu cao 1971. Bên trái
có một cánh cửa màu nâu, đó là cầu thang dẫn xuống tầng hầm
mỗi khi chiến sự xảy ra.
Hình 13: Phòng làm việc của Tổng Thống (Nguồn: nhóm chụp)
Phòng tiếp khách Tống Thống: Nơi tiếp khách của Tổng
thống gồm hai phòng thông nhau. Trong phòng đầu tiên, ghế
của Tổng thống được đặt cao hơn các ghế khác. Phía sau là tấm
gỗ lớn tượng trưng cho quốc kỳ Việt Nam Cộng hòa. Đối diện
ghế Tổng thống là ghế của thượng khách. Cả hai ghế này đều
được chạm đầu rồng. Những ghế còn lại chạm đầu phụng hoặc
chữ “Thọ” dành cho thư ký và phụ tá. Phòng bên cạnh bài trí
đơn giản hơn, các ghế đặt ngang bằng nhau. Hai tủ sơn mài
“Mai Lan”, “Cúc Trúc” do trang trí gia Nguyễn Văn Triêm thực 18
hiện năm 1966. Từ 19 đến 23/10/1972, tại đây Henry Kissinger -
Cố vấn an ninh Quốc gia Hoa Kỳ đã có 6 cuộc họp với Tổng
thống Nguyễn Văn Thiệu nhằm thuyết phục chính quyền Sài
Gòn ký vào hiệp định chấm dứt chiến tranh nhưng không đem
lại kết quả. Hiệp định được ký vào tháng 1/1973 tại Paris.
Hình 14: Phòng tiếp khách Tổng Thống (Nguồn: internet)
Phòng họp hội đồng an ninh quốc gia: Nơi Tổng thống họp
bàn với các tướng lĩnh và cố vấn quân sự Hoa kỳ. Xung quanh
tường là bản đồ một số nước, đặc biệt có các bản đồ phản ánh
tình hình chiến sự ở Việt Nam. 9 giờ 30 ngày 25/3/1975, trước
sức tiến công của quân Giải phóng, tại đây Tổng thống Nguyễn
Văn Thiệu ra lệnh cho tư lệnh Quân đoàn I - Trung tướng Ngô
Quang Trưởng rút quân khỏi Huế về cố thủ Đà Nẵng. Trong
hoàn cảnh đó, Tổng thống Hoa Kỳ Gerald Ford cử phái đoàn do
Tham mưu trưởng Lục quân Frederick C.Weyand dẫn đầu sang
xem xét tình hình chiến sự. Ngày 3/4/1975, phái đoàn đã họp
với Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và các tướng về việc cứu
vãn tình hình quân sự ở miền Nam Việt Nam. 19