lOMoARcPSD| 58540065
I. Tóm tắt bản án:
Bản án số 30/2023/HS-ST: được Tòa án Nhân dân Thị Bỉm Sơn, Tỉnh Thanh
Hóa tuyên vào ngày 30/8/2023, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự đối với hai
bị cáo là Trần Văn T Trương Kim H.
Bị cáo:
1. Trần Văn T: sinh ngày 10/10/1985; Nơi cư trú: tổ 6, phường A, thành phố T,
tỉnh T; Tiền án: Không; Tiền sự: Không.
2. Trương Kim H: sinh ngày 07/7/1997; Nơi cư trú: Số nhà 09, đường N, thôn
Y, xã T, huyện T, thành phố H; Tiền án: Không; Tiền sự: Không.
Bị hại: chị Hồ Thị T, sinh năm 1980; địa chỉ: khu phố 4, phường B, thị xã B, tỉnh
T.
Khoảng cuối năm 2021, Trần Văn T tham gia hội nhóm zalo tên “Đọc sách để
phát triển tư duy”, nhận thấy một số người có nhu cầu mua đô la Mỹ nên T nảy sinh
ý định giả làm người bán đô la Mỹ giá rẻ để chiếm đoạt tiền. T đã lập một tài khoản
zalo có tên “Chuyên Bot Uy Tín” với mục đích đóng giả làm người bán đô la Mỹ để
nói chuyện với khách hàng và rủ Trương Kim H cùng thực hiện, thống nhất sẽ chia
đều số tiền chiếm đoạt được (50/50). Lợi dụng nhu cầu của chị HThị T, ngày
02/06/2022 T đã lừa chị mua 2.500 đô la Mỹ với giá 01 đô la Mỹ bằng 23.600 đồng
tiền Việt Nam, tổng số tiền là: 59.000.000đ (Năm mươi chín triệu đồng chẵn). H đã
cung cấp tài khoản ngân hàng MB số 6888807071997 để chị T chuyển tiền vào. Sau
khi nhận được 59.000.000 đồng, T và H đã chia nhau số tiền này, trong đón T nhận
42.000.000 đồng H giữ lại 17.000.000 đồng. Cả hai đã tiêu xài nhân hết số tiền
chiếm đoạt được. Khi biết chị đang tìm người lừa đảo số tiền của mình, T đã chuyển
42.000.000 đồng cho H để che giấu hành vi phạm tội xóa tài khoản zalo “Chuyên
Bot Uy Tín”. Cả hai bị cáo sau đó đã đến Công an thị xã Bỉm Sơn đầu thú và thành
khẩn khai báo.
Vật chứng:
- 01 (một) điện thoại nhãn hiệu Iphone 13 Promax, màu xanh (thu của Trương Kim
H).
- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Huawei, màu (thu của Trần Văn T).
II. Phân tích:
1. Hành vi phạm tội:
Trần Văn T Trương Kim H đã dùng thủ đoạn gian dối, chiếm đoạt số tiền
lOMoARcPSD| 58540065
59.000.000 đồng, đủ yếu tố cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm c
khoản 2 Điều 174 BLHS 2015, SDBS 2027:
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm
đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
d) Tái phạm nguy hiểm;
đ) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
e) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
g) (được bãi bỏ)
- Trần Văn T có vai trò chủ mưu, tích cực thực hiện hành vi lừa đảo (tạo tài
khoản zalo giả và trực tiếp thực hiện hành vi gian dối, dẫn dụ bị hại).
- Trương Kim H là người giúp sức, có vai trò thứ yếu trong vụ án (cung cấp
tài khoản ngân hàng để nhận tiền).
=> Do đó hai bị cáo Trần Văn T và Trương Kim H bị truy tố xét xử về tội “Lừa
đảo và chiếm đoạt tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 174 BLHS 2015, SDBS 2027
là hoàn toàn chính xác và có căn cứ. 2. Tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ TNHS:
- Tình tiết tăng nặng TNHS: Tòa án nhận định các bị cáo Không có tình tiết
tăng nặng.
- Tình tiết giảm nhẹ TNHS: Cả hai bị cáo đều có nhiều tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 BLHS
thành khẩn khai báo, thực sự ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, ra đầu
thú, tự nguyện bồi thường và bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt nên áp dụng
khoản 1 điều 54 BLHS 2015 SDBS 2017 giảm nhẹ cho các bị cáo một phần hình
phạt và cho hưởng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt.
Điều 51. Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
1. Các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
a) Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;
b) Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục
hậu quả;
c) Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;
d) Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;
lOMoARcPSD| 58540065
đ) Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người
phạm tội;
e) Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp
luật của nạn nhân gây ra;
g) Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây
ra;
h) Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;
i) Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;
k) Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức;
l) Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải
do lỗi của mình gây ra;
m) Phạm tội do lạc hậu;
n) Người phạm tội là phụ nữ có thai;
o) Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;
p) Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;
q) Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc
khảnăng điều khiển hành vi của mình; r) Người phạm tội tự thú;
s)[14] Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;
t)[15] Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm
trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án; u)
Người phạm tội đã lập công chuộc tội;
v) Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu,
học tập hoặc công tác;
x)[16] Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ,
chồng, con của liệt sĩ.
2. Khi quyết định hình phạt, Tòa án có thể coi đầu thú hoặc tình tiết khác là
tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ lý do giảm nhẹ trong bản án.
lOMoARcPSD| 58540065
Điều 54. Quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt
được áp dụng
1. Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung
hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn
của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định
tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật này.
=> TA đã vận dụng linh hoạt và đúng đắn các tình tiết giảm nhẹ, liệt kê đầy đủ các
tình tiết và từ đó áp dụng Điều 54 một cách hợp lí, cân nhắc, thể hiện nguyên tắc
nhân đạo và cho thấy được sự khoan hồng của pháp luật.
3. Hình phạt:
Hình phạt chính: Trần Văn T và Trương Kim H phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài
sản” theo điểm c khoản 2 Điều 174 Bộ luật hình sự.
- Trần Văn T 15 (mười lăm) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ
ngày 22.4.2023 căn cứ vào Điểm c khoản 2 Điều 174, điểm b, s khoản 1, khoản 2
Điều 51, khoản 1 điều 54, Điều 38, điều 17, điều 58 Bộ luật hình sự.
- Trương Kim H 14 (mười bốn) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là
28 (hai mươi tám) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm 30.8.2023 căn cứ vào
Điểm c khoản 2 Điều 174, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1 điều 54,
điều 38, khoản 1,2,5 điều 65, điều 17, điều 58 Bộ luật hình sự.
Hình phạt bổ sung: Bị cáo Trần Văn TTrương Kim H hiện nay không có công
ăn việc làm ổn định, điều kiện kinh tế khó khăn nên không áp dụng hình phạt bổ
sung theo quy định tại khoản 5 Điều 174 BLHS là phạt tiền đối với các bị cáo.
Về vật chứng: áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a khoản 2
Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước:
- 01 (một) điện thoại nhãn hiệu Iphone 13 Promax, màu xanh.
- 01(một) điện thoại di động nhãn hiệu HUAWEI, màu xanh.
Về bồi thường trách nhiệm dân sự: Miễn xét do các bị cáoTrần Văn T và Trương
Kim H đã tự nguyện bồi thường đủ số tiền 59.000.000 đồng cho bị hại.
Án phí: Mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sơ thẩm theo quy định pháp
luật.
Tình tiết có con nhỏ:
lOMoARcPSD| 58540065
Bản án có nêu Trương Kim H có 01 con sinh năm 2020. Đây là một tình tiết liên
quan đến nhân thân của bị cáo, đặc biệt là tình trạng gia đình. Trong thực tiễn xét
xử, việc bị cáo có con nhỏ (đặc biệt là con dưới 36 tháng tuổi) thường được xem
xét là một tình tiết giảm nhẹ đặc biệt theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Mặc
dù bản án đã viện dẫn khoản 2 Điều 51 BLHS khi quyết định hình phạt cho Trương
Kim H và cho H hưởng án treo, nhưng không nêu cụ thể "có con nhỏ" như một tình
tiết giảm nhẹ riêng biệt.
Việc H có con nhỏ sinh năm 2020 (tức là tính đến ngày tuyên án 30/8/2023, con
của H khoảng 3 tuổi) có thể là một trong những yếu tố quan trọng góp phần vào
quyết định cho H được hưởng án treo. Mặc dù không được ghi rõ là một tình tiết
giảm nhẹ riêng, nhưng tình tiết này có thể đã được Hội đồng xét xử ngầm cân nhắc
khi áp dụng khoản 2 Điều 51 và Điều 65 BLHS để đưa ra quyết định có lợi cho bị
cáo (án treo).
Muốn nhấn mạnh hơn nữa sự khoan hồng và xem xét toàn diện hoàn cảnh cho bị
cáo, việc bổ sung rõ ràng "Bị cáo Trương Kim H có con nhỏ (sinh năm 2020)" như
một tình tiết được cân nhắc khi áp dụng khoản 2 Điều 51 BLHS, bên cạnh các tình
tiết đã nêu (thành khẩn khai báo, ra đầu thú, bồi thường, vai trò thứ yếu), sẽ làm
bản án thêm chặt chẽ và thể hiện rõ sự nhân văn của pháp luật.
Tuy nhiên, việc không ghi rõ cũng không làm bản án sai lệch về mặt pháp luật, vì
kết quả cuối cùng (án treo) đã phản ánh sự xem xét các yếu tố giảm nhẹ đối với bị
cáo.
Phạm tội có tổ chức:
Trong bản án này, Hội đồng xét xử không nhận định hành vi của Trần Văn T và
Trương Kim H là "phạm tội có tổ chức". Thay vào đó, bản án xác định:
- Trần Văn T có vai trò chủ mưu, tích cực thực hiện hành vi lừa đảo (chuẩn bị
tài khoản Zalo ảo, sử dụng tài khoản này để nhắn tin lừa đảo bị hại mua đô la Mỹ
giá rẻ rồi chiếm đoạt luôn số tiền của bị hại).
- Trương Kim H tham gia với vai trò đồng phạm giúp sức cho T (cung cấp tài
khoản ngân hàng của mình để nhận tiền của bị hại rồi cùng T chiếm đoạt số tiền để
chia nhau).
Theo quy định của Bộ luật Hình sự Việt Nam (Điều 17), "Đồng phạm là trường
hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm". "Phạm tội có tổ chức"
là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện
tội phạm. Tội phạm có tổ chức là một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
*Sự câu kết: Bản án mô tả: "T liên lạc với một người bạn quen biết trên zalo là
Trương Kim H... rủ H cùng thực hiện và thống nhất nếu lừa đảo chiếm đoạt được
tiền của khách thì T và H sẽ chia đều số tiền (50/50) thì được H đồng ý".=> Điều
lOMoARcPSD| 58540065
này cho thấy có sự bàn bạc, thống nhất ý chí và phân công vai trò rõ ràng (T
người trực tiếp liên hệ, H cung cấp tài khoản nhận tiền). Sự thống nhất về tỷ lệ chia
tiền cũng thể hiện mức độ câu kết.
*Mức độ phạm tội: Vụ án chỉ liên quan đến một lần chiếm đoạt tài sản của một bị
hại với số tiền 59.000.000 đồng. Việc Tòa án không áp dụng tình tiết "phạm tội có
tổ chức" có thể dựa trên nhận định rằng mức độ câu kết này chưa đạt đến mức độ
"chặt chẽ" và mang tính chuyên nghiệp của tội phạm có tổ chức. Bản án cũng nhận
định các bị cáo "phạm tội không có tính chuyên nghiệp".
*Hậu quả và tính chất: Mặc dù hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội và
xâm phạm quyền sở hữu tài sản, Tòa án có thể đã xem xét đến việc đây là lần
phạm tội đầu tiên của cả hai bị cáo (Tiền án: Không; Tiền sự: Không), và họ đã ra
đầu thú, thành khẩn khai báo, và bồi thường toàn bộ thiệt hại.
=> Việc Tòa án không nhận định đây là "phạm tội có tổ chức" mà chỉ xác định là
"đồng phạm" với vai trò chủ mưu và giúp sức, đồng thời khẳng định "phạm tội
không có tính chuyên nghiệp", là một sự đánh giá có cân nhắc. Mặc dù có sự bàn
bạc và phân công, nhưng nếu xét tiêu chí về "tính chặt chẽ" và "tính chuyên
nghiệp" của tội phạm có tổ chức (thường liên quan đến hoạt động phạm tội nhiều
lần, có quy mô, có sự che giấu tinh vi hơn), thì nhận định của Tòa án là hợp lý
trong trường hợp này.
Hội đồng xét xử có thể đã cân nhắc toàn diện các yếu tố:
+Mức độ câu kết ban đầu.
+Việc chỉ thực hiện một hành vi chiếm đoạt.
+Thiếu tính chuyên nghiệp và quy mô hoạt động.
+Các tình tiết giảm nhẹ rất mạnh mẽ như ra đầu thú và khắc phục hậu quả hoàn
toàn.
Nếu Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết "phạm tội có tổ chức", mức án có thể sẽ cao
hơn đáng kể, và khả năng cho Trương Kim H hưởng án treo sẽ khó khăn hơn. Do
đó, việc không áp dụng tình tiết này thể hiện sự đánh giá thận trọng và khuyến
khích người phạm tội ăn năn hối cải, khắc phục hậu quả.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 58540065
I. Tóm tắt bản án:
Bản án số 30/2023/HS-ST: được Tòa án Nhân dân Thị xã Bỉm Sơn, Tỉnh Thanh
Hóa tuyên vào ngày 30/8/2023, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự đối với hai
bị cáo là Trần Văn T và Trương Kim H. Bị cáo: 1.
Trần Văn T: sinh ngày 10/10/1985; Nơi cư trú: tổ 6, phường A, thành phố T,
tỉnh T; Tiền án: Không; Tiền sự: Không. 2.
Trương Kim H: sinh ngày 07/7/1997; Nơi cư trú: Số nhà 09, đường N, thôn
Y, xã T, huyện T, thành phố H; Tiền án: Không; Tiền sự: Không.
Bị hại: chị Hồ Thị T, sinh năm 1980; địa chỉ: khu phố 4, phường B, thị xã B, tỉnh T.
Khoảng cuối năm 2021, Trần Văn T tham gia hội nhóm zalo có tên “Đọc sách để
phát triển tư duy”, nhận thấy một số người có nhu cầu mua đô la Mỹ nên T nảy sinh
ý định giả làm người bán đô la Mỹ giá rẻ để chiếm đoạt tiền. T đã lập một tài khoản
zalo có tên “Chuyên Bot Uy Tín” với mục đích đóng giả làm người bán đô la Mỹ để
nói chuyện với khách hàng và rủ Trương Kim H cùng thực hiện, thống nhất sẽ chia
đều số tiền chiếm đoạt được (50/50). Lợi dụng nhu cầu của chị Hồ Thị T, ngày
02/06/2022 T đã lừa chị mua 2.500 đô la Mỹ với giá 01 đô la Mỹ bằng 23.600 đồng
tiền Việt Nam, tổng số tiền là: 59.000.000đ (Năm mươi chín triệu đồng chẵn). H đã
cung cấp tài khoản ngân hàng MB số 6888807071997 để chị T chuyển tiền vào. Sau
khi nhận được 59.000.000 đồng, T và H đã chia nhau số tiền này, trong đón T nhận
42.000.000 đồng và H giữ lại 17.000.000 đồng. Cả hai đã tiêu xài cá nhân hết số tiền
chiếm đoạt được. Khi biết chị đang tìm người lừa đảo số tiền của mình, T đã chuyển
42.000.000 đồng cho H để che giấu hành vi phạm tội và xóa tài khoản zalo “Chuyên
Bot Uy Tín”. Cả hai bị cáo sau đó đã đến Công an thị xã Bỉm Sơn đầu thú và thành khẩn khai báo. Vật chứng:
- 01 (một) điện thoại nhãn hiệu Iphone 13 Promax, màu xanh (thu của Trương Kim H).
- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Huawei, màu (thu của Trần Văn T). II. Phân tích: 1. Hành vi phạm tội:
Trần Văn T và Trương Kim H đã dùng thủ đoạn gian dối, chiếm đoạt số tiền lOMoAR cPSD| 58540065
59.000.000 đồng, đủ yếu tố cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm c
khoản 2 Điều 174 BLHS 2015, SDBS 2027:
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm: a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng; d) Tái phạm nguy hiểm;
đ) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
e) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
g) (được bãi bỏ) -
Trần Văn T có vai trò chủ mưu, tích cực thực hiện hành vi lừa đảo (tạo tài
khoản zalo giả và trực tiếp thực hiện hành vi gian dối, dẫn dụ bị hại). -
Trương Kim H là người giúp sức, có vai trò thứ yếu trong vụ án (cung cấp
tài khoản ngân hàng để nhận tiền).
=> Do đó hai bị cáo Trần Văn T và Trương Kim H bị truy tố và xét xử về tội “Lừa
đảo và chiếm đoạt tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 174 BLHS 2015, SDBS 2027
là hoàn toàn chính xác và có căn cứ. 2. Tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ TNHS: -
Tình tiết tăng nặng TNHS: Tòa án nhận định các bị cáo Không có tình tiết tăng nặng. -
Tình tiết giảm nhẹ TNHS: Cả hai bị cáo đều có nhiều tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 BLHS
thành khẩn khai báo, thực sự ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, ra đầu
thú, tự nguyện bồi thường và bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt nên áp dụng
khoản 1 điều 54 BLHS 2015 SDBS 2017 giảm nhẹ cho các bị cáo một phần hình
phạt và cho hưởng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt.
Điều 51. Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
1. Các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
a) Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;
b) Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;
c) Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;
d) Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết; lOMoAR cPSD| 58540065
đ) Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;
e) Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp
luật của nạn nhân gây ra;
g) Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;
h) Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;
i) Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;
k) Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức;
l) Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;
m) Phạm tội do lạc hậu;
n) Người phạm tội là phụ nữ có thai;
o) Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;
p) Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;
q) Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc
khảnăng điều khiển hành vi của mình; r) Người phạm tội tự thú;
s)[14] Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;
t)[15] Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm
trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án; u)
Người phạm tội đã lập công chuộc tội;
v) Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu,
học tập hoặc công tác;
x)[16] Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ,
chồng, con của liệt sĩ.
2. Khi quyết định hình phạt, Tòa án có thể coi đầu thú hoặc tình tiết khác là
tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ lý do giảm nhẹ trong bản án. lOMoAR cPSD| 58540065
Điều 54. Quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng
1. Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung
hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn
của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định
tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật này.
=> TA đã vận dụng linh hoạt và đúng đắn các tình tiết giảm nhẹ, liệt kê đầy đủ các
tình tiết và từ đó áp dụng Điều 54 một cách hợp lí, cân nhắc, thể hiện nguyên tắc
nhân đạo và cho thấy được sự khoan hồng của pháp luật. 3. Hình phạt:
Hình phạt chính: Trần Văn T và Trương Kim H phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài
sản” theo điểm c khoản 2 Điều 174 Bộ luật hình sự.
- Trần Văn T 15 (mười lăm) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ
ngày 22.4.2023 căn cứ vào Điểm c khoản 2 Điều 174, điểm b, s khoản 1, khoản 2
Điều 51, khoản 1 điều 54, Điều 38, điều 17, điều 58 Bộ luật hình sự.
- Trương Kim H 14 (mười bốn) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là
28 (hai mươi tám) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm 30.8.2023 căn cứ vào
Điểm c khoản 2 Điều 174, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1 điều 54,
điều 38, khoản 1,2,5 điều 65, điều 17, điều 58 Bộ luật hình sự.
Hình phạt bổ sung: Bị cáo Trần Văn T và Trương Kim H hiện nay không có công
ăn việc làm ổn định, điều kiện kinh tế khó khăn nên không áp dụng hình phạt bổ
sung theo quy định tại khoản 5 Điều 174 BLHS là phạt tiền đối với các bị cáo.
Về vật chứng: áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a khoản 2
Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước:
- 01 (một) điện thoại nhãn hiệu Iphone 13 Promax, màu xanh.
- 01(một) điện thoại di động nhãn hiệu HUAWEI, màu xanh.
Về bồi thường trách nhiệm dân sự: Miễn xét do các bị cáoTrần Văn T và Trương
Kim H đã tự nguyện bồi thường đủ số tiền 59.000.000 đồng cho bị hại.
Án phí: Mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sơ thẩm theo quy định pháp luật.
Tình tiết có con nhỏ: lOMoAR cPSD| 58540065
Bản án có nêu Trương Kim H có 01 con sinh năm 2020. Đây là một tình tiết liên
quan đến nhân thân của bị cáo, đặc biệt là tình trạng gia đình. Trong thực tiễn xét
xử, việc bị cáo có con nhỏ (đặc biệt là con dưới 36 tháng tuổi) thường được xem
xét là một tình tiết giảm nhẹ đặc biệt theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Mặc
dù bản án đã viện dẫn khoản 2 Điều 51 BLHS khi quyết định hình phạt cho Trương
Kim H và cho H hưởng án treo, nhưng không nêu cụ thể "có con nhỏ" như một tình
tiết giảm nhẹ riêng biệt.

Việc H có con nhỏ sinh năm 2020 (tức là tính đến ngày tuyên án 30/8/2023, con
của H khoảng 3 tuổi) có thể là một trong những yếu tố quan trọng góp phần vào
quyết định cho H được hưởng án treo. Mặc dù không được ghi rõ là một tình tiết
giảm nhẹ riêng, nhưng tình tiết này có thể đã được Hội đồng xét xử ngầm cân nhắc
khi áp dụng khoản 2 Điều 51 và Điều 65 BLHS để đưa ra quyết định có lợi cho bị cáo (án treo).
Muốn nhấn mạnh hơn nữa sự khoan hồng và xem xét toàn diện hoàn cảnh cho bị
cáo, việc bổ sung rõ ràng "Bị cáo Trương Kim H có con nhỏ (sinh năm 2020)" như
một tình tiết được cân nhắc khi áp dụng khoản 2 Điều 51 BLHS, bên cạnh các tình
tiết đã nêu (thành khẩn khai báo, ra đầu thú, bồi thường, vai trò thứ yếu), sẽ làm
bản án thêm chặt chẽ và thể hiện rõ sự nhân văn của pháp luật.
Tuy nhiên, việc không ghi rõ cũng không làm bản án sai lệch về mặt pháp luật, vì
kết quả cuối cùng (án treo) đã phản ánh sự xem xét các yếu tố giảm nhẹ đối với bị cáo.
Phạm tội có tổ chức:
Trong bản án này, Hội đồng xét xử không nhận định hành vi của Trần Văn T và
Trương Kim H là "phạm tội có tổ chức". Thay vào đó, bản án xác định: -
Trần Văn T có vai trò chủ mưu, tích cực thực hiện hành vi lừa đảo (chuẩn bị
tài khoản Zalo ảo, sử dụng tài khoản này để nhắn tin lừa đảo bị hại mua đô la Mỹ
giá rẻ rồi chiếm đoạt luôn số tiền của bị hại). -
Trương Kim H tham gia với vai trò đồng phạm giúp sức cho T (cung cấp tài
khoản ngân hàng của mình để nhận tiền của bị hại rồi cùng T chiếm đoạt số tiền để chia nhau).
Theo quy định của Bộ luật Hình sự Việt Nam (Điều 17), "Đồng phạm là trường
hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm". "Phạm tội có tổ chức"
là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện
tội phạm. Tội phạm có tổ chức là một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
*Sự câu kết: Bản án mô tả: "T liên lạc với một người bạn quen biết trên zalo là
Trương Kim H... rủ H cùng thực hiện và thống nhất nếu lừa đảo chiếm đoạt được
tiền của khách thì T và H sẽ chia đều số tiền (50/50) thì được H đồng ý".=> Điều lOMoAR cPSD| 58540065
này cho thấy có sự bàn bạc, thống nhất ý chí và phân công vai trò rõ ràng (T là
người trực tiếp liên hệ, H cung cấp tài khoản nhận tiền). Sự thống nhất về tỷ lệ chia
tiền cũng thể hiện mức độ câu kết.
*Mức độ phạm tội: Vụ án chỉ liên quan đến một lần chiếm đoạt tài sản của một bị
hại với số tiền 59.000.000 đồng. Việc Tòa án không áp dụng tình tiết "phạm tội có
tổ chức" có thể dựa trên nhận định rằng mức độ câu kết này chưa đạt đến mức độ
"chặt chẽ" và mang tính chuyên nghiệp của tội phạm có tổ chức. Bản án cũng nhận
định các bị cáo "phạm tội không có tính chuyên nghiệp".
*Hậu quả và tính chất: Mặc dù hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội và
xâm phạm quyền sở hữu tài sản, Tòa án có thể đã xem xét đến việc đây là lần
phạm tội đầu tiên của cả hai bị cáo (Tiền án: Không; Tiền sự: Không), và họ đã ra
đầu thú, thành khẩn khai báo, và bồi thường toàn bộ thiệt hại.
=> Việc Tòa án không nhận định đây là "phạm tội có tổ chức" mà chỉ xác định là
"đồng phạm" với vai trò chủ mưu và giúp sức, đồng thời khẳng định "phạm tội
không có tính chuyên nghiệp", là một sự đánh giá có cân nhắc. Mặc dù có sự bàn
bạc và phân công, nhưng nếu xét tiêu chí về "tính chặt chẽ" và "tính chuyên
nghiệp" của tội phạm có tổ chức (thường liên quan đến hoạt động phạm tội nhiều
lần, có quy mô, có sự che giấu tinh vi hơn), thì nhận định của Tòa án là hợp lý trong trường hợp này.
Hội đồng xét xử có thể đã cân nhắc toàn diện các yếu tố:
+Mức độ câu kết ban đầu.
+Việc chỉ thực hiện một hành vi chiếm đoạt.
+Thiếu tính chuyên nghiệp và quy mô hoạt động.
+Các tình tiết giảm nhẹ rất mạnh mẽ như ra đầu thú và khắc phục hậu quả hoàn toàn.
Nếu Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết "phạm tội có tổ chức", mức án có thể sẽ cao
hơn đáng kể, và khả năng cho Trương Kim H hưởng án treo sẽ khó khăn hơn. Do
đó, việc không áp dụng tình tiết này thể hiện sự đánh giá thận trọng và khuyến
khích người phạm tội ăn năn hối cải, khắc phục hậu quả.